Tải bản đầy đủ (.doc) (119 trang)

Nguyên tắc giới hạn quyền con người theo Hiến pháp năm 2013

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (424.62 KB, 119 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

LƯƠNG THỊ THU DƠN

NGUY£N T¾C GIíI H¹N QUYÒN CON
NG¦êI
THEO HIÕN PH¸P N¡M 2013

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2018


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

LƯƠNG THỊ THU DƠN

NGUY£N T¾C GIíI H¹N QUYÒN CON
NG¦êI
THEO HIÕN PH¸P N¡M 2013
Chuyên ngành: Luật Hiến pháp - Luật Hành chính
Mã số: 8380101.02

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS.TS. ĐẶNG MINH TUẤN


HÀ NỘI - 2018




LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trinh nghiên cứu của riêng
tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất
kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận
văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoan
thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài
chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi
có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

LƯƠNG THỊ THU DƠN

MỤC LỤC


Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục chữ viết tắt
NGUY£N T¾C GIÍI H¹N QUYÒN CON NG¦ÊI................................................................................................1
THEO HIÕN PH¸P N¡M 2013...............................................................................................................................1
NGUY£N T¾C GIÍI H¹N QUYÒN CON NG¦ÊI................................................................................................2
THEO HIÕN PH¸P N¡M 2013...............................................................................................................................2
MỞ ĐẦU...................................................................................................................................................................1
CHƯƠNG 1..............................................................................................................................................................7

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGUYÊN TẮC GIỚI HẠN.......................................................................7
QUYỀN CON NGƯỜI............................................................................................................................................7
CHƯƠNG 2............................................................................................................................................................46
NGUYÊN TẮC GIỚI HẠN QUYỀN CON NGƯỜI THEO HIẾN PHÁP VIỆT NAM NĂM 2013........46
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2.......................................................................................................................................82
KẾT LUẬN...........................................................................................................................................................104
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..........................................................................................................106


DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT

CHLB
HRBA
ICCPR

Cộng Hòa Liên Bang
Human Rights Based Approach
Công ước quốc tế về các Quyền

ICESCR

Dân sự và Chính trị
Công ước Quốc tế về các Quyền

TCN
XHCN

Kinh tế, Xã hội và Văn hóa
Trước Công Nguyên
Xã Hội Chủ Nghĩa



MỞ ĐẦU
1.

Lý do chọn đề tài

Một trong những điểm mới đáng chú ý của Hiến pháp 2013 là việc sửa
đổi, bổ sung các quy định về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của
công dân. Hiến pháp năm 2013 có quy định tại Khoản 2, Điều 14, Chương IIQuyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân như sau: “Quyền
con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong
trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã
hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng”. Nguyên tắc giới hạn quyền con
người lần đầu tiên được quy định trong Hiến pháp năm 2013 đặt một dấu mốc
quan trọng trong tư duy lập hiến và bảo vệ quyền con người.
Đối với những quốc gia đang phát triển như Việt Nam, việc hiến định
nguyên tắc giới hạn quyền có ý nghĩa rất quan trọng bởi lẽ [19, tr.235]:
1. Nó làm rõ tinh thần của luật nhân quyền quốc tế là các nhà nước phải
tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm các quyền con người nhưng cũng được đặt ra và áp
dụng những giới hạn cho một số quyền, nhằm thực hiên chức năng của nhà nước
là quản lý xã hội, bảo đảm các quyền, lợi ích hợp pháp của các cá nhân khác;
2. Nó ngăn chặn khả năng lạm dụng quyền lực nhà nước để vi phạm nhân
quyền thông qua việc ấn định những điều kiện chặt chẽ với việc giới hạn quyền;
3. Nó phòng ngừa những suy nghĩ và hành động cực đoan trong việc
hưởng thụ, thực hiện các quyền.
Tuy nhiên việc đồng thời xác định rõ những quyền tuyệt đối cũng rất
quan trọng, để tránh nhầm lẫn rằng nguyên tắc hạn chế có thể áp dụng cho tất
cả mọi quyền. Trong pháp luật các quốc gia có những nguyên tắc và phương
pháp để xác định những quyền có thể bị giới hạn và các quyền không thể bị
giới hạn nhằm áp dụng và thực thi chính xác nguyên tắc này trong Hiến pháp

cũng như các văn bản pháp luật.

1


Có một số ý kiến cho rằng quy định nguyên tắc giới hạn quyền chính
là làm trái chức năng của Hiến pháp là bảo vệ quyền con người, và kiểm soát
quyền lực nhà nước. Tuy nhiên, giới hạn quyền là những yêu cầu xuất phát
từ thực tế cuộc sống mà đã được luật nhân quyền quốc tế ghi nhận, với mục
đích chính là để ngăn ngừa sự tùy tiện của các nhà nước trong việc thực thi
quyền con người, chứ không phải là để cung cấp công cụ cho các nhà nước
vi phạm các quyền đó.
Bên cạnh đó thì mục đích giới hạn quyền là để bảo đảm, bảo vệ quyền
của người khác, công dân khác, bảo đảm trật tự công cộng, bảo đảm lợi ích
quốc gia, lợi ích dân tộc, bảo vệ đạo đức, luân lý xã hội. Việc giới hạn này
phải được ghi nhận trong Hiến pháp và các đạo luật.
Ngoài ra, nguyên tắc giới hạn quyền cũng chính là cơ sở quan trọng
nhằm bảo vệ quyền con người. Nguyên tắc hiến định này là cơ sở lập luận
quan trọng để đảm bảo tính hợp hiến của việc giới hạn quyền ở các quy phạm
pháp luật dưới hiến pháp. Các hiến pháp có thể kế thừa các bộ luật quốc tế về
quyền con người hoặc học hỏi lẫn nhau để xây dựng một chương quy định về
quyền con người hết sức tiến bộ. Tuy nhiên, những quy định đó sẽ mất ý
nghĩa nếu các quyền vẫn bị các văn bản dưới hiến pháp “cắt xén” một cách
tùy tiện. Vì vậy, có thể nhận định rằng, việc ngăn ngừa những giới hạn tùy
tiện đối với quyền con người quan trọng hơn ghi nhận các quyền đó [13].
Qua nghiên cứu Hiến pháp của một số nước phát triển, ngoài chế định
về quyền sống còn chế định khác đi kèm để bảo đảm cho việc hạn chế, tước
bỏ quyền đó trong những trường hợp đặc biệt không bị coi là trái pháp luật.
Chẳng hạn khoản 1, Điều 20 Hiến pháp Liên bang Nga hiện hành (ngày 1212-1993, sửa đổi, bổ sung ngày 30-3-2008) quy định về quyền sống của con
người thì tại khoản 2 có quy định: “Tử hình có thể được áp dụng bởi luật

Liên bang với tư cách là hình phạt đặc biệt về tội phạm đặc biệt nghiêm trọng
xâm hại đến đời sống con người trong việc cho bị cáo quyền được xét xử bởi
Tòa án có sự tham gia của các vị hội thẩm”.

2


Việt Nam hiện là một trong số các nước còn áp dụng hình phạt tử hình
đối với những người phạm vào tội đặc biệt nghiêm trọng nhưng Hiến pháp lại
không hề có quy định về việc Nhà nước có quyền tước bỏ mạng sống của một
người vì lý do nào đó. Theo Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi, bổ sung năm
2009, 21 tội danh có mức hình phạt cao nhất là tử hình. Vậy việc tử hình có
phải đang vi phạm quyền sống của con người? Hay các bản án tử hình của
Tòa án có bị coi là vi hiến?
Nước ta đang trong quá quá trình thống nhất và hoàn thiện hệ thống pháp
luật, và việc này phải dựa trên cơ sở tôn trọng và tuân thủ Hiến pháp. Trong
trường hợp tình trạng khẩn cấp, để bảo đảm an toàn cho con người, công dân và
bảo vệ Hiến pháp, bằng một đạo luật có thể thiết lập những hạn chế đối với các
quyền con người, công dân với điều kiện phải quy định rõ phạm vi và thời hạn
của những hạn chế đó.
Là một quy định trong Hiến pháp nên nguyên tắc này cần phải được áp
dụng vào thực tế. Mặc dù vậy, do những vướng mắc về mặt lý luận, kể từ khi
Hiến pháp 2013 được thông qua, về cơ bản quy định về giới hạn quyền vẫn
chưa được thực hiện. Điều này đòi hỏi phải có những nghiên cứu chuyên sâu
để làm rõ. Trong thời gian qua ở nước ta đã có một số công trình nghiên cứu
về nguyên tắc giới hạn quyền con người, song do đây là vấn đề lý luận phức
tạp nên vẫn còn những ý kiến khác nhau. Vì vậy, đề tài luận văn này có tính
cấp thiết, và có ý nghĩa cả về lý luận cũng như thực tiễn.
2.


Tình hình nghiên cứu

Những vấn đề liên quan đến nguyên tắc giới hạn quyền con người
được các nhà nghiên cứu khoa học pháp lý rất quan tâm cả trên thế giới và
Việt Nam. Đặc biệt là những nhà nghiên cứu về nhân quyền.
Trong đó, trong Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Luật học số 29, Số 3
(2013) 51-61 về những giới hạn và hạn chế trong chế định quyền con người,

3


quyền công dân của Dự thảo Hiến pháp 1992, sửa đổi năm 2013 của PGS.TS
Vũ Công Giao có đề cập và nhấn mạnh việc đưa nguyên tắc giới hạn quyền
con người vào Hiến pháp 2013 là chính xác và cần thiết. Ngoài ra vấn đề này
được nhắc đến trong các bài viết, các bài báo, tạp chí, sách chuyên khảo,…
như Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp số 5/2011 về Cải cách chế định quyền và
nghĩa vụ cơ bản của công dân trong Hiến pháp 1992 theo nguyên tắc tôn trọng
quyền con người của GS.TS Nguyễn Đăng Dung và Ths. Bùi Tiến Đạt; Nghiên
cứu của GS.TS Hoàng Thị Kim Quế về Giới hạn quyền và tự do của con người,
công dân và những vấn đề đặt ra trong sửa đổi, bổ sung Hiến pháp 1992, trong
“Sửa đổi, bổ sung Hiến pháp 1992: Những vấn đề lý luận và thực tiễn” (GS.TS
Phạm Hồng Thái và các tác giả khác đồng chủ biên, NXB Hồng Đức 2012),
đáng chú ý có hai cuốn sách chuyên khảo về giới hạn quyền là: Giới hạn chính
đáng đối với các quyền con người, quyền công dân trong pháp luật quốc tế và
pháp luật Việt Nam của TS.Nguyễn Minh Tuấn làm chủ biên (20150; và cuốn
Nguyên tắc hạn chế quyền con người, quyền công dân theo Hiến pháp năm 2013
của TS.Nguyễn Văn Hiển và NCV.Trương Hồng Quang (2018).
Đi vào tìm hiểu vấn đề ta thấy việc thực thi nguyên tắc giới hạn quyền con
người trong Hiến pháp 2013 và làm sao để áp dụng vào pháp luật và thực tiễn
nguyên tắc này một cách hiệu quả nhất thực sự khó khăn. Do vậy, việc chọn đề tài

“Nguyên tắc giới hạn quyền con người theo Hiến pháp năm 2013” là một hướng
nghiên cứu mới và có tính cấp thiết.
3.

Mục tiêu nghiên cứu

+ Trên cơ sở luật nhân quyền quốc tế công nhận nguyên tắc giới hạn
quyền con người, cùng với việc hiến pháp hóa nguyên tắc này tại các quốc gia
trên thế giới để thấy được tầm quan trọng của việc thực thi nguyên tắc giới
hạn quyền con người tại Việt Nam.
+ Nghiên cứu những quan niệm về nguyên tắc giới hạn quyền con
người theo pháp luật quốc tế và việc áp dụng trong Hiến pháp 2013

4


+ Nghiên cứu lý do tại sao cần đưa nguyên tắc này vào Hiến pháp
+ Nghiên cứu những phương pháp xác định những quyền có thể bị giới
hạn hay không thể bị giới hạn.
+ Nghiên cứu những khó khăn khi đưa nguyên tắc giới hạn quyền con
người vào các văn bản pháp luật.
+ Thực tế áp dụng tại Việt Nam và xu hướng.
4.

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1.

Đối tượng nghiên cứu


Những vấn đề lý luận và thực tiễn của việc áp dụng nguyên tắc giới hạn
quyền trên thế giới và trong Hiến pháp 2013 cùng với những quan niệm cơ
bản về vấn đề đưa nguyên tắc này vào Hiến pháp.
4.2.

Phạm vi nghiên cứu

+ Nghiên cứu những tư tưởng, quan niệm về nguyên tắc giới hạn
quyền.
+ Nghiên cứu quá trình lịch sử hình thành và phát triển của nguyên tắc
này trên thế giới và tầm quan trọng khi đưa nguyên tắc này vào Hiến pháp.
5.

Các phương pháp nghiên cứu

- Phương pháp luận:
Luận văn dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin,
quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm,
đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về quyền con người và các bảo đảm
bảo vệ quyền con người.
- Phương pháp nghiên cứu:
Đề tài được nghiên cứu bằng phương pháp duy vật biện chứng và duy
vật lịch sử cùng các phương pháp khác như phương pháp hệ thống, phương
pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp so sánh, gắn lý luận với
thực tiễn chọn lọc tri thức khoa học nghiên cứu về nguyên tắc giới hạn quyền
con người. Bên cạnh các phương pháp truyền thống đề tài cũng áp dụng các
phương pháp tiếp cận đa ngành, liên ngành giữa khoa học hành chính và khoa

5



học pháp lý cụ thể:
+ Phương pháp phân tích, tổng hợp được sử dụng xuyên suốt trong toàn
bộ các chương của luận văn để giải quyết các vấn đề mang tính lý luận như
các khái niệm, quan niệm, đặc điểm, ý nghĩa cùng những nguyên tắc cơ bản
về quyền con người hay giới hạn quyền con người, đánh giá thực trạng áp
dụng vào Hiến pháp 2013.
+ Phương pháp so sánh được sử dụng để so sánh trên cơ sở lý luận và
thực tiễn áp dụng vào Hiến pháp của Việt Nam và các quốc gia trên thế giới.
6.

Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

Luận văn là công trình nghiên cứu phân tích về vấn đề thực thi nguyên
tắc giới hạn quyền con người với mục đích đưa ra các luận cứ khoa học và
những quan điểm, giải pháp về mặt lý luận cũng như thực tiễn nhằm hoàn
thiện các quy định pháp luật về việc áp dụng nguyên tắc giới hạn quyền con
người trong Hiến pháp cũng như các văn bản pháp luật nhằm đảm bảo quyền
con người cũng như hạn chế sự lạm dụng quyền lực của nhà nước. Kết quả
nghiên cứu của luận văn sẽ góp phần bổ sung, hoàn thiện lý luận và thực tiễn
thực thi nguyên tắc giới hạn quyền con người trong pháp luật Việt Nam.
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo
cho các hoạt động nghiên cứu, giảng dạy, học tập về quyền con người nói
chung và giới hạn quyền nói riêng.
7.

Cấu trúc luận văn

Mở đầu
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về nguyên tắc giới hạn quyền con người

Chương 2: Nguyên tắc giới hạn quyền con người theo hiến pháp Việt
Nam năm 2013
Chương 3: Một số giải pháp góp phần hiện thực hóa nguyên tắc giới
hạn quyền con người tại Việt Nam

6


Kết luận
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGUYÊN TẮC GIỚI HẠN
QUYỀN CON NGƯỜI
Cùng với sự thành lập Liên Hợp Quốc (1945) và sự ra đời của Tuyên
ngôn toàn thế giới về nhân quyền (1948), quyền con người ngày càng trở
thành mối quan tâm chung của nhân loại. Mọi vấn đề của nhân quyền ngày
càng được chú trọng trong các mối quan hệ quốc tế. Tuy vậy, kể từ khi Liên
Hợp Quốc thành lập đến nay, các quốc gia, theo từng khối, nhóm, chính thức
hoặc không chính thức, hay trên phương diện song phương vẫn không ngừng
tranh luận về các vấn đề liên quan đến quyền con người. Và nguyên tắc giới
hạn quyền con người cũng không nằm ngoài mối quan tâm của các quốc gia,
và các tổ chức quốc tế.
Việc giới hạn quyền cũng là điều tất yếu và khách quan. Nếu như tất cả
các quyền đều là tuyệt đối và không bị giới hạn thì sẽ không hình thành nên
xã hội, không hình thành nên những cộng đồng người. Bất cứ cái gì “vượt quá
mức giới hạn” cũng không tốt, ngay cả đối với phần lớn quyền con người
cũng vậy. Từ đây, ta cùng đi tìm hiểu, phân tích những vấn đề lý luận về
nguyên tắc giới hạn quyền con người để nhận thấy tầm quan trọng của nó
trong việc bảo vệ quyền con người.
1.1. Khái niệm giới hạn quyền con người
1.1.1. Nguồn gốc của quyền con người và nguyên tắc giới hạn quyền

con người
Ngay từ khi những quan điểm đầu tiên về quyền con người xuất hiện
trong lịch sử loài người, song song đó giới hạn quyền con người đã được đề
cập tới như một điều tất yếu.
Ý thức về những quyền lợi bẩm sinh đã xuất hiện trong các triết gia

7


Hy-lạp La-mã trước Kitô giáo. Vào thế kỷ thứ năm trước công nguyên, ông
Sôphôclê (k.497-405) trong tác phẩm Antigone có kể lại một thiếu nữ đã
dám bất tuân lệnh của nhà vua cấm không được chôn cất người anh của
mình can tội phản quốc. Nàng dám khẳng khái tâu với vua rằng sở dĩ cô dám
làm trái lệnh của vua là vì có luật trời còn cao hơn nữa! Trong tiến trình đòi
hủy bỏ chế độ nô lệ, các triết gia Hy-lạp đã lập luận rằng con người sinh ra
đều bình đẳng với nhau; sở dĩ có người làm chủ nhân và có người làm tôi
mọi là do hoàn cảnh thời thế mà thôi. Dù sao, có thể nói được là ý thức về
quyền lợi tự nhiên (hay bẩm sinh) đã chín mùi trong những cuộc đối kháng
chống lại những luật lệ bất công hay hà khắc [11].
Có hai trường phái trái ngược nhau về nguồn gốc của quyền con người.
Những người theo học thuyết về quyền tự nhiên (natural rights) – mà tiêu biểu
là các tác giả như Zeno (333-264TCN), Thomas Hobbes, Thomas Paine
(1731-1809),... cho rằng nhân quyền là những gì bẩm sinh, vốn có mà mọi cá
nhân sinh ra đều được hưởng, chỉ đơn giản bởi họ là thành viên của gia đình
nhân loại. Các quyền con người, do đó, không phụ thuộc vào phong tục, tập
quán, truyền thống văn hóa hay ý chí của bất cứ cá nhân, giai cấp, tầng lớp, tổ
chức, cộng đồng hay nhà nước nào; và không một chủ thể nào, kể cả các nhà
nước, có thể ban phát hay tước bỏ các quyền con người [6, tr.22, tr.23].
Ngược lại, những người theo học thuyết về các quyền pháp lý (legal
rights) – mà tiêu biểu là các tác giả như Edmund Brucke (1729-1797), Jeremy

Bentham (1748-1832),

cho rằng các quyền con người không phải là những

gì bẩm sinh, vốn có một cách tự nhiên mà phải do các nhà nước quy định
trong pháp luật. Như vậy, theo học thuyết này, phạm vi, giới hạn và ở góc độ
nhất định, cả thời hạn hiệu lực của các quyền con người phụ thuộc vào ý chí
của tầng lớp thống trị và các yếu tố như phong tục, tập quán, truyền thống văn
hóa, … của từng xã hội.

8


Cho đến nay, cuộc tranh luận về tính đúng đắn của hai học thuyết kể
trên vẫn còn tiếp tục. Việc phân định tính chất đúng, sai, hợp lý và không hợp
lý của hai học thuyết này không đơn giản do chúng liên quan đến một phạm
vi rộng lớn các vấn đề triết học, chính trị, xã hội, đạo đức, pháp lý,... Mặc dù
vậy, dường như quan điểm cực đoan phủ nhận hoàn toàn bất cứ học thuyết
nào đều không phù hợp, bởi lẽ trong khi về hình thức, hầu hết các văn kiện
pháp luật của các quốc gia đều thể hiện các quyền con người là các quyền
pháp lý thì trong Tuyên ngôn toàn thế giới về nhân quyền năm 1948, một số
văn kiện pháp luật và văn kiện chính trị pháp lý ở một số quốc gia, nhân
quyền được khẳng định một cách rõ ràng là các quyền tự nhiên, vốn có và
không thể chuyển nhượng được của các cá nhân.
Triết gia người Anh, John Locke (1632-1704) được xem là người đặt
nền móng cho những vấn đề liên quan đến quyền con người cho rằng: người
dân hình thành nên xã hội, xã hội hình thành nên các chính phủ để đảm bảo
quyền được hưởng các quyền “tự nhiên”; nhưng chính John Locke cũng
khẳng định “người ta có cái quyền tự do không có kiểm soát, để sắp đặt con
người hay tài sản của mình, nhưng vẫn không được tự do hủy diệt bản thân

và ngay cả bất cứ sinh vật nào mà mình sở hữu”. Rõ ràng, giới hạn quyền con
người là vấn đề đã được nhận thức ngay từ những buổi ban đầu của các khái
niệm về quyền con người. Quyền con người thực sự nổi lên như một vấn đề ở
tầm quốc tế từ những năm đầu của thế kỷ XIX, song song với cuộc đấu tranh
nhằm xóa bỏ chế độ nô lệ và buôn bán nô lệ, đồng thời cải thiện điều kiện
sống cho người lao động [24, tr.22].
Cộng đồng quốc tế bên cạnh nhiệm vụ chủ chốt là bảo vệ quyền con
người cũng đặc biệt quan tâm tới việc đi tìm sự hợp lý trong sự giới hạn
những quyền ấy. Tuy nhiên, định ra một ranh giới hợp lý cho giới hạn quyền
con người không phải vấn đề dễ dàng để minh thị và còn gây nhiều tranh cãi.

9


Quyền con người cần phải bị giới hạn đó là điều được thừa nhận nhưng giới
hạn như thế nào để không chà đạp lên phẩm giá của con người, để không xâm
phạm tới quyền con người đang là một câu hỏi cần giải đáp.
Ngày nay, hầu hết các quốc gia ở mọi khu vực trên thế giới, ở mọi trình
độ, đều khẳng định cam kết về quyền con người, đi kèm với đó là những ghi
nhận về việc giới hạn quyền con người. Lần lượt các văn bản về quyền con
người trên trường quốc tế được ra đời như: Tuyên ngôn phổ quát về quyền
con người (UDHR) năm 1948, Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính
trị năm 1966 (ICCPR), Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội, văn
hóa năm 1966 (ICESCR), Nghị định thư không bắt buộc thứ hai của ICCPR
về việc bãi bỏ hình phạt tử hình năm 1989,... Từ năm 1948 đến nay, Tuyên
ngôn thế giới về quyền con người đã được sử dụng làm nền tảng cơ sở cho
việc xây dựng và thông qua hàng loạt các công ước khác về quyền con người
của Liên hiệp quốc về cấm và trừng trị những tội ác chống loài người như
Công ước về trấn áp và trừng trị tội diệt chủng năm 1948; Công ước quốc tế
về xóa bỏ tất cả các hình thức phân biệt chủng tộc năm 1965; Nghị định thư

về sửa đổi Công ước về chế độ nô lệ năm 1953; Công ước về trấn áp việc
buôn người và bóc lột mại dâm người khác năm 1949; Công ước bổ sung về
xóa bỏ chế độ nô lệ, buôn bán nô lệ và các thể chế, tập tục tương tự như chế
độ nô lệ năm 1956; Công ước về tra tấn và những hành động đối xử hoặc
trừng phạt mang tính độc ác, vô nhân đạo hay hạ nhục năm 1984. Trong đó,
các vấn đề bảo vệ quyền con người cùng với giới hạn quyền con người đều
được đề cập đến một cách nghiêm túc [57].
1.1.2. Các khái niệm cơ bản
1.1.2.1. Khái niệm quyền con người
a. Khái niệm
Quyền con người – “nhân quyền” – là một trong những thuật ngữ phổ
biến nhất hiện nay trên thế giới và cả ở Việt Nam. Nó phổ biến không chỉ bởi

10


vì được nhắc đến nhiều trong khoa học, những tranh luận chính trị hay thực
tiễn, mà còn bởi nhân quyền là một giá trị phổ quát [55]. Tính phổ quát của
nội hàm thuật ngữ này vừa xuất phát từ thuộc tính tự nhiên vốn có của con
người, đồng thời được khẳng định bởi những văn kiện pháp lý mang chính
chất nền tảng của pháp luật quốc tế như Hiến chương Liên hợp quốc 1945
(Chapter of United Nations), Tuyên ngôn quốc tế về quyền con người 1948
(Universal Declaration of Human Rights), Công ước quốc tế về các quyền
chính trị dân sự 1966(ICCPR), Tuyên bố Vienna về quyền con người 1993
(Vienna Declaration on Human Rights) và Tuyên bố Bangkok 1993….
Trong khoa học pháp lý, các quyền con người được hiểu đó là những
quyền mà pháp luật cần phải thừa nhận đối với tất cả các thể nhân. Đó là
quyền tối thiểu mà các cá nhân phải có, những quyền mà các nhà lập pháp
không được xâm hại. Nhằm mục đích bảo vệ những quyền tự nhiên này của
con người những sự xâm phạm của bất kể chủ thể nào, nên xã hội loài người

đã phải tạo ra cho mình một thiết chế có trách nhiệm đảm bảo những quyền
này. Thiết chế được sau này gọi là nhà nước. Đúng như những điều được ghi
nhận trong Bản "Tuyên ngôn độc lập" của Mỹ năm 1776 [58]:
"Chúng tôi khẳng định một chân lý hiển nhiên rằng, mọi người đều sinh
ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa đã ban cho họ những quyền không ai có thể
xâm phạm được, trong những quyền đó có quyền được sống, quyền tự do và
quyền mưu cầu hạnh phúc.
Rằng để đảm bảo những quyền lợi này, các chính phủ được thành lập ra
trong nhân dân và có được những quyền lợi chính đáng trên cơ sở sự nhất trí
của nhân dân, rằng bất cứ khi nào một thể chế chính quyền nào đó phá vỡ
những mục tiêu này, thì nhân dân có quyền thay đổi hoặc loại bỏ chính quyền
đó và lập nên một chính quyền mới, đặt trên nền tảng những nguyên tắc cũng
như tổ chức thực thi quyền hành theo một thể chế sao cho có hiệu quả tốt nhất
đối với an ninh và hạnh phúc của họ".

11


Bản Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền nổi tiếng của Pháp năm
1789 cũng khẳng định một nội dung tương tự:
Những người đại diện của nhân dân Pháp, tổ chức thành Quốc hội cho
rằng, sự không hiểu biết, sự lãng quên hay sự coi thường quyền con người, là
những nguyên nhân duy nhất của những nỗi bất hạnh công cộng, của tệ hủ bại
chính phủ đã quyết định nêu trong một bản Tuyên ngôn long trọng về những
quyền tự nhiên, không thể tước đoạt và thiêng liêng của con người; nhằm để
cho bản Tuyên ngôn này luôn nằm trong ý thức của mỗi thành viên xã hội và
luôn luôn nhắc nhở họ về những quyền và nghĩa vụ của bản thân; nhằm để
cho mọi hành động của quyền lực lập pháp và quyền lực hành pháp có thể bất
cứ lúc nào có thể đối chiếu với mục đích của mỗi thể chế chính trị đó và được
tôn trọng hơn; nhằm để cho các yêu cầu của mọi công dân nay được dựa trên

những nguyên tắc đơn giản không thể chối cãi, sẽ luôn luôn hướng vào sự giữ
gìn hiến pháp và vào hạnh phúc của mọi con người.
Tuyên Ngôn Nhân quyền và Dân quyền, 1789 của Pháp quốc
Từ những quyền con người của các nhà nước phát triển đã trở thành
quyền con người của Liên hợp quốc. Quyền con người được luật pháp quốc tế
bảo vệ. Ngày 19-12-1966 Đại hội đồng Liên Hiệp quốc đã thông qua hai công
ước quốc tế về các quyền con người. Công ước thứ nhất có hiệu lực từ ngày
23-3-1976 bảo vệ các quyền dân sự và chính trị. Công ước thứ hai có hiệu lực
từ ngày 3-1-1976 bảo vệ các quyền kinh tế, văn hóa, xã hội.
Quyền con người như những điều đã được phân tích ở phần trên đã trở
thành đối tượng điều chỉnh quan trọng của Hiến pháp. Một nội dung quan
trọng của Hiến pháp. Mục đích của quy định này như là một bản cam kết của
nhà nước phải thực hiện an toàn và sự phát triển của con người.
Về khái niệm quyền con người, hiện có nhiều định nghĩa khác nhau.
Định nghĩa của Văn phòng Cao ủy Liên hợp quốc thường được sử dụng, theo

12


đó: “Quyền con người là những bảo đảm pháp lý toàn cầu có tác dụng bảo vệ
các cá nhân và các nhóm chống lại những hành động hoặc sự bỏ mặc làm tổn
hại đến nhân phẩm, sự được phép và tự do cơ bản của con người”. Ngoài ra,
quyền con người còn được định nghĩa một cách khái quát là những quyền bẩm
sinh, vốn có của con người mà nếu không được hưởng thì chúng ta sẽ không
thể sống như một con người. Ở Việt Nam, một số định nghĩa về quyền con
người do một số chuyên gia, cơ quan nghiên cứu từng nêu ra cũng không hoàn
toàn giống nhau nhưng xét chung, quyền con người thường được hiểu là những
nhu cầu, lợi ích tự nhiên, vốn có và khách quan của con người được ghi nhận
và bảo vệ trong pháp luật quốc gia và các thỏa thuận pháp lý quốc tế [8, tr.37].
b. Các thuộc tính cơ bản của quyền con người

- Tính phổ biến: Con người dù ở quốc gia, dân tộc khác nhau nhưng
quyền con người được áp dụng chung cho tất cả mọi người, không phân biệt
màu da, giới tính, tôn giáo, độ tuổi, thành phần xuất thân.
- Tính không thể tước đoạt: Quyền con người không thể tùy tiện bị tước
đoạt hay giới hạn một cách tùy tiện bởi bất cứ chủ thể nào, trừ trường hợp
được pháp luật quy định và lý do tước đoạt là hành vi vi phạm pháp luật của
người bị tước đoạt (Ví dụ: tù nhân bị giam do thực hiện hành vi phạm tội).
- Tính không thể phân chia: Quyền con người là phạm trù tổng hợp gồm
các quyền và tự do của con người vốn quan trọng như nhau và gắn bó chặt chẽ
với nhau. Tuy nhiên, tùy thuộc vào điều kiện hoàn cảnh xã hội khác nhau mà
một số quyền con người được ưu tiên thực hiện hoặc được chú ý bảo vệ hơn.
- Tính liên hệ và phụ thuộc lẫn nhau giữa các quyền: Các quyền con
người cụ thể không thể tồn tại một cách biệt lập, đều có mối liên hệ chặt chẽ với
nhau, việc thực hiện tốt quyền này sẽ là tiền đề để thực hiện quyền kia. Ngược
lại, khi có một quyền bị xâm phạm thì sẽ ảnh hưởng đến các quyền khác.

13


1.1.2.2. Quyền công dân, mối quan hệ giữa quyền công dân và quyền
con người
Theo một nghĩa khái quát nhất có thể hiểu quyền công dân là những
quyền con người được nhà nước thừa nhận và áp dụng cho những người có
quốc tịch của nước mình.
Quyền con người và quyền công dân là hai phạm trù rất gần gũi nhưng
không đồng nhất. Với ý nghĩa là một khái niệm gắn liền với nhà nước, thể
hiện mối quan hệ giữa công dân với nhà nước, được xác định thông qua một
chế định pháp luật đặc biệt là chế định quốc tịch, quyền công dân là tập hợp
những quyền tự nhiên được pháp luật của một nước ghi nhận và bảo đảm,
nhưng chủ yếu dành cho những người có quốc tịch của nước đó. Không phải

ai cũng được hưởng quyền công dân của một quốc gia nhất định, và cũng
không phải hệ thống quyền công dân của mọi quốc gia đều giống hệt nhau,
cũng như đều hoàn toàn tương thích với hệ thống các tiêu chuẩn quốc tế về
quyền con người.
Xét trên nhiều góc độ, quyền con người là khái niệm rộng hơn quyền
công dân. Về tính chất, quyền con người không bị bó hẹp trong mối quan hệ
giữa cá nhân với nhà nước mà thể hiện mối quan hệ giữa cá nhân với toàn thể
cộng đồng nhân loại. Về phạm vi áp dụng, do không bị giới hạn bởi chế định
quốc tịch, chủ thể của quyền con người là tất cả các thành viên của gia đình
nhân loại. Nói cách khác, quyền con người được áp dụng một cách bình đẳng
với tất cả mọi người thuộc mọi dân tộc, không phụ thuộc vào biên giới quốc
gia, tư cách cá nhân hay môi trường sống của chủ thể quyền [6, tr.43].
Về bản chất quyền công dân cũng là quyền con người nên sự phân biệt
giữa hai khái niệm này thường không cụ thể. Trong khi các văn kiện của luật
nhân quyền quốc tế không đề cập đến khái niệm quyền công dân, mà chỉ quy
định cho phép các quốc gia được giới hạn áp dụng một số quyền cho các công

14


dân của mình; thì Hiến pháp của các quốc gia thường không đề cập đến khái
niệm quyền con người, mà chỉ quy định có những quyền áp dụng cho người
nước ngoài hoặc cho cả công dân và người nước ngoài (hàm ý hoặc mặc định
đó là những quyền con người chung của mọi cá nhân).
1.1.2.3. Khái niệm giới hạn quyền con người
Bảo vệ quyền con người là một chức năng, nhiệm vụ quan trọng của
Nhà nước và cũng là một đặc tính quan trọng của Nhà nước pháp quyền. Tuy
vậy, quyền con người không phải bao giờ cũng là tuyệt đối trong mọi trường
hợp. Nói cách khác, quyền con người hoàn toàn có thể bị giới hạn hoặc giới
hạn trong những trường hợp nhất định.

Giới hạn quyền con người là quy định được ghi nhận trong Tuyên ngôn
phổ quát về quyền con người (UDHR) năm 1948 và một số điều ước quốc tế
về quyền con người mà bản chất của nó là cho phép các quốc gia thành viên
áp đặt một số điều kiện với việc thực hiện/hưởng thụ một số quyền con người
nhất định [6, tr.72]. Cụ thể, khoản 2 Điều 29 UDHR năm 1948 nêu rằng: “khi
thực hiện các quyền và tự do của mình, mọi người chỉ phải chịu những giới
hạn do luật định (“determined by law”), nhằm mục đích duy nhất là đảm bảo
sự công nhận và tôn trọng thích đáng đối với các quyền và tự do của người
khác, cũng như đáp ứng những yêu cầu chính đáng về đạo đức, trật tự xã hội
và phúc lợi chung cho một xã hội dân chủ”. Như vậy, giới hạn quyền là việc
cho phép nhà nước áp đặt điều kiện hay giới hạn về việc thực hiện/thụ hưởng
một số quyền con người nhằm bảo vệ lợi ích chung của cộng đồng. Vấn đề
này được ghi nhận trong luật nhân quyền quốc tế và Hiến pháp của nhiều
quốc gia dưới những hình thức diễn đạt khác nhau và với mức độ khác nhau.
Cũng phải lưu ý rằng, nếu có chứa yếu tố bất hợp lý, hay lợi ích đạt được thấp
hơn thiệt hại xảy ra thì giới hạn quyền đó sẽ bị coi là vi phạm.
Như vậy, về tổng thể có thể hiểu giới hạn quyền con người là việc Hiến

15


pháp hoặc một văn bản pháp luật khác của quốc gia có điều khoản giới hạn
(limitation clause) cho phép giới hạn áp dụng một quyền, tự do cá nhân trong
một mức độ nhất định, nhằm cân bằng giữa quyền, tự do cá nhân đó với lợi ích
chính đáng, hợp lý của cộng đồng và quyền, tự do của cá nhân khác [24, tr.21].
Bên cạnh khái niệm giới hạn quyền con người còn có khái niệm hạn
chế quyền con người. Nội hàm của hai khái niệm “giới hạn” và “hạn chế”
trong lĩnh vực nhân quyền lại có sự khác biệt. Luật Nhân quyền quốc tế phân
biệt rất rõ ràng hai khái niệm “Limitation of human rights” và “Derogation of
human rights”. Theo đó, các quyền có thể bị giới hạn còn việc thực thi các

quyền ấy thì có thể bị hạn chế. PGS.TS. Vũ Công Giao đã phân tích rất thuyết
phục sự khác biệt và nguy hiểm khi đồng nhất hai khái niệm này. Với nghĩa
“hạn chế” quyền thì có nghĩa là hạn chế trong việc thực thi, sử dụng, áp dụng
các quyền con người, còn nghĩa “giới hạn” được sử dụng khi diễn đạt việc
thiết lập phạm vi, ranh giới mà trong khuôn khổ đó quyền có thể bị giới hạn
trong các điều kiện, hoàn cảnh, mục đích xác định. Từ “hạn chế” vừa có nghĩa
là “giới hạn” vừa có nghĩa là “nhược điểm” – nên khi sử dụng dễ gây hiểu
nhầm sang cách hiểu thứ hai. Chính vì vậy, trong bài nghiên cứu này xin
thống nhất sử dụng khái niệm giới hạn quyền.
Giới hạn quyền thực chất là việc một người có quyền nhưng có thể bị
giới hạn vì một số lý do, mục đích hợp lý. Ví dụ, công dân có quyền tự do đi
lại nhưng nếu có hành vi vi phạm và bị áp dụng hình phạt tù thì quyền tự do
đi lại của người này đã bị giới hạn. Hoặc không thể dùng quyền tự do hội họp,
biểu tình để gây mất trật tự an ninh xã hội; hay không thể dùng quyền tự do
ngôn luận để bôi nhọ người khác.
1.1.2.4. Tạm đình chỉ quyền
a. Khái niệm tạm đình chỉ quyền
Giới hạn quyền cũng khác với tạm dừng thực hiện/bảo đảm quyền (gọi

16


chung là tạm đình chỉ quyền). Giới hạn quyền không đồng nhất với tạm đình
chỉ quyền. Bản chất của giới hạn quyền là sự giới hạn phạm vi áp dụng của
quyền để cân bằng giữa lợi ích của cá nhân và của cộng đồng, vì thế nó được
áp dụng trong mọi hoàn cảnh với những điều kiện nhất định. Trong khi đó,
tạm đình chỉ quyền là việc bổ sung sự giới hạn quyền một cách tạm thời bằng
cách tạm dừng thực hiện/bảo đảm quyền trong một khoảng thời gian nhất
định khi công bố tình trạng khẩn cấp.
Theo nguyên tắc của pháp luật quốc tế, các quốc gia có nghĩa vụ thực

hiện việc đảm bảo quyền con người một cách liên tục. Tuy nhiên, Điều 4
ICCPR năm 1996 quy định rằng trong những bối cảnh khẩn cấp, đe dọa đến
sự an nguy của một quốc gia, các quốc gia có thể áp dụng những biện pháp
tạm thời đình chỉ việc thực hiện một số quyền trong Công ước này.
Quy định về việc tạm đình chỉ thực hiện một số quyền chính trị, dân sự
trong một khoảng thời gian nhất định, về bản chất, được thực hiện do bối cảnh
khẩn cấp của một quốc gia.
Về hình thức, việc tạm đình chỉ thực hiện một số quyền con người có
thể thông qua các biện pháp cụ thể như: thiết quân luật (trên phạm vi cả nước,
hoặc một khu vực, một địa phương); cấm biểu tình, hội họp đông người; cấm
hoặc giới hạn hoạt động của một số cơ quan thông tin đại chúng như truyền
hình, phát thanh, báo đài,...; cấm đi lại, ra vào một khu vực hoặc xuất nhập
cảnh (đối với một cá nhân hay một nhóm người);... Trên thực tế, tình trạng
khẩn cấp thường được tuyên bố khi xảy ra thảm họa thiên tai, bạo động hoặc
tuyên bố chiến tranh.
b. Điều kiện áp dụng việc tạm đình chỉ thực hiện quyền
Mặc dù cho phép các quốc gia tạm đình chỉ một số quyền con người
trong hoàn cảnh khẩn cấp, Điều 4 ICCPR đông thời đòi hỏi [6, tr.66]:
Thứ nhất, việc tạm đình chỉ quyền phải thực sự xuất phát từ tình huống
khẩn cấp, do tình hình bắt buộc phải làm để cứu vãn sự sống còn của quốc

17


gia.
Thứ hai, các biện pháp áp dụng không được trái với những nghĩa vụ
khác xuất phát từ luật pháp quốc tế, và đặc biệt không được mang tính chất
phân biệt đối xử về chủng tộc, màu da, tôn giáo, giới tính, ngôn ngữ hoặc
nguồn gốc xã hội.
Thứ ba, kể cả trong tình huống khẩn cấp, các quốc gia cũng không được

tạm đình chỉ việc thực hiện những quyền sau: quyền sống (Điều 6), quyền không
bị tra tấn, đối xử tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục (Điều 7), quyền không bị bắt
giữ làm nô lệ hay nô dịch (Điều 8), quyền không bị bỏ tù chỉ vì lý do không
hoàn thành nghĩa vụ theo hợp đồng (Điều 11), quyền được công nhận là thể nhân
trước pháp luật (Điều 16), quyền tự do tư tưởng, tín ngưỡng và tôn giáo (Điều
18). Những quyền này là những quyền không thể bị đình chỉ.
Thứ tư, khi quyết định tạm đình chỉ thực hiện quyền, phải thông báo
ngay cho các quốc gia thành viên khác của ICCPR thông qua Tổng Thư ký
Liên Hợp Quốc, trong đó nêu rõ những biện pháp cụ thể đã áp dụng và thời
gian dự định chấm dứt các biện pháp đó.
1.2. Đặc điểm của nguyên tắc giới hạn quyền con người
Không hề có quy định cụ thể nhưng dựa trên các Điều ước quốc tế và
Hiến pháp các quốc gia, về cơ bản, nguyên tắc giới hạn quyền thể hiện những
đặc điểm sau:
i. Bản chất của điều khoản giới hạn quyền
Điều khoản giới hạn quyền vừa cho phép, vừa kiềm chế hai chủ thể sau
đây trong việc đưa ra những giới hạn cụ thể với một quyền cụ thể: Quốc hội
(trong các nước theo hệ thống dân luật), và/hoặc Tòa án (trong các nước theo hệ
thống thông luật). Sự kiềm chế thể hiện ở việc điều khoản giới hạn quyền thường
đồng thời chứa đựng những mục đích (điều kiện) của việc giới hạn một quyền,

18


nhằm ngăn chặn việc giới hạn quyền một cách tùy tiện, bất hợp lý [24, tr.28].
ii. Nguyên tắc giới hạn quyền ghi nhận sự xung đột giữa quyền của
người này với quyền của người khác.
Xét toàn diện thì một xã hội thiếu tự do sẽ không thể phát triển lành
mạnh, ổn định, xét cả về chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa. Ở đâu thiếu tự do
ắt sẽ xuất hiện bất bình đẳng giữa các tầng lớp, giai cấp; sự tùy tiện, chuyên

quyền, quan liêu, tham nhũng, sự vi phạm quyền con người và mất niềm tin.
Nhưng ở đâu mà không có ổn định, trật tự xã hội thì ở đó chính những quyền
lợi của người dân cũng không được đảm bảo. Khi thực hiện nguyên tắc giới
hạn quyền thì việc xung đột quyền là điều không thể tránh khỏi vì bảo vệ
phạm vi tự do chính đáng của người này cũng chính là sự giới hạn tự do của
người khác. Nguyên tắc giới hạn quyền đã hình thành nên thứ tự ưu tiên trong
việc thực hiện quyền. Đây là điều tất yếu và là đặc điểm quan trọng nhất của
nguyên tắc giới hạn quyền [24, tr. 26].
iii. Giới hạn quyền được thực hiện thông qua các quy phạm pháp luật
dưới Hiến pháp
Trên thế giới, không phải bao giờ nguyên tắc giới hạn quyền cũng phải
được ghi nhận trong Hiến pháp. Việc một bản Hiến pháp không đề cập đến
nguyên tắc giới hạn quyền không có nghĩa quốc gia đó không có giới hạn đối
với các quyền trong những trường hợp nhất định. Nguyên tắc này được quy
định cụ thể về nội dung, phương pháp thực hiện trong các văn bản quy phạm
pháp luật dưới Hiến pháp. Để thực hiện nguyên tắc giới hạn quyền một cách
đúng đắn, trước hết, việc nhà nước giới hạn các quyền phải được quy định
bằng pháp luật rõ ràng, minh bạch và có lý do chính đáng - tức nhằm bảo vệ
quyền của người khác và lợi ích chung của xã hội. Đối với những quyền mà
việc thực hiện nó không làm ảnh hưởng tới người khác và lợi ích chung của
xã hội, các nhà nước không có lý do chính đáng để giới hạn.

19


×