Tải bản đầy đủ (.doc) (124 trang)

Hoàn thiện pháp luật về bảo vệ quyền của nhóm yếu thế ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (595.83 KB, 124 trang )

I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT

PHAN THNH TRUNG

HOàN THIệN PHáP LUậT Về BảO Vệ
QUYềN
CủA NHóM YếU THế ở VIệT NAM

LUN VN THC S LUT HC


HÀ NỘI - 2018


I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT

PHAN THNH TRUNG

HOàN THIệN PHáP LUậT Về BảO Vệ
QUYềN
CủA NHóM YếU THế ở VIệT NAM
Chuyờn ngnh: Lý lun v lch s Nh nc v phỏp lut
Mó s: 8380101.01

LUN VN THC S LUT HC

Ngi hng dn khoa hc: PGS.TS DNG C CHNH



HÀ NỘI - 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam kết Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các kết quả nêu trong luận văn chưa được công bố trong bất cứ công
trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn bảo đảm
tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn
học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của
Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi
có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn
NGƯỜI CAM ĐOAN

Phan Thành Trung


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các ký hiệu, chữ viết tắt
48.Báo chính phủ (2018), Bao nhiêu trẻ em bị bạo hành, xâm hại chưa được phát hiện?,
.................................................................................................117
49.Báo chính phủ (2018), Bảo vệ trẻ em Chính phủ còn nhiều việc cần chỉ đạo và hành
động, ...............................................................................................117
52.Cục trẻ em Bộ lao động (2018), Tổng kết công tác năm 2017,
............................................................................................................................................117

54.Nguyễn Văn Hậu (2017), Nhiều bất cập trong thi hành Luật Bình đẳng giới,
......................................................................................................117
56.Lao động xã hội (2018), Những khó khăn trong việc thực hiện chính sách trợ giúp
người khuyết tật và một số đề xuất, .............................................118
62.Hà Quyên (2018), 2.000 trẻ em Việt Nam bị bạo hành nghiêm trọng mỗi năm,
............................................................................................................118

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

CEDAW

Công ước về xóa bỏ toàn bộ các hình thức phân biệt đối
xử với phụ nữ
CRC
Công ước về quyền trẻ em
ICC
Tòa hình sự quốc tế
MDG
Tuyên bố Thiên niên kỷ và cam kết đạt được tám Mục tiêu
Phát triển Thiên niên kỷ
NCT
Người cao tuổi
NKT
Người khuyết tật
UBND
Ủy ban nhân dân
UNESCO Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên Hiệp Quốc


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Thực hiện mục tiêu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, cho
đến nay, đã hình thành hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật về mọi mặt của
đời sống chính trị, kinh tế, xã hội. Từ khi tiến hành công cuộc Đổi mới vào năm
1986 đến nay, Quốc hội đã ban hành hàng trăm văn bản luật và pháp lệnh. Trong số
này có những đạo luật trực tiếp điều chỉnh quyền con người, quyền công dân như
Bộ luật hình sự, Bộ luật dân sự, Bộ luật lao động, Luật Bảo vệ sức khỏe nhân dân,
Luật Bảo hiểm y tế, Luật Dược, Luật hôn nhân và gia đình, Luật phòng, chống mua
bán người, Luật bình đẳng giới, Luật khám bệnh, chữa bệnh, Luật phòng, chống bạo
lực gia đình, Luật cư trú, Luật tiếp công dân, Luật việc làm… Đáng chú ý, Quốc hội
đã ban hành những đạo luật riêng cho nhóm đối tượng dễ bị tổn thương như Luật
bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, Luật người cao tuổi, Luật người khuyết tật…
Nội dung của các đạo luật được ban hành thể chế hóa ngày càng đầy đủ, cụ
thể và rõ ràng quan điểm, chính sách của Đảng, Nhà nước về bảo vệ quyền con
người, quyền công dân trong điều kiện cụ thể của Việt Nam. Việc xây dựng các đạo
luật theo nguyên tắc bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất của văn
bản quy phạm pháp luật trong hệ thống pháp luật; được tiến hành công khai, minh
bạch với sự tham gia đóng góp ý kiến rộng rãi của các nhóm đối tượng chịu sự điều
chỉnh của văn bản và trong nhiều trường hợp được công bố rộng rãi trên các phương
tiện thông tin đại chúng để người dân tham gia đóng góp ý kiến.
Tuy nhiên do sự phát triển quá nhanh của các thành phần xã hội, cùng với xu
thế hội nhập thế giới sâu và rộng hiện nay thì việc các văn bản Luật không thể bao quát
hết và phù hợp với nhóm yếu thế, đồng thời việc thực hiện áp dụng pháp luật về vấn đề
này vẫn còn nhiều bất cập, bộc lộ nhiều điểm yếu. Vì vậy việc phân tích và đề xuất các
giải pháp hoàn thiện là một việc cần thiết trong bối cảnh hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Trong thời gian gần đây, đã có nhiều bài viết, nhiều công trình nghiên cứu
xoay quanh vấn đề về quyền con người, quyền của nhóm yếu thế được tiếp cận từ

1



nhiều khía cạnh như quyền chính trị, quyền lao động, quyền an sinh,... Việc phân
tích các khía cạnh lý luận và thực tiễn liên quan đến bảo vệ quyền của nhóm yếu thế
một cách hệ thống và chuyên sâu qua đó góp phần một bộ phận không nhỏ nhóm
đối tượng yếu thế trong xã hội nhằm bảo đảm sự phát triển bình đẳng trong xã hội
hiện nay. Một số có thể kể đến như:
- Giáo trình Lý luận và pháp luật về quyền con người do Nguyễn Đăng
Dung, Vũ Công Giao, Lã Khánh Tùng đồng chủ biên của Khoa Luật – Đại học quốc
gia Hà Nội năm 2009.
- Giáo trình Luật người khuyết tật năm 2011 của Trường Đại học Luật Hà Nội.
- Sách “ Hỏi đáp về Quyền con người” năm 2013 của Khoa Luật – Đại học
Quốc gia Hà Nội.
- Sách “Luật về quyền của các nhóm người dễ bị tổn thương” của Khoa Luật
– Đại học Quốc gia năm 2011.
- Một số sách của Viện khoa học Xã hội Việt Nam như: Cơ chế bảo đảm và
bảo vệ quyền con người, Nxb. Khoa học xã hội, 2011; Quyền con người – tiếp cận
đa ngành và liên ngành luật học, Nxb. Khoa học xã hội, 2010.
- Một số bài viết và công trình nghiên cứu ở Việt Nam về các nhóm yếu thế
như: Bài viết “Về quyền của người cao tuổi trong Dự thảo sửa đổi Hiến
pháp năm 1992” của tác giả Nguyễn Thị Loan Anh đăng trên Tạp chí Cộng
sản điện tử ngày 23-4-2013. Báo cáo “Già hóa dân số và người cao tuổi ở Việt Nam
- Thực trạng, dự báo và một số khuyến nghị chính sách” do Quỹ dân số Liên Hợp
Quốc tại Việt Nam công bố tháng 7-2011. Bài viết “Chăm sóc y tế cho người cao
tuổi: Trách nhiệm của Nhà nước, gia đình và xã hội” trên tạp chí Cộng sản điện tử
ngày 02/10/2017; Bài viết “Bảo vệ quyền của phụ nữ bằng pháp luật hình sự và tố
tụng hình sự” của tác giả Chu Thị Trang Vân (Bộ môn Tư pháp hình sự, khoa Luật
– Đại học Quốc gia Hà Nội); …
Một số luận văn khoa học nghiên cứu về quyền của các nhóm yếu thế như:
“Hoàn thiện pháp luật bảo vệ quyền phụ nữ ở Việt Nam hiện nay” của tác giả

Vương Vân Huyền (Luận văn thạc sĩ luật học, Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà

2


Nội, 2014) nghiên cứu về pháp luật và thực hiện pháp luật bảo vệ phụ nữ ở Việt
Nam; “Bảo vệ quyền của người khuyết tật trong pháp luật lao động Việt Nam –
thực trang và giải pháp của tác giả Hà Thị Lan (Luận văn thạc sĩ Luật học, Khoa
Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội, 2014) nghiên cứu chủ yếu về quyền của người
khuyết tật trong lĩnh vực lao động;…
Những nghiên cứu nêu trên đã đưa đến những cái nhìn khái quát về nhóm yếu
thế và việc bảo đảm quyền của nhóm người này theo pháp luật quốc tế và pháp luật
Việt Nam. Tuy nhiên hầu hết là các bài là phân tích và làm rõ chỉ 1 nhóm yếu thế cụ
thể, mà chưa có các bài viết đề cập đến nhiều nhóm yếu thế, điều đó khiến cho người
đọc và nghiên cứu khó có cái nhìn tổng quát và thấy được mối liên hệ giữa các nhóm
yếu thế. Do đó luận văn này đề cập tới các nhóm yếu thế nhằm tạo cái nhìn tốt nhất
về mối liên hệ giữa các nhóm yếu thế, cùng với đó là đưa ra các phương hướng, giải
pháp nhằm hoàn thiện pháp luật Việt Nam về bảo vệ quyền của 4 nhóm yếu thế là:
phụ nữ, trẻ em, người khuyết tật và người cao tuổi.
3. Đối tượng nghiên cứu
- Quy định của pháp luật và thực hiện pháp luật về bảo vệ quyền nhóm yếu
thế ở Việt Nam.
- Tính khả thi và nội dung của những giải pháp được đề xuất nhằm hoàn
thiện pháp luật về bảo vệ quyền của các nhóm yếu thế là: phụ nữ, trẻ em, người
khuyết tật và người cao tuổi ở Việt Nam hiện nay.
4. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Luận văn đi sâu phân tích các vấn đề lý luận và thực tiễn áp
dụng các quy định của pháp luật Việt Nam về bảo vệ quyền của nhóm yếu thế.
Trong đó đề cập tới chủ yếu là 4 nhóm yếu thế có vai trò chủ yếu và tiêu biểu là:
Phụ nữ, trẻ em, người khuyết tật và người cao tuổi.

- Về phạm vi không gian: Luận văn nghiên cứu và làm rõ pháp luật và thực
hiện pháp luật trên lãnh thổ nước Việt Nam.
- Về phạm vi thời gian: Luận văn chủ yếu dựa trên các quy định của pháp
luật Việt Nam về bảo vệ quyền nhóm yếu thế trong Hiến pháp và các bộ luật cụ thể

3


như: Hiến pháp 2013, Luật Hôn nhân và Gia đình, Luật bình đẳng giới, Luật trẻ em,
Luật người khuyết tật, Luật người cao tuổi, Luật lao động, Luật Bảo hiểm xã hội,….
Đặc biệt là từ sau năm 2009 là thời điểm Luật người cao tuổi ra đời sau đó lần lượt
là các luật như Luật người khuyết tật (2010), Luật Hôn nhân và gia đình (2014),
Luật trẻ em (2016),… Đồng thời với đó là thực trạng thực hiện pháp luật về bảo vệ
nhóm yếu thế tại Việt Nam từ năm 2009 trở lại đây.
5. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
Phân tích và làm sáng tỏ về pháp luật, về thực trạng áp dụng pháp luật bảo vệ
quyền nhóm yếu thế. Từ đó đề xuất các giải pháp, phương hướng hoàn thiện pháp
luật và thực hiện pháp luật trong lĩnh vực này. Và hướng tới việc nâng cao chất
lượng sống, nâng cao an sinh nhóm yếu thế đặc biệt là những bộ phận có hoàn cảnh
khó khăn, bệnh tật khó có thể tự mình bảo đảm được cuộc sống bình thường.
6. Tính mới và những đóng góp của đề tài
Luận văn sau khi hoàn thành sẽ góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý luận
về khái niệm, đặc điểm của các nhóm yếu thế, việc ban hành và thực hiện pháp luật
bảo vệ quyền nhóm yếu thế.
Luận văn làm rõ thực trạng về pháp luật và thực hiện pháp luật về bảo vệ
quyền nhóm yếu thế ở Việt Nam hiện nay. Pháp luật ở Việt Nam hiện tại về bảo vệ
quyền của nhóm yếu thế đang dần hoàn thiện, đồng thời việc thực hiện pháp luật
cũng đã được quan tâm hơn; tuy nhiên cũng có nhiều điểm bất cập cần phải đề nghị
sửa đổi, bổ sung.
So với các công trình khoa học khác thì luận văn có một số đóng góp như:

Về cách tiếp cận thì luận văn đã tiếp cận và nghiên cứu pháp luật và bảo vệ pháp
luật về quyền nhóm yếu thế là một cơ chế bảo vệ quyền con người; Về nội dung thì
trên cơ sở thực tiễn tự hiện pháp luật tại Việt Nam luận văn cũng đã đề xuất nhiều
giải pháp như sửa đổi các Luật, bộ Luật như Luật Người cao tuổi, Luật bảo hiểm xã
hội, Luật Lao động,… kèm với đó là các giải pháp nâng cao hiệu quả của việc thực
hiện pháp luật bảo vệ quyền nhóm yếu thế.

4


7. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn này sử dụng phương pháp thống kê, so sánh, phân tích, tổng hợp,
diễn dịch và phương pháp thực chứng để phân tích làm sáng tỏ vấn đề cần nghiên
cứu. Kế thừa có chọn lọc kết quả của các công trình nghiên cứu của các tác giả khác
có liên quan đến vấn đề đang nghiên cứu như: luận án, luận văn, đề tài nghiên cứu,
bài viết trên các tạp chí, báo,...
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mục lục, Mở đầu, Kết luận và tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn được kết cấu thành 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về hoàn thiện pháp luật bảo vệ quyền nhóm yếu thế
ở Việt Nam.
Chương 2: Thực trạng pháp luật về bảo vệ quyền nhóm yếu thế tại Việt Nam
hiện nay.
Chương 3: Hoàn thiện pháp luật về bảo vệ quyền nhóm yếu thế tại Việt Nam
hiện nay.

5


Chương 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ
PHÁP LUẬT BẢO VỆ QUYỀN NHÓM YẾU THẾ
1.1. Quyền nhóm yếu thế là nội dung cơ bản của quyền con người
1.1.1. Khái niệm về quyền con người, quyền nhóm yếu thế
Con người sinh ra trên thế giới ai cũng đều được hưởng một quyền tự nhiên
đó chính là quyền con người, đây không phải là một khái niệm xa lạ trong lịch sử
phát triển của xã hội loài người, tuy nhiên có nhiều cách hiểu khác nhau về vấn đề
này. Theo như khoa học pháp lý thì quyền con người được hiểu là những quyền mà
pháp luật cần phải thừa nhận đối với tất cả các thể nhân. Đó là quyền tối thiểu mà cá
nhân phải có và được có, quyền bất khả xâm phạm không ai có thể can thiệp. Và để
bảo vệ những quyền tự nhiên này thì xã hội loài người đã phải tạo ra cho mình một
thiết chế có trách nhiệm bảo đảm những quyền này không bị xâm phạm, đó là nhà
nước. Theo như trong bản “Tuyên ngôn độc lập” của Mỹ năm 1776 thì:
Chúng tôi khẳng định một chân lý hiển nhiên rằng, mọi người đều
sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa đã ban cho họ những quyền không
ai có thể xâm phạm được, trong những quyền đó có quyền được sống,
quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc.
Rằng để đảm bảo những quyền lợi này, các chính phủ được thành
lập ra trong nhân dân và có được những quyền lợi chính đáng trên cơ sở
sự nhất trí của nhân dân, rằng bất cứ khi nào một thể chế chính quyền
nào đó phá vỡ những mục tiêu này, thì nhân dân có quyền thay đổi hoặc
loại bỏ chính quyền đó và lập nên một chính quyền mới, đặt trên nền
tảng những nguyên tắc cũng như tổ chức thực thi quyền hành theo một
thể chế sao cho có hiệu quả tốt nhất đối với an ninh và hạnh phúc của họ.
Không chỉ có các nước trên thế giới mà ngay cả khi đất nước Việt Nam vừa
giành được độc lập thì trong bản “Tuyên ngôn độc lập” đầu tiên do Chủ tịch Hồ Chí
Minh đọc trong ngày 02/9/1945 cũng đã nói rất rõ rằng: “Tất cả mọi người sinh ra

6



đều có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm
được; trong những quyền ấy có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu
hạnh phúc”. Và theo dòng lịch sử xuyên suốt quá trình xây dựng và bảo vệ đất
nước các bản hiến pháp năm 1946, 1959, 1980, 1992 và 2013 đều ghi dấu sự tôn
trọng và bảo vệ quyền con người ngày một rõ ràng và mạnh mẽ và hiện đại.
Và từ những quyền con người của các nhà nước đã trở thành quyền con
người của Liên Hợp Quốc. Quyền con người được luật pháp quốc tế bảo vệ. Ngày
19-12-1966 Đại hội đồng Liên Hợp Quốc đã thông qua hai công ước quốc tế về các
quyền con người. Công ước thứ nhất có hiệu lực từ ngày 23-3-1976 bảo vệ các
quyền dân sự và chính trị. Công ước thứ hai có hiệu lực từ ngày 3-1-1976 bảo vệ
các quyền kinh tế, văn hóa, xã hội [11].
Như vậy có thể hiểu chung quyền con người là những quyền tự nhiên, vốn có
của con người được ghi nhận và bảo vệ trong pháp luật quốc gia và các thỏa thuận
pháp lý quốc tế.
Nhóm yếu thế/thiệt thòi (disadvantaged groups): Thuật ngữ yếu thế thiệt thòi
đã được sử dụng theo truyền thống như một tính từ như muốn mô tả một chất lượng
vốn có của nhóm là yếu thế thiệt thòi. Đó là nhóm mà mọi người thấy mình lâm vào
hoàn cảnh khó khăn mà ở đó họ bị từ chối việc tiếp cận và sử dụng các phương tiện
được cho là hữu ích với đa số các nhóm xã hội tương tự khác. Đó là quyền tự chủ,
trách nhiệm, lòng tự trọng, quyền được sự hỗ trợ của cộng đồng, y tế, giáo dục,
thông tin, việc làm, vốn và hệ thống hỗ trợ khác. Đó là nhóm người luôn luôn có sự
hiện diện của “rào cản với khả năng tự duy trì được khả năng sinh tồn của bản thân,
hoặc dễ bị xâm hại” [35]. Theo xác định của UNESCO thì nhóm yếu thế bao: Người
ăn xin, nạn nhân của các loại tội phạm, người tàn tật, thanh thiếu niên có hoàn cảnh
khó khăn, nhóm giáo dục đặc biệt, người cao tuổi, người nghèo,người lang thang,
phụ nữ, trẻ em,… ngoài ra còn có người xin tị nạn, người tị nạn, người bị xã hội loại
trừ [36].
Như vậy nhóm yếu thế là nhóm xã hội đặc biệt có hoàn cảnh khó khăn hơn,
có vị thế thấp kém hơn so với các nhóm xã hội “bình thường” có những đặc điểm


7


tương tự. Họ gặp phải nhiều thách thức ngăn cản khả năng hòa nhập của họ với
cộng đồng, nói cách khác là bị cô lập ở một thế giới khác. Và vì thế ngoài những
quyền tự nhiên của con người như trên thì nhóm yếu thế còn có những đặc quyền
riêng như quyền bình đẳng, quyền tự quyết, quyền được học tập, quyền được sử
dụng các dịch vụ y tế giáo dục, quyền được pháp luật và nhà nước bảo hộ riêng do
những thiệt thòi đã phải chịu.
Và để nhìn nhận về nhóm yếu thế rõ hơn thì chúng ta có thể nhìn nhận qua
một vài đặc điểm nổi bật sau:
Thứ nhất, những người yếu thế thường gặp khó khăn về sức khỏe, những
người này thường có sức khỏe kém, sức khỏe người cao tuổi suy giảm do tuổi già,
sức khỏe người khuyết tật các dạng vận động kém và hầu hết không có khả năng lao
động. Vì thế, những hoạt động và các công việc cần có thể lực tốt thì họ khó có thể
đáp ứng được theo yêu cầu; bên cạnh đó, nếu tham gia vào công việc mà họ thường
xuyên xin nghỉ vì vấn đề sức khỏe thì sẽ ảnh hưởng tới công việc. Chính do đó nên
các nhà tuyển dụng lao động sẽ cân nhắc khi tuyển dụng những người này do có thể
làm giảm hiệu suất lao động từ đó dẫn tới việc họ bị kém lợi thế khi xin việc so với
người bình thường. Và ngay kể cả đối với phụ nữ, kể cả với một người có sức khỏe
và làm việc bình thường tuy nhiên do đặc điểm của người phụ nữ có thể một tháng
sẽ phải nghỉ một vài ngày, tất nhiên điều đó làm ảnh hưởng tới công việc và khi xin
việc họ buộc phải bị đánh giá thấp hơn so với các nam giới cùng độ tuổi.
Thứ hai, về mặt kinh tế. Do những thiệt thòi về mặt sức khỏe nên có thể thấy
rằng khả năng lao động của nhóm này hạn chế, điều này khiến họ không có thu
nhập, thu nhập thấp hoặc không ổn định, đời sống gặp khó khăn, phụ thuộc nhiều
vào kinh tế gia đình và một phần trợ cấp xã hội. Phần lớn đời sống vật chất và nhu
cầu cơ bản của họ chưa đảm bảo điều kiện bình thường. Do đó dễ ảnh hưởng đến sự
phát triển hoặc cơ chế bảo vệ và chăm sóc cho nhóm yếu thế.

Thứ ba, vấn đề về hòa nhập cộng đồng và tham gia các hoạt động xã hội. Do
nhóm yếu thế hay bị xã hội kì thị và phân biệt đối xử nên họ rất khó khăn hoặc
không có khả năng trong việc tham gia các hoạt động xã hội, hoạt động vui chơi mà

8


đáng ra họ có quyền được hưởng, nếu như họ có thể tham gia một cách bình đẳng
và vô tư như người bình thường thì chắc chắn rằng đời sống tinh thần của họ sẽ
được cải thiện, tạo tinh thần lạc quan và niềm tin cuộc sống.
1.1.2. Những đặc điểm của quyền con người và quyền nhóm yếu thế
Do nhóm yếu thế là một bộ phận góp phần cấu thành nên xã hội con người vì
vậy những tính chất và đặc điểm của quyền con người nghiễm nhiên quyền nhóm
yếu thế cũng sẽ có. Và theo nhận thức chung của cộng đồng quốc tế thì quyền con
người có các đặc điểm tính chất cơ bản như sau:
- Về tính phổ biến:
Tính phổ biến của quyền con người được thể hiện rất rõ và đặc trưng đó là
phạm vi áp dụng là rộng khắp toàn thế giới không phân biệt lãnh thổ, màu da, tôn
giáo, giới tính,… Con người dù ở trong hoàn cảnh, chế độ riêng biệt, thuộc những
nền văn hóa khác nhau thì vẫn được công nhận là con người và được hưởng các
quyền tự do cơ bản [10, tr.41]
- Tính đặc thù:
Mặc dù theo đúng như định nghĩa khái niệm thì tất cả mọi người đều được
hưởng quyền con người nhưng mức độ hưởng thụ quyền có sự khác biệt, điều đó
phụ thuộc vào năng lực các nhân của từng người, hoàn cảnh chính trị, truyền thống
văn hóa xã hội mà người đó đang sống. Vì xét ra ở mỗi vùng vấn đề về quyền con
người mang sắc thái khác nhau. Ví dụ như dân trí, trình độ nhận thức và chế độ an
sinh ở hầu hết các vùng châu Phi không thể bằng khi so với các đất nước phát triển
châu Âu do nền kinh tế kém phát triển [10, tr.42].
- Tính không thể bị tước bỏ:

Từ khi xuất hiện khái niệm và nhận thức về quyền con người trong xã hội hiện
đại thì quyền con người không thể bị tước bỏ hay hạn chế một cách tùy tiện. Ngoại trừ
một số trường hợp đặc biệt ngoại lệ được pháp luật các quốc gia quy định như một
người phạm tội bị tước quyền tự do và bị nhà nước yêu cầu cải tạo trong tù [10, tr.43]
- Tính không thể phân chia
Đã nói tới quyền con người là nói tới sự ngang bằng như nhau về vai trò và

9


tầm quan trọng, về nguyên tắc không có quyền nào được coi là giá trị hơn quyền
nào bởi vì chúng nằm trong một mối liên hệ mật thiết và ảnh hưởng lẫn nhau, nếu
bỏ hay hạn chế một quyền nào đó thì đều tác động tiêu cực tới nhân phẩm, giá trị và
sự phát triển của con người. Mặc dù vậy vẫn có một số ngoại lệ trong hoàn cảnh đặc
biệt thì có thể ưu tiên một số quyền hơn ví dụ như trong thiên tai dịch bệnh thì
quyền ưu tiên là quyền được y tế chăm sóc… Điều này không có nghĩa là các quyền
được ưu tiên thực hiện có giá trị cao hơn mà bởi vì các quyền đó trong thực tế hoàn
cảnh lúc đó có thể bị đe dọa hoặc vi phạm [10, tr.43]
- Tính bình đẳng
Bản tuyên ngôn nhân quyền của Liên Hợp Quốc là một văn kiện quan trọng
đánh dấu sự công nhận của quyền con người trên toàn thế giới:
“Điều 1. Mọi người sinh ra tự do và bình đẳng về phẩm cách và quyền lợi, 6
lý trí và lương tri và phải đối xử với nhau trong tình bắc ái.
Điều 2. Ai cũng được hưởng những quyền tự do ghi trong bản Tuyên ngôn
này không phân biệt đối xử vì bất cứ lý do nào… hạn chế chủ quyền”
Con người khi sinh ra có thể khác nhau về chủng tộc, màu da giới tính nhưng
đó là điều hiển nhiên do vị trí địa lý, nguồn gốc… nhưng đó không phải là căn cứ
phân biệt trong việc được hưởng hay không được hưởng quyền và nghĩa vụ. Mà
nguyên tắc bình đẳng thể hiện là tất cả mọi người đều có vị thế ngang nhau trước
pháp luật và có quyền không bị phân biệt đối xử. Quyền bình đẳng thể hiện trong tất

cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, đặc biệt là lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa –
xã hội và pháp lý. Quyền và nghĩa vụ của con người không bị phân biệt bởi giới
tính, tín ngưỡng, dân tộc,… Trong cùng một đều kiện như nhau con người được
hưởng quyền và nghĩa vụ như nhau có tư cách pháp lý như nhau.
- Tính tự nhiên
Con người tiến hóa qua hàng triệu năm, và phát triển tới xã hội hiện nay là
một điều hoàn toàn tự nhiên, do đó quyền con người cũng là quyền tự nhiên và
“bẩm sinh” – là quyền vốn có của con người từ xa xưa mà nếu không được hưởng
thì chúng ta sẽ thể sống như một con người. Đây là đặc quyền, gắn liền với tư cách

10


con người, với cá nhân con ngời. Những quyền này không thể phụ thuộc và bị phụ
thuộc và phong tục tập quán hay truyền thống văn hóa, ý chí của cá nhân giai cấp
hay nhà nước nào. Vì rõ ràng là con người là sinh ra tự nhiên các chủ thể không thể
tạo ra con người do đó quyền con người cũng không thể do cá nhân hay tổ chức nào
áp đặt tước bỏ được.
1.2. Khái niệm và đặc điểm của pháp luật về bảo vệ quyền nhóm yếu thế
1.2.1. Khái niệm pháp luật bảo vệ quyền nhóm yếu thế
Pháp luật là hệ thống những qui tắc xử sự mang tính bắt buộc chung do nhà
nước ban hành hoặc thừa nhận và đảm bảo thực hiện, thể hiện ý chí của giai cấp
thống trị và là nhân tố điều chỉnh các quan hệ xã hội phát triển phù hợp với lợi ích
của giai cấp mình. Pháp luật là một bộ phận quan trọng của cấu trúc thượng tầng xã
hội. Nó do cơ sở hạ tầng quyết định nhưng lại có tác động trở lại đối với cơ sở hạ
tầng. Và với pháp luật bảo vệ quyền nhóm yếu thế có thể có những khái niệm khác
nhau tùy thuộc vào cách thức tiếp cận. Tuy nhiên theo những gì phổ biến nhất và
với cách nhìn từ góc độ lý luận nhà nước và pháp luật về quyền con người nói
chung và quyền nhóm yếu thế nói riêng thì khái niệm về quyền nhóm yếu thế có thể
được hiểu như sau:

Pháp luật về bảo vệ quyền nhóm yếu thế là tổng thể các nguyên tắc quy
phạm do Nhà nước Việt Nam ban hành hoặc thừa nhận nhằm quy định về quyền lợi
của nhóm yếu thế về các mặt của đời sống như kinh tế, chính trị, xã hội – văn hóa –
giáo dục,… về hệ thống các biện pháp tổ chức của nhà nước, của xã hội để bảo
đảm các quyền lợi của nhóm yếu thế trong đời sống hiện tại.
1.2.2. Đặc điểm pháp luật bảo vệ quyền nhóm yếu thế
Pháp luật bảo vệ quyền nhóm yếu thế là một bộ phận cấu thành lên pháp luật
của Việt Nam và trên thế giới, do đó nó có những đặc điểm chung của pháp luật nói
chung nhưng có những điểm riêng biệt, cụ thể như sau:
Thứ nhất, về nguồn pháp luật. Nguồn pháp luật có nhiều dạng như: Các
nguyên tắc chung của pháp luật, văn bản quy phạm pháp luật, điều ước quốc tế,
phong tục tập quán, án lệ hay các quyết định bản án của tòa án, quy tắc của các hiệp

11


hội nghề nghiệp. Tuy nhiên nguồn chủ yếu trong hệ thống pháp luật Việt Nam là
dạng văn bản quy phạm pháp luật thứ nhất đó là văn bản quy phạm do các cơ quan
lập pháp ban hành, thứ hai là các điều ước Quốc tế mà Việt Nam thừa nhận hiệu lực.
Việc sử dụng điều ước quốc tế trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế là hoàn toàn
phù hợp nhằm theo kịp với xu thế của thế giới. Việc áp dụng trực tiếp điều ước quốc
tế cho phép các chủ thể pháp luật trong nước sử dụng ngay các quy tắc của Điều
ước quốc tế để bảo vệ quyền và nghĩa vụ mà không cần phải đợi đến khi nội luật
hóa quy tắc đó. Hiện tại Việt Nam đã có Luật Điều ước quốc tế và tại Điều 6 luật
này cũng quy định có hai trường hợp quy định điều ước quốc tế có thể được áp
dụng trực tiếp tại Việt Nam. Trường hợp thứ nhất ở khoản 1 khi quy định của điều
ước quốc tế xung đột/khác với quy định của pháp luật Việt Nam về cùng một vấn đề
thì áp dụng quy định điều ước quốc tế. Trường hợp thứ hai là khi có quyết định cho
phép áp dụng trực tiếp của Quốc hội, Chủ tịch nước hay Chính phủ. Tại Luật Bình
đẳng giới năm 2006 quy định: “Trong trường hợp điều ước quốc tế mà Cộng hòa

xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định khác với quy định của Luật
này thì áp dụng quy định của điều ước quốc tế đó” [15, Điều 3].
Như vậy ở Việt Nam các văn bản quy phạm pháp luật và điều ước quốc tế
đều được coi là nguồn pháp luật trong hệ thống quy phạm pháp luật về bảo vệ
quyền nhóm yếu thế.
Thứ hai, pháp luật bảo vệ quyền nhóm yếu thế không nằm trong 1 văn bản
mà có trong rất nhiều văn bản luật khác nhau, với các mức độ nội dung điều chỉnh
khác nhau mà cao nhất có thể kể đến là Hiến pháp.
Hiến pháp quy định những nguyên tắc chung về quyền con người, quyền
công dân. Trong mỗi hoàn cảnh điều kiện khác nhau quyền con người nói riêng và
quyền nhóm yếu thế luôn được thể hiện phát triển và có tính kế thừa cao. Từ Hiến
pháp đầu tiên năm 1946 đến gần đây nhất là Hiến pháp 2013 luôn luôn đổi mới và
cụ thể các quyền con người, quyền và nghĩa vụ của công dân. Đặc biệt đối với Hiến
pháp 2013 thì lần đầu tiên “Quyền con người” đã thành tên gọi của Chương, thay vì
chỉ gọi là “quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân”.
Quyền của người yếu thế ngày càng được phát triển và cụ thể hóa cùng với

12


sự phát triển của xã hội trong các bản Hiến pháp, một số quyền cơ bản như: Quyền
bất khả xâm phạm về thân thế, được pháp luật bảo hộ về sức khỏe; quyền được
chăm sóc, bảo vệ và tôn trọng; quyền được làm việc học tập; quyền tự do tín
ngưỡng tôn giáo; quyền tham gia quản lý nhà nước; quyền được bảo đảm an sinh xã
hội; quyền kết hôn, ly hôn; quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí tiếp cận thông tin,
hôi họp, lập hội, biểu tình;…
Dưới Hiến pháp thì Luật và văn bản dưới Luật cũng được ban hành rất nhiều
và cụ thế và mục đích chung là cụ thể hóa quyền của nhóm yếu thế, tạo điều kiện
cho nhóm yếu thế thực hiện tốt quyền và nghĩa vụ của mình.
Văn bản luật quy định về quyền của nhóm yếu thế gần như bao trùm mọi

hoạt động của đời sống xã hội. Ví dụ: bảo vệ các quyền về chính trị, có Luật Bầu cử
đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân; bảo vệ quyền kinh tế có các luật như: Bộ
Luật dân sự, Luật Sở hữu trí tuệ, Luật đất đai; bảo vệ quyền tài sản, quan hệ hôn
nhân, gia đình, có các luật như: Luật Hôn nhân và gia đình, Luật Thừa kế, Luật
Phòng, chống bạo lực gia đình; bảo vệ an ninh, tính mạng: Bộ luật hình sự; bảo vệ
sự phát triển của trẻ em thì có luật Trẻ em,…
Có thể thấy rằng việc xây dựng hệ thống pháp luật đã phát triển cả về chiều
dọc (đáp ứng về yêu cầu trật tự pháp lý) và chiều ngang (đảm bảo tính đồng bộ giữa
các văn bản luật).
1.2.3. Vai trò của pháp luật trong bảo vệ quyền nhóm yếu thế
Bảo đảm quyền con người nói chung và nhóm yếu thế nói riêng là một quá
trình lâu dài với sự kết hợp của nhiều điều kiện khác nhau như kinh tế, chính trị,
văn hóa…. Tuy nhiên để thực sự đạt được những tiến bộ như hiện nay thì pháp luật
thực sự là một trong những điều kiện tiên quyết góp phần lớn vào sự phát triển đó.
Thứ nhất, pháp luật là phương tiện cụ thể hóa một cách chính thống phần lớn
các quyền, tự do của công dân nói chung và nhóm yếu thế nói riêng trong Hiến
pháp, trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội: từ lĩnh vực chính trị, hành chính đến
lĩnh vực dân sự, kinh tế, lao động, hôn nhân gia đình, lĩnh vực các quyền, tự do của
cá nhân. Nhiều quyền của công dân nói chung và nhóm yếu thế nói riêng chỉ có thể

13


được bảo đảm và bảo vệ khi và chỉ khi được cụ thể hóa thành các quy phạm pháp
luật. Nếu như không có sự thừa nhận của nhà nước và thông qua pháp luật thì nó
chưa trở thành quyền thực sự. Và khi đã được cụ thể hóa trong pháp luật thì quyền
con người, quyền nhóm yếu thế là quyền pháp định, là ý chí chung của toàn xã hội,
được xã hội thừa nhận và phục tùng, được Nhà nước tôn trọng và bảo vệ, không ai
có quyền xâm phạm các quyền này.
Thứ hai, pháp luật là tiền đề để con người đấu tranh và bảo vệ các quyền và

lợi ích hợp pháp của mình. Pháp luật được xem xét không chỉ với tư cách là công
cụ, phương tiện quản lý xã hội của nhà nước mà nó còn là công cụ, là cơ sở của con
người nói chung và nhóm yếu thế nói riêng trong việc bảo vệ quyền của chính họ.
Pháp luật có thể nói là một chuẩn mực của sự công bằng, vì xuất phát từ xa xưa,
pháp luật cũng hình thành nên từ đạo đức, từ nguyên tắc xã hội, được con người
công nhận do đó có thể dung là thước đo mọi người, có điều thước đo này có những
ràng buộc. Quyền con người, quyền nhóm yếu thế có thể bị xâm phạm từ các nhóm
xã hội khác hoặc cũng có thể bị chính những chủ thế được nhà nước trao quyền xâm
phạm khi thi hành công vụ. Bởi vì cơ bản trong quan hệ giữa công dân và nhà nước
thì công dân vừa là chủ nhà nước nhưng cũng là đối tượng thực hiện nghĩa vụ với
nhà nước, bị nhà nước quản lý, cho nên việc tác động qua lại và nguy cơ bị xâm
phạm quyền là điều hoàn toàn dễ hiểu. Trong mối quan hệ với các cơ quan nhà
nước, công dân là người bị quản lý và chịu sự phán quyết nên họ luôn ở vị thế bất
lợi. Trong điều kiện đó, người công dân không có vũ khí, phương tiện nào khác hữu
hiệu hơn là sử dụng pháp luật để đấu tranh tự bảo vệ lấy các quyền và lợi ích của
mình. Chỉ có pháp luật, bằng những quy phạm pháp luật chặt chẽ về chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm, nghĩa vụ của các cơ quan, tổ chức, các quyền và
nghĩa vụ của công dân, người đấu tranh chống lại các hành vi xâm hại, bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Thứ ba, vai trò của pháp luật trong việc thực hiện và bảo vệ quyền nhóm yếu
thế còn thể hiện trong mối quan hệ giữa pháp luật và các điều kiện bảo đảm khác
(chính trị, kinh tế, văn hóa …) các điều kiện trên đều phải thông qua pháp luật, thể

14


hiện dưới hình thức pháp luật mới trở thành giá trị xã hội ổn định, được hiện thực
hóa trên qui mô toàn xã hội. Chỉ có như vậy thì các điều kiện đó mới phát huy được
vai trò của mình trong việc thực hiện và bảo vệ quyền nhóm yếu thế, cụ thể như:
- Điều kiện chính trị: Đường lối chính trị của một quốc gia là nhằm xây dựng

vào bảo vệ lãnh thổ, bảo vệ độc lập dân tộc, xây dựng nền kinh tế phát triển, nền
dân chủ thực sự. Đường lối chính trị đó phải được thể chế hóa trong Hiến pháp và
pháp luật. Hiến pháp quy định chế độ chính trị, chế độ kinh tế, văn hóa xã hội, tổ
chức hoạt động của các cơ quan Nhà nước và tổ chức xã hội, quyền và nghĩa vụ cơ
bản của công dân… Đó chính là cơ sở pháp lý để xây dựng một xã hội có cơ cấu tổ
chức và chế độ chính trị hướng tới tôn trọng, bảo vệ quyền con người.
- Điều kiện kinh tế: Phát triển kinh tế tạo cơ sở vật chất là một trong những
điều kiện quan trọng đảm bảo thực hiện quyền nhóm yếu thế. Nhưng muốn phát
triển kinh tế thì đường lối chính sách, cơ chế phải được cụ thể hóa trong pháp luật.
Pháp luật sẽ tạo khuôn khổ môi trường pháp lý thuận lợi cho hoạt động sản xuất
kinh doanh dịch vụ phát huy được mọi tiềm năng, hạn chế được các mặt tiêu cực.
- Điều kiện văn hóa: Phát triển văn hóa giáo dục, nâng cao dân trí cũng phải
được thể chế hóa trong hệ thống pháp luật, bảo đảm cho con người được phát triển
tự do và toàn diện, tạo điều kiện cho mọi người được độc lập, nghiên cứu nâng cao
nhận thức về mọi mặt. Mặt khác, pháp luật có vai trò giáo dục tích cực, mạnh mẽ
đối với tất cả các thành viên trong xã hội góp phần hình thành văn hóa pháp lý ở
mọi người, giúp cho mọi người biết sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật,
biết “tự bảo vệ” các quyền và lợi ích hợp pháp của mình và biết tôn trọng các quyền
và lợi ích hợp pháp của người khác trong cộng đồng.
Thứ tư, pháp luật là công cụ vừa cứng rắn nhưng cũng vừa mềm dẻo trong
việc bảo vệ quyền con người, quyền nhóm yếu thế. Tính cứng rắn và tính mềm dẻo
thể hiện ở chỗ khi cần thiết Nhà nước sẽ dung các biện pháp cưỡng chế bằng các
hình thức với cấp độ từ mềm dẻo như giáo dục, thuyết phục bảo đảm quyền được
thực hiện hoặc cũng có thể cao hơn là tước một số quyền cơ bản tạm thời nếu như
đối tượng có khả năng gây nguy hiểm cho xã hội.

15


1.2.4. Cấu trúc pháp luật về bảo vệ quyền nhóm yếu thế

Các quyền của nhóm yếu thế nói riêng và quyền con người nói chung được
đề cập từ rất lâu, nhất là trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, và các quyền này
hiện được xác định trên cơ sở pháp luật thuộc nhiều cấp độ khác nhau tạo thành một
kim tự tháp quyền từ trên xuống dưới:
Thứ nhất về cấp độ pháp luật quốc tế: “Tuyên bố toàn cầu của Liên hợp
quốc về quyền con người” (năm 1948), “Công ước của Liên hợp quốc về xóa bỏ
toàn bộ các hình thức phân biệt chủng tộc” (năm 1963), đặc biệt là “Công ước về
xóa bỏ toàn bộ các hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ” (CEDAW) (năm 1979),
“Công ước về quyền trẻ em” (CRC) (năm 1989) [11]. Quyền của nhóm yếu thế và
cụ thể hơn nữa là quyền của nhóm người dễ bị xâm hại như trẻ em, phụ nữ, người
cao tuổi,… được thiết chế hóa thành các quy định, các mục tiêu, phương châm hành
động trong các tuyên bố và các hiệp ước quốc tế. Tại Hội nghị Thượng đỉnh Thiên
niên kỷ của Liên Hợp Quốc năm 2000, 189 quốc gia thành viên nhất trí thông qua
Tuyên bố Thiên niên kỷ và cam kết đạt được tám Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ
(MDG) vào năm 2015. Và trong mục tám mục tiêu thiên niên kỉ năm 2015 thì nhóm
yếu thế được nhắc tới 5/8 mục tiêu có đề cập đến nhóm yếu thế đó là:
+ Tất cả trẻ em học hết tiểu học
+ Phụ nữ có các cơ hội và được tôn trọng như nam giới
+ Có thêm nhiều trẻ em dưới 5 tuổi lớn lên khỏe mạnh
+ Ngày càng có ít bà mẹ tử vong khi sinh con
+ Cộng đồng toàn cầu liên hiệp và phối hợp với nhau để xây dựng một thế
giới bình đẳng và công bằng.
Thứ hai cấp độ pháp luật quốc gia:
Quyền của nhóm yếu thế được ghi nhận trong các văn bản pháp luật quốc gia
và đầu tiên phải kể đến Hiến pháp. Xuyên suốt trong các bản Hiến pháp từ năm
1946 cho tới Hiến pháp gần đây nhất là Hiến pháp 2013 đều nhắc tới quyền con
người nói chung và quyền nhóm yếu thế nói riêng, không những thế trong Hiến
pháp 2013 đã dành riêng một chương để đề cập tới. Không những thế ở Việt Nam

16



quyền của nhóm yếu thế còn được cụ thể hóa trong rất nhiều bộ luật như Luật Trẻ
em 2016, Luật người cao tuổi 2009, Luật Hôn nhân và gia đình, Luật giáo dục,…
Và ở mỗi bộ luật đều quy định rất rõ và nhất quán với Hiến pháp về việc công nhận
và bảo vệ quyền của nhóm yếu thế.
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định:
Trong trường hợp tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng mà
pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu thì trong giấy chứng nhận
quyền sở hữu phải ghi tên của cả vợ chồng [27, Điều 34].
Điều 95 Luật Đất đai năm 2013 quy định:
Chuyển quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác
gắn liền với đất của vợ hoặc của chồng thành quyền sử dụng đất chung,
quyền sở hữu tài sản chung của vợ và chồng.
Luật người cao tuổi 2009 quy định:
Người cao tuổi được bảo đảm các nhu cầu cơ bản về ăn, mặc, ở,
đi lại,… được ưu tiên sử dụng các dịch vụ theo Luật; được miễn các
khoản đóng góp cho các hoạt động xã hội, trừ trường hợp tự nguyện
đóng góp,…. [17, Điều 3, Khoản 1].
Còn riêng đối với trẻ em, xác định đây là một trong những nhóm đối tượng
được đặc biệt quan tâm của Nhà nước và xã hội do đây là tương lai của Đất nước.
Luật trẻ em 2016 dành riêng 1 mục gồm 25 điều (từ Điều 12 đến điều 36) nhằm nêu
các quyền của trẻ em và không ai được phép xâm phạm…
Thứ ba cấp độ pháp quy dưới luật: Theo như đã tìm hiểu ở trên, quyền của
nhóm yếu thế được quy định trong Hiến pháp và các bộ luật và có một điều rõ ràng
là các văn bản trên và các văn bản pháp luật quốc tế cùng chung một đặc điểm
thường đưa ra quy định chung mang tính nguyên tắc. Do đó các văn bản dưới luật là
hoàn toàn cần thiết nhằm mục đích giải thích và hướng dẫn thực hiện các quyền
nhóm yếu thế. Và điều này có thể dẫn tới nhiều khả năng có thể xảy ra tùy thuộc
vào trình độ nhận thức, thái độ, hành vi của những cơ quan, tổ chức cá nhân có

trách nhiệm thực thi pháp luật.

17


1.3. Những nhóm người yếu thế cụ thể và một số quy định pháp luật
quốc tế về quyền của nhóm người yếu thế
1.3.1. Nhóm người yếu thế là trẻ em
Hiện tại cả pháp luật quốc tế và quốc gia thì đều quy định rõ khái niệm trẻ
em, và những điều kiện để được coi là trẻ em. Theo như Điều 1 Công ước Liên hợp
quốc về quyền trẻ em năm 1989 thì “Trẻ em là những người dưới 18 tuổi”. Còn
theo pháp luật Việt Nam thì được thể hiện ngay tại Điều 1 Luật Trẻ em 2016 như
sau: “Trẻ em là người dưới 16 tuổi”.
Có thể nhận thấy giữa pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam có sự chênh
lệch về tuổi, tuy nhiên điều này không vi phạm công ước vì tại Điều 1 Công ước
Liên hợp quốc về quyền trẻ em thì cũng nêu rất rõ trừ trường hợp luật pháp áp dụng
với trẻ em đó quy định tuổi thành niên sớm hơn.
Một số đặc điểm dễ nhận thấy nhất của trẻ em chính là:
Về mặt thể chất của trẻ em phát triển còn chưa đầy đủ. Do đang trong quá
trình phát triển về thể chất nên các em cần có sự chăm sóc cần thiết từ phía gia đình
để các em có thể phát triển tốt và toàn diện hơn.
Về mặt tâm lý, các em thường có những suy nghĩ còn non nớt, nhận thức vấn
đề đôi khi còn chưa chín chắn. Chính vì vậy, các quan điểm và ý kiến của các em
thường không được lắng nghe hoặc tôn trọng.
Trẻ em thường sống phụ thuộc gia đình, cha, mẹ, các em vẫn chưa thể tự hoàn
toàn chăm sóc được cho bản thân. Bên cạnh đó, các em chưa đến độ tuổi lao động nên
chưa thể tự nuôi sống bản thân và còn phụ thuộc vào gia đình.
1.3.2. Nhóm người yếu thế là phụ nữ
Hiện nay trên thế giới chủ yếu có 2 giới tính là nam và nữ, trừ một số trường
hợp đặc biệt. Và phụ nữ là cụm từ thường được dùng để chỉ giới tính nữ. Tuy nhiên

bên cạnh đó còn sử dụng một số từ ngữ khác như đàn bà, con gái,… Như vậy nếu
xét kĩ về mặt ngữ nghĩa thì các cụm từ có sự khác nhau:
Thứ nhất, đối với cụm từ phụ nữ ta có định nghĩa như sau: “Phụ nữ chỉ một,
một nhóm hay tất cả nữ giới đã trưởng thành, hoặc cho là đã trưởng thành về mặt
xã hội. Nó cho thấy một cái nhìn thể hiện sự thiện cảm, trân trọng nhất định từ phía

18


người sử dụng. Nó đề cập đến hoặc hướng người ta đến những mặt tốt, đến những
giá trị, những đóng góp, những ảnh hưởng từ nữ giới”.
Thứ hai, đối với cụm từ đàn bà thì ta cũng có khái niệm tương tự khái niệm
phụ nữ, tuy nhiên có thể thấy được so với phụ nữ thì cụm từ đàn bà thể hiện một
cách diễn đạt không được trang trọng cho lắm, thiếu thiện cảm, tiêu cực, nhưng
cũng phải thừa nhận rằng cụm từ đàn bà cũng từng đã tồn tại trong hiến pháp Việt
Nam dưới góc độ một sự trân trọng. Đó là hiến pháp năm 1946: “Đàn bà ngang
quyền với đàn ông về mọi phương diện” [20, Điều 9].
Thứ ba, cụm từ con gái chỉ những nữ giới trẻ, thường ở độ tuổi vị thành niên,
những người đã có biểu hiện rõ ràng của giới tính nữ (nhỏ hơn nữa thì được coi là
bé gái) nhưng chưa được cho là trưởng thành.
Như vậy, không có một khái niệm cụ thể rõ ràng nào để định nghĩa phụ nữ,
cho nên dù sử dụng cụm từ nào thì cũng chỉ giới nữ nói chung, chỉ là mỗi cụm từ
được nhìn dưới một góc độ khác nhau. Tuy nhiên, nếu đòi hỏi một cách khắt khe thì
cụm từ phụ nữ ở đây đòi hỏi họ phải trưởng thành cả về mặt tâm - sinh lý, địa vị xã
hội và phải là người đã kết hôn. Thế nhưng ở khía cạnh quyền phụ nữ thì không đòi
hỏi người đó là phụ nữ mà nói về giới nữ nói chung không phân biệt tuổi tác…
Phụ nữ là nhóm đông nhất trong các nhóm xã hội dễ bị tổn thương nên vấn
đề quyền của phụ nữ thu hút sự quan tâm rất lớn của cộng đồng quốc tế. Phụ nữ
thường gặp nhiều khó khăn trong cuộc sống, về mặt thể chất, phụ nữ được coi là
phái yếu. Đối với những công việc nặng nhọc đòi hỏi có sức mạnh phụ nữ thường

khó có khả năng thực hiện. Về mặt kinh tế, ở thành thị, phụ nữ phần lớn ban ngày
họ đi làm các công việc và tự tạo thu nhập cho bản thân nhưng đối với một số công
việc thì khả năng cạnh tranh của họ không bằng nam giới, ở nông thôn, do đa số
phụ nữ dành nhiều thời gian cho việc chăm sóc gia đình hoặc chăm sóc, nuôi dạy
con cái nên họ không có công việc để tạo thu nhập cho bản thân, một số ít khác
cũng tham gia làm thêm một số công việc để có thêm thu nhập góp phần làm tăng
thu nhập trong gia đình [7, tr.9].

19


×