Tải bản đầy đủ (.pdf) (127 trang)

Hệ thống chính trị cấp cơ sở ở huyện mai sơn, tỉnh sơn la thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.34 MB, 127 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
---------------------------------

NGUYỄN XUÂN PHÚC

HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ CẤP CƠ SỞ
Ở HUYỆN MAI SƠN, TỈNH SƠN LA:
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH TRỊ HỌC

Hà Nội, 2017


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
---------------------------------

NGUYỄN XUÂN PHÚC

HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ CẤP CƠ SỞ
Ở HUYỆN MAI SƠN, TỈNH SƠN LA:
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP

LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Chính trị học
Mã số: 60 31 02 01

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Anh Cƣờng


Hà Nội, 2017


LỜI CẢM ƠN
Luận văn thạc sĩ chuyên ngành chính trị học với đề tài “Hệ thống
chính trị cấp cơ sở ở huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La: Thực trạng và giải pháp” là
kết quả của quá trình cố gắng không ngừng của bản thân và được sự giúp đỡ, động
viên khích lệ của các thầy, bạn bè và người thân. Qua trang viết này xin gửi lời cảm
ơn tới những người đã giúp đỡ tôi trong thời gian học tập - nghiên cứu khoa học vừa
qua.
Tôi xin tỏ lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc đối với TS. Nguyễn Anh
Cường đã trực tiếp tận tình hướng dẫn cũng như cung cấp tài liệu thông tin khoa
học cần thiết cho luận văn này.
Xin chân thành cảm ơn Lãnh đạo trường Đại học Khoa học xã hội và
nhân văn - Đại học Quốc gia Hà Nội, khoa Khoa học chính trị và Bộ môn Chính
trị học đã tạo điều kiện cho tôi hoàn thành tốt công việc nghiên cứu khoa học của
mình.
Cuối cùng tôi xin chân thành cảm ơn bạn bè, các đơn vị công tác đã giúp đỡ
tôi trong quá trình học tập và thực hiện Luận văn.

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Nguyễn Xuân Phúc


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 4
1. Tính cấp thiết của đề tài ............................................................................. 4
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài ............................................... 6
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn ........................................................ 12

3.1. Mục đích ................................................................................................... 12
3.2. Nhiệm vụ ................................................................................................... 12
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn ..................................... 12
4.1. Đối tượng nghiên cứu .............................................................................. 12
4.2. Phạm vi nghiên cứu .................................................................................. 13
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn ...................... 13
5.1. Cơ sở lý luận ............................................................................................ 13
5.2. Phương pháp nghiên cứu ......................................................................... 13
6. Đóng góp về khoa học của luận văn ........................................................ 13
7. Kết cấu của luận văn ................................................................................. 13
Chƣơng 1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ VÀ HỆ
THỐNG CHÍNH TRỊ CẤP CƠ SỞ Ở HUYỆN MAI SƠN ...................... 14
1.1. Lý luận chung về hệ thống chính trị và hệ thống chính trị cấp cơ sở14
1.1.1. Hệ thống chính trị và hệ thống chính trị ở Việt Nam hiện nay ............. 14
1.1.2. Hệ thống chính trị cấp cơ sở ở Việt Nam hiện nay ............................... 21
1.2. Các nhân tố tác động đến tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị
cấp cơ sở ở huyện Mai Sơn ........................................................................... 30

1


1.2.1. Tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị cấp cơ sở ở huyện Mai
Sơn .................................................................................................................. 31
1.2.2. Các nhân tố tác động đến tổ chức và hoạt động của hệ thống chính
trị cấp cơ sở ở huyện Mai Sơn ....................................................................... 31
1.2.2.1. Điều kiện tự nhiên .............................................................................. 31
1.2.2.2. Điều kiện kinh tế - văn hóa, xã hội .................................................... 34
Tiểu kết chương 1 ............................................................................................ 36
Chƣơng 2. THỰC TRẠNG TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA HỆ
THỐNG CHÍNH TRỊ CẤP CƠ SỞ Ở HUYỆN MAI SƠN ...................... 37

2.1. Tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị cấp xã ở huyện Mai Sơn
hiện nay .......................................................................................................... 37
2.1.1. Tổ chức và hoạt động của Đảng bộ xã ................................................. 37
2.1.2. Tổ chức và hoạt động của chính quyền xã ............................................ 43
2.1.3. Tổ chức và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị xã hội ............................................................................................................... 50
2.2. Một số nhận xét về thực trạng tổ chức và hoạt động của hệ thống
chính trị cấp cơ sở ở huyện Mai Sơn ........................................................... 66
Tiểu kết chương 2 ............................................................................................ 68
Chƣơng 3. PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO
HIỆU QUẢ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA HỆ THỐNG CHÍNH
TRỊ CẤP CƠ SỞ Ở HUYỆN MAI SƠN ..................................................... 70
3.1. Những phƣơng hƣớng nhằm nâng cao hiệu quả tổ chức và hoạt động
hệ thống chính trị cấp cơ sở ......................................................................... 70

2


3.2. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả tổ chức và hoạt động của
hệ thống chính trị cấp cơ sở ở huyện Mai Sơn ........................................... 72
3.2.1. Củng cố, nâng cao chất lượng công tác cán bộ.................................... 72
3.2.2. Nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng bộ xã ...................................... 75
3.2.3. Nâng cao vai trò, năng lực hoạt động của chính quyền cơ sở ............. 77
3.2.4. Nâng cao vai trò và trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức
đoàn thể chính trị - xã hội ............................................................................... 81
3.2.5. Xây dựng tốt hơn nữa mối quan hệ hữu cơ giữa các thành tố của hệ
thống chính trị cơ sở ở huyện Mai Sơn ........................................................... 88
3.2.6. Tăng cường việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở để xây dựng và
hoàn thiện hệ thống chính trị cơ sở................................................................. 89
Tiểu kết chương 3 ............................................................................................ 91
KẾT LUẬN .................................................................................................... 93

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 96

3


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong nghiên cứu về hệ thống chính trị, nghiên cứu về hệ thống chính cấp cơ
sở đóng một vai trò quan trọng, bởi lẽ đây là tầng cấp thấp nhất, nhưng lại là nơi
trực tiếp quan hệ, tiếp xúc với dân. Hệ thống chính trị cấp cơ sở cũng chính là nơi
nhạy bén nhất, đóng vai trò thường trực trong việc tiếp nhận các phản hồi của xã hội
và công dân đối với các quyết định, chính sách, pháp luật nói riêng và đối với toàn
bộ chế độ chính trị nói chung. Do vậy, có thể nói năng lực của hệ thống chính trị
cấp cơ sở là nhân tố quyết định đến sự ổn định và phát triển ở địa phương. Do tầm
quan trọng như vậy nên nghiên cứu về hệ thống chính trị cấp cơ sở luôn luôn là một
vấn đề quan trọng và cấp thiết trong nghiên cứu về hệ thống chính trị. Trong quá
trình đổi mới và hội nhập quốc tế, vấn đề đổi mới hệ thống chính trị, nâng cao năng
lực của hệ thống chính trị từ trung ương tới cơ sở đang ngày càng được đặt ra như
một đòi hỏi khách quan, cấp bách, nóng bỏng.
Đặc biệt là đối với hệ thống chính trị cấp cơ sở, yêu cầu này càng trở nên cấp
thiết hơn, bởi lẽ sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế
và phát triển bền vững, vượt qua khoảng cách tụt hậu, chấn hưng đất nước, bảo vệ,
củng cố khối đại đoàn kết dân tộc và chủ quyền quốc gia phải thực sự là sự nghiệp
to lớn của toàn dân, được toàn thể dân tộc ủng hộ, tham gia tích cực trên cơ sở sự
đồng thuận vững chắc nhất.
Thời gian quan, với sự quan tâm, chỉ đạo của Đảng và Nhà nước, hệ thống
chính trị cấp cơ sở ở trong nước đã từng bước được kiện toàn, đạt hiệu quả tốt hơn
trong tổ chức và hoạt động. Tuy nhiên, hệ thống chính trị cấp cơ sở vẫn đang là nơi
tồn tại nhiều vấn đề nhất của hệ thống chính trị của Việt Nam. Thực tiễn đã ghi
nhận trong những năm vừa qua về cơ bản tình hình quốc phòng và an ninh, trật tự

xã hội được đảm bảo, nhưng vẫn còn tình trạng xung đột trong nội bộ nhân dân và
khiếu kiện đông người. Tình hình an ninh, trật tự xã hội ở nhiều khu vực cũng nảy
sinh nhiều diễn biến phức tạp do tệ nạn và tội phạm gia tăng. Ở nhiều nơi, năng lực
của hệ thống chính trị cơ sở bị giảm sút, quyền làm chủ của nhân dân bị vi phạm.

4


Tình hình như vậy đã tạo ra những khoảng trống trong quản lý xã hội, không gian
để các loại tội phạm, tệ nạn phát triển, kể cả sự thâm nhập của những lực lượng
phản động.
Mai Sơn là một huyện miền núi, biên giới thuộc tỉnh Sơn La, tổng diện tích
tự nhiên là 1410,3 km2, với 21 xã và 1 thị trấn. Địa bàn huyện cũng là nơi sinh sống
và cư trú của 6 dân tộc, trong đó đồng bào dân tộc thiểu số chiếm gần 70 % dân số,
nhìn chung các dân tộc anh em cùng nhau chung sống hòa thuận, đoàn kết, giúp đỡ
nhau cùng phát triển.
Với những đặc điểm trên, đòi hỏi các cấp ủy đảng, chính quyền huyện cần
quan tâm đến chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của toàn huyện, đặc biệt là ở các
xã vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới. Với biện
pháp là tăng cường khai thác mọi tiềm năng, thế mạnh của các xã để thực hiện xóa
đói, giảm nghèo, đẩy lui lạc hậu, xây dựng cuộc sống văn minh, từng bước nâng cao
đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân, đảm bảo an ninh quốc phòng, góp phần
vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội của đất nước.
Để thực hiện được nhiệm vụ đó, giải pháp đầu tiên có ý nghĩa quan trọng
nhất là cần phải kiện toàn, nâng cao được hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị
cấp cơ sở ở huyện. Trong những năm qua, với sự năng động, sáng tạo và tích cực
trong hoạt động, hệ thống chính trị cấp cơ sở trong huyện đã có nhiều chuyển biến
tích cực theo hướng gần dân trên nhiều lĩnh vực; phương thức lãnh đạo, chỉ đạo của
cấp ủy được đổi mới; năng lực điều hành và quản lý của chính quyền cấp xã có
những tiến bộ, hiệu quả đạt được được nâng lên; hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và

các tổ chức chính trị - xã hội tiếp tục được đổi mới về nội dung và phương thức,
bảm đảm thiết thực và hiệu quả hơn; bộ mặt của huyện có nhiều biến đổi to lớn; đời
sống vật chất và tinh thần của nhân dân được nâng cao; quyền làm chủ của nhân
dân trên tất cả các lĩnh vực ngày càng được phát huy; tạo ra sự đồng thuận xã hội,
ổn định chính trị, kinh tế phát triển.
Tuy nhiên, thực tế cho thấy trong quá trình phát triển, hoạt động của hệ
thống chính trị cấp cơ sở ở huyện Mai Sơn đặc biệt là tại những xã vùng sâu, vùng

5


xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số vẫn đang đứng trước những khó khăn, thách
thức lớn: hệ thống chính trị chưa ổn định; nhiều xã không xây dựng được cơ chế
phối hợp hoạt động giữa các tổ chức trong hệ thống chính trị khiến cho chức năng,
nhiệm vụ giữa các tổ chức chưa được xác định rành mạch, trách nhiệm không rõ
ràng dẫn đến tình trạng các tổ chức chưa phát huy được hết vai trò, chức năng,
nhiệm vụ của mình; nội dung và phương thức hoạt động của các tổ chức còn chậm
đổi mới, chưa được cụ thể hóa sát với đặc điểm tình hình của mỗi địa phương; đội
ngũ cán bộ xã ít được quan tâm đào tạo, bồi dưỡng; tình trạng quan liêu, tham
nhũng, mất đoàn kết nội bộ vẫn tồn tại… làm cho đời sống nhân dân còn gặp nhiều
khó khăn. Trong khi đó, các thế lực thù địch tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chiến lược
“Diễn biến hòa bình”, “Tự diễn biến”, “Tự chuyển hóa”, triệt để lợi dụng các vấn đề
dân tộc, tôn giáo, những khó khăn trong đời sống của đồng bào dân tộc và những
hạn chế, yếu kém của hệ thống chính trị cấp cơ sở để nói xấu Đảng, Nhà nước nhằm
làm mất lòng tin của đồng bào vào đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách và
pháp luật của Nhà nước.
Với thực trạng như trên, để huyện Mai Sơn tiếp tục phát triển với tốc độ cao
và bền vững thì việc nghiên cứu nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của hệ
thống chính trị cơ sở là một vấn đề cấp thiết. Vì vậy, tôi chọn đề tài “Hệ thống
chính trị cấp cơ sở ở huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La: Thực trạng và giải pháp” làm đề

tài luận văn thạc sĩ chuyên ngành Chính trị học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Xuất phát từ nhu cầu đổi mới lĩnh vực chính trị của xã hội nói riêng, nhu cầu
đổi mới toàn diện đất nước nói chung, từ Nghị quyết Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp
hành Trung ương Đảng khóa VI, phạm trù “hệ thống chính trị” mới chính thức được
sử dụng. Trong những văn kiện và sách báo chính trị ở trong nước gần đây, các
phạm trù “hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa”, “hệ thống chính trị trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội”, “hệ thống chính trị cơ sở” cũng được sử dụng phổ
biến rộng rãi… Có thể nói, khoa học chính trị là một ngành khá non trẻ, chỉ thực sự
được giới thiệu, ra đời từ khi đổi mới. Nhưng đến nay đã có khá nhiều công trình

6


nghiên cứu công phu, nhất là một số đề tài khoa học cấp Nhà nước, cấp Bộ được tổ
chức triển khai nhằm phân tích, lý giải về lý luận cũng như thực tiễn xây dựng, đổi
mới, củng cố, hoàn thiện hệ thống chính trị Việt Nam đáp ứng yêu cầu có ý nghĩa
và tầm quan trọng đặc biệt là ổn định và phát triển đất nước trong thời kỳ mới.
Điểm một số công trình như:
Thứ nhất, nhóm những công trình nêu một cách khái quát thực trạng, những
đặc trưng, quan điểm cơ bản về xây dựng hệ thống chính trị ở nước ta trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bao gồm:
Chương trình KX.05 (1999) về “Hệ thống chính trị trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội ở nước ta” do giáo sư Nguyễn Đức Bình chủ nhiệm chương trình.
Đề tài cấp bộ năm 1999 của phó giáo sư Nguyễn Quốc Phẩm “Đổi mới tổ
chức và hoạt động hệ thống chính trị nhằm thực hiện tốt quy chế dân chủ cơ sở tại
các vùng nông thôn miền núi phía Bắc nước ta hiện nay”. Đề tài đưa ra thực trạng tổ
chức và hoạt động của hệ thống chính trị cấp cơ sở ở nông thôn miền núi, vùng dân
tộc thiểu số các tỉnh phía bắc trước yêu cầu thực hiện quy chế dân chủ cơ sở; ngoài
ra, đề tài còn chỉ ra những phương hướng cơ bản và giải pháp chủ yếu nhằm đổi

mới tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị nhằm thực hiện tốt
quy chế dân chủ cơ sở vùng nông thôn miền núi vùng dân tộc thiểu số các tỉnh phía
bắc nước ta hiện nay.
Đề tài “Nghiên cứu một số vấn đề nhằm củng cố và tăng cường hệ thống
chính trị ở cơ sở trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay” do giáo sư Hoàng Chí
Bảo chủ nhiệm.
Công trình “Hệ thống chính trị cơ sở - đặc điểm, xu hướng và giải pháp” của
tiến sĩ Vũ Hoàng Công (2002). Công trình đã chỉ ra quá trình hoàn thiện hệ thống
chính trị cơ sở là quá trình liên tục và đặt trong bối cảnh của đổi mới hệ thống chính
trị nói chung ở Việt Nam. Những nguyên tắc, yêu cầu, nội dung phương hướng của
đổi mới hệ thống chính trị cấp vĩ mô cũng bị chi phối quá trình đổi mới hệ thống
chính trị cơ sở. Tuy nhiên không chỉ bị lệ thuộc một chiều, mà là từ đặc điểm của
mình, đổi mới hệ thống chính trị cơ sở cũng có thể tác động ngược trở lại cấp vĩ mô.

7


Qua việc giải quyết những vấn đề mà hệ thống chính trị cơ sở đặt ra, có thể hiểu rõ
thêm những vấn đề của đổi mới hệ thống chính trị cấp vĩ mô.
Công trình “Hệ thống chính trị cơ sở - thực trạng và một số giải pháp đổi
mới” do tiến sĩ Chu Văn Thành làm chủ biên (2004). Hệ thống chính trị cơ sở xã,
phường, thị trấn là một bộ phận quan trọng trong toàn bộ cấu trúc hệ thống chính trị
của Việt Nam. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, sau gần 20 năm tiến hành đổi mới, tổ
chức và hoạt động của hệ thống chính trị cơ sở đã có nhiều tiến bộ. Tuy nhiên, so
với yêu cầu của công cuộc đổi mới toàn diện và cải cách nền hành chính nhà nước,
thì tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị cơ sở còn bộc lộ nhiều yếu kém, bất
cập trong công tác lãnh đạo, quản lý, tổ chức thực hiện và vận động quần chúng
trong việc thực hiện đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước.
Thông qua kết quả nghiên cứu, các tác giả đã đưa ra được thực trạng, xu hướng vận
động của hệ thống chính trị cơ sở trong hiện tại và tương lai.

Công trình “Hệ thống chính trị ở cơ sở nông thôn nước ta hiện nay” do giáo
sư Hoàng Chí Bảo chủ biên được Nhà xuất bản Lý luận chính trị phát hành năm
2005, đã góp phần làm sáng tỏ và đưa Nghị quyết Hội nghị trung ương 5 khóa IX về
“Đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị cơ sở xã, phường, thị trấn” vào
cuộc sống. Lần đầu tiên, vấn đề hệ thống chính trị ở cơ sở nông thôn được nghiên
cứu với tính chất và quy mô to lớn, điều đó cho thấy tính cấp thiết và tầm quan
trọng cả về lý luận và thực tiễn, cả trước mắt và lâu dài.
Đề tài: “Các quan điểm và nguyên tắc đổi mới hệ thống chính trị ở nước ta
giai đoạn 2005-2020” do phó giáo sư Trần Đình Hoan làm chủ nhiệm. Dựa trên cơ
sở tổng kết lý luận và thực tiễn 20 năm đổi mới đất nước, đề tài bước đầu phân tích
và đánh giá tương quan giữa cải cách kinh tế và đổi mới hệ thống chính trị ở nước
ta trong giai đoạn vừa qua; phân tích sự cần thiết khách quan phải tiếp tục đổi mới,
hoàn thiện hệ thống chính trị nước ta trong giai đoạn phát triển tiếp theo của đất
nước; xác định rõ các mục tiêu cơ bản hướng tới, bảo đảm định hướng đúng đắn
cho quá trình đổi mới, hoàn thiện hệ thống chính trị; xây dựng và xác định được
một hệ thống các quan điểm và nguyên tắc đổi mới hệ thống chính trị nước ta trong

8


tình hình mới; xác định phương hướng, giải pháp chủ yếu để tiếp tục đổi mới, hoàn
thiện hệ thống chính trị ở nước ta trong giai đoạn phát triển tiếp theo của đất nước.
Làm rõ thêm quan điểm của Đại hội IX: xem công tác xây dựng chỉnh đốn Đảng là
nhiệm vụ then chốt; xác định những phương hướng cơ bản nhằm xây dựng và kiện
toàn bộ máy nhà nước.
Công trình nghiên cứu của phó giáo sư Nguyễn Quốc Phẩm (chủ biên), “Hệ
thống chính trị cấp cơ sở và dân chủ hóa đời sống xã hội nông thôn miền núi, vùng
dân tộc thiểu số các tỉnh miền núi phía Bắc nước ta” (Nhà xuất bản Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 2000). Công trình đã phân tích thực trạng hệ thống chính trị cấp cơ sở
vùng nông thôn miền núi, vùng dân tộc thiểu số thuộc các tỉnh miền núi phía Bắc

nước ta. Công trình đã đánh giá các thành tựu, hạn chế và chỉ ta những nguyên nhân
của nó; đồng thời đề xuất những phương hướng, giải pháp nhằm đổi mới hệ thống
chính trị khu vực này.
Thứ hai, nhóm các đề tài nghiên cứu một cách cơ bản về hệ thống chính trị,
về cán bộ lãnh đạo, quản lý, thực trạng hệ thống chính trị và đội ngũ cán bộ lãnh
đạo các cấp; giải pháp tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng hệ thống chính trị và
đội ngũ cán bộ lãnh đạo các cấp nói chung và cơ sở nói riêng, bao gồm:
Đề tài “Mẫu hình và con đường hình thành cán bộ lãnh đạo chính trị chủ chốt
cấp cơ sở” do giáo sư Đỗ Nguyên Phương chủ nhiệm đề tài.
Đề tài khoa học cấp Nhà nước KX.03.02 “Xây dựng hệ thống chính trị và đội
ngũ cán bộ ở cơ sở” do phó giáo sư Vũ Hiền làm chủ nhiệm.
Đề tài khoa học cấp bộ “Đổi mới và nâng cao chất lượng công tác đào tạo
bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo quản lý trong hệ thống chính trị và trung tâm bồi dưỡng
chính trị hiện nay” (2001) do Phạm Văn Thọ làm chủ nhiệm.
Đề tài khoa học cấp bộ “Luận cứ khoa học cho việc nâng cao chất lượng đội
ngũ cán bộ trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” (2002 –
2003) do Nguyễn Đức Ái làm chủ nhiệm.
Đề tài khoa học cấp Bộ do Phân viện Hà Nội – Học viện Chính trị Quốc gia
Hồ Chí Minh chủ trì “Nâng cao năng lực tổ chức hoạt động thực tiễn đội ngũ cán bộ

9


chủ chốt cấp huyện biên giới phía Bắc nước ta trong tình hình hiện nay” (2001) của
nhóm tác giả, trong đó, Lê Thị Phương Thảo làm chủ nhiệm. Đề tài đánh giá năng
lực tổ chức hoạt động thực tiễn của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện biên giới
phía bắc, từ đó đề xuất một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao năng lực tổ
chức hoạt động thực tiễn đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện biên giới phía Bắc
nước ta trong tình hình hiện nay.
Thứ ba, nhóm những công trình nghiên cứu về vấn đề quyền làm chủ của

nhân dân lao động ta trong quá trình đổi mới hệ thống chính trị, từ đó đưa ra những
biện pháp, giải pháp để phát huy dân chủ trong điều kiện mới, bao gồm:
Công trình của giáo sư Phạm Ngọc Quang, “Tiếp tục đổi mới hệ thống chính
trị nhằm phát huy hơn nữa quyền làm chủ của nhân dân lao động” được đăng trên
Tạp chí Triết học, số 3 năm 1996.
Luận văn thạc sĩ khoa học chính trị “Nhân dân lao động thực thi quyền lực
chính trị thông qua cơ quan dân cử ở Việt Nam hiện nay” (1998) của Nguyễn Viết
Bé. Luận văn đã làm rõ thêm về hoạt động của cơ quan dân cử ở Việt Nam trong
thời kỳ đổi mới xây dựng chính quyền nhân dân, đưa ra những giải pháp có cơ sở lý
luận và thực tiễn để nâng cao hiệu lực cơ quan dân cử.
Luận văn thạc sĩ khoa học chính trị “Quyền lực chính trị của nhân dân lao
động ở nước ta hiện nay; thực trạng và giải pháp” (1998) của Lê Duy Thông. Luận
văn nghiên cứu về phạm trù quyền lực, nội dung quyền lực chính trị của nhân dân
lao động và sự cần thiết phải được tăng cường nó. Bước đầu xây dựng một số giải
pháp để tăng cường quyền lực chính trị của nhân dân lao động ở Việt Nam hiện nay.
Công trình “Hệ thống chính trị cấp cơ sở với việc giải quyết khiếu nại, tố cáo
của công dân hiện nay” của tiến sĩ Đỗ Thị Thạch - Phạm Thành Nam (2006). Công
trình này phân tích làm rõ vai trò quan trọng của hệ thống chính trị cấp cơ sở đối
với việc giải quyết những khiếu nại, tố cáo của người dân trong bối cảnh đổi mới
hiện nay.
Hệ thống chính trị cơ sở là vấn đề hết sức quan trọng, nhạy cảm và cũng rất
sôi động, luôn xuất hiện những hiện tượng phức tạp trong đời sống chính trị - xã

10


hội. Vì vậy, các tác giả rất cố gắng trong quá trình biên soạn, đã nghiên cứu nhiều
tư liệu, đặc biệt là tổng hợp phân tích kết quả dự án điều tra thực trạng hệ thống
chính trị cơ sở, thấy được thực trạng, xu hướng vận động của hệ thống chính trị cơ
sở trong hiện tại và tương lai.

Những kết quả đã đạt được trong nghiên cứu
Thứ nhất, qua nhiều cách tiếp cận và góc độ khác nhau, với những phương
pháp và phạm vi nghiên cứu cụ thể, các nhà nghiên cứu đã đưa ra những định nghĩa
về hệ thống chính trị theo nghĩa rộng hoặc nghĩa hẹp. Từ đó, có thể tổng hợp, phân
tích, khái quát để đưa ra các định nghĩa, khái niệm khác nhau về hệ thống chính trị,
có thể rút ra được nội hàm cơ bản và các đặc điểm cơ bản của hệ thống chính trị.
Thứ hai, bằng việc sử dụng các luận cứ khoa học vào quá trình điều tra,
nghiên cứu thực tiễn, các công trình đã phân tích thực trạng năng lực và hiệu quả
hoạt động của hệ thống chính trị Việt Nam nói chung và hệ thống chính trị cơ sở nói
riêng. Ngoài ra, với việc chỉ ra những thành tựu và hạn chế, những ưu điểm và
khuyết điểm, các công trình còn luận giải những nguyên nhân sâu xa của nó, và qua
đó, đưa ra các khuyến nghị, đề xuất phương hướng cơ bản và các nhóm giải pháp cụ
thể để đổi mới và hoàn thiện hệ thống chính trị Việt Nam.
Thứ ba, một trong những nội dung quan trọng khi nghiên cứu về năng lực
của hệ thống chính trị cơ sở là vấn đề con người, cán bộ. Đội ngũ cán bộ có vai trò,
vị trí quan trọng trong việc là cầu nối giữa Đảng với nhân dân, giữa công dân với
chính quyền nhà nước.
Thứ tư, mỗi địa phương, vùng miền đều có những đặc điểm riêng nên cùng
với việc nghiên cứu về hệ thống chính trị nói chung, những nghiên cứu về hệ thống
chính trị cơ sở ngày càng được quan tâm. Từ việc nghiên cứu các đặc thù về địa
chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội, tôn giáo, tín ngưỡng, tập quán sinh hoạt, các
nghiên cứu đã góp phần đưa ra những nhận thức đa chiều, toàn diện và cập nhật về
thực trạng hoạt động và năng lực, hiệu quả của hệ thống chính trị cơ sở ở các địa
phương, trong đó có địa bàn trọng yếu vùng Tây Bắc.
Những khoảng trống chưa được làm rõ và sâu sắc của các công trình

11


Mặc dù có nhiều công trình nghiên cứu về hệ thống chính trị cấp cơ sở,

nhưng chưa có nhiều công trình nghiên cứu chuyên sâu về thực trạng hoạt động và
tổ chức cũng như giải pháp nhằm nâng cao năng lực của hệ thống chính trị cấp cơ
sở tại địa bàn trọng yếu vùng Tây Bắc.
Như vậy, nghiên cứu về Hệ thống chính trị nói chung và Hệ thống chính trị
cấp cơ sở nói riêng đã được rất nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu. Tuy nhiên, chưa
có công trình khoa học nào đi sâu nghiên cứu về thực trạng tổ chức và hoạt động
của hệ thống chính trị cơ sở ở huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La một cách có hệ thống
nhằm tìm ra những giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị cơ
sở nơi đây. Vì vậy, tôi đã chọn đề tài này trong khuôn khổ luận văn thạc sĩ chuyên
ngành Chính trị học của mình với hy vọng trên cơ sở luận giải cơ sở lý luận và thực
tiễn, nhằm đề xuất một số giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ
thống chính trị cơ sở ở huyện Mai Sơn nói riêng và tỉnh Sơn La nói chung.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích
Trên cơ sở phân tích, đánh giá thực trạng về hệ thống chính trị cơ sở ở huyện
Mai Sơn, luận văn đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm góp phần nâng cao hiệu
quả hoạt động của hệ thống chính trị cấp cơ sở ở huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La.
3.2. Nhiệm vụ
- Nghiên cứu và làm rõ thêm một số vấn đề lý luận về hệ thống chính trị nói
chung và hệ thống chính trị cơ sở nói riêng.
- Nghiên cứu, đánh giá thực trạng (thành tựu, hạn chế) về tổ chức, hoạt động
của hệ thống chính trị cơ sở ở huyện Mai Sơn.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả tổ chức và hoạt động của
hệ thống chính trị cơ sở ở huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
- Luận văn tập trung nghiên cứu về tổ chức và hoạt động của hệ thống chính
trị cấp cơ sở ở huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La.

12



4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn đi sâu nghiên cứu thực trạng hoạt động và tổ chức của hệ thống
chính trị ở các xã của huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La giai đoạn 2016 - 2017. Số liệu để
phân tích, đánh giá dựa trên kết quả khảo sát của tác giả tại 8 xã (trong tổng số 21
xã của huyện Mai Sơn) cụ thể các xã: Chiềng Lương, Cò Nòi, Hát Lót, Chiềng
Sung, Chiềng Mung, Nà Bó, Chiềng Chung, Mường Chanh.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn dựa trên quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về hệ thống chính trị và hệ thống
chính trị cơ sở. Ngoài ra, luận văn có kế thừa kết quả nghiên cứu của một số công
trình khoa học đã được công bố trong thời gian qua.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp luận chung được vận dụng nhất quán trong quá trình nghiên
cứu là phương pháp luận duy vật biện chứng, duy vật lịch sử và phương pháp luận
chính trị học. Luận văn kết hợp giữa phương pháp logic và lịch sử, phân tích và
tổng hợp, khảo sát tổng kết thực tiễn. Đặc biệt, luận văn sử dụng phương pháp điều
tra xã hội học và thăm dò dư luận xã hội tại 8 xã của huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La.
6. Đóng góp về khoa học của luận văn
- Luận văn góp phần làm rõ thực trạng hệ thống chính trị cấp cơ sở ở huyện
Mai Sơn.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống
chính trị cơ sở ở huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La.
- Kết quả của luận văn có thể sử dụng để làm tư liệu cho việc nghiên cứu
những vấn đề có liên quan về hệ thống chính trị và hệ thống chính trị cơ sở.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận
văn gồm 3 chương, 6 tiết.


13


Chƣơng 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ
VÀ HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ CẤP CƠ SỞ Ở HUYỆN MAI SƠN
1.1. Lý luận chung về hệ thống chính trị và hệ thống chính trị cấp cơ sở
1.1.1. Hệ thống chính trị và hệ thống chính trị ở Việt Nam hiện nay
1.1.1.1. Hệ thống chính trị
Thuật ngữ “hệ thống chính trị” đã ra đời từ rất sớm trong lịch sử, khi tham
gia hoạt động chính trị của mình, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin
chưa sử dụng thuật ngữ “hệ thống chính trị” theo cách hiểu hiện nay. Tuy nhiên,
trong quá trình nghiên cứu về thiết chế chính trị và cách thức tổ chức của một xã
hội, C.Mác và Ph.Ăngghen đã tiếp cận khái niệm hệ thống chính trị như một chế độ
chính trị theo tính hệ thống của nó và sử dụng những thuật ngữ tương đương như:
“hình thức chính trị” [12, tr.16], “thiết chế chính trị”, “thể chế pháp luật và chính
trị” [11, tr.62], “cơ cấu chính quyền” [11, tr.349], “thể chế nhà nước”, “kết cấu
chính trị của xã hội”…
Trên cơ sở những tư tưởng về hệ thống chính trị của C.Mác và Ph.Ăngghen
để lại, V.I.Lênin tiếp tục hoàn thiện khái niệm hệ thống chính trị. Trên thực tế,
Lênin cũng chưa dùng khái niệm “hệ thống chính trị”, nhưng khi nghiên cứu về
thiết chế chính trị của xã hội ông thường sử dụng khái niệm “chuyên chính vô sản”,
khái niệm này có nhắc đến: Đảng Cộng sản của giai cấp công nhân, Nhà nước của
giai cấp công nhân, các tổ chức quần chúng. Trong đó Đảng Cộng sản giữ vai trò
lãnh đạo nhà nước và các tổ chức quần chúng.
Những thuật ngữ của C.Mác, Ph.Ăngghen đưa ra, cùng với thuật ngữ
“chuyên chính vô sản” của V.I.Lênin, khi xét về mặt nội hàm, chúng có những nét
tương đồng, thể hiện mối liên hệ chặt chẽ với thuật ngữ hệ thống chính trị hiện đại.
Đối với khoa học chính trị đương đại, hệ thống chính trị là một phạm trù rất

quan trọng, bởi vì nó tổng hợp những vấn đề của thực tiễn chính trị, phản ánh đặc
trưng của những quan hệ quyền lực chính trị cũng như các bộ phận, các nhân tố
tham gia vào các quá trình, quy trình chính trị trong thể chế chính trị dân chủ hiện

14


đại (dân chủ xã hội chủ nghĩa, dân chủ tư bản chủ nghĩa). Liên quan đến vấn đề này
có nhiều quan niệm và cách tiếp cận khác nhau:
Ở nhiều nước trên thế giới, trong lý luận về chính trị học, khi đề cập đến hệ
thống chính trị thường có hai cách tiếp cận cơ bản. Thứ nhất, cách tiếp cận thể chế:
coi hệ thống chính trị là tập hợp các thể chế chính trị (gồm các tổ chức nhà nước và
các tổ chức chính trị - xã hội) và những mối quan hệ qua lại giữa chúng. Thứ hai,
cách tiếp cận hệ thống: coi hệ thống chính trị không chỉ bao gồm cấu trúc thể chế
và các quan hệ giữa chúng, mà còn là những chuẩn mực chính trị, vai trò chính trị,
hành vi chính trị.
Ở Việt Nam, khái niệm “hệ thống chính trị” được Đảng Cộng sản Việt Nam
chính thức sử dụng từ Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương khóa VI (31989) để thay thế cho khái niệm “hệ thống chuyên chính vô sản” được sử dụng
trước đây. Theo đó, hệ thống chính trị trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở
nước ta là một chỉnh thể bao gồm Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam cùng với các tổ chức chính trị - xã hội hợp pháp, hoạt động
theo một cơ chế nhất định nhằm từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa, bảo đảm mọi quyền lực thuộc về nhân dân và thực hiện mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh. Từ đó cho đến nay đã xuất nhiều
công trình nghiên cứu, đề tài khoa học đưa ra các quan điểm về hệ thống chính trị,
hoặc những khía cạnh khác nhau của hệ thống chính trị. Có thể phân thành một số
nhóm quan điểm chính sau đây:
Thứ nhất là nhóm đưa ra những tổng quát chung nhất về hệ thống chính trị,
“xem hệ thống chính trị chỉ bao gồm những tổ chức chính trị - xã hội mang bản chất
của giai cấp cầm quyền, hoặc phục vụ cho quyền lực chính trị của giai cấp đó. Với

cách hiểu như vậy “hệ thống chính trị” chỉ là cách gọi khác của phạm trù “hệ thống
chuyên chính” của giai cấp cầm quyền”. [5, tr45-46]
Thứ hai, cụ thể hóa nội dụng của hệ thống chính trị, chỉ rõ những bộ phận,
yếu tố cấu thành hệ thống chính trị bao gồm: Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Tổng Liên đoàn

15


lao động việt Nam, Đoàn Than niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Nông dân Việt
Nam, Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Hội Cựu chiến binh Việt Nam.
Thứ ba, xem trong hệ thống chính trị, ngoài hệ thống chuyên chính của giai
cấp cầm quyền với tư cách là bộ phận cơ bản, quan trọng nhất, quy định bản chất và
chức năng cơ bản của toàn bộ hệ thống, còn có các tổ chức, các thiết chế chính trị
hợp pháp khác. Theo quan niệm này có thể hiểu: “Hệ thống chính trị là một chỉnh
thể bao gồm Nhà nước, các Đảng chính trị hợp pháp, các tổ chức chính trị - xã hội
hợp pháp, trong đó, vai trò chủ đạo thuộc về các thiết chế của giai cấp cầm quyền
để tác động vào các quá trình kinh tế - xã hội nhằm củng cố, duy trì và phát triển
chế độ xã hội đương thời” [31, tr.197].
Từ các nhóm quan điểm nêu trên, ta có thể thấy được: theo chiều dọc, cấu
trúc của hệ thống chính trị không chỉ là hệ thống các tổ chức và quan hệ tổ chức mà
còn là hệ thống các cấp độ và các quan hệ về cấp độ nhìn theo hai chiều vận động từ
dưới lên và từ trên xuống, biểu hiện quan hệ tác động qua lại giữa Trung ương với
địa phương và cơ sở, phản ánh sự phân cấp về quyền lực trong hệ thống chính trị;
theo chiều ngang, hệ thống chính trị được biểu hiện thông qua mối quan hệ về vị trí,
vai trò và quyền hạn giữa các tổ chức khác nhau trong tổng thể của hệ thống.
Như vậy, có thể nêu lên định nghĩa chung về hệ thống chính trị như sau: “Hệ
thống chính trị là tổ hợp có tính chỉnh thể các thể chế chính trị (các cơ quan quyền
lực nhà nước, các đảng chính trị, các tổ chức và các phong trào chính trị...) được
xây dựng trên các quyền và chuẩn mực xã hội, phân bố theo một kết cấu chức năng

nhất định, vận hành theo những nguyên tắc, cơ chế và quan hệ cụ thể, nhằm thực
thi quyền lực chính trị” [71, tr.262].
Có thể thấy, hệ thống chính trị là một hệ thống cấu trúc, một chỉnh thể bao
gồm các bộ phận cấu thành, có quan hệ mật thiết với nhau, có vị trí, chức năng, vai
trò khác nhau. Hệ thống ấy được thể hiện ở những cấp khác nhau: trung ương, địa
phương, cơ sở. Cấu trúc hệ thống chính trị rất đa dạng, ở mỗi quốc gia lại có đặc thù
khác nhau, nhưng cơ bản gồm 3 bộ phận: Đảng chính trị, Nhà nước, các tổ chức
chính trị - xã hội hợp pháp.

16


1.1.1.2. Hệ thống chính trị ở Việt Nam hiện nay
Vận dụng, phát triển và cụ thể hoá một cách đúng đắn và sáng tạo những
luận điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin về chuyên chính vô sản, hệ thống
chuyên chính vô sản vào hoàn cảnh Việt Nam trong tình hình hiện nay của đất nước
và của cả thời đại. Đảng Cộng sản Việt Nam, trong công cuộc đổi mới đất nước, đã
sử dụng khái niệm “hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa” khi có chủ trương xây
dựng và từng bước hoàn thiện “nền dân chủ xã hội chủ nghĩa”, bởi vì chuyên chính
vô sản về cơ bản là thống nhất với dân chủ xã hội chủ nghĩa. Trong điều kiện và
những yêu cầu mới của sự phát triển đất nước ta theo định hướng xã hội chủ nghĩa,
Đảng ta đã mở rộng và cụ thể hoá nhiều vấn đề về hệ thống chính trị xã hội chủ
nghĩa.
Hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa đã được nghiên cứu từ nhiều góc độ khác
nhau, tùy theo mỗi góc độ tiếp cận mà có các định nghĩa khác nhau. Tuy nhiên,
điểm chung mà các định nghĩa đưa ra là xem hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa là
cách thức tổ chức quyền lực chính trị mà giai cấp công nhân nắm quyền thực hiện
phù hợp với lợi ích của giai cấp mình: “Hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa là một
chỉnh thể bao gồm Nhà nước chuyên chính vô sản, Đảng Cộng sản và các tổ chức
chính trị - xã hội hợp pháp và mối quan hệ qua lại giữa các yếu tố nhằm đảm bảo

quyền lực của nhân dân” [5, tr.47]. Cũng có định nghĩa cho rằng: “Hệ thống chính
trị xã hội chủ nghĩa là liên minh các thiết chế chính trị - xã hội được thành lập, hoạt
động trong mối liên hệ chặt chẽ mà vai trò lãnh đạo thuộc về Đảng của giai cấp
công nhân và nhân dân lao động nhằm thực hiện triệt để quyền lực nhân dân xây
dựng thành công chủ nghĩa xã hội” [55, tr.301].
Ở nước ta, giai cấp công nhân và nhân dân lao động là chủ thể của quyền lực.
Vì vậy, hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa Việt Nam là công cụ thực hiện quyền
làm chủ của nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Hệ thống
chính trị ở nước ta hiện nay bao gồm những bộ phận sau: Đảng Cộng sản Việt Nam,
Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các
tổ chức chính trị - xã hội. Các bộ phận này được kết nối với nhau theo những quan

17


hệ, cơ chế và nguyên tắc vận hành nhất định, trong một môi trường văn hóa chính
trị đặc thù. Trong đó, Đảng Cộng sản Việt Nam là hạt nhân của hệ thống chính trị,
giữ vai trò lãnh đạo nhà nước và xã hội; Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam là trụ cột, là trung tâm của hệ thống chính trị; Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và
các đoàn thể chính trị - xã hội là cơ sở chính trị của nhà nước và xã hội. Về mặt tổ
chức bộ máy, hệ thống chính trị nước ta được tổ chức thành 4 cấp gắn liền với nền
hành chính quốc gia: cấp Trung ương; cấp tỉnh, thành phố; cấp huyện, quận, thị xã
và cấp xã, phường, thị trấn.
Hệ thống chính trị Việt Nam được tổ chức theo mô hình có đỉnh quyền lực,
không cạnh tranh. Những đặc điểm chủ yếu của hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa
Việt Nam là:
Thứ nhất, tính nhất nguyên chính trị.
Tính nhất nguyên chính trị thể hiện ở những điểm sau:
Không có chính đảng đối lập: chế độ chính trị ở Việt Nam là thể chế chính trị
một đảng duy nhất cầm quyền, là thể chế nhất nguyên chính trị, không tồn tại các

đảng chính trị đối lập.
Nhất nguyên về tổ chức: hệ thống chính trị ở Việt Nam gắn liền với vai trò tổ
chức và lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Mỗi tổ chức thành viên của hệ
thống chính trị đều do Đảng Cộng sản Việt Nam sáng lập vừa đóng vai trò là hình
thức tổ chức quyền lực của nhân dân, tổ chức tập hợp, đoàn kết quần chúng, đại
diện cho ý chí và nguyện vọng của quần chúng, vừa là tổ chức mà qua đó Đảng
Cộng sản thực hiện sự lãnh đạo chính trị đối với xã hội.
Nhất nguyên về tư tưởng: tính nhất nguyên chính trị của hệ thống chính trị
được thể hiện ở tính nhất nguyên tư tưởng. Toàn bộ hệ thống chính trị đều được tổ
chức và hoạt động trên nền tảng tư tưởng là chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh.
Thứ hai, tính thống nhất.
Hệ thống chính trị ở Việt Nam bao gồm nhiều tổ chức có tính chất, vị trí, vai
trò, chức năng khác nhau nhưng có quan hệ chặt chẽ, gắn bó với nhau, tạo thành

18


một thể thống nhất. Sự thống nhất của các thành viên đa dạng, phong phú về tổ
chức, phương thức hoạt động trong hệ thống chính trị đã tạo điều kiện để phát huy
sức mạnh tổng hợp và tạo ra sự cộng hưởng sức mạnh trong toàn bộ hệ thống.
Tính thống nhất của hệ thống chính trị ở nước ta được xác định bởi các yếu
tố: Sự lãnh đạo thống nhất của một đảng duy nhất cầm quyền là Đảng Cộng sản
Việt Nam. Sự thống nhất về mục tiêu chính trị của toàn bộ hệ thống là xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam với nội dung: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng,
văn minh. Sự thống nhất ở nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động là tập
trung dân chủ. Sự thống nhất của hệ thống tổ chức ở từng cấp, từ Trung ương đến
địa phương, với các bộ phận hợp thành.
Hệ thống chính trị vận hành theo cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý,
nhân dân làm chủ; trong đó, Đảng vừa là một bộ phận của hệ thống chính trị, vừa là

hạt nhân lãnh đạo hệ thống ấy, hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp, pháp luật.
Không chấp nhận đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập. Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có
chức năng thể chế hoá và tổ chức thực hiện đường lối, quan điểm của Đảng. Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam là liên minh chính trị của các đoàn thể nhân dân và các cá
nhân tiêu biểu của các giai cấp và tầng lớp xã hội, các dân tộc, các tôn giáo; là cơ sở
chính trị của chính quyền nhân dân; hoạt động theo phương thức hiệp thương dân
chủ, có vai trò quan trọng trong việc thực hiện phản biện, giám sát xã hội, góp phần
xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước, phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Nhân
dân là người làm chủ xã hội, làm chủ thông qua Nhà nước và các cơ quan đại diện,
đồng thời làm chủ trực tiếp thông qua cơ chế “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm
tra”; làm chủ thông qua hình thức tự quản.
Thứ ba, gắn bó mật thiết với nhân dân, chịu sự kiểm tra, giám sát của nhân
dân.
Điều 2, Chương 1, Hiến pháp 2013 quy định:
“1. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân.

19


2. Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ; tất cả
quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công
nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức.”
Đây là đặc điểm có tính nguyên tắc của hệ thống chính trị ở Việt Nam. Đặc
điểm này khẳng định hệ thống chính trị Việt Nam không chỉ gắn với chính trị,
quyền lực chính trị, mà còn gắn với xã hội. Trong hệ thống chính trị, có các tồ chức
chính trị, các tổ chức vừa có tính chính trị, vừa có tính xã hội. Do vậy, hệ thống
chính trị không đứng trên xã hội, tách khỏi xã hội, mà là một bộ phận của xã hội,
gắn bó với xã hội. Cầu nối quan trọng giữa hệ thống chính trị với xã hội chính là

Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội.
Sự gắn bó mật thiết giữa hệ thống chính trị với nhân dân được thể hiện trên
các yếu tố: Đây là quy luật tồn tại của Đảng, là nguyên tắc tổ chức và hoạt động của
Đảng cầm quyền. Nhà nước là nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội là hình thức tập hợp, tổ chức của
chính các tầng lớp nhân dân. Hệ thống chính trị là trường học dân chủ của nhân dân.
Mỗi tổ chức trong hệ thống chính trị là phương thức thực hiện quyền làm chủ của
nhân dân.
Thứ tư, sự kết hợp giữa tính giai cấp và tính dân tộc của hệ thống chính trị.
Đặc điểm nổi bật của hệ thống chính trị ở Việt Nam là hệ thống chính trị đại
diện cho nhiều giai cấp, tầng lớp nhân dân. Các giai cấp, tầng lớp nhân dân được đại
diện bởi các tổ chức thành viên trong hệ thống chính trị, đều thừa nhận vai trò lãnh
đạo của giai cấp công nhân. Do vậy, hệ thống chính trị ở nước ta mang bản chất giai
cấp công nhân và tính dân tộc sâu sắc.
Lịch sử nền chính trị Việt Nam là cuộc đấu tranh giải phóng giai cấp gắn liền
và bắt đầu từ mục tiêu giải phóng dân tộc, bảo vệ nền độc lập dân tộc. Các giai cấp,
dân tộc đoàn kết trong đấu tranh giành và bảo vệ nền độc lập dân tộc, hợp tác để
cùng phát triển. Sự tồn tại của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam với tư cách là thành viên
quan trọng của hệ thống chính trị là yếu tố quan trọng tăng cường sự kết hợp giữa
giai cấp và dân tộc.

20


Sự kết hợp giữa tính giai cấp và tính dân tộc được khẳng định trong bản chất
của từng tổ chức thuộc hệ thống chính trị. Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên
phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và
của dân tộc Việt Nam. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước
của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã
hội đã gắn kết vấn đề dân tộc với vấn đề giai cấp, tạo nên sức mạnh tổng hợp của

toàn bộ hệ thống chính trị. Sự phân biệt giữa dân tộc và giai cấp mang tính tương
đối và không có ranh giới rõ ràng.
Những đặc điểm này vừa quy định kết cấu, tổ chức, vận hành và các mối
quan hệ, vừa cho thấy những khó khăn thách thức cần phải giải quyết, vừa đặt ra
những yêu cầu đổi mới và hoàn thiện hệ thống chính trị ở nước ta khác với các hệ
thống chính trị khác trên thế giới.
1.1.2. Hệ thống chính trị cấp cơ sở ở Việt Nam hiện nay
1.1.2.1. Khái niệm
Từ năm 1945, sau khi xây dựng Nhà nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa, hệ
thống chính trị nước ta đã được thiết lập từ trung ương đến địa phương. Theo điều
110, Hiến pháp năm 2013 nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đơn vị hành
chính nước ta được chia làm 4 cấp: cấp trung ương; cấp tỉnh, thành phố trực thuộc
trung ương; cấp huyện, quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh; cấp xã, phường, thị
trấn.
Cơ sở ở đây là khái niệm để chỉ một cấp trong hệ thống bốn cấp quản lý hành
chính của Nhà nước hiện hành ở nước ta, đó chính là xã, phường, thị trấn. “Cấp xã,
phường, thị trấn là cấp cuối cùng, gần dân nhất nên được gọi là cấp cơ sở” [50,
tr.20].
Theo Tổng cục thống kê Việt Nam, đến tháng 12 năm 2015 ở nước ta có
11.162 đơn vị cơ sở xã, phường, thị trấn. Đây là địa bàn cư trú, làm ăn của nhân dân
lao động, nơi diễn ra mọi hoạt động của đời sống xã hội. Đó vừa là nơi diễn ra các
hoạt động sản xuất, kinh doanh của người lao động, vừa là nơi diễn ra quá trình trao
đổi, lưu thông hàng hóa, là đầu mối của thị trường, nơi hình thành các quan hệ kinh

21


tế giữa các chủ thể sản xuất và tiêu dùng. Nói tới cơ sở là nói tới nơi diễn ra các
hoạt động của người dân và cuộc sống của họ; nói tới các hình thức tổ chức hoạt
động sống của cộng đồng và các mối quan hệ xã hội giữa cá nhân với cá nhân, giữa

cá nhân với cộng đồng. Mỗi cơ sở là một cộng đồng xã hội, ở đó có các hoạt động
kinh tế, văn hóa và các hoạt động chính trị - xã hội. Cơ sở còn là nơi trực tiếp tuyên
truyền, phổ biến và kiểm nghiệm sự đúng đắn, chính xác đường lối, chủ trương của
Đảng, chính sách, pháp luật và các giải pháp quản lý phát triển xã hội. Vì vậy, chính
quyền cơ sở hoạt động có hiệu quả sẽ đảm bảo cho các chủ trương, đường lối của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đi vào cuộc sống, tạo niềm tin trong nhân
dân.
Như vậy, có thể hiểu: “Hệ thống chính trị cơ sở là toàn bộ các thiết chế
chính trị như tổ chức Đảng, chính quyền, các đoàn thể nhân dân được tổ chức và
hoạt động theo những nguyên tắc nhất định và gắn bó hữu cơ với nhau nhằm thực
hiện sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước và phát huy quyền làm chủ
của nhân dân ở cơ sở” [53, tr.10].
1.1.2.2. Đặc điểm của hệ thống chính trị cấp cơ sở
Hệ thống chính trị cấp cơ sở là một bộ phận cấu thành hệ thống chính trị Việt
Nam xã hội chủ nghĩa, nên nó mang đặc điểm chung của toàn bộ hệ thống. Ngoài
những đặc điểm chung đó, xét khía cạnh địa vị pháp lý và thực tế thì hệ thống chính
trị cấp cơ sở còn có những đặc trưng riêng như sau:
Thứ nhất, hệ thống chính trị cấp cơ sở là cấp thấp nhất trong hệ thống chính
trị ở Việt Nam, song lại là cấp quan trọng, gần và sát dân nhất.
Hệ thống chính trị nước ta được phân ra 4 cấp: cấp Trung ương; cấp tỉnh
(bao gồm các tỉnh và thành phố trực thuộc Trung ương); cấp huyện (bao gồm các
huyện, quận, thị xã và thành phố thuộc tỉnh); cấp xã (bao gồm các xã, phường, thị
trấn). Như vậy, cấp xã là cấp thấp nhất, là cấp cuối cùng gần và sát dân nhất.
Nghị quyết Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 5 khóa IX ghi:
“Các cấp cơ sở xã, phường, thị trấn là nơi tuyệt đại bộ phận nhân dân cư trú, sinh
sống. Hệ thống chính trị cơ sở có vai trò rất quan trọng trong việc tổ chức và vận

22



×