Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

sang kien kinh nghiem TOÁN LỚP 4 nam hoc 2018 2019

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (421 KB, 18 trang )

I. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Giáo dục học sinh nói chung và giáo dục đạo đức học sinh nói riêng là một
quá một quá trình tác động có mục đích, có kế hoạch đến học sinh nhằm hình
thành và bồi dưỡng về hành vi, thói quen, đạo đức, hình thành những nét tính
cách của con người mới phù hợp mục đích giáo dục.
Giáo dục đạo đức học sinh đặc biệt giáo dục học sinh chưa ngoan có vị trí
hàng đầu trong toàn bộ công tác giáo dục ở nhà trường. Bác Hồ đã dạy: “Dạy
cũng như học phải biết chú trọng cả đức lẫn tài. Đức là đạo đức cách mạng. Đó
là cái gốc rất quan trọng”. Do vậy, giáo dục học sinh chưa ngoan giữ vị trí then
chốt trong nhà trường. Công tác giáo dục đạo đức tốt sẽ là cơ sở để nâng cao
giáo dục toàn diện.
Giáo dục đạo đức học sinh là công việc vô cùng nan giải đối với đội ngũ
cán bộ giáo viên, đặc biệt là đối với người giáo viên chủ nhiệm lớp. Hiện nay,
đạo đức của học sinh có chiều hướng sa sút, một bộ phận không nhỏ học sinh có
những biểu hiện chưa ngoan trong học tập và rèn luyện đạo đức. Thậm chí ở một
số tỉnh, thành có tội phạm giết người hoặc gây thương tích cho người khác là
học sinh. Đó là trình trạng báo động chung hiện nay.
Qua thực tế giảng dạy và làm công tác chủ nhiệm ở trường tiểu học, tôi
nhận thấy việc giáo dục học sinh nói chung và giáo dục về đạo đức học sinh ở
lớp chủ nhiệm nói riêng vô cùng khó khăn về mọi mặt. Tôi từng băn khoăn, trăn
trở: Do đâu mà số học sinh chưa ngoan ở các lớp có chiều hướng tăng? Các kinh
nghiệm, các biện pháp tôi đã và đang giáo dục học sinh lớp chủ nhiệm đã thực
sự hiệu quả? Với tình hình chung hiện nay, phải xử trí thế nào để đạt được mục
tiêu hình thành nhân cách học sinh toàn diện về Đức - Trí - Thể - Mỹ?
Nước ta đang bước vào thời kì hội nhập kinh tế, bên cạnh những mặt tích
cực thì cũng làm phát sinh những vấn đề mà chúng ta cần quan tâm : Bản sắc
văn hóa dân tộc bị đe dọa, sự xâm nhập của các văn hóa phẩm đồi trụy làm xóa
mòn những giá trị đạo đức, thuần phong mỹ tục của dân tộc. Hiện nay trong các
nhà trường nói chung và trường tiểu học Ngọc Trạo nói riêng vẫn còn một số
học sinh sa sút về đạo đức, về nhu cầu cá nhân phát triển lệch lạc kém ý thức


trong quan hệ cộng đồng, không có tính tự chủ dễ bị lôi cuốn vào những việc
xấu và cụ thể là học sinh khối 4, khối 5.
Những năm gần đây, về lý luận cũng như thực tế đã có nhiều nghiên cứu về
vấn đề giáo dục đạo đức học sinh. Tuy nhiên, hiện tại vẫn chưa có sự nghiên cứu
đầy đủ để tạo ra sự định hướng thống nhất về hình thức, biện pháp giáo dục có
hiệu quả. Phương pháp giáo dục còn để lại nhiều lỗ hỏng, sự kết hợp giữa nhà
trường, gia đình và xã hội chưa được nhịp nhàng, đồng bộ. Chính vì thế mà ở
học sinh tiểu học vấn đề về đạo đức các em đang ngày càng sa sút. Cho nên giáo
dục đạo đức là một vấn đề cấp bách đặt ra cho toàn xã hội hiện nay cần được
giải quyết nhanh chóng và kịp thời. Đó chính là lý do tôi chọn đề tài “Một số
biện pháp giáo dục đạo đức cho học sinh lớp 4” để nghiên cứu.


2. Mục đích nghiên cứu
- Thông qua đề tài này tôi muốn đưa ra các biện pháp nhằm “giáo dục đạo
đức cho học sinh”.
- Đồng thời, thông qua sáng kiến này, tôi chỉ mong muốn đưa ra được các
kinh nghiệm thực tế mà tôi đã thực hiện, những kết quả đã thu được qua việc
“Giáo dục đạo đức cho học sinh” ở Lớp 4D trường Tiểu học Ngọc Trạo - Bỉm
Sơn để cùng đồng nghiệp trao đổi, nhân rộng những kinh nghiệm có hiệu quả
thiết thực, góp phần năng cao hiểu biết về giới tính cho học sinh.
3. Đối tượng nghiên cứu
Một số biện pháp pháp giáo dục đạo đức cho học sinh lớp 4. Nghiên cứu
học sinh lớp 4D Trường Tiểu học Ngọc Trạo, Thị xã Bỉm Sơn, Tỉnh Thanh Hóa.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để hoàn thành đề tài này tôi đã sử dụng một số phương pháp sau:
- Đọc, phân tích các tài liệu có liên quan về vấn đề đạo đức và giáo dục
đạo đức cho học sinh Tiểu học.
- Phương pháp điều tra: Điều tra thực trạng trong công tác giáo dục đạo
đức cho học sinh. Lấy ý kiến của giáo viên và học sinh để thu thập thông tin

nghiên cứu.
- Phương pháp đàm thoại: Trực tiếp trò chuyện với giáo viên, học sinh để
tìm hiểu nhận thức như thế nào về vai trò, ý nghĩa của việc giáo dục đạo đức cho
học sinh.
- Phương pháp quan sát: Dự giờ và quan sát giờ dạy của giáo viên. Quan
sát cử chỉ, thái độ, hành động, sự biểu hiện phẩm chất đạo đức qua hành vi của
học sinh trong học tập, giao tiếp thông qua các tiết học trên lớp. Quan sát các
hoạt động ngoại khóa trên sân trường, hoạt động tập thể ngoài giờ lên lớp,… để
từ đó điều chỉnh hành vi và ý thức đạo đức cho học sinh.
- Phương pháp lấy ý kiến đồng nghiệp: Gặp trực tiếp những giáo viên có
kinh nghiệm, các nhà quản lý xin ý kiến, trao đổi về những vấn đề có liên quan
đến đề tài.
- Phương pháp thực nghiệm: Kiểm nghiệm tính khoa học, tính khả thi của
các biện pháp đã đề xuất.
- Phương pháp thống kê toán học.


II. NỘI DUNG
1. Cơ sở lý luận
Như chúng ta đã biết đạo đức là một mặt không thể thiếu của một con
người. Bác Hồ đã từng dạy: " Có tài mà không có đức là người vô dụng, có đức
mà không có tài thì làm việc gì cũng khó "
Thật vậy, một con người có tài giỏi đến mấy mà không có đạo đức thì cũng
như không. Trong báo cáo chính trị của đại hội VII Đảng ta đã khẳng định rằng :
Đất nước ta đang chuyển mình trong xu thế đổi mới toàn diện, sâu sắc trên tất cả
các lĩnh vực, tất cả đang đặt ra yêu cầu nghiêm ngặt đổi mới công tác tư tưởng
chính trị phải " Tiếp tục bồi dưỡng cán bộ Đảng viên và nhân dân những nguyên
lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lê Nin, tư tưởng đạo đức phong cách Hồ Chí
Minh, những quan điểm đường lối của Đảng ". Nhưng trong xu thế xã hội hiện
nay thì đạo đức đang bị suy thoái rất nhiều và đã thấy xuất hiện bên cạnh những

mặt tích cực tốt đẹp của nó không biết bao nhiêu hiện tượng tha hóa, lừa đảo,
buôn bán gian lận, chạy theo cuộc sống đồng tiền, làm ăn phi pháp mà quên đi
cái lương tâm đạo đức vốn có của mình.
Đối với nhà trường tiểu học giáo dục đạo đức là một mặt quan trọng của
hoạt động giáo dục nhằm hình thành những con người có đầy đủ phẩm chất :
Đức, trí, thể, mỹ nhằm xây dựng những tính cách nhất định và đối với mọi
người trong xã hội. Nó là nền tảng của giáo dục toàn diện. Vì vậy công tác giáo
dục trước tiên là phải chăm lo bồi dưỡng đạo đức cho học sinh, coi đó là căn
bản, cái gốc cho sự phát triển nhân cách, chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy : " Bây
giờ phải học, học để yêu tổ quốc, yêu nhân dân, yêu khoa học và yêu đạo đức "
Và trường tiểu học là nơi hình thành nhân cách đầu tiên cho trẻ. Nhà trường là
nơi không những dạy chữ mà còn dạy về nhân cách, lẽ sống ở đời cho học sinh
để làm chủ tương lai của đất nước sau này. Bác Hồ đã từng nói " Vì lợi ích mười
năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng người ".Vì thế trong nền giáo dục từ
trước cho đến nay việc giáo dục nói chung và giáo dục cho trẻ em nói riêng luôn
đòi hỏi phải có sự quan tâm rất lớn từ nhiều phía.
2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
2.1. Thuận lợi
- Được sự quan tâm phối hợp tốt của các đoàn thể trong nhà trường, hội
cha mẹ học sinh. Một số gia đình cũng rất quan tâm đến việc dạy người cho học
sinh.
- Đa số học sinh ngoan, biết kính trọng, lễ phép với thầy cô giáo, người
lớn tuổi. Luôn quan tâm đến mọi người, ứng xử tốt trước những tình huống
thường ngày. - Các kiến thức trong chương trình môn đạo đức rất phù hợp với
lứa tuổi và đặc điểm tâm sinh lí học sinh.
2.2. Khó khăn:
- Nhận thức của giáo viên: Qua việc tiếp xúc trò chuyện với thầy cô tôi
thấy đa số đội ngũ giáo viên trong trường có quan tâm đến việc giáo dục đạo
đức cho học sinh. Giáo viên chủ nhiệm thường xuyên kiểm tra học sinh về các
mặt đạo đức vào cuối tuần để khiển trách nhắc nhở những học sinh vi phạm,



giúp các em ngày càng ý thức được nhiệm vụ của mình. Giáo viên làm công tác
Đội cũng thường xuyên tổ chức các hoạt động ngoài giờ lên lớp theo chủ điểm,
chủ đề trong năm nhằm tuyên truyền giáo dục truyền thống cho học sinh. Đồng
thời cũng tổ chức các hoạt động: Vòng tay bè bạn, đôi bạn giúp nhau...Nhằm rèn
luyện cho các em những đức tính tốt và nhanh nhẹn. Nói chung đa số đội ngũ
giáo viên trong trường đều có các biện pháp giáo dục đạo đức cho học sinh.
Nhưng bên cạnh đó vẫn còn một số giáo viên chưa nhận thức sâu sắc và chưa
nhiệt tình với công tác giảng dạy.
- Nhận thức của học sinh : Qua quá trình tiếp xúc, tìm hiểu các em thì tôi
được biết khả năng nhận thức của học sinh cũng tương đối tốt. Có được điều này
phần lớn là nhờ ở các thầy cô. Khả năng nhận thức của học sinh phụ thuộc hoàn
toàn vào khả năng nhận thức của giáo viên. Bởi lẽ các em còn nhỏ nên chưa ý
thức được các hành vi của mình các em phần lớn là học theo cách bắt chước
giáo viên.Vì vậy muốn học sinh nhận thức tốt thì người giáo viên phải gương
mẫu trong mọi công việc, giáo viên phải là tấm gương sáng cho các em. Tuy
nhiên bên cạnh học sinh nhận thức đúng đắn chiếm phần lớn thì vẫn còn tồn tại
một số phần tử chưa có nhận thức đúng đắn. Vì vậy công tác tổ chức của nhà
trường vẫn còn phải cố gắng thêm để nâng cao nhận thức của học sinh.
Bảng1: Chất lượng khảo sát biểu hiện hành vi đạo đức của học sinh:
Số em có kĩ
Tổng năng giao
Lớp số tiếp, nhân
HS cách tốt.
SL
%
4D 28
15 53,6


Số em có kĩ
năng giao
tiếp, nhân
cách khá.
SL
%
8
28,6

Số em còn hạn
Số em có kĩ năng
chế về kĩ năng
giao tiếp, nhân
giao tiếp, nhân
cách đạt yêu cầu.
cách.
SL
%
SL
%
3
10,7
2
7,1

Qua việc điều tra trên cho thấy tỉ lệ học sinh có biểu hiện hành vi đạo đức
chưa tốt chiếm gần 50% số học sinh của lớp. Từ lí do trên tôi quyết định nghiên
cứu và thực hiện đề tài “Một số biện pháp giáo dục đạo đức cho học sinh lớp 4”.
Đây là một việc làm thiết thực mà trong mỗi giáo viên chúng ta băn khoăn, suy
nghĩ nên dạy như thế nào để nâng cao hiệu quả các giờ dạy trên lớp nói chung

và giáo dục đạo đức, nhân cách cho học sinh nói riêng.
3. Các giải pháp
3.1. Biện pháp thứ nhất: Xây dựng kế hoạch giáo dục hành vi đạo đức cho
học sinh trên cơ sở kế hoạch của nhà trường.
Giáo viên chủ nhiệm xây dựng kế hoạch giáo dục hành vi đạo đức đạo
đức cho học sinh theo từng giai đoạn học tập, cụ thể với từng đối tượng học sinh
thể hiện trong sổ chủ nhiệm. Để làm tốt việc này người giáo viên phải tiến hành
một số việc như sau: Ngay từ đầu năm học qua việc bàn giao chất lượng giáo
viên tìm hiểu, nắm vững đối tượng học sinh của lớp phụ trách: Địa bàn cư trú,
điều kiện kinh tế gia đình, hoàn cảnh sống…trên cơ sở đó giáo viên phân loại
từng đối tượng học sinh, phân tích nguyên nhân, dự đoán trước tình huống có
thể xảy ra những biểu hiện hành vi đạo đức chưa tốt, đồng thời phản ảnh, đề


xuất với Hiệu trưởng tình hình của lớp để tìm biện pháp hỗ trợ giáo dục các em.
Cần chú ý đối với những học sinh có biểu hiện chưa ngoan: Chưa chăm chỉ học
tập, chưa hòa nhã với bạn bè, ngại giao tiếp... Lập hồ sơ theo dõi riêng đối với
những học sinh thuộc diện khó khăn, khuyết tật, mồ côi, gia đình có ba, mẹ li
hôn… Trên cơ sở đó, hàng ngày, giáo viên theo dõi những biểu hiện hành vi đạo
đức của học sinh kết hợp ghi nhận lại trong sổ chủ nhiệm, uốn nắn giáo dục các
em kịp thời ở mọi lúc, mọi nơi, từ giờ dạy trên lớp cũng như các buổi hoạt động
ngoại khóa.
Bên cạnh đó, cần hình thành ý thức tự quản cho từng cá nhân ngay từ đầu
năm bằng cách cho các em tự xây dựng nội quy lớp học để làm tiêu chuẩn đánh
giá thi đua của cá nhân, tổ nhằm xây dựng tập thể lớp đoàn kết, vững mạnh về
mọi mặt. Cho các em tự do "tranh cử", đề cử các chức danh: lớp trưởng, lớp
phó, tổ trưởng, tạo một không khí thi đua tích cực từ cá nhân đến tập thể. Đây là
điều kiện để các em có ý thức tự hoàn thiện mình, thể hiện những mặt tốt để
được sự tín nhiệm của các bạn. Và các chức danh này có thể thay đổi qua mỗi
giai đoạn khi có bạn nổi bật về học tập, về giao tiếp, ứng xử... Như vậy dựa trên

cơ sở kế hoạch nhà trường, giáo viên chủ nhiệm cần có biện pháp cụ thể trong
việc giáo dục đạo đức cho các em thông qua chính môn học.
3.2 Biện pháp thứ hai: Giáo dục hành vi đạo đức cho học sinh qua việc dạy
học và đặc biệt là học môn đạo đức.
Môn Đạo đức ở Tiểu học có vai trò hết sức quan trọng trong việc giáo dục
đạo đức cho học sinh. Mỗi giờ học đạo đức là mỗi giờ các em được phát hiện
những hành vi đúng sai, được luyện tập thực hành những hành vi tốt, phát hiện
tránh xa những hành vi không tốt, vậy nên để việc giảng dạy môn đạo đức đạt
hiệu quả giáo viên cần nghiên cứu kỹ những kiến thức, kỹ năng, thái độ mà học
sinh cần đạt. Vận dụng, phối hợp nhiều phương pháp, đặc biệt giáo viên phải để
cho học sinh được trải nghiệm thông các hoạt động: sắm vai, xử lí tình huống,
trò chơi…Đây là điều kiện tốt để hình thành thói quen, hành vi đạo đức và rèn
kỹ năng sống cho học sinh.
* Ví dụ: Khi dạy bài "Lịch sự với mọi người" trong tiết thực hành giáo
viên có thể tổ chức cho các tổ sắm vai để giải quyết tình huống: "Trong buổi
hoạt động ngoài giờ lên lớp Nam vô ý xô ngã một bạn nữ, Nếu em là Nam em sẽ
làm gì trong tình huống đó? vì sao?." Khi các em được trải nghiệm trực tiếp
nâng bạn dậy, nói lời xin lỗi bạn và trả lời được câu hỏi của cô giáo là các em đã
được thực hành rèn luyện hành vi đạo đức đúng, đó là biết lịch sự với mọi
người, biết chịu trách nhiệm trước việc làm của bản thân. Giáo viên cũng có thể
kết hợp cho học sinh thể hiện thái độ đúng khi chào người lớn, khi nhận vật gì từ
tay người lớn miệng nói: “... ....cảm ơn” hoặc nói “…xin ”. Động tác chào và xin
phép khi đi học hoặc đi chơi... Biết nói lời cảm ơn khi nhận được sự giúp đỡ;
biết nói lời xin lỗi khi mình làm sai điều gì đó. Khi cho học sinh xử lí tình huống
này tôi khéo léo chọn những đối tượng học sinh có thái độ chưa đúng mực với
người lớn, thầy cô và bạn bè. Để từ đó hình thành thói quen lễ phép, lịch sự với
mọi người ở mọi lúc, mọi nơi.


Mỗi bài học đạo đức thường có những tấm gương, những nhân vật. Sau

mỗi bài học, giáo viên cần kết hợp nêu câu hỏi để học sinh ý thức được việc làm
của nhân vật là biểu hiện của hành vi tốt hay chưa tốt? Vì sao? Đối với tấm
gương đó nên học tập, hay nên tránh. Vì sao? Ngoài ra giáo viên có thể kể cho
học sinh nghe về những tấm gương tốt, hiếu thảo, vượt khó, quan tâm giúp đỡ
mọi người xung quanh từ thực tế cuộc sống sẽ cụ thể hơn, sinh động hơn và có
sức thuyết phục hơn để các em bắt chước theo. Từ những hành động bắt chước
ấy dần dần sẽ trở thành hành vi của bản thân các em.
Việc giáo dục, rèn luyện những hành vi đạo đức cho học sinh còn được
tiến hành lồng xen ở tất cả các môn học (Lịch sử - Địa lí; Tập đọc, âm nhạc...),
nhất là các tiết sinh hoạt tập thể. Giáo viên cần tổ chức nhiều hoạt động: ca hát,
kể chuyện, vệ sinh, trang trí lớp học, trồng và chăm sóc cây xanh trong lớp trong
trường (ngày vì môi trường) để các em thấy được ý nghĩa việc mình làm, thêm
yêu lao động và có ý thức giữ gìn bảo vệ môi trường xung quanh. Một hoạt động
không thể thiếu trong tiết sinh hoạt - Tổ chức cho học sinh đối chiếu với nội quy
lớp mình tự xây dựng để tự đánh giá, nhận xét mặt tích cực, tồn tại trong tuần.
Từ đó mỗi cá nhân, tổ xây dựng biện pháp khắc phục trong tuần sau. Đây là dịp
để các em tự điều chỉnh những hành vi chưa tốt của bản thân.
3.3 Biện pháp thứ ba: Giáo dục hành vi ứng xử của học sinh thông qua quá
trình đứng lớp và dạy các môn học khác.
Ngoài việc giáo dục hành vi ứng xử với người lớn, thầy cô, bạn bè cho
các em thông qua môn học đạo đức bắt buộc trong chương trình, trong quá trình
giảng dạy, tôi đều tận dụng tối đa việc giáo dục cho các em thông qua giao tiếp
giữa giáo viên - học sinh và lồng ghép giáo dục kịp thời qua nội dung môn học


khác có liên quan với việc giáo dục đạo đức học sinh. Việc giáo dục đạo đức học
sinh thông qua giao tiếp trong quá trình dạy học giúp tôi điều chỉnh kịp thời
những hành vi chưa đạt ở học sinh khi nói chuyện với thầy cô, người lớn cần
phải dạ thưa, nói có đầu có đuôi, không nói cộc lốc, trống không. Khi nhận vật
gì mà người lớn đưa đều phải nhận bằng hai tay và nói lới cảm ơn ...


* Ví dụ: Trong quá trình dạy học, khi đặt câu hỏi cho học sinh: “Tại sao ở
Đà Lạt có nhiều hoa, quả, rau xứ lạnh?” Nếu học sinh trả lời: “Vì khí hậu mát
mẻ” thì tôi liền yêu cầu em trả lời lại cho có đầu có đuôi và phải có lời “Thưa
cô” đầu tiên khi trả lời câu hỏi: “Thưa cô, vì ở Đà Lạt có khí hậu mát mẻ quanh
năm”. Hoặc khi học sinh lên bảng làm bài tôi đưa cho em một viên phấn để viết
bảng. Nếu như em chỉ nhận bằng một tay và không nói lời cảm ơn, tôi cũng liền
nhắc nhở cho các em khi nhận vật gì của người lớn trao cũng phải nhận bằng hai
tay và nói lời cảm ơn... Đến cuối tiết học khi nhận xét, tôi nhắc lại những hành
vi chưa đúng của học sinh và liên hệ giáo dục cách giao tiếp ứng xử với người
lớn cho đúng mực.
Đối với việc giáo dục học sinh thông qua nội dung bài học tôi cũng tận
dụng kịp thời để giáo dục hành vi đạo đức của các em.
* Ví dụ: Qua bài Tập đọc: “Đôi giày ba ta màu xanh” ngoài việc giáo dục
học sinh ngoan ngoãn, lễ phép như bạn “Lái” trong câu chuyện, tôi còn giáo dục
cho các em khi nhận quà của bất cứ ai thì phải nói lời cảm ơn, với người lớn thì
phải nhận bằng hai tay ....
Hoặc qua bài dạy môn Luyện từ và câu: “Giữ phép lịch sự khi đặt câu
hỏi” tôi giáo dục cho học sinh khi yêu cầu đề nghị phải giữ phép lịch sự. Muốn
cho lời yêu cầu, đề nghị được lịch sự các em cần có cách xưng hô cho phù hợp
với từng đối tượng giao tiếp như: với người lớn khi yêu cầu người lớn chỉ đường
cần phải nói: “Bác làm ơn chỉ cho cháu biết nhà của bạn Lan ở đâu ạ?” Với bạn
bè, em nhỏ phải có thái độ vui vẻ, hòa nhã, lịch sự...


Như vậy, với việc giáo dục học sinh trong mọi hoạt động dạy học, giúp
học sinh lớp tôi có những hành vi ứng xử tiến bộ rõ rệt các em biết nói dạ thưa
với người lớn, xưng hô đúng mực với bạn bè, thầy cô giáo và các em học sinh ở
những lớp dưới.
3.4. Biện pháp thứ tư: Giáo dục đạo đức học sinh thông qua phối hợp tốt

“ gia đình- nhà trường- xã hội”
Việc giáo dục hành vi ứng xử của học sinh mọi lúc mọi nơi giúp điều
chỉnh kịp thời những biểu hiện lệch lạc trong mọi hành vi ứng xử của các em.
Tuy nhiên, trong thực tế các em không được giáo dục kịp thời do người lớn
không chú ý sửa sai, điều chỉnh cho các em trong thời gian các em ở nhà hoặc
ngoài xã hội. Đối với thời gian ở lớp, ở trường học sinh luôn được thầy cô điều
chỉnh hành vi ứng xử khi biểu hiện sai lệch. Nhưng đó là thời gian có thầy cô
bên cạnh, giáo viên không bao quát được mọi hành vi ứng xử của các em như
trong giờ chơi, thời gian đến trường, trên đường đi học về, ở nhà...
Gia đình, nhà trường, xã hội luôn được coi là “tam giác đều” trong công
tác giáo dục hành vi đạo đức, học tập cho học sinh có hiệu quả. Tầm quan trọng
của mỗi lực lượng cũng như mối quan hệ giữa gia đình, nhà trường, xã hội trong
việc giáo dục đạo đức cho học sinh ai cũng biết và thực hiện tuy nhiên luôn còn
khoảng cách lớn giữa nói và làm.Vì vậy, muốn giáo dục kịp thời, chấn chỉnh
những sai lệch cho các em trong cuộc sống, học tập hàng ngày tôi tiến hành thực
hiện như sau:
Vào đầu năm học giáo viên cho mỗi em học sinh chuẩn bị một quyển tập
để ghi chép và trao đổi những điều giáo viên cùng phụ huynh học sinh.
Qua thực hiện tôi đã nhận được thông tin phản hồi của phụ huynh học sinh hằng
tuần.
* Ví dụ: Thông tin từ phụ huynh học sinh em Nguyễn Ngọc Thanh “cô ơi
em Thanh về nhà không thực hiện những điều cô dạy, em nói chuyện với tôi
không dạ thưa, em không học bài mà cứ xem ti vi. Cô làm ơn giáo dục em giúp
gia đình, tôi rất cảm ơn cô”. Chính nhờ thông tin phản hồi của phụ huynh học
sinh mà tôi có cơ hội điều chỉnh hành vi ứng xử của các em một cách kịp thời và
nhanh chóng.
Trao đổi thường xuyên với tổ tự quản nơi các em ở, bà con quen biết
xung quanh để nắm thông tin ngoài nhà trường về hành vi đạo đức của học sinh.
Với cách làm này đã giúp chấn chỉnh kịp thời những hành vi đạo đức mà học
sinh biểu hiện chưa đúng, góp phần rất lớn trong công tác giáo dục đạo đức học

sinh.
3.5. Biện pháp thứ năm : Giáo dục hành vi ứng xử của học sinh moi lúc mọi nơi.
Lứa tuổi học sinh tiểu học là lứa tuổi đang hình thành nhân cách. Nếu
chúng ta định hướng kịp thời và đúng lúc cho các em thì nhân cách ấy ngày càng
hoàn thiện, các em sẽ trở thành một người có đạo đức tốt. Tuy nhiên, nếu thiếu
sự quan tâm, sửa chữa kịp thời của người lớn, thầy cô thì hành vi đạo đức của
các sẽ bị mai một, các em sẽ dần dần tạo những thói quen xấu, bắt chước những
hành vi đạo đức xấu như nói chuyện với bạn là “mày- tao” trong lúc chơi đùa,


không biết giúp đỡ người khác,…Việc giáo dục hành vi đạo đức cho học sinh
không chỉ dành riêng cho các buổi học, các giờ lên lớp mà phải luôn được quan
tâm mọi lúc mọi nơi. Việc làm này đòi hỏi người giáo viên phải có tâm huyết,
yêu thương học sinh hết mực do phải mất nhiều thời gian. Để thực hiện tốt việc
giáo dục hành vi đạo đức cho học sinh mọi lúc mọi nơi giáo viên phải thường
xuyên để mắt đến tất cả những sinh họat của học sinh bên trong nhà trường từ
trong học tập, vui chơi, giao tiếp với thầy cô, người lớn, bạn bè,…Khi các em có
những biểu hiện bất thường về việc vi phạm hành vi đạo đức, giáo viên phải kịp
thời điều chỉnh cho các em một cách thật tế nhị, mềm dẻo, linh họat, tránh
những lời nói xúc phạm như quát, mắng, phạt học sinh. Không chỉ dừng lại ở
khía cạnh giáo dục hành vi đạo đức đối với những học sinh vi phạm mọi lúc mọi
nơi, đòi hỏi người giáo viên phải thường xuyên, kịp thời tuyên dương những học
sinh có những biểu hiện hành vi đạo đức tốt, nhằm gây lan tỏa, nhân rộng hành
vi đạo đức tốt trong lớp.
* Ví dụ: Trong giờ chơi của học sinh, giáo viên có thể ngồi ở một nơi nào đó
để quan sát học sinh vui chơi, nếu các em có những biểu hiện vi phạm về hành
vi đạo đức như nói chuyện với bạn bằng mày-tao thì giáo viên kịp thời đến điều
chỉnh cho các em. Hoặc trong giờ học, nếu có trường hợp viết của 1 học sinh hết
mực mà có học sinh khá cho bạn mượn viết thì giáo viên phải kịp thời tuyên
dương học sinh cho bạn mượn viết…

Phân công học sinh có hành vi đạo đức tốt kèm sát một học sinh có hành vi
ứng xử không tốt trong giờ ra chơi, hoặc trên đường đi học, về nhà để kịp thời
báo cáo cho giáo viên những biểu hiện sai lệch của bạn như không lễ phép với
người lớn: không chào hỏi người lớn trên đường đi học, về nhà; xưng hô với bạn
bè mày, tao ...Với việc làm này, tôi được học sinh cung cấp thông tin kịp thời
nên điều chỉnh có hiệu quả những hành vi sai lệch của các em.
* Ví dụ: Việc phân công một học sinh một học sinh có hành vi đạo đức tốt
kèm một học sinh có hành vi đạo đức chưa tốt tôi thấy có kết quả rõ rệt. Hằng
ngày tôi có thói quen lên lớp trước 15 phút. Một hôm, có một học sinh chờ tôi
sẵn ngay bàn giáo viên, khi tôi bước vào lớp thì em liền bảo: “Thưa cô trưa hôm
qua đi học về bạn Hùng Thanh gặp người lớn không chào, em nhắc bạn còn chửi
em và còn thách em ngày mai vào thưa cô đi”. Lúc ấy tôi liền gọi Hùng Thanh
lên bàn giáo viên và nhắc nhở em. Tôi nói: : “Em là học sinh mà gặp người lớn
không chào hỏi là học sinh không ngoan và không được mọi người yêu mến”.
Trao đổi với em hồi lâu thì em hứa với tôi là em sẽ thực hiện những điều tôi chỉ
bảo. Từ đó về sau tôi được thông tin là em Hùng Thanh khi gặp người lớn chào
hỏi rất tốt.
Với việc giáo dục đạo đức cho học sinh mọi lúc mọi nơi, mà hành vi đạo
đức học sinh lớp tôi ngày được hòan chỉnh, các em ngày càng ngoan và những
hành vi ứng xử hạn chế của các em đã không còn nữa.


3.6. Biện pháp thứ sáu: Thông qua các buổi sinh hoạt tập thể, sinh hoạt
ngoài giờ để giáo dục những hành vi ứng xử của học sinh.
Việc sinh hoạt tập thể như sinh hoạt dưới cờ đầu tuần, sinh hoạt ngoài
sinh hoạt vui chơi, lao động đều góp phần vào việc giáo dục những hành vi ứng
xử cho học sinh đạt hiệu quả. Để giáo dục kịp thời những hành vi ứng xử cho
học sinh trong các buổi sinh hoạt tập thể, hoạt động giáo dục ngòai giờ lên lớp
hay các buổi lao động tập thể ở điểm, tôi luôn lồng ghép những nội dung giáo
dục đạo đức cho học sinh như: kể chuyện về gương “ Người tốt- việc tốt”, tuyên

dương những học sinh ngoan, lễ phép với người lớn, thầy cô. Đối với tiết hoạt
động giáo dục ngòai giờ lên lớp tôi thường cho học “sắm vai”, xử lý tình huống
hay kể chuyện những tấm gương tốt trong việc giúp đỡ mọi người, những mẫu
chuyện về những học sinh ngoan, lễ phép.
* Ví dụ: Tiết họat động giáo dục ngoài giờ lên lớp nhân ngày 8/3, nhà trường
tổ chức chuyên đề “ GIÁ TRỊ YÊU THƯƠNG”. Qua chuyên dề giáo dục cho
các em tình yêu thương, lòng biết ơn cha mẹ, thầy cô, biết trân trọng những
người xung quanh mình. Đặc biệt các em biết nói lời “cảm ơn” khi nhận được sự
giúp đỡ và biết “xin lỗi” trước những việc làm sai của mình.

Ngoài ra, tiết sinh hoạt lớp cuối mỗi tuần, tôi dành thời gian dạy cho các
em những bài hát, kể những câu chuyện có nội dung giáo dục hành vi ứng xử
tốt. Đồng thời, trong những lần sinh hoạt lớp tôi yêu cầu các em tìm những
gương tốt của các bạn về chăm ngoan, lễ phép … để kể cho nhau nghe. Qua việc
làm này, học sinh trước đây vốn rụt rè, nhút nhát, nhiều em khi giáo viên hỏi mãi
vẫn không trả lời, hoặc không biết ứng xử giao tiếp với bạn bè, nay đã có những
hành vi ứng xử tốt hơn và tiến bộ rõ rệt.


* Ví dụ: Như em Tô Minh Ngọc lúc trước khi hỏi đến em em không trả lời,
thậm chí tôi hỏi nhiều lần “nhà em ở đâu?” em cũng không trả lời, tôi hỏi mãi
em mới lí nhí trong miệng mà tôi cũng chẳng nghe được gì. Nhưng bây giờ em
tiến bộ rất nhiều, em đã nói to trong những lần sinh hoạt tập thể, đồng thời cũng
mạnh dạn tham gia phát biểu ý kiến trước lớp…
4. Hiệu quả của đề tài
Qua một năm học được thực hiện những giải pháp trên, việc giáo dục
hành vi ứng xử của học sinh lớp 4 trường tiểu học Ngọc Trạo đã có những kết
quả nhất định.
Kết quả này được thể hiện cụ thể qua bảng sau:
Bảng 2: Kết quả thực nghiệm

Số em còn
Số em có kĩ
Số em có kĩ
Số em có kĩ năng hạn chế về kĩ
năng giao
năng giao
giao tiếp, nhân
năng giao
Tổng
tiếp, nhân
tiếp, nhân
Lớp
cách đạt yêu cầu.
tiếp, nhân
số HS
cách tốt.
cách khá.
cách.
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
4D 28
25
89,3
2

7,1
1
3,6
0
0
Từ kết quả thống kê cho ta thấy kết quả giáo dục đạo đức học sinh lớp 4
của trường Tiểu học Ngọc Trạo ngày được nâng lên bởi vì lực lượng thầy cô
giáo của trường đã cố gắng kết hợp, chọn lọc các biện pháp để làm công tác chủ
nhiệm. Đăc biệt là rất chú tâm đến công tác giáo dục đạo đức cho các em. Chính
sự giáo dục không đúng, không khoa học, không phù hợp với đặc điểm tâm sinh
lý của các em, khiến cho các em hay có những biểu hiện chống đối lại người
lớn. Nếu người thầy thiếu bản lĩnh sư phạm, mất bình tĩnh, nóng giận sẽ có
những quyết đoán sai, lời lẽ, biện pháp giáo dục không đúng thì hậu quả sẽ càng
tệ hại hơn.
Như vậy với một thời gian ngắn nhưng tôi nhận thấy những biện pháp mà
tôi đưa ra đã thu được kết quả thật khả quan. Thiết nghĩ nếu giáo viên áp dụng
các biện pháp này một cách thường xuyên ở lớp thì chắc chắn sẽ giúp việc hình
thành đạo đức, nhân cách ở các em sẽ tốt hơn.

III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
Qua những năm làm công tác giảng dạy, tôi nhận thấy tình trạng đạo đức học
sinh yếu kém là nỗi lo của những người làm công tác giáo dục và của toàn xã
hội. Muốn giáo dục hành vi ứng xử của học sinh đạt hiệu quả, góp phần nâng
cao chất lượng đạo đức của học sinh lớp 4 trong năm học thì vai trò của giáo
viên, của cộng đồng trong xã hội phải được phát huy tối đa và triệt để. Vì vậy, đề
tài tôi nghiên cứu nhằm giáo dục hành vi ứng xử của học sinh lớp 4 đạt hiệu
quả, cần thực hiện những việc sau:



Ngoài việc giáo dục hành vi ứng xử với người lớn, thầy cô, bạn bè cho
các em thông qua môn học đạo đức bắt buộc trong chương trình, trong quá trình
giảng dạy, tôi đều tận dụng tối đa việc giáo dục cho các em thông qua giao tiếp
giữa giáo viên - học sinh và lồng ghép giáo dục kịp thời qua nội dung môn học
khác có liên quan với việc giáo dục đạo đức học sinh. Việc giáo dục đạo đức học
sinh thông qua giao tiếp trong quá trình dạy học giúp tôi điều chỉnh kịp thời
những hành vi chưa đạt ở học sinh khi nói chuyện với thầy cô, người lớn cần
phải dạ thưa, nói có đầu có đuôi, không nói cộc lốc, trống không.
Gia đình, nhà trường, xã hội luôn được coi là “tam giác đều” trong công
tác giáo dục hành vi đạo đức, học tập cho học sinh có hiệu quả. Vì vậy, muốn
giáo dục kịp thời, chấn chỉnh những sai lệch cho các em trong cuộc sống, học
tập hàng một việc làm không thể thiếu là công tác phối hợp ba môi trường giáo
dục. Để làm tốt điều này giáo viên cần phối hợp với phụ huynh thực hiện giáo
dục con em ở nhà, đồng thời luôn có sự thông tin kịp thời giữa giáo viên chủ
nhiệm và phụ huynh về hành vi đạo đức của các em. Trao đổi thường xuyên với
tổ tự quản nơi các em ở, bà con quen biết xung quanh để nắm thông tin ngoài
nhà trường về hành vi đạo đức của học sinh.
Việc giáo dục hành vi đạo đức cho học sinh không chỉ dành riêng cho các
buổi học, các giờ lên lớp mà phải luôn được quan tâm mọi lúc mọi nơi. Việc làm
này đòi hỏi người giáo viên phải có tâm huyết, yêu thương học sinh hết mực do
phải mất nhiều thời gian. Để thực hiện tốt việc giáo dục hành vi đạo đức cho học
sinh mọi lúc mọi nơi giáo viên phải thường xuyên để mắt đến tất cả những sinh
họat của học sinh bên trong nhà trường từ trong học tập, vui chơi, giao tiếp với
thầy cô, người lớn, bạn bè,…Khi các em có những biểu hiện bất thường về việc
vi phạm hành vi đạo đức, giáo viên phải kịp thời điều chỉnh cho các em một
cách thật tế nhị, mềm dẻo, linh họat, tránh những lời nói xúc phạm như quát,
mắng, phạt học sinh. Không chỉ dừng lại ở khía cạnh giáo dục hành vi đạo đức
đối với những học sinh vi phạm mọi lúc mọi nơi, đòi hỏi người giáo viên phải
thường xuyên, kịp thời tuyên dương những học sinh có những biểu hiện hành vi
đạo đức tốt, nhằm gây lan tỏa, nhân rộng hành vi đạo đức tốt trong lớp.

Phân công học sinh có hành vi đạo đức tốt kèm sát một học sinh có hành
vi ứng xử không tốt trong giờ ra chơi, hoặc trên đường đi học, về nhà để kịp thời
báo cáo cho giáo viên những biểu hiện sai lệch của bạn như không lễ phép với
người lớn: không chào hỏi người lớn trên đường đi học, về nhà; xưng hô với bạn
bè mày, tao.
Với cách làm này đã giúp chấn chỉnh kịp thời những hành vi đạo đức mà
học sinh biểu hiện chưa đúng, góp phần rất lớn trong công tác giáo dục đạo đức
học sinh.
Việc sinh hoạt tập thể như sinh hoạt dưới cờ đầu tuần, sinh hoạt ngoài
sinh hoạt vui chơi, lao động, sinh họat Sao Nhi đồng đều góp phần vào việc giáo
dục những hành vi ứng xử cho học sinh đạt hiệu quả. Để giáo dục kịp thời
những hành vi ứng xử cho học sinh trong các buổi sinh hoạt tập thể, hoạt động
giáo dục ngoài giờ lên lớp tôi luôn lồng ghép những nội dung giáo dục đạo đức


cho học sinh như: kể chuyện về gương “ Người tốt- việc tốt”, tuyên dương
những học sinh ngoan, lễ phép với người lớn, thầy cô. Đối với tiết họat động
giáo dục ngòai giờ lên lớp tôi thường cho học “sắm vai”, xử lý tình huống hay
kể chuyện những tấm gương tốt trong việc giúp đỡ mọi người, những mẫu
chuyện về những học sinh ngoan, lễ phép.
Tất cả các giải pháp trên đã giúp tôi điều chỉnh kịp thời hành vi ứng xử
của các em một cách có hiệu quả nhất định.
Đề tài tôi nghiên cứu không đề cập đến toàn bộ tất cả những hành vi đạo
đức của học sinh mà chỉ đi sâu vào việc giáo dục hành vi ứng xử của học sinh
lớp 4 trường tiểu học Ngọc Trạo với những giải pháp sao cho đạt hiệu quả cao
nhất.
2. Kiến nghị
Giáo viên chủ nhiệm là người trực tiếp chịu trách nhiệm đồng thời là người
tiên phong trong giáo dục đạo đức học sinh chưa ngoan ở lớp. Để thực hiện tốt
vai trò, chức năng của người giáo viên chủ nhiệm, giáo viên chủ nhiệm rất cần

sự hỗ trợ, hợp tác. Vậy nên:
- Với Ban giám hiệu: Cần tạo điều kiện nhiều hơn nữa trong việc giúp
đỡ, hỗ trợ giáo viên chủ nhiệm xử lý học sinh chưa ngoan vi phạm nhiều lần, có
nhiều cuộc trò chuyện, trao đổi riêng với các học sinh chưa ngoan.
- Với phụ huynh học sinh cần quan tâm nhiều hơn nữa đời sống tình
cảm, có hiểu biết rõ về diễn biến phát triển tâm sinh lý của con em, thường
xuyên liên lạc với nhà trường, nhất là với giáo viên chủ nhiệm.
- Với giáo viên môn chuyên và các tổ chức đoàn thể: Tạo cơ hội để các
em được thể hiện mình, được trở nên tốt hơn trước tập thể. Cần động viên, khích
lệ kịp thời các học sinh chưa ngoan, đạo đức chưa tốt khi thấy các em có sự
chuyển biến tích cực.
Trên đây là một số biện pháp mà tôi đưa ra nhằm giáo dục đạo đức cho học
sinh lớp 4, chắc chắn còn nhiều thiếu sót, tôi rất mong nhận được ý kiến đóng
góp của anh chị em đồng nghiệp cũng như các nhà quản lí giáo dục.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Bỉm Sơn, ngày 20 tháng 3 năm 2019
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung của
người khác.
Người viết SK:

Nguyễn Thị Huyền Trang


MỤC LỤC


XÁC NHẬN CỦA PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO



TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lưu Thu Thuỷ – Nguyễn Hữu Hợp: “Hỏi đáp về dạy học môn đạo đức ở tiểu
học”
2. Nhiệm vụ của HS ở sổ theo dõi lớp 4.
3. Nguyễn Minh Thuyết – Hoàng Cao Cương – Đỗ Việt Hùng: “Tiếng Việt 4, tập
1,2” - NXB giáo dục năm 2005.
4. Bùi Văn Sơm: “Hướng dẫn Cán bộ quản lý trường học và giáo viên viết sáng
kiến kinh nghiệm”


PHÒNG GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO BỈM SƠN

TRƯỜNG TIỂU HỌC NGỌC TRẠO

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

MỘT SỐ BIỆN PHÁP
“GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO HỌC SINH LỚP 4”

Người thực hiện: Nguyễn Thị Huyền Trang
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Ngọc Trạo
SKKN thuộc lĩnh vực: Công tác chủ nhiệm

BỈM SƠN, NĂM 2019


MỤC LỤC

I. MỞ ĐẦU...........................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài...............................................................................................1
2. Mục đích nghiên cứu...........................................................................................2
3. Đối tượng nghiên cứu..........................................................................................2
4. Phương pháp nghiên cứu.....................................................................................2
II. NỘI DUNG.....................................................................................................3
1. Cơ sở lý luận.....................................................................................................3
2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm...........................3
2.1. Thuận lợi........................................................................................................3
2.2. Khó khăn:.......................................................................................................3
3. Các giải pháp.....................................................................................................4
3.1. Biện pháp thứ nhất: Xây dựng kế hoạch giáo dục hành vi đạo đức cho học
sinh trên cơ sở kế hoạch của nhà trường...............................................................4
3.2 Biện pháp thứ hai: Giáo dục hành vi đạo đức cho học sinh qua việc dạy học
và đặc biệt là học môn đạo đức.............................................................................5
3.3 Biện pháp thứ ba: Giáo dục hành vi ứng xử của học sinh thông qua quá trình
đứng lớp và dạy các môn học khác.......................................................................6
3.4. Biện pháp thứ tư: Giáo dục đạo đức học sinh thông qua phối hợp tốt...........8
“ gia đình- nhà trường- xã hội”.............................................................................8
4. Hiệu quả của đề tài..........................................................................................11
III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ..........................................................................11
1. Kết luận...........................................................................................................11
2. Kiến nghị.........................................................................................................13



×