Tải bản đầy đủ (.pdf) (93 trang)

Tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm trong Luật hình sự Việt Nam (Trên cơ sở thực tiễn địa bàn thành phố Hải Phòng).

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (794.66 KB, 93 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

PHẠM NHƢ THỎA

TỘI SẢN XUẤT, TÀNG TRỮ, VẬN CHUYỂN, BUÔN BÁN HÀNG
CẤM TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
(TRÊN CƠ SỞ THỰC TIỄN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG)

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI – 2018


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

PHẠM NHƢ THỎA

TỘI SẢN XUẤT, TÀNG TRỮ, VẬN CHUYỂN, BUÔN BÁN HÀNG
CẤM TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
(TRÊN CƠ SỞ THỰC TIỄN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG)
Chuyên ngành : Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số

: 8380101.03

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS CAO THỊ OANH


HÀ NỘI – 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực, chính xác, có nguồn gốc rõ
ràng và được trích dẫn đầy đủ theo quy định.
Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các
nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà
Nội xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƢỜI CAM ĐOAN

Phạm Nhƣ Thỏa


MỤC LỤC
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các ký hiệu, các chữ viết tắt
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chƣơng 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TỘI SẢN XUẤT, TÀNG
TRỮ, VẬN CHUYỂN, BUÔN BÁN HÀNG CẤM THEO PHÁP LUẬT
HÌNH SỰ .......................................................................................................... 7
1.1. Khái niệm hàng cấm và tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán
hàng cấm ........................................................................................................... 7
1.1.1 Khái niệm hàng cấm ............................................................................... 7
1.1.2. Khái niệm tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm ............ 8

1.2. Dấu hiệu pháp lý của tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán
hàng cấm ......................................................................................................... 10
1.2.1. Khách thể của tội phạm ....................................................................... 11
1.2.2. Mặt khách quan của tội phạm ............................................................. 13
1.2.3. Chủ thể của tội phạm ........................................................................... 17
1.2.4. Mặt chủ quan của tội phạm ................................................................. 17
1.3. Khái quát lịch sử lập pháp về tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn
bán hàng cấm .................................................................................................. 18
1.3.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến trước khi ban hành Bộ luật Hình sự năm 198519
1.3.2. Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật Hình sự năm 1985 đến trước khi ban
hành Bộ luật Hình sự năm 1999 ...................................................................... 23
1.3.3. Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật Hình sự năm 1999 đến trước khi ban
hành Bộ luật Hình sự năm 2015 ...................................................................... 26
1.3.4. Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật Hình sự năm 2015 đến nay ............ 27
Kết luận chƣơng 1 ......................................................................................... 35


Chƣơng 2: KHÁI QUÁT ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, KINH TẾ - XÃ HỘI
VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ
TỘI SẢN XUẤT, TÀNG TRỮ, VẬN CHUYỂN, BUÔN BÁN HÀNG
CẤM TẠI THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG ..................................................... 36
2.1. Khái quát điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của thành phố Hải Phòng 36
2.2. Thực tiễn áp dụng quy định pháp luật hình sự về tội sản xuất, tàng trữ,
vận chuyển, buôn bán hàng cấm tại thành phố Hải Phòng ............................. 38
2.2.1. Thực tiễn định tội danh ......................................................................... 40
2.2.2. Thực tiễn quyết định hình phạt ............................................................ 48
2.2.3. Một số nguyên nhân tồn tại, hạn chế và khó khăn, vướng mắc trong áp
dụng quy định pháp luật hình sự về tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn
bán hàng cấm tại thành phố Hải Phòng........................................................... 53
Kết luận chƣơng 2 ......................................................................................... 58

Chƣơng 3: YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG QUY ĐỊNH
PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ TỘI SẢN XUẤT, TÀNG TRỮ, VẬN
CHUYỂN, BUÔN BÁN HÀNG CẤM TẠI THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG ... 59
3.1. Yêu cầu đảm bảo áp dụng quy định pháp luật hình sự về tội sản xuất, tàng
trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm............................................................... 59
3.1.1. Áp dụng quy định pháp luật hình sự về tội sản xuất, tàng trữ, vận
chuyển, buôn bán hàng cấm phải bám sát các mục tiêu, quan điểm của Đảng
về cải cách tư pháp và đấu tranh phòng, chống tội phạm ............................... 59
3.1.2. Bảo đảm thực hiện đúng chính sách hình sự đối với tội sản xuất, tàng
trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm............................................................... 60
3.1.3. Áp dụng pháp luật hình sự đối với tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển,
buôn bán hàng cấm phải gắn liền với việc nâng cao chất lượng đội ngũ thẩm
phán và đảm bảo sự độc lập của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân trong hoạt
động xét xử ...................................................................................................... 62


3.1.4. Tăng cường cơ chế kiểm tra, giám sát xét xử các vụ án đối với tội sản
xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm .............................................. 65
3.1.5. Áp dụng pháp luật hình sự đối với tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển,
buôn bán hàng cấm phải đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế........................... 66
3.2. Một số giải pháp bảo đảm áp dụng quy định pháp luật hình sự về tội
phạm sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm tại thành phố Hải
Phòng ............................................................................................................... 66
3.2.1. Hoàn thiện các quy định pháp luật về tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển,
buôn bán hàng cấm.......................................................................................... 67
3.2.2. Nâng cao hiệu quả công tác phối hợp giữa Tòa án và cơ quan, tổ chức
liên quan .......................................................................................................... 72
3.2.3. Tăng cường công tác kiểm tra, kiểm sát, giám sát hoạt động xét xử của
Tòa án .............................................................................................................. 73
3.2.4. Tăng cường công tác tổng kết hoạt động xét xử về tội sản xuất, tàng trữ,

vận chuyển, buôn bán hàng cấm ..................................................................... 74
Kết luận chƣơng 3 ......................................................................................... 76
KẾT LUẬN .................................................................................................... 78
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 81


DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT

TAND

:

Tòa án nhân dân

TNHS

:

Trách nhiệm hình sự

VKSND

:

Viện Kiểm sát nhân dân

XHCN

:


Xã hội chủ nghĩa


DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1. Tình hình xét xử tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán
hàng cấm ........................................................................................................ 39
Bảng 2.2: Kết quả áp dụng hình phạt trong các vụ án về tội sản xuất,
tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm ...................................................... 51


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Thực hiện công cuộc đổi mới và phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN ở nước ta do Đảng ta khởi xướng từ sau Đại hội lần thứ VI đã
đưa lại nhiều thành tựu to lớn trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Thực
tế cho thấy rằng cơ chế kinh tế thị trường đã tạo động lực cho phát triển kinh
tế và hội nhập quốc tế nhưng cũng có những tác động tiêu cực nhất định đến
nhiều mặt của đời sống kinh tế - xã hội, làm phát sinh các hành vi vi phạm pháp
luật, trong đó có các hành vi sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng
hàng cấm.
Thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm cho thấy rằng các hành vi
sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng hàng cấm đã xâm phạm trật tự
quản lý kinh tế; tác động tiêu cực đến nền sản xuất trong nước, môi trường
đầu tư, sức khỏe của nhân dân và gây ảnh hưởng xấu đối với tình hình chính
trị, kinh tế, văn hóa, trật tự an toàn xã hội. Bởi vậy, trong nhiều năm qua,
Đảng và Nhà nước ta có nhiều chủ trương, định hướng và luôn quan tâm chỉ
đạo các cấp, ngành, các lực lượng chức năng phối hợp để đấu tranh quyết
liệt với tình hình vi phạm pháp luật này và đã đạt được những kết quả nhất
định. Tuy nhiên, thực tế cho thấy tình hình sản xuất, tàng trữ, vận chuyển,

buôn bán hàng cấm thời gian qua vẫn diễn biến phức tạp với những phương
thức, thủ đoạn ngày càng tinh vi, hình thành những đường dây chuyên
nghiệp có sự móc nối giữa các đối tượng trong và ngoài nước; trong khi đó
việc phát hiện, xử lý vi phạm pháp luật và tội phạm về sản xuất, tàng trữ, vận
chuyển, buôn bán hàng cấm chưa hiệu quả, chế tài xử lý chưa đủ mạnh để
răn đe, phòng ngừa và còn có những vướng mắc, bất cập về thể chế.
Ở thành phố Hải Phòng, với vị thế thành phố là đô thị loại 1 trực thuộc
Trung ương, Hải Phòng là một cảng biển lớn nhất ở miền Bắc, một đầu mối
1


giao thông quan trọng với hệ thống giao thông thuỷ, bộ, đường sắt, hàng
không trong nước và quốc tế, là cửa chính ra biển của thủ đô Hà Nội và các
tỉnh phía Bắc; là đầu mối giao thông quan trọng của Vùng Kinh tế trọng điểm
Bắc Bộ, trên hai hành lang - một vành đai hợp tác kinh tế Việt Nam - Trung
Quốc. Vì vậy, trong những năm qua, bên cạnh những kết quả phát triển về
kinh tế, văn hóa, xã hội của thành phố, tình hình vi phạm pháp luật nói chung
và hành vi vi phạm pháp luật về sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán
hàng cấm nói riêng cũng có những diễn biến phức tạp. Mặc dù công tác đấu
tranh phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật về sản xuất, tàng trữ, vận
chuyển, buôn bán hàng cấm thời gian qua đã được cấp ủy Đảng, chính quyền
các cấp của thành phố quan tâm, chỉ đạo phối hợp quyết liệt nhưng kết quả
đạt được vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu và mong mỏi của nhân dân; trên
thực tế loại vi phạm và tội phạm này vẫn diễn biến phức tạp cả về số lượng,
tính chất, quy mô, thủ đoạn và hậu quả... (chỉ tính riêng 06 tháng đầu năm
2018, cơ quan Công an trên địa bàn thành phố đã phát hiện, điều tra xác minh xử
lý 135 vụ) [10].
Từ những phân tích, khái quát nêu trên, tác giả chọn đề tài "Tội sản
xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm trong Luật Hình sự Việt
Nam (Trên cơ sở thực tiễn địa bàn thành phố Hải Phòng)” làm luận văn

Thạc sĩ Luật học với mong muốn phân tích thực trạng xử lý tội phạm về sản
xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm trên địa bàn thành phố Hải
Phòng để từ đó đưa ra một số giải pháp hoàn thiện pháp luật; bảo đảm áp
dụng đúng các quy định pháp luật hình sự và nâng cao hiệu quả công tác đấu
tranh phòng, chống tội phạm này nói chung, trên địa bàn thành phố Hải
Phòng nói riêng trong thời gian tới.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Liên quan đến công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm về sản xuất,
tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm trong Luật Hình sự Việt Nam đã
2


có một số công trình nghiên cứu với những góc độ tiếp cận khác nhau. Có thể
kể đến một số công trình nghiên cứu sau đây:
- “Tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm” của tác
giả Nguyễn Mai Bộ đăng trên Tạp chí Tòa án nhân dân, số 4, trang 15-18.
- “Hoàn thiện các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế trước yêu cầu
cải cách tư pháp” của tác giả Nguyễn Ngọc Chí đăng trên Tạp chí Đại học
Quốc gia Hà Nội, Kinh tế- Luật (số 24).
- “Vấn đề đồng phạm trong Tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn
bán hàng cấm theo Điều 155 BLHS năm 1999” của tác giả Trần Huy đăng
trên Tạp chí Kiểm sát, số 9 đến số 12 (2001).
- “Sự cần thiết quy định tội danh „vận chuyển hàng cấm” của tác giả
Thái Văn Đoàn đăng trên Tạp chí Kiểm sát, số 10 (1999).
- “Thực trạng xét xử các vụ án về các tội xâm phạm trật tự quản lý
kinh tế” của tác giả Đinh Văn Quế đăng trên Tạp chí Tòa án nhân dân, kỳ II,
số 24 (12/2004).
- “Tội phạm kinh tế và hoạt động phòng chống tội phạm của lực lượng
Cảnh sát nhân dân trong tình hình mới” của tác giả Nguyễn Phong Hòa, Nxb
Công an nhân dân, Hà Nội (2005).

- “Một số vấn đề cần hoàn thiện trong quy định của Bộ luật Hình sự
1999 và thông tư liên tịch số 06/2008/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC về xử
lý tội phạm liên quan đến pháo nổ” của tác giả Đoàn Hồng Hiệu, Nguyễn
Xuân Túy đăng trên Tạp chí Cảnh sát phòng chống tội phạm, số 36(183)
(2013), tr. 62-64.
- “Bình luận khoa học Bộ luật Hình sự năm 1999, được sửa đổi, bổ
sung năn 2009 (Phần các tội phạm)” của tác giả Nguyễn Đức Mai (Chủ
biên), Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội (2010).

3


- “Một số vấn đề về định tội danh trong luật hình sự Việt Nam” của tác
giả Trịnh Quốc Toản (Sách chuyên khảo sau đại học), Nxb Đại học Quốc gia
Hà Nội, Hà Nội (2013)…
Ngoài ra, liên quan đến đề tài cũng còn nhiều công trình nghiên cứu
được công bố trên các báo, tạp chí, trang web…Qua nghiên cứu, có thể thấy
các công trình được công bố đã đề cập đến một số vấn đề về tội sản xuất, tàng
trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm trong Luật Hình sự Việt Nam như khái
niệm, đặc điểm, các yếu tố cấu thành tội phạm…Tuy nhiên, trên cơ sở kế
thừa, tham khảo kết quả nghiên cứu đã công bố, luận văn tiếp tục làm rõ một
số vấn đề lý luận và thực tiễn áp dụng pháp luật để xử lý tội phạm này trên địa
bàn thành phố Hải Phòng để đưa ra một số giải pháp, kiến nghị nâng cao hiệu
quả đấu tranh phòng, chống tội phạm này trong thời gian tới.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn là làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận
và thực tiễn quy định về tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển và buôn bán
hàng cấm trong BLHS và đưa ra một số giải pháp bảo đảm áp dụng trong
thực tiễn xét xử của các tòa án nói chung và các tòa án ở thành phố Hải

Phòng nói riêng.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, luận văn có một số nhiệm vụ sau:
- Nghiên cứu một số vấn đề lý luận và quy định pháp luật hình sự về
tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm như: khái niệm, bản
chất, các dấu hiệu pháp lý và phân biệt tội phạm này với các tội phạm khác.
- Đánh giá thực trạng xử lý (định tội danh và quyết định hình phạt)
đối với tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm qua thực tiễn
xét xử tại thành phố Hải Phòng.

4


- Đề xuất hoàn thiện quy định pháp luật hình sự và xây dựng các giải pháp
nâng cao hiệu quả áp dụng quy định pháp luật về tội sản xuất, tàng trữ, vận
chuyển, buôn bán hàng cấm trong tình hình mới.
3.3. Phạm vi nghiên cứu
Hành vi sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm có thể
được tiếp cận ở nhiều góc độ khác nhau và tùy thuộc vào điều kiện lịch sử lập
pháp cụ thể. Vì vậy, luận văn nghiên cứu các hành vi phạm tội sản xuất, tàng
trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm theo pháp luật hình sự hiện hành, thời
gian nghiên cứu trong 05 năm (từ năm 2013 đến năm 2017).
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để đạt được mục tiêu nghiên cứu, luận văn sử dụng các phương pháp
nghiên cứu duy vật biện chứng của triết học Mác-Lênin; tư tưởng Hồ Chí
Minh về nhà nước và pháp luật; quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng
Cộng sản Việt Nam và chính sách pháp luật hình sự của Nhà nước Cộng hòa
XHCN Việt Nam về phòng, chống tội phạm. Đồng thời, luận văn sử dụng kết
hợp các phương pháp nghiên cứu cơ bản như: phân tích, tổng hợp, so sánh
thống kê, tổng kết thực tiễn.

5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Ý nghĩa về lý luận: Kết quả nghiên cứu của luận văn làm giàu thêm lý
luận về đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung, các tội phạm về sản xuất,
tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm trong Luật Hình sự nói riêng; đồng
thời, góp phần luận giải tính đặc thù và tính lịch sử của các hành vi sản xuất,
tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm trong từng thời kỳ phát triển kinh tế
-xã hội.
- Ý nghĩa về thực tiễn: Thực tiễn công tác đấu tranh phòng, chống tội
phạm ở nước ta thời gian qua cho thấy, việc xử lý các hành vi sản xuất, tàng
trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm vẫn chưa thực sự hiệu quả. Vì vậy, với

5


việc đưa ra nhận thức tương đối đầy đủ, toàn diện, có hệ thống lý luận về việc xử
lý hành vi sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm và phân tích
thực trạng của vấn đề này sẽ góp phần hoàn thiện pháp luật hình sự, đưa đến sự
nhận thức đúng đắn cho các cơ quan có thẩm quyền, nhất là các cơ quan tiến
hành tố tụng nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả xử lý hành vi phạm tội sản xuất,
tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm trong thực tế.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn được kết cấu gồm 3 chương, 7 tiết.
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển,
buôn bán hàng cấm theo pháp luật hình sự.
Chương 2: Thực tiễn áp dụng quy định pháp luật hình sự về tội sản xuất,
tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm tại thành phố Hải Phòng.
Chương 3: Giải pháp bảo đảm áp dụng quy định pháp luật hình sự về
tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm tại thành phố Hải
Phòng


6


Chƣơng 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TỘI SẢN XUẤT, TÀNG TRỮ,
VẬN CHUYỂN, BUÔN BÁN HÀNG CẤM THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ
1.1. Khái niệm hàng cấm và tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển,
buôn bán hàng cấm
1.1.1 Khái niệm hàng cấm
Hàng cấm trước hết là một loại hàng hóa. Hàng hóa có thể được quan
niệm là sản phẩm của lao động, có thể thỏa mãn nhu cầu nào đó của con
người thông qua trao đổi hay buôn bán [1]. Quan điểm khác cho rằng hàng
hóa được coi là sản phẩm do lao động làm ra, dùng để buôn bán trên thị
trường [23, tr. 214]. Hàng hóa cũng có thể được quan niệm là “Tất cả các loại
động sản, kể cả động sản hình thành trong tương lai, và những vật gắn liền
với đất đai” [29, Điều 3] hoặc hàng hóa là tài sản có thể trao đổi, mua, bán
trên thị trường, có khả năng thỏa mãn nhu cầu của con người, bao gồm các
loại động sản và bất động sản [33, Điều 4]…Như vậy, mặc dù hàng hóa có thể
được tiếp cận, quan niệm ở các góc độ khác nhau nhưng theo nghĩa chung
nhất có thể quan niệm: hàng hóa là sản phẩm của lao động và dùng để mua
bán trên thị trường. Thực tế đời sống cho thấy hàng hóa lưu thông trên thị
trường bao gồm nhiều loại và được sử dụng vì những nhu cầu khác nhau
trong đời sống xã hội nên nhà nước có những quy định, chính sách quản lý
đối với hàng hóa để bảo đảm việc sử dụng không ảnh hưởng hoặc gây thiệt
hại đến an ninh, quốc phòng, truyền thống văn hóa dân tộc, môi trường và sức
khỏe của nhân dân. Vì vậy, trong các loại hàng hóa thì có những hàng hóa
được tự do buôn bán kinh doanh để phục vụ nhu cầu hàng ngày của con người
nhưng một số mặt hàng do Nhà nước thống nhất quản lý và cấm các cá nhân,
tổ chức buôn bán tự do trên thị trường. Tuy nhiên, để xác định hàng hóa nào


7


được gọi là hàng cấm để có cơ sở xử lý hành vi vi phạm thì cũng chưa được
quan niệm thống nhất.
Dưới góc độ pháp lý, mặc dù trước đây một số văn bản quy định pháp
luật đã đề cập đến hàng hóa cấm lưu thông, cấm kinh doanh, cấm lưu hành, sử
dụng như: Nghị định số 11/1999/NĐ-CP ngày 03/03/1999 của Chính phủ quy
định về danh mục các mặt hàng cấm lưu thông; Nghị định số 59/2006/NĐ-CP
ngày 12/6/2006 của Chính phủ quy định về 18 loại hàng hóa cấm kinh doanh;
Nghị định 185/2013/NĐ-CP ngày 15/11/2013 của Chính phủ quy định về xử
phạt hành chính trong hoạt động thương mại, sản xuất, buôn bán hàng giả,
hàng cấm và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng; BLHS năm 1999... nhưng
cũng chưa có quy định thống nhất về những hàng hóa nào được gọi là hàng
cấm nên gây khó khăn nhất định cho việc nghiên cứu, nhận thức và áp dụng.
Tuy vậy, qua nghiên cứu các quy định pháp luật hiện hành và thực tiễn áp
dụng pháp luật có thể thấy rằng để xác định một loại hàng hóa có phải là hàng
cấm hay không thì cần căn cứ vào tính chất của hàng hóa mà Nhà nước thống
nhất quản lý và khả năng gây thiệt hại về kinh tế, gây hại cho tính mạng, sức
khỏe của con người mà phải cấm bằng các quy định pháp luật hình sự. Từ đó,
có thể khái niệm: Hàng cấm là hàng hóa Nhà nước thống nhất quản lý, không
được sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán, lưu hành và sử dụng trên lãnh
thổ Việt Nam do có khả năng gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến an ninh,
quốc phòng, kinh tế, chính trị, xã hội, truyền thống văn hóa, môi trường và
sức khỏe của con người.
1.1.2. Khái niệm tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm
Dưới góc độ lý luận, tội phạm là một hiện tượng tiêu cực trong xã hội,
xuất hiện cùng với sự ra đời của nhà nước và pháp luật, cũng như xã hội phân
chia thành giai cấp đối kháng. Vì vậy, để bảo vệ quyền lợi của giai cấp thống

trị, Nhà nước đã quy định hành vi nào là tội phạm và áp dụng trách nhiệm
8


hình sự và hình phạt đối với người đã thực hiện hành vi đó. Dưới góc độ pháp
luật, theo quy định pháp luật hình sự hiện hành thì:
Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong
BLHS, do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân
thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập,
chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ
chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự,
an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm
quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm
những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật XHCN mà theo quy định
của Bộ luật này phải bị xử lý hình sự [39, Điều 8].
Vì vậy, trên cơ sở quan niệm, quy định nêu trên, có thể thấy rằng việc
xem xét, đánh giá tính chất nguy hiểm cho xã hội của các hành vi sản xuất,
tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm cần căn cứ vào khách thể mà các
hành vi này xâm hại và các yếu tố cấu thành tội phạm của các hành vi đó.
Thực tế pháp luật ghi nhận "Mọi người có quyền tự do kinh doanh
trong những ngành nghề mà pháp luật không cấm” [32, Điều 33] nhưng trong
điều kiện phát triển kinh tế thị trường, bên cạnh những hành vi kinh doanh
hợp pháp thì cũng còn những hành vi kinh doanh bất hợp pháp, trong đó có
các hành vi sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm bị coi là tội
phạm. Mặc dù hiện nay chưa có quy định rõ ràng về hoạt động sản xuất, tàng
trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm nhưng từ quy định pháp luật hình sự và
thực tiễn xử lý các hành vi này, có thể thấy rằng các hành vi này xâm phạm
trật tự quản lý kinh tế trong lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, thương mại. Theo
quy định tại Điều 190 và Điều 191 BLHS 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017),
thì người nào hoặc pháp nhân nào sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán

9


hàng cấm với số lượng hoặc giá trị nhất định hay đã bị xử phạt hành chính về
một số hành vi được quy định tại một số điều của BLHS thì xử lý theo các chế
tài hình sự là phạt tiền, phạt tù, cấm kinh doanh, cấm hoạt động, đình chỉ hoạt
động...Từ đó, có thể khái niệm: Tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán
hàng cấm là những hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong BLHS,
do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực
hiện một cách cố ý xâm phạm trật tự quản lý kinh tế trong lĩnh vực sản xuất,
kinh doanh, thương mại gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho lợi ích
của Nhà nước, của các tổ chức, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
1.2. Dấu hiệu pháp lý của tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn
bán hàng cấm
Dưới góc độ khoa học hình sự, tội phạm là hành vi có đủ những yếu tố
cấu thành tội phạm, đó là khách thể, mặt khách quan, chủ thể, mặt chủ quan
của tội phạm, đó chính là các dấu hiệu pháp lý của tội phạm được mô tả bằng
các quy định cụ thể của BLHS. Bởi vậy, khi xem xét, áp dụng pháp luật để xử
lý tội phạm về sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm, các nhà
làm luật và áp dụng pháp luật phải dựa trên các cấu thành tội phạm nói
chung, bao gồm: khách thể, chủ thể, mặt khách quan và mặt chủ quan. Điều
này cũng có nghĩa là một hành vi nguy hiểm cho xã hội nếu không thỏa mãn
4 yếu tố cấu thành thì không bị coi là tội phạm và không phải chịu TNHS.
Qua nghiên cứu tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng
cấm theo quy định tại Điều 155 BLHS năm 1999 (được tách thành tội sản
xuất, buôn bán hàng cấm và tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm theo Điều 190
và Điều 191 BLHS 2015), có thể khái quát các dấu hiệu pháp lý của tội sản
xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm theo quy định pháp luật
hiện hành như sau:


10


1.2.1. Khách thể của tội phạm
Theo pháp luật hình sự Việt Nam, khách thể của tội phạm là các quan
hệ xã hội được luật hình sự ghi nhận, bảo vệ và bị tội phạm xâm hại. Về mặt
lý luận, khách thể của tội phạm bao gồm: khách thể chung, khách thể loại và
khách thể trực tiếp. Khách thể chung của tội phạm là các quan hệ xã hội được
quy định trong BLHS (đó là các quan hệ xã hội được quy định trong BLHS
năm 2015 như: chế độ chính trị, chế độ kinh tế, ...tính mạng, sức khoẻ, tự do,
nhân phẩm....); khách thể loại của tội phạm là nhóm quan hệ xã hội có cùng
tính chất được nhóm các quy phạm pháp luật hình sự bảo vệ - đây là cơ sở để
phân loại, hệ thống hóa nhóm tội phạm có cùng yếu tố, tính chất theo chương,
mục, điều khoản của BLHS và khách thể trực tiếp của tội phạm là quan hệ xã
hội mà tội phạm cụ thể xâm phạm.
Đối với tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm, khách
thể của tội phạm này là xâm phạm đến chế độ quản lý đối với các loại hàng
hoá mà Nhà nước cấm lưu thông (kinh doanh). Đối tượng tác động của tội
phạm này là hàng hóa mà Nhà nước cấm kinh doanh, tàng trữ, sản xuất,
không cho phép lưu thông trên thị trường và việc xác định hàng cấm, phải căn
cứ vào quy định của Nhà nước tùy thuộc và hoàn cảnh cụ thể của tình hình
hình kinh tế - xã hội và chính sách của Nhà nước về quản lý kinh doanh.
Theo Văn bản hợp nhất số 19/VBHN-BCT ngày 09/5/2014 của Bộ
Công thương về Nghị định quy định chi tiết Luật Thương mại về hàng hóa,
dịch vụ cấm kinh doanh, hạn chế kinh doanh và kinh doanh có điều kiện và
BLHS 2015 và thì đối tượng tác động của các tội phạm này là hàng hóa cấm
kinh doanh, bao gồm:
- Vũ khí quân dụng, trang thiết bị, kỹ thuật, khí tài, phương tiện chuyên
dùng quân sự, công an; quân trang (bao gồm cả phù hiệu, cấp hiệu, quân hiệu
của quân đội, công an), quân dụng cho lực lượng vũ trang; linh kiện, bộ phận,

vật tư và trang thiết bị đặc chủng, công nghệ chuyên dùng chế tạo chúng.

11


- Các chất ma tuý.
- Một số hoá chất bảng 1 (theo Công ước về cấm phát triển, sản xuất,
tàng trữ, sử dụng và phá hủy vũ khí hóa học).
- Các sản phẩm văn hoá phản động, đồi truỵ, mê tín dị đoan hoặc có hại
tới giáo dục nhân cách.
- Các loại pháo.
- Đồ chơi nguy hiểm, đồ chơi có hại tới giáo dục nhân cách, sức khoẻ
của trẻ em hoặc tới an ninh, trật tự, an toàn xã hội (bao gồm cả các chương
trình trò chơi điện tử).
- Thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật cấm hoặc chưa được phép sử dụng
tại Việt Nam theo quy định tại Pháp lệnh Thú y, Pháp lệnh Bảo vệ và kiểm
dịch thực vật.
- Thực vật, động vật hoang dã (bao gồm cả vật sống và các bộ phận của
chúng đã được chế biến) thuộc danh mục điều ước quốc tế mà Việt Nam là
thành viên quy định và các loại thực vật, động vật quý hiếm thuộc danh mục
cấm khai thác và sử dụng.
- Thuỷ sản cấm khai thác, thuỷ sản có dư lượng chất độc hại vượt quá
giới hạn cho phép, thuỷ sản có độc tố tự nhiên gây nguy hiểm đến tính mạng
con người.
- Phân bón không có trong danh mục được phép sản xuất, kinh doanh
và sử dụng tại Việt Nam.
- Giống cây trồng không có trong danh mục được phép sản xuất, kinh
doanh; giống cây trồng gây hại đến sản xuất và sức khoẻ con người, môi
trường, hệ sinh thái.
- Giống vật nuôi không có trong danh mục được phép sản xuất, kinh

doanh; giông cây gây hại cho sức khoẻ con người, nguồn gen vật nuôi, môi
trường, hệ sinh thái.

12


- Khoáng sản đặc biệt, độc hại.
- Phế liệu nhập khẩu gây ô nhiễm môi trường.
- Các loại thuốc chữa bệnh cho người, các loại vắc xin, sinh phẩm y tế,
mỹ phẩm diệt côn trùng, diệt khuẩn trong lĩnh vực gia dụng này và y tế chưa
được phép sử dụng tại Việt Nam.
- Các loại trang thiết bị y tế chưa được phép sử dụng tại Việt Nam.
- Phụ gia thực phẩm, chất hỗ trợ chế biến thực phẩm, vi chất dinh
dưỡng, thực phẩm chức năng, thực phẩm có nguy cơ cao, thực phẩm được
bảo quản bằng phương pháp chiếu xạ, thực phẩm có gen đã bị biến đổi chưa
được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép.
- Sản phẩm, vật liệu có chứa amiăng thuộc nhóm amiibole.
- Thuốc lá điếu và các dạng thuốc lá thành phẩm khác nhập lậu.
Hàng hóa mà nhà nước cấm kinh doanh có nhiều loại như đã nêu trên
nhưng có một số loại đã là đối tượng của các tội quy định tại các Điều 232,
234, 239, 244, 246, 248, 249, 250, 251, 253, 254, 304, 305, 306, 309 và 311
của BLHS năm 2015 thì không còn là đối tượng của tội phạm này.
1.2.2. Mặt khách quan của tội phạm
Về mặt lý luận, mặt khách quan của tội phạm là sự thể hiện ra bên
ngoài của tội phạm tác động và gây hậu quả cho quan hệ xã hội được luật
hình sự bảo vệ. Dưới góc độ khoa học hình sự, mặt khách quan của tội
phạm bao gồm các dấu hiệu như: Hành vi khách quan nguy hiểm cho xã hội;
hậu quả nguy hiểm cho xã hội cũng như mối quan hệ nhân quả giữa hành vi
và hậu quả; thời gian, phương pháp, phương tiện, địa điểm và hoàn cảnh
phạm tội.

Mặt khách quan của tội phạm này thể hiện ở các hành vi sau đây:
Sản xuất hàng cấm: là việc làm ra các loại hàng hóa để đưa vào lưu
thông trên thị trường (nhưng thuộc đối tượng bị Nhà nước cấm) bằng việc

13


làm mới hoàn toàn hay lắp ráp từ những bộ phận của hàng hóa theo tính
năng tác dụng của hàng hóa đó thông qua các phương tiện kỹ thuật, công cụ
thô sơ… và kết hợp với kỹ thuật hiện đại hoặc phương pháp thủ công đơn
giản. Cơ sở để xem xét hành vi này là người phạm tội có thể tham gia vào
toàn bộ quá trình làm ra hàng cấm hoặc chỉ một công đoạn nào đó của quá
trình làm ra hàng cấm.
Tàng trữ hàng cấm: là hành vi cất giữ các loại hàng hoá mà Nhà nước
cấm kinh doanh để tránh sự phát hiện, kiểm soát của các cơ quan chức năng
hoặc của người khác. Nơi tàng trữ hàng cấm có thể là nơi ở, nơi làm việc,
mang theo trong người, trong hành lý hoặc cất giấu hàng cấm ở vị trí, địa
điểm nào đó mà người tàng trữ chọn.
Vận chuyển hàng cấm: là hành vi đưa hàng cấm từ nơi này đến nơi
khác dưới bất kỳ hình thức nào. Thực tế cho thấy rằng việc vận chuyển có thể
thực hiện thông qua các phương thức, thủ đoạn khác nhau như: mang theo
người, vận chuyển qua các phương tiện giao thông đường bộ, đường thủy,
đường biển, đường sắt, đường hàng không hoặc qua đường bưu điện. Người
vận chuyển hàng cấm có thể sử dụng nhiều thủ đoạn khác nhau như: dùng vật
nuôi để vận chuyển trực tiếp, lợi dụng trẻ em, thương binh để phục vụ việc
vận chuyển…
Buôn bán hàng cấm: là hành vi dùng tiền, tài sản hoặc các giấy tờ có
giá trị như tiền để trao đổi giữa bên mua và bên bán, theo đó bên bán nhận
được một khoản tiền, tài sản hoặc giấy tờ có giá trị khác còn bên mua nhận
hàng cấm hoặc ngược lại để thu lợi bất chính.

Như vậy, đối với tội phạm này, mặt khách quan của các tội phạm được
thể hiện ở các hành vi: sản xuất hàng cấm, tàng trữ hàng cấm, vận chuyển
hàng cấm và buôn bán hàng cấm. Vì vậy, khi định tội danh cần phải xác
định (so sánh, đối chiếu) hành vi xảy ra trên thực tế có phải là một trong số
14


hành vi nêu trên hay không; nếu hành vi xảy ra trên thực tế hoàn toàn
không phù hợp với hành vi khách quan được mô tả trong cấu thành tội
phạm sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm thì không có cơ
sở để kết luận là hành vi đó là hành vi phạm tội theo tội danh này. Theo
điều luật thì hành vi khách quan của tội phạm bao gồm nhiều hành vi khác
nhau, do đó vấn đề quan trọng là khi định tội danh thì cần căn cứ vào hành
vi thực tế được thực hiện để định tội danh mà không căn cứ vào tên của
điều luật. Ví dụ: một người chỉ có hành vi vận chuyển hàng cấm thì chỉ
định tội danh đối với trường hợp này là tội vận chuyển hàng cấm.
Tuy nhiên, do mỗi tội có các dấu hiệu theo các hành vi trên nên pháp
luật quy định chỉ truy cứu TNHS về các hành vi phạm tội này khi có một
trong các dấu hiệu cấu thành cơ bản là: (i) hàng cấm có số lượng lớn, thu lợi
bất chính lớn hoặc (ii) nếu hàng cấm không bị coi là số lượng lớn, thu lợi bất
chính lớn thì phải thuộc trường hợp đã bị xử phạt hành chính về hành vi sản
xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm hoặc về hành vi quy định tại
Điều 188 (Tội buôn lậu); Điều 189 (Tội vận chuyển trái phép hàng hoá, tiền tệ
qua biên giới; Điều 192 (Tội sản xuất, buôn bán hàng giả); Điều 193 (Tội sản
xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, phụ gia thực phẩm; Điều
194 (Tội sản xuất, buôn bán hàng giả là thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh);
Điều 195 (Tội sản xuất, buôn bán hàng giả là thức ăn dùng để chăn nuôi, phân
bón, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật, giống cây trồng, giống vật nuôi);
Điều 196 (Tội đầu cơ) và Điều 200 (Tội trốn thuế) hoặc (iii) đã bị kết án về
các tội này nhưng chưa được xoá án tích mà còn vi phạm (về hành vi sản

xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm).
- Về tình tiết có “số lượng lớn” hoặc “thu lợi bất chính lớn”, tại các
điều luật, nhà làm luật đã quy định cụ thể về số lượng, giá trị cụ thể của
mỗi loại hàng cấm mà người phạm tội thực hiện hành vi sản xuất, tàng trữ,

15


vận chuyển, buôn bán để làm cơ sở cho việc quyết định hình phạt. Ví dụ
như: nếu có hành vi buôn bán thuốc lá điếu nhập lậu 4.500 bao trở lên hay
pháo nổ 120 kilôgam trở lên thì bị phạt tù từ 08 năm đến 15 năm (khoản 3,
Điều 190 BLHS 2015).
- Về tình tiết đã bị xử phạt hành chính về hành vi sản xuất, tàng trữ,
vận chuyển, buôn bán hàng cấm hoặc về hành vi quy định tại các điều 188,
189, 190, 192, 193, 194, 195, 196 và 200 của BLHS mà còn vi phạm là
trường hợp, trước khi thực hiện hành vi sản xuất, tàng trữ, vận chuyển,
buôn bán hàng cấm, người phạm tội đã bị xử phạt hành chính về một trong
những hành vi kể trên bằng một trong những hình thức xử phạt vi phạm
hành chính trong Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 (có hiệu lực từ
01/7/2013) và chưa hết thời hạn để được coi là chưa bị xử lý vi phạm hành
chính (thời hạn này là 6 tháng hoặc 1 năm).
- Về tình tiết đã bị kết án về tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn
bán hàng cấm hoặc về tội được quy định tại các điều 188, 189, 191, 192,
193, 194, 195, 196 và 200 của Bộ luật này hoặc đã bị kết án về một trong các
tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm là trường hợp, trước khi thực
hiện hành vi sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm, người
phạm tội đã bị Tòa án kết án về các hành vi phạm tội này hoặc về một
trong các tội được quy định tại các điều luật nêu trên nhưng chưa được xóa
án tích theo quy định tại Điều 69 BLHS năm 2015.
Hậu quả nguy hiểm cho xã hội là cơ sở quan trọng để định tội danh và

cá thể hóa TNHS đối với các hành vi phạm tội sản xuất, tàng trữ, vận
chuyển, buôn bán hàng cấm. Tuy nhiên, dấu hiệu hậu quả được quy định tùy
thuộc vào từng hành vi phạm tội cụ thể và được đánh giá trên cơ sở hình thức
lỗi, mức độ thiệt hại vật chất và phi vật chất cho xã hội như: sức khỏe, nhân
phẩm, danh dự của con người, những thiệt hại về tài sản cho xã hội và những
16


thiệt hại khác về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội…Đối với các hành vi phạm
tội này, hậu quả không phải là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm
nhưng tùy vào tính chất, mức độ hậu quả mà người phạm tội có thể bị truy
cứu TNHS theo khung hình phạt nặng hơn hoặc được xem xét khi quyết
định hình phạt.
1.2.3. Chủ thể của tội phạm
Pháp luật hình sự Việt Nam quy định chủ thể của tội phạm thường là
con người cụ thể, có lỗi trong việc thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội
bị pháp luật hình sự cấm, có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu
trách nhiệm hình sự theo luật quy định (đó là người từ đủ 14 tuổi trở lên,
không bị mắc bệnh tâm thần hoặc các bệnh khác làm mất khả năng nhận thức
hoặc khả năng điều khiển hành vi của chính bản thân mình). Tuy nhiên, theo
quy định pháp luật hình sự hiện hành (BLHS năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm
2017) thì chủ thể của tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm
là bất kỳ người nào có năng lực TNHS và pháp nhân thương mại. Vì vậy, khi
đánh giá chủ thể của tội phạm này cần căn cứ vào năng lực chịu TNHS của
cá nhân và địa vị pháp lý của pháp nhân có hành vi phạm tội theo quy định
pháp luật hiện hành.
1.2.4. Mặt chủ quan của tội phạm
Tội phạm là một thể thống nhất giữa hai mặt khách quan và chủ quan,
vì vậy, cũng như tội phạm nói chung, tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển,
buôn bán hàng cấm cũng có đầy đủ các yếu tố của mặt chủ quan của tội phạm,

đó là yếu tố lỗi, động cơ, mục đích phạm tội. Cụ thể là:
Lỗi là dấu hiệu bắt buộc làm cơ sở xem xét truy cứu TNHS đối với một cá
nhân, bởi vì, theo nhận thức chung thì lỗi là thái độ tâm lý của con người đối với
hành vi nguy hiểm cho xã hội của mình và đối với hậu quả do hành vi đó gây
ra được biểu hiện dưới hình thức cố ý hoặc vô ý. Điều này có nghĩa là hành vi
17


×