Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Một số biện pháp phụ đạo học sinh yếu kém phần Tiếng Việt ở Trường THCS.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (127.93 KB, 18 trang )

Tên tác giả: Lương Quang Cảnh
Trường: THCS Vĩnh Sơn
Tên chuyên đề: Một số biện pháp phụ đạo học sinh yếu kém phần Tiếng Việt ở
Trường THCS.
I. ĐẶT VẤN ĐỀ:
Đổi mới phương pháp dạy học được hiểu là tổ chức các hoạt động tích
cực cho người học, kích thích, thúc đẩy, hướng tư duy của người học vào vấn đề
mà họ cần phải lĩnh hội. Từ đó khơi dậy và thúc đẩy lòng ham muốn, phát triển
nhu cầu tìm tòi, khám phá, chiếm lĩnh trong tự bản thân của người học từ đó
phát triển, phát huy khả năng tự học của họ.
Đối với học sinh bậc THCS cũng vậy, các em là những đối tượng người
học nhạy cảm, việc đưa phương pháp dạy học theo hướng đổi mới là cần thiết.
Vậy làm gì để khơi dậy và kích thích nhu cầu tư duy, khả năng tư duy tích cực,
chủ động, độc lập, sáng tạo phù hợp với đặc điểm của môn học đem lại niềm vui
hứng thú học tập cho học sinh? Trước vấn đề đó người giáo viên cần phải không
ngừng tìm tòi khám phá, khai thác, xây dựng hoạt động, vận dụng, sử dụng phối
hợp các phương pháp dạy học trong các giờ học sao cho phù hợp với từng kiểu
bài, từng đối tượng học sinh, xây dựng cho học sinh một hướng tư duy chủ
động, sáng tạo.
Bên cạnh đó, vấn đề học sinh yếu kém hiện nay luôn được SGD&ĐT
Vĩnh Phúc, PGD&ĐT Vĩnh Tường quan tâm và tìm giải pháp để khắc phục. Với
mong muốn đưa ngành giáo dục Vĩnh Phúc ngày một phát triển toàn diện thì
người giáo viên không chỉ phải biết tìm tòi phương pháp nhằm phát huy tính tích
cực của học sinh và hạ thấp dần tỉ lệ học sinh yếu kém.
Vấn đề nêu trên cũng là khó khăn với không ít giáo viên nhưng ngược lại,
giải quyết được điều này là góp phần xây dựng trong bản thân mỗi giáo viên một
phong cách và phương pháp dạy học hiện đại giúp cho học sinh có hướng tư duy
mới trong việc lĩnh hội kiến thức.
Là một giáo viên giảng dạy môn Ngữ văn, Chúng ta nên làm sao để học
sinh thuộc diện yếu kém có thể biết nghe, nói, đọc, viết. Phải chăng những học
sinh yếu là do không được quan tâm một cách thích đáng, do hoàn cảnh gia đình


hay do các em lêu lỏng dẫn đến mất gốc, chán nản, không thích học…?
Thực hiện văn bản số 456/GD&ĐT “Về việc tổ chức Hội thảo nâng cao
chất lượng phụ đạo học sinh yếu kém cấp THCS” của Phòng Giáo dục và Đào
tạo huyện Vĩnh Tường đề ngày 07 tháng 10 năm 2019. Trong thời gian ngắn
1


(khoảng nửa tháng) thực hiện viết chuyên đề về phụ đạo học sinh yếu kém cấp
THCS, chúng tôi mới chỉ bước đầu phân tích một số nguyên nhân dẫn đến tình
trạng học sinh yếu kém để từ đó đề xuất một số biện pháp dạy giúp các em tiến
bộ trong học tập.
II. THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC CỦA NHÀ TRƯỜNG SO
VỚI TOÀN HUYỆN, TỈNH NĂM HỌC 2018 – 2019
1. Chất lượng chung của toàn trường.
Học lực
- Giỏi
- Khá
- TB
- Yếu
Hạnh kiểm
- Tốt
- Khá
- TB
- Yếu

83 HS = 20,19%
207 HS = 50,36%
113 HS = 27,49%
8 HS = 1,95%
383 HS = 93,19%

26 HS = 6,33%
2 HS = 0,49%
0.0

2. Kết quả khảo sát đầu năm môn ngữ văn.
Giỏi

Khá

T.Bình

Yếu

Kém

Khối

Sĩ số

6

102

-

-

-

25


10

7

109

-

-

-

24

4

8

116

-

-

-

33

8


9

80

-

-

-

15

4

SL

%

SL

%

SL

%

SL

%


SL

%

3. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng học sinh yếu kém.
Từ thực tế giảng dạy, đối chiếu bảng thống kê chất lượng chung của toàn
trường trong năm học 2018 – 2019, và kết quả khảo sát đầu năm các khối lớp
của nhà trường trong năm học 2019 – 2020, chúng tôi xác định những nguyên
nhân cơ bản dẫn đến tình trạng học sinh có sức học trung bình, yếu, kém.
Cụ thể:
2


3.1. Học sinh nhận thức chậm “bẩm sinh”: Thẳng thắn nhìn nhận vào
vấn đề có thể khẳng định ngay rằng, đây là nguyên nhân đầu đầu tiên, phổ biến
dẫn đến học sinh không có hứng thú trong học tập, sự tiếp thu kiến thức sách vở
là rất khó, mặc dù giáo viên có giảng nhiều và áp dụng nhiều biện pháp thế
nhưng tình trạng “học trước quên sau” “nước đổ lá khoai”... đã làm cho cả thầy
và trò rất vất vả, mệt mỏi nhưng hiệu quả thu được thì gần như không đáng kể.
Đối với những đối tượng như vậy thì khả năng dạy dỗ từ sức học yếu, kém lên
trung bình quả là một chặng đường gian nan.
3.2. Học sinh lười học: Qua quá trình giảng dạy, tôi nhận thấy rằng đa số
các học sinh yếu kém là những học sinh chưa chịu chú ý chuyên tâm vào việc
học, về nhà thì không xem bài, không chuẩn bị bài, cứ đến giờ học thì lại cắp
sách đến trường, nhiều khi học sinh còn không biết hôm đó học môn gì, vào lớp
thì không chép bài vì lí do là không mang theo đồ dùng, sách vở học tập học của
môn đó. Nguyên nhân chính của nhóm học sinh này là chưa có phương pháp học
tập phù hợp với môn học vì vậy không hiểu bài ... từ đó dẫn đến sự chán nản,
không tìm được sự cuốn hút từ môn học. Còn một bộ phận học sinh thì không

xác định được mục đích của việc học, học để có điều kiện đi chơi, đến lớp thì lo
chọc phá bạn bè, gọi đến thì không biết trả lời, đang giờ học thì xin ra ngoài...
Theo sách giáo khoa hiện hành thì để dễ dàng tiếp thu bài, nhanh chóng
lĩnh hội được tri thức thì người học phải biết tự tìm tòi, tự khám phá, có như thế
thì khi vào lớp mới nhanh chóng tiếp thu và hiểu bài một cách sâu sắc được. Tuy
nhiên, phần lớn học sinh hiện nay đều không nhận thức được điều đó. Học sinh
chỉ đợi đến khi lên lớp, nghe giáo viên giảng bài rồi mới ghi vào những nội dung
đã học rồi về nhà lấy tập ra “học vẹt” mà không hiểu nội dung đó nói điều gì.
3.3. Học sinh bị hổng kiến thức từ lớp nhỏ: Đây là một điều không thể
phủ nhận, với chương trình học tập hiện nay, để có thể học tốt, đặc biệt là môn
Ngữ văn thì để việc học tập có kết quả thì đòi hỏi trước đó học sinh phải có vốn
từ, vốn kiến thức nhất định. Tuy nhiên, hiện nay rất nhiều học sinh đã không có
được những vốn kiến thức cơ bản ngay từ lớp nhỏ, từ đó càng lên các lớp lớn
hơn, học những kiến thức mới có liên quan đến những kiến thức cũ thì học sinh
đã quên hết cho nên việc tiếp thu kiến thức mới trở thành điều rất khó khăn đối
với các em.
3.4. Phía người dạy: Thầy hay thì mới có trò giỏi. Ngày nay, để có thể
thực hiện tốt trong công tác giảng dạy thì đòi hỏi người giáo viên phải không
ngừng học tập nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ. Tuy nhiên, ở đây không
phải giáo viên nào có trình độ học vấn cao, tốt nghiệp loại giỏi thì sẽ giảng dạy
tốt mà ở đây đòi hỏi người giáo viên phải biết lựa chọn phương pháp dạy học
nào là tốt với từng đối tượng học sinh có lộ trình phù hợp, sự nhiệt huyết và
quyết tâm của cả thầy và trò thì sẽ đem lại hiệu quả.
3


Để nâng dần chất lượng học sinh không phải là chuyện một sớm một
chiều mà nó đòi hỏi phải có sự kiên nhẫn và lòng quyết tâm của người giáo viên.
Phụ đạo học sinh yếu kém phải thật sự được giáo viên quan tâm nhất là trong
tình hình học tập hiện nay của học sinh, nhưng phụ đạo như thế nào, phương

pháp ra sao thì đó cũng là một vấn đề đòi hỏi giáo viên cần phải không ngừng
tìm hiểu.
3.5. Về phía phụ huynh : Còn một số phụ huynh học sinh thiếu quan tâm
đến việc học tập ở nhà của con em, phó mặc mọi việc cho nhà trường và thầy cô.
Gia đình học sinh gặp nhiều khó khăn về kinh tế hoặc đời sống tình cảm
khiến trẻ không chú tâm vào học tập.
Một số cha mẹ quá nuông chiều con cái, quá tin tưởng vào các em nên
học sinh lười học, xin nghỉ để làm việc riêng (như đi chơi, giả bệnh,...) cha mẹ
cũng đồng ý cho phép nghỉ học, vô tình là đồng phạm góp phần làm học sinh
lười học, mất dần căn bản...Từ đó dẫn đến tình trạng yếu kém.
III. ĐỐI TƯỢNG HỌC SINH, DỰ KIẾN SỐ TIẾT DẠY.
- Đối tượng học sinh có sức học yếu, kém các khối lớp 6,7,8,9.
- Số buổi dạy: 20 buổi
IV. HỆ THỐNG CÁC DẠNG BÀI TẬP ĐẶC TRƯNG CỦA CHUYÊN ĐỀ.
1. Dạng bài tập nhận biết.
Mục tiêu của loại câu hỏi này là để kiểm tra trí nhớ của học sinh về các dữ
liệu, số liệu, các định nghĩa, tên tuổi, địa điểm,...
Việc trả lời các câu hỏi này giúp học sinh ôn lại được những gì đã học, đã
đọc hoặc đã trải qua.
Các từ để hỏi thường là:
+ Tìm...
+ Cái gì?
+ Bao nhiêu?
+ Hãy định nghĩa.
+ Cái nào?
+ Em biết những gì về?
+ Khi nào?
+ Bao giờ?
+ Hãy mô tả?
4



Ví dụ:
Bài tập 1: Tìm biện pháp so sánh dựa vào các từ ngữ so sánh
a. Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra
( Ca dao)
b. Những ngôi sao thức ngoài kia
Chẳng bằng mẹ đã thức vì chúng con
Mẹ – Trần Quốc Minh)
Bài tập 2: Tìm biện pháp so sánh dựa vào từ hô ứng.
a. Qua đình ngả nón trông đình
Đình bao nhiêu ngói thương mình bấy nhiêu.
( Ca dao).
b. Ai ơi đừng bỏ ruộng hoang
Bao nhiêu tấc đất tấc vàng bấy nhiêu
( Ca dao).
c. Qua cầu ngả nón trông cầu
Cầu bao nhiêu nhịp dạ sầu bấy nhiêu
( Ca dao).
Bài tập 3: Tìm biện pháp so sánh dựa vào kiểu cấu trúc “A là B”
a. Quê hương là chùm khế ngọt
Cho con trèo hái mỗi ngày.
( Quê hương – Đỗ Trung Quân).
b. Anh là mây bốn phương
Anh theo cánh gió chơi vơi
Em vẫn nằm trong nhung lụa.
( Một mùa đông – Lưu Trọng Lư ).
c. Ba là cây nến vàng
Mẹ là cây nến xanh

Con là cây nến hồng
Ba ngọn nến lung linh
Thắp sáng một gia đình.
5


Bài tập 4: Tìm nhân hóa dựa vào từ miêu tả hình dáng con người của sự vật
Thân gầy guộc, lá mong manh
Mà sao nên lũy nên thành tre ơi
( Tre Việt Nam – Nguyễn Duy).
Bài tập 5: Tìm nhân hóa dựa vào từ miêu tả hoạt động con người của sự vật
a. Bão bùng thân bọc lấy thân
Tay ôm tay níu tre gần nhau thêm.
( Tre Việt Nam – Nguyễn Duy).
b. Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then, đêm sập cửa.
( Đoàn thuyền đánh cá – Huy Cận).
c. Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ
Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ
( Ngắm trăng – Hồ Chí Minh).
Bài tập 6: Tìm nhân hóa dựa vào từ diễn tả tâm trạng con người của sự vật
a. Hết mùa hoa, chim chóc cũng vãn. Cây gạo chấm dứt những ngày tưng bừng,
ồn ã, lại trở về với dáng vẻ xanh mát, trầm tư.
b. Tiếng nước thác nghe như là oán trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại như
là khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo.
( Người lái đò sông Đà – Nguyễn Tuân).
c. Mặc dù cái thằng đá tướng đứng chiến ở cửa vào đã tiu nghỉu cái mặt xanh lè
thất vọng thua cái thuyền đã đánh trúng vào cửa sinh nó trấn lấy.
( Người lái đò sông Đà – Nguyễn Tuân).
d. Từ đây như đã tìm đúng đường về, sông Hương vui tươi hẳn lên giữa những

biền bãi xanh biếc của vùng ngoại ô Kim Long,…
( Ai đã đặt tên cho dòng sông – Hoàng Phủ Ngọc Tường).
Bài tập 7: Tìm nhân hóa dựa vào từ diễn tả tính cách con người của sự vật
a. Dòng sông mới điệu làm sao
Nắng lên mặc áo lụa đào thướt tha
( Dòng sông mặc áo – Nguyễn Trọng Tạo).
6


b. Hàng cau nhút nhát, e thẹn trước ánh nắng ban mai.
c. Họa Mi tự tin khoe tiếng hót của mình trước các loài chim.
Bài tập 8: Tìm ẩn dụ dựa trên những nét tương đồng của sự vật, hiện tượng
a. Thuyền về có nhớ bến chăng
Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền
b. Thân em vừa trắng lại vừa tròn
Bảy nổi ba chìm với nước non
Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn
Mà em vẫn giữ tấm lòng son.
Bài tập 9: Tìm ẩn dụ dựa vào các công thức dân gian (mô tip)
Thân em (em như)

A

B

a. Thân em như tấm lụa đào
Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai.
b. Thân em như hạt mưa sa
Hạt vào đài các hạt ra ruộng cày.
c. Thân em như giếng giữa đàng

Người khôn rửa mặt người phàm rửa chân.
d. Thân em như củ ấu gai.
Ruột trong thì trắng, vỏ ngoài thì đen
Ai ơi nếm thử mà xem
Nếm ra mới biết rằng em ngọt bùi.
e. Em như con hạc đầu đình
Muốn bay không nhấc nổi mình mà bay.
Bài tập 10: Tìm ẩn dụ dựa vào sự chuyển đổi cảm giác
a. Ngoài thềm rơi chiếc lá đa,
Tiếng rơi rất mỏng như là rơi nghiêng
( Đêm Côn Sơn – Trần Đăng Khoa).

7


b. Chao ôi, trông con sông, vui như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm, vui như
nối lại chiêm bao đứt quãng.
(Người lái đò sông Đà – Nguyễn Tuân).
c. Em thấy cả trời sao
Xuyên qua từng kẽ lá
Em thấy cơn mưa rào
Ướt tiếng cười của bố
( Chiếc võng của bố – Phan Thế Cải).
Bài tập 11: Tìm hoán dụ dựa vào sự xuất hiện của các bộ phận trên cơ thể người
a. Bàn tay ta làm nên tất cả
Có sức người sỏi đá cũng thành cơm.
( Bài ca vỡ đất – Hoàng Trung Thông).
b. Mắt thương nhớ ai
Mắt ngủ không yên.
( Ca dao).

c. Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước
Chỉ cần trong trong xe có một trái tim.
( Bài thơ về tiểu đội xe không kính – Phạm Tiến Duật).
d. Đầu xanh có tội tình gì
Má hồng đến quá nửa thì chưa thôi
( Truyện Kiều – Nguyễn Du).
Bài tập 12: Tìm hoán dụ dựa vào sự xuất hiện của trang phục hay những vật
dụng của con người
a. Áo nâu liền với áo xanh
Nông thôn cùng với thị thành đứng lên
( Ba mươi năm đời ta có Đảng – Tố Hữu).
b. Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay.
( Việt Bắc – Tố Hữu).
c. Ðường hoa son phấn đợi
Áo gấm về sênh sang.
(Đời tàn ngõ hẹp – Vũ Hoàng Chương).
8


d. Nhớ đôi dép cũ nặng công ơn
Yêu Bác lòng ta trong sáng hơn.
( Bác ơi – Tố Hữu).
e. Những chiếc khăn quàng đỏ đang bay phất phới giữa sân trường.
Bài tập 13: Tìm hoán dụ dựa vào sự xuất hiện của số đếm
a. Một cây làm chẳng nên non
Ba cây chụm lại nên hòn núi cao
( Ca dao).
b. Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân

( Viếng Lăng Bác – Viễn Phương).
c. Vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng người.
(Hồ Chí Minh).
Bài tập 14: Tìm hoán dụ dựa vào vật chứa đựng và vật bị chứa đựng
a. Vì sao trái đất nặng ân tình
Nhắc đến tên người Hồ Chí Minh.
( Theo chân Bác – Tố Hữu).
b. Bác nhớ miền Nam nỗi nhớ nhà
Miền Nam mong Bác nỗi mong cha.
( Bác ơi – Tố Hữu).
2. Dạng bài tập thông hiểu
Mục tiêu của loại câu hỏi này là để kiểm tra cách học sinh liên hệ, kết nối
các dữ liệu, số liệu, tên tuổi, địa điểm, các định nghĩa…
Việc trả lời các câu hỏi này cho thấy học sinh có khả năng diễn tả bằng lời
nói, nêu ra được các yếu tố cơ bản hoặc so sánh các yếu tố cơ bản trong nội
dung đang học.
Các cụm từ để hỏi thường là:
+ Tại sao? + Nêu?
+ Hãy xác định.
+ Hãy phân biệt.
Ví dụ:
Bài tập 1: Phân biệt khởi ngữ và trạng ngữ.
9


Đáp án:
- Khởi ngữ luôn đứng trước chủ ngữ, nhằm nhấn mạnh đề tài muốn nói đến
trong câu.
- Trạng ngữ vị trí linh động hơn (có thể đứng đầu câu, giữa câu, cuối câu), là
thành phần phụ bổ sung cho nòng cốt câu.

Bài tập 2: Nêu những từ ngữ thường dùng trong phép nối
Đáp án:
Những từ ngữ thường dùng trong phép nối: và, rồi, nhưng, mà, còn, vì, nếu, tuy,
vì vậy, nếu thế, vậy nên, thế thì…
Bài tập 3: Trong các câu sau, câu nào có trạng ngữ:
Trời ấm áp vô cùng, dễ chịu vô cùng.
Em đuổi theo nó và vồ hụt ba lần liền.
Họ đén trước ngôi nhà nhỏ, quét voi trăng, hết sức sạch sẽ.
Ngày hôm sau, khi em bé đến trường, một tiếng cười ác ý đón em.
Đáp án: D
Bài tập 4: Liệt kê các sự việc xảy ra trong đoạn trích “ Bố của Xi – mông”?
Đáp án:
Các sự việc xảy ra trong đoạn trích “ Bố của Xi – mông”
- Bị bạn bè chêu chọc là không có bố, Xi – mông bỏ ra bờ sông một mình.
- Bác Phi- líp an ủi và đưa Xi- mong về nhà. Chị Blawng- sốt đón họ.
- Xi- mông hỏi bác Phi- líp có muốn làm cha cậu hay không và bác Phi- líp nhận
lời. Xi- mông sung sướng.
- Ngày hôm sau, Xi-mông đến trường với niềm kiêu hãnh : bố cậu là Phi-líp.
Bài tập 5: Nêu những từ ngữ thường dùng trong phép nối
Đáp án:
Những từ ngữ thường dùng trong phép nối: và, rồi, nhưng, mà, còn, vì, nếu, tuy,
vì vậy, nếu thế, vậy nên, thế thì…
Bài tập 6: Trong các câu sau, câu nào có trạng ngữ:
Trời ấm áp vô cùng, dễ chịu vô cùng.
Em đuổi theo nó và vồ hụt ba lần liền.
Họ đén trước ngôi nhà nhỏ, quét voi trăng, hết sức sạch sẽ.
10


Ngày hôm sau, khi em bé đến trường, một tiếng cười ác ý đón em.

Đáp án: D
Bài tập 7: Xác định các từ địa phương có trong đoạn thơ sau:
Chuối đầu vườn đã lổ
Cam đầu ngõ đã vàng
Em nhớ ruộng nhớ vườn
Không nhớ anh răng được!
(Thăm lúa - Trần Hữu Thung)
Đáp án: lổ: trổ, răng (sao)
Bài tập 8: Ôn tập câu đơn, câu ghép. Các kiểu quan hệ về nghĩa giữa các vế
trong câu ghép.
Đáp án:
- Câu đơn là câu chỉ có một cụm C-V (một vế câu). Câu ghép là câu có 2 cụm CV trở lên không bao hàm nhau. Cho VD để phân biệt câu đơn, câu ghép, câu
phức.
- Các kiểu quan hệ: bổ sung, mục đích - điều kiện, hệ quả - nguyên nhân, điều
kiện - giả thiết, tương phản.
Bài tập 9: Liệt kê các tác phẩm truyện hiện đại Việt Nam trong chương trình
Ngữ văn 9 mà em đã học.
Đáp án:
1. Chống Pháp: Làng - Kim Lân
2. Chống Mỹ: Chiếc lược ngà - Nguyễn Quang Sáng, Lặng lẽ Sapa - Nguyễn
Thành Long, Những ngôi sao xa xôi - Lê Minh Khuê, Bến quê - Nguyễn Minh
Châu
Bài tập 10: Cách biến đổi câu: câu đầy đủ → câu rút gọn; câu chủ động → câu
bị động?
Đáp án:
- Câu đầy đủ → câu rút gọn: xác định câu rút gọn được rút gọn chủ ngữ, vị ngữ
hoặc cả câu → khôi phục lại bộ phận được rút gọn dựa vào ngữ cảnh để cập
trong văn bản.
- Câu chủ động → câu bị động hoặc ngược lại: vẫn phải bảo đảm nội dung câu
không thay đổi, cần xác định rõ chủ thể, đối tượng bị tác động, các từ bị, được.


11


Bài tập 11: Trong đoạn văn sau, câu nào chứa hàm ý?
"Báo cáo hết ! – Người con trai vụt trở lại giọng vui vẻ. – Năm phút nữa là
mười. Còn hai mươi phút thôi. Bác và cô vào trong nhà. Chè đã ngấm rồi đấy."
( Trích: "Lặng lẽ Sa Pa” - Nguyễn Thành Long )
A. Báo cáo hết !
B. Người con trai trở lại giọng vui vẻ.
C. Còn hai mươi phút thôi.
D. Chè đã ngấm rồi đấy.
Đáp án: D
V. CÁC BIỆN PHÁP CƠ BẢN, ĐẶC TRƯNG ĐỂ GIẢI CÁC DẠNG BÀI
TẬP TRONG CHUYÊN ĐỀ.
1. Nhóm các biện pháp trước và sau khi tiến hành dạy học trên lớp
1.1. Giáo dục ý thức học tập cho học sinh:
Giáo viên phải giáo dục ý thức học tập của học sinh ở bộ môn mình, tạo
cho học sinh sự hứng thú trong học tập bộ môn từ đó sẽ giúp cho học sinh có ý
thức vươn lên. Trong mỗi tiết dạy giáo viên liên hệ nhiều kiến thức vào thực tế
để học sinh thấy được ứng dụng và tầm quan trọng của môn học trong thực tiễn.
Phải tạo cho không khí lớp học thoải mái nhẹ nhàng, đừng để cho học
sinh sợ giáo viên mà hãy làm cho học sinh thương yêu, tôn trọng mình. Giáo
viên không nên dùng biện pháp đuổi học sinh ra ngoài không cho học sinh học
tiết học đó khi học sinh không ngoan, không chép bài. Vì làm như thế học sinh
sẽ không được học tiết đó thế là học sinh lại có một buổi học không thu hoạch
được gì. Chúng ta phải tìm cách khuyên nhủ, nhắc nhở học sinh giáo dục ý thức
học tập của học sinh hoặc dùng một biện pháp giáo dục đó chứ đừng đuổi học
sinh ra ngoài trong giờ học.
1.2. Kèm cặp học sinh yếu kém:

Ngay từ đầu năm, giáo viên phải lập danh sách học sinh yếu kém bộ môn
mình ở năm học trước để nắm rõ các đối tượng học sinh, lập danh sách học sinh
yếu kém và chú ý quan tâm đặc biệt đến những học sinh này trong mỗi tiết học
như thường xuyên gọi các em đó lên trả lời, khen ngợi khi các em trả lời đúng…
Tổ chức các nhóm học tập cho học sinh, trong nhóm có đủ các đối tượng
học sinh khá, giỏi, trung bình, yếu kém. Lên kế hoạch cụ thể cho các nhóm
học sinh này hoạt động và thường xuyên theo dõi, đôn đốc, và thường xuyên
kiểm tra các nhóm để có thể nắm bắt kịp thời tình hình của học sinh.

12


Tổ chức dạy phụ đạo cho học sinh yếu kém: lập danh sách học sinh học
yếu kém lên kế hoạch dạy phụ đạo cho các em, một mặt là giúp các em có thể
nêu lên những thắc mắc của các em về những điều các em chưa hiểu trong tiết
học chính khóa để giáo viên có thể giải đáp cho học sinh đồng thời hướng dẫn
cho học sinh làm bài tập. Mặt khác, ở buổi học phụ đạo này, giáo viên từng
bước bồi dưỡng cho học sinh, từng bước lấp đầy những chổ hỏng kiến thức của
học sinh, giúp học sinh có được những kiến thức cơ bản nhất về chương trình
học. Khi thực hiện việc dạy phụ đạo, giáo viên phải thường xuyên theo dõi kiểm
tra học sinh để luôn nắm được tình hình học tập của các em, từ đó giáo viên rút
kinh nghiệm cho những giờ học sau.
1.3. Một số biện pháp đối với học sinh cá biệt.
Đối với các học sinh cá biệt thì việc giúp cho các em vươn lên là một điều
hết sức khó khăn vì các em không có ý thức học tập, vào lớp thì không chịu học
bài, không chú ý nghe giáo viên giảng bài, về nhà không chuẩn bị bài...
Đối với đối tượng học sinh này, giáo viên bộ môn cần phải phối hợp chặt
chẽ với giáo viên chủ nhiệm thường xuyên nhắc nhở các em về ý thức học tập,
thường xuyên kiểm tra tập của học sinh, khi học sinh vi phạm thì giáo viên nên
kết hợp với phụ huynh để răn đe, giáo dục các em. Phối hợp chặt chẽ giữa nhà

trường và gia đình giám sát việc học nhóm, học phụ đạo của học sinh.
1.4. Rèn luyện về chuyên môn nghiệp vụ của giáo viên:
Giáo viên cần phải không ngừng tìm tòi học hỏi để nâng cao trình độ
chuyên môn nghiệp vụ, tìm ra và vận dụng tốt các phương pháp dạy học mới.
Người giáo viên dạy giỏi mới giúp cho học sinh có thể đi đến lĩnh hội tri thức
một cách dễ dàng và nhanh chóng. Giáo viên thường xuyên dự giờ trao đổi rút
kinh nghiệm một cách thẳng thắng để cùng bàn bạc tìm ra phương pháp dạy
học hay cho từng nội dung giảng dạy.
Với mức độ phát triển của công nghệ thông tin như hiện nay thì việc giáo
viên tìm tòi học hỏi những sáng kiến kinh nghiệm của các bạn ở nơi xa cũng
không phải là một chuyện quá khó. Giáo viên chỉ cần chịu khó tìm hiểu thêm về
Internet để biết cách truy cập mạng tìm những sáng kiến kinh nghiệm về đọc để
có thể rèn luyện thêm về kĩ năng và phương pháp giảng dạy.
2. Nhóm các biện pháp dạy học.
2.1. Xác định kiến thức cơ bản cho học sinh.
Sau khi soạn giáo án xong, cần nghiên cứu nội dung toàn bài trong SGK,
xác định kiến thức cơ bản của bài, hiểu rõ nội dung mà tác giả mong muốn ở học
sinh về từng mặt giáo dục, giáo dưỡng, phát triển. Sau đó đi sâu vào từng mục,
tìm ra kiến thức cơ bản của mục đó, sự liên quan của kiến thức đó với kiến thức
13


cơ bản của toàn bài. Mỗi bài có từ hai đến ba mục nhưng không dàn đều về mặt
thời gian cũng như khối lượng kiến thức của từng phần mà phải xác định phần
nào lướt qua, phần nào là
trọng tâm thì dành nhiều thời gian hơn.
Việc xác định kiến thức cơ bản có ý nghĩa quan trọng. Nó giúp học sinh
biết cần phải học cái gì, phải nắm cái gì và hiểu cái gì. Trên nền tảng kiến thức
cơ bản GV xây dựng hệ thống bài tập thực hành cho học sinh yêu cầu học sinh
làm bài tập. Qua đó các em sẽ lĩnh hội được kiến thức cơ bản của bài học.

2.2. Biện pháp dạy học tích hợp.
Dạy học tích hợp, liên môn xuất phát từ yêu cầu của mục tiêu dạy học
phát triển năng lực học sinh, đòi hỏi phải tăng cường yêu cầu học sinh vận
dụng kiến thức vào giải quyết những vấn đề thực tiễn.Khi giải quyết một vấn đề
trong thực tiễn, bao gồm cả tự nhiên và xã hội, đòi hỏi học sinh phải vậndụng
kiến thức tổng hợp, liên quan đến nhiều môn học. Vì vậy, dạy học cần phải tăng
cường theo hướng tích hợp liên môn.
Dạy học tích hợp có nghĩa là đưa những nội dung giáo dục có liên quan
vào quá trình dạy học các môn học như: tích hợp giáo dục đạo đức, lối sống;
giáo dục pháp luật; giáo dục chủ quyền quốc gia về biên giới, biển, đảo; giáo
dục sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả, bảo vệ môi trường, an toàn giao
thông...
Việc áp dụng dạy học theo Phương pháp dạy học tích hợp có ưu điểm đó
là các chủ đề liên môn, tích hợp có tính thực tiễn nên sinh động, hấp dẫn đối với
học sinh, có ưu thế trong việc tạo ra động cơ, hứng thú học tập cho học sinh.
Học các chủ đề tích hợp, liên môn, học sinh được tăng cường vận dụng kiến
thức tổng hợp vào giải quyết các tình huống thực tiễn, ít phải ghi nhớ kiến thức
một cách máy móc.
Điều quan trọng hơn là các chủ đề tích hợp, liên môn giúp cho học sinh
không phải học lại nhiều lần cùng một nội dung kiến thức ở các môn học khác
nhau, vừa gây quá tải, nhàm chán, vừa không có được sự hiểu biết tổng quát
cũng như khả năng ứng dụng của kiến thức tổng hợp vào thực tiễn.
Qua việc áp dụng phuong pháp dạy học này học sinh sẽ có hứng thú học
tập và các em có thể nắm được kiến thức nhanh chóng do đó chất lượng bộ môn
cũng tăng lên.
2.3. Sử dụng biện pháp hệ thống hoá kiến thức qua sơ đồ tư duy.
Sơ đồ tư duy là hình thức ghi chép nhằm tìm tòi đào sâu, mở rộng một ý
tưởng, tóm tắt những ý chính của một nội dung, hệ thống hóa một chủ đề…
14



bằng cách kết hợp việc sử dụng hình ảnh, đường nét, màu sắc, chữ viết…Đặc
biệt đây là một sơ đồ mở, việc thiết kế sơ đồ là theo mạch tư duy của mỗi người.
Việc ghi chép thông thường theo từng hàng chữ khiến chúng ta khó hình
dung tổng thể vấn đề, dẫn đến hiện tượng đọc sót ý, nhầm ý. Còn sơ đồ tư duy
tập trung rèn luyện cách xác định chủ đề rõ ràng, sau đó phát triển ý chính, ý
phụ một cách logic.
2.4. Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong giảng dạy
Trong thời đại của chúng ta sự bùng nổ công nghệ thông tin đã tác động
đến công cuộc phát triển kinh tế xã hội loài người. Đảng và Nhà nước ta đã xác
định rõ ý nghĩa và tầm quan trọng của công nghệ thông tin, truyền thông cũng
như yêu cầu đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, đào tạo nguồn nhân lực
đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa, mở cửa và hội nhập, hướng tới
nền kinh tế tri thức.
Ngày nay khi công nghệ thông tin càng phát triển thì việc ứng dụng công
nghệ thông tin vào tất cả các lĩnh vực là một điều tất yếu, trong đó có lĩnh vực
Giáo dục và Đào tạo. Trong giáo dục đào tạo công nghệ thông tin được ứng
dụng mạnh mẽ trong những năm gần đây và các trường đã đưa tin học vào giảng
dạy, học tập. Công nghệ thông tin được như là một công cụ hỗ trợ đắc lực nhất
cho đổi mới phương pháp dạy học ở các môn học.
3. Hệ thống các ví dụ, cùng bài tập cụ thể minh họa cho chuyên đề
1. Biện pháp dạy bài từ loại
- TỪ LOẠI
1. Danh từ:
2. Động từ:
3. Tính từ:
4. Số từ:
5. Lượng từ:
6. Phó từ:
7. Đại từ:

8. Chỉ từ:
9. Quan hệ từ:
10. Trợ từ:
11. Thán từ:
12. Tình thái từ:
Ví dụ: Bài danh từ giáo viên tiến hành các bước:
Bước 1: Giáo viên yêu cầu học sinh đọc ngữ liệu trong sách giáo khoa.
Bước 2: Gọi học sinh lên bảng gạch chân dưới các từ chỉ người, vật, hiện tượng,
khái niệm...
15


Bước 3: Gv yêu cầu học sinh chỉ ra từ nào là tên riêng của từng người, từng vật,
từng địa phương; từ nào là tên gọi một loại sự vật.
Bước 4: Khái niệm danh từ? Có mấy loại? Cách nhận biết...
Bước 5: Giáo viên đưa ngữ liệu củng cố, đưa bài tập vận dụng tổng hợp.
2. Biện pháp dạy bài phân loại từ theo cấu tạo.
- PHÂN LOẠI TỪ THEO CẤU TẠO
1. Từ là đơn vị ngôn ngữ nhỏ nhất dùng để đặt câu.
2. Từ có 2 loại: Từ đơn, từ phức
- Từ đơn: có 1 tiếng
- Từ phức: Có 2 tiếng trở lên.
+ Từ ghép: Các tiếng có quan hệ với nhau về nghĩa (từ ghép chính phụ,
từ ghép đẳng lập)
+ Từ láy: Giữa các tiếng có sự láy âm. (từ láy toàn bộ, từ láy bộ phận)
Ngay từ lớp 6, phân môn Tiếng Việt rất chú trọng rèn cho HS kĩ năng viết
câu, dùng từ, viết đoạn văn. Học sinh yếu thường bị động trong suy nghĩ, ngại
khó, ngại viết dài nên thường lúng túng trước loại bài tập này và không bao giờ
đạt điểm tối đa ở loại bài tập viết đoạn do không nắm vững kĩ năng viết đoạn
văn. Với loại bài tập này, sau khi ra đề giáo viên nên dành thời gian 2 đến 3 phút

để hướng dẫn.
Ví dụ: Viết đoạn văn ngắn (6 - 8 câu) chủ để học tập trong đó có sử dụng 2 loại
từ láy đã học. Với yêu cầu này, giáo viên hướng dẫn theo các bước sau:
Bước 1: Giáo viên hỏi học sinh 2 loại từ láy đã học (từ láy bộ phận và từ láy
toàn bộ).
Bước 2: Giáo viên yêu cầu học sinh cho ví dụ hai loại từ láy ấy, giáo viên nhấn
mạnh học sinh nên tìm hai loại từ láy có liên quan đến học tập (ngoan ngoãn,
chăm chỉ, cẩn thận, …)
Bước 3: GV gợi ý chủ đề của đoạn văn (HS có thể viết về học tập của bản thân
ở lớp, về nhà chăm chỉ học bài, ngoan ngoãn nghe lời thầy cô, cha mẹ, … Khi
gợi ý, giáo viên khéo léo lồng các từ láy vào, học sinh yếu được giáo viên gợi ý
như vậy sẽ dễ dàng hình dung và có thể viết đoạn văn theo yêu cầu.
Bước 4: GV lưu ý học sinh viết đủ câu, sau khi viết xong, GV nhắc HS gạch
dưới 2 loại từ láy có trong đoạn.
Nếu có thời gian, GV gọi HS yếu lên bảng viết lại đoạn văn đã làm, GV sửa
trước lớp về số câu, nội dung, vận dụng 2 từ láy đã hợp chưa? GV không nên
khắt khe đòi hỏi HS phải viết hay mà chỉ nên dừng lại ở mức viết đúng và đủ. Vì
với học sinh yếu, các em viết được như thế cũng là thành công.

16


3. Biện pháp dạy bài các biện pháp tu từ.
- CÁC BIỆN PHÁP TU TỪ
1. So sánh :
2. Nhân hóa :
3. Ẩn dụ:
4. Hoán dụ :
5. Điệp ngữ :
6. Liệt kê :

7. Nói quá
8. Nói giảm nói tránh :
9. Chơi chữ
Ví dụ: Bài nhân hóa giáo viên tiến hành các bước:
Bước 1: Cung cấp cho học sinh hai ví dụ cùng chủ đề, một đoạn có sử dụng các
từ vốn được dùng để gọi hoặc tả con người và một đoạn không có các từ như
vậy. Chẳng hạn:
a. Người ngắm trăng sáng ngoài cửa sổ
Trăng xuyên qua khe cửa vào nhà lao
b. Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ
Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ
( Ngắm trăng – Hồ Chí Minh).
Bước 2: Yêu cầu học sinh tìm các từ ngữ vốn được dùng để gọi hoặc tả con
người có trong hai ví dụ đó.
=> Học sinh sẽ chỉ ra các từ “nhòm, ngắm”
Bước 3: Sau khi học sinh tìm được các từ được dùng để gọi hoặc tả con người
có trong ví dụ, giáo viên đặt câu hỏi: Các từ ấy chỉ đối tượng nào?
=> Chỉ trăng.
Bước 4: Hãy so sánh với hai câu phần (a) không có các từ nhân hóa với 2 câu
trong bài thơ Ngắm trăng của Bác Hồ, em thấy vầng trăng trong câu nào gần gũi
hơn?
=> Câu b.
Bước 5: Giáo viên hướng dẫn học sinh rút ra khái niệm. Sau đó yêu cầu mỗi học
sinh đặt 1 câu có sử dụng biện pháp nghệ thuật nhân hóa.
Nhân hoá là cách gọi hoặc tả con vật, cây cối, đồ vật, hiện tượng thiên nhiên
bằng những từ ngữ vốn được dùng để gọi hoặc tả con người; làm cho thế giới
loài vật, cây cối đồ vật, … trở nên gần gũi với con người, biểu thị được những
suy nghĩ tình cảm của con người.
17



III. KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC.
(Đang triển khai)
Kết quả môn ngữ văn của nhà trường qua bài khảo sát chất lượng
giữa học kì 1 năm học 2019 – 2020.
Khối

Sĩ số

Giỏi
SL

%

Khá
SL

%

T.Bình
SL

%

Yếu
SL

%

Kém

SL

%

6
7
8
9

18



×