Tải bản đầy đủ (.pdf) (144 trang)

LUẬN VĂN Nghiên cứu tác phẩm chữ Nôm Dao Hạ bản triều khoa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.64 MB, 144 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN HẠNH VÂN

NGHIÊN CỨU TÁC PHẦM CHỮ NÔM DAO
HẠ BẢN TRIỀU KHOA

LUẬN VĂN THẠC SĨ HÁN NÔM

HÀ NỘI, 2019


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN HẠNH VÂN

NGHIÊN CỨU TÁC PHẨM CHỮ NÔM DAO
HẠ BẢN TRIỀU KHOA

Ngành: Hán Nôm
Mã số: 8.22.01.04

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS TRỊNH KHẮC MẠNH

HÀ NỘI, 2019


LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự
hướng dẫn của PGS.TS. Trịnh Khắc Mạnh, những kết quả nghiên cứu được
trình bày trong luận văn là trung thực, khách quan. Nếu sai tôi xin chịu trách
nhiệm hoàn toàn trước pháp luật.
Hà Nội, ngày 16 tháng 8 năm 2019
Tác giả

Nguyễn Hạnh Vân


LỜI CẢM ƠN
Luận văn hoàn thành theo chương trình đào tạo cao học tại Học viện
Khoa học xã hội thuộc Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam. Hoàn thành
luận văn thạc sĩ này, tôi đã nhận được sự quan tâm của các thầy, cô giáo thuộc
Khoa Hán Nôm, Học viện Khoa học xã hội; các thầy cô giáo thuộc Viện
Nghiên cứu Hán Nôm; các thầy, cô giáo thuộc Khoa Ngữ văn Trường Đại học
Tây Bắc, nơi tôi công tác. Nhân dịp này tôi xin bày tỏ lòng biết ơn đến sự
giúp đỡ quý báu đó.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS.TS. Trịnh Khắc Mạnh,
người thầy đã trực tiếp chỉ dạy và hướng dẫn tôi hoàn thành luận văn.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn đến gia đình, bạn bè, đồng nghiệp đã động
viên, ủng hộ tôi trong quá trình học tập và thực hiện luận văn.
Mặc dù đã có nhiều nỗ lực nhưng chắc chắn không tránh khỏi sai sót,
tôi rất mong nhận được những ý kiến đóng góp của các thầy cô, các nhà khoa
học và bạn bè đồng nghiệp để luận văn được hoàn thiện hơn.
Tôi xin trân trọng cảm ơn!
Hà Nội, ngày 16 tháng 8 năm 2019
Tác giả

Nguyễn Hạnh Vân



MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................................ 1
Chương 1. LƯỢC KHẢO VỀ DÂN TỘC DAO VÀ VĂN BẢN CHỮ NÔM
DAO HIỆN LƯU GIỮ TẠI VIỆN NGIÊN CỨU HÁN NÔM .......................... 11
1.1. Giới thiệu về dân ca nghi lễ của người Dao ......................................... 11
1.2. Khảo sát văn bản chữ Nôm Dao lưu giữ tại VNCHN .......................... 16
Chương 2. TÌM HIỂU GIÁ TRỊ TÁC PHẨM HẠ BẢN TRIỀU KHOA .........33
2.1. Tìm hiểu giá trị nội dung ...................................................................... 33
2.2. Tìm hiểu hình thức thể hiện tác phẩm .................................................. 52
2.3. Chữ Nôm Dao trong văn bản Hạ bản triều khoa ................................. 55
Chương 3. TÍNH ỨNG DỤNG CỦA TÁC PHẨM HẠ BẢN TRIỀU KHOA VÀ
VẤN ĐỀ BẢO TỒN VĂN BẢN NÔM DAO ........................................................62
3.1. Tính ứng dụng của tác phẩm Nôm Dao Hạ bản triều khoa ................. 62
3.2. Vấn đề bảo tồn và phát huy những giá trị văn bản Nôm Dao .............. 72
KẾT LUẬN..................................................................................................................77
TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................................80
PHỤ LỤC.....................................................................................................................86


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

STT
1
2

CHỮ VIẾT THƯỜNG

CHỮ VIẾT TẮT

Nxb.

Nhà xuất bản

Thư mục

Thư mục sách Hán Nôm các dân tộc
thiểu số Việt Nam

3

Tr

Trang

4

VNCHN

Viện Nghiên cứu Hán Nôm


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trên đất nước Việt Nam các dân tộc cùng chung sống, gắn bó và đoàn
kết với nhau. Mỗi dân tộc mang vẻ đẹp, nét văn hóa riêng của dân tộc đó. Dân
tộc Dao là một trong những dân tộc có nền văn hóa truyền thống đa dạng và
phong phú. Người Dao có số dân là 751.067 người [45] sống tại các tỉnh miền
núi phía Bắc như: Cao Bằng, Hà Giang, Yên Bái, Lào Cai, Lai Châu, Tuyên
Quang, Lạng Sơn… đến một số tỉnh như: Phú Thọ, Hòa Bình, Quảng Ninh và

một số ít ở Tây Nguyên do di cư sau này.
Hiện dân tộc Dao còn lưu giữ được số lượng văn bản ghi bằng chữ cổ
khá lớn, những chữ cổ này còn gọi là chữ Nôm Dao. Trong đời sống hàng
ngày người Dao gọi đó là chữ Dao cổ, các nhà Ngôn ngữ học và nghiên cứu
Hán Nôm gọi là chữ Nôm Dao, có nhà nghiên cứu văn hóa lại gọi là chữ Hán
Dao và đa số gọi là chữ Nôm Dao [46] Các tên gọi đó đều chỉ thứ chữ vuông
(chữ Hán) mà người Dao ghi chép trong văn bản, “nhưng đọc theo âm dân tộc,
mặc dầu tiếng Dao không nằm trong hệ tiếng Hán”[29]. Khi vấn đề chưa
được giải quyết thấu đáo, chúng tôi gọi theo cách gọi của nhiều nhà người
ngành Văn hóa, ngành Ngôn ngữ học và ngành Hán Nôm là chữ Nôm Dao
[20]. Những văn bản này được các thầy giáo, thầy cúng, sử dụng và được
truyền lại cho đời sau; đây là những văn bản có giá trị hết sức to lớn về mặt
văn hóa, văn học, văn tự, tôn giáo tín ngưỡng,...
Viện Nghiên cứu Hán Nôm (VNCHN) thuộc Viện Hàn lâm Khoa học xã
hội Việt Nam, hiện đang lưu trữ được rất nhiều các văn bản được viết bằng
chữ Nôm của người Dao, với rất nhiều loại như: thơ, hát, văn cúng, v.v…,
đây là nguồn tư liệu vô cùng quý giá trong việc bảo tồn, nghiên cứu và phát
huy những nét văn hóa truyền thống đặc sắc của người Dao.

1


Nhưng do chữ Nôm Dao ít người đọc được, nên ít được phổ biến. Hiện
nay trong một làng của người Dao có khoảng 1 đến 2 người là thầy cúng có
thể đọc thông viết thạo chữ Nôm Dao, đây là lượng người rất ít, tuổi lại đã
cao và họ không mở lớp dạy cho con cháu người Dao nữa. Những văn bản
Nôm Dao dùng để cúng tế thì đều đã được con cháu đời sau học thuộc theo
phiên âm, đến khi cúng họ chỉ cần để cuốn sách trước mặt và đọc tiếng Dao.
Chính vì số lượng người có thể đọc chữ Dao và nói tiếng Dao càng ngày càng
ít, nên việc bảo tồn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Dao qua những văn bản

cổ này càng là vấn đề cần được chú trọng.
Vấn đề khai thác, giới thiệu và khảo cứu nội dung văn bản chữ Nôm
Dao luôn là vấn đề cấp thiết đặt ra đối với ngành khoa học xã hội nói chung
và ngành Hán Nôm nói riêng. Văn bản chữ Nôm Dao, phản ánh đời sống xã
hội của người Dao, trên các lĩnh vực: văn hóa, tư tưởng, giáo dục, văn học,
ngôn ngữ văn tự, v.v... nhất là về tôn giáo tín ngưỡng, phong tục tập quán của
người Dao. Hiện VNCHN đang lưu giữ văn bản Hạ bản triều khoa 下本朝科
(âm Dao đọc là Nhá puồn chiêu liền) là một văn bản chữ Nôm Dao, kí hiệu
ST.6168 ghi chép về việc cúng tế của người Dao. Để đáp ứng vấn đề nêu trên,
chúng tôi chọn văn bản Hạ bản triều khoa làm đề tài luận văn với tiêu đề
“Nghiên cứu tác phẩm chữ Nôm Dao Hạ bản triều khoa” nhằm góp phần
giới thiệu văn hóa tín ngưỡng của dân tộc Dao nói riêng và văn hóa đại gia đình
các dân tộc Việt Nam nói chung.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Việc nghiên cứu văn bản chữ Nôm Dao ở Việt Nam liên quan đến việc
bảo tồn và phát huy bản sắc dân tộc Dao, hiện thấy chủ yếu ở trong các bài
viết của các nhà nghiên cứu dân tộc học, nhà nghiên cứu Hán Nôm và các nhà
nghiên cứu văn hóa.

2


2.1. Về sưu tầm văn bản Nôm Dao
Từ những năm 2000, VNCHN đã triển khai Chương trình Sưu tầm, số
hóa và nghiên cứu khai thác chữ viết cổ truyền các dân tộc thiểu số Việt Nam
do Trịnh Khắc Mạnh làm chủ nhiệm; để sưu tầm, thu mua sách Hán Nôm các
dân tộc thiểu số ở Việt Nam, Chương trình đã mua được khoảng hơn 10.000
cuốn sách Hán Nôm dân tộc thiểu số, trong đó có các văn bản Nôm Dao.
Năm 2006, Sở Văn hóa Thông tin tỉnh Lào Cai (nay là Sở Văn hóa, Thể
thao và Du lịch tỉnh Lào Cai) đã xây dựng dự án bảo tồn kho sách cổ người

Dao và chữ Nôm Dao trên phạm vi toàn tỉnh. Dự án nhận được tài trợ kinh
phí của Quỹ Ford và sự giúp đỡ của 2 chuyên gia tư vấn người nước ngoài là
Bradley C. Davis, thuộc Trường Đại học Eastern Washington (Hoa Kỳ) và
Philippe Le Failler, thuộc Viện Viễn đông Bác cổ (Cộng hoà Pháp). Hai nhà
nghiên cứu có thời gian dài làm việc ở Việt Nam và rất gắn bó với Lào Cai
cũng như kho tàng sách cổ của người Dao. Dự án đã đạt được nhiều kết quả
tốt cho việc bảo tồn sách cổ của người Dao. Theo thống kê ở tỉnh Lào Cai có
274 làng có sách cổ trên tổng số 466 làng người Dao, số lượng sách cổ bảo
tồn được hiện nay là 9.858 cuốn, đa phần là các loại sách tôn giáo tín ngưỡng,
truyện, thơ ca, tục ngữ, câu đố, sách giáo dục ứng xử, lịch nông nghiệp…
Hiện nay số sách cổ này được sưu tầm và đóng dấu triện “Di sản văn hóa”
giao cho người dân lưu giữ lại. Người dân đã có ý thức bảo quản và coi trọng
số sách này, coi đây là di sản văn hóa thành văn mà cha ông để lại.
2.2. Về nghiên cứu tìm hiểu văn bản chữ Nôm Dao
Đỗ Quang Tụ, Nguyễn Liễn tác giả cuốn sách Người Dao trong cộng
đồng dân tộc Việt Nam do Nxb. Văn hóa Dân tộc ấn hành năm 2010, đã nêu
được tổng quát về người Dao Việt Nam. Cuốn sách nêu khái quát về nguồn
gốc, quá trình hình thành người Dao, văn hóa và vấn đề xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc của dân tộc Dao ở Việt Nam; giới thiệu về vấn đề ngôn ngữ văn tự,

3


dựa trên sự so sánh ngôn ngữ và văn tự giữa các nhóm Dao khác nhau, nhưng
chưa đi sâu tìm hiểu văn bản cụ thể.
Tác giả Hoàng Thị Thu Hường trong bài viết “Khúc Hà Vật những câu
đố lí thú trong sách Đại thư của người Dao Quần Chẹt ở xã Cát Thịnh huyện
Văn Chấn tỉnh Yên Bái đăng” in trong Thông báo Hán Nôm học [Hoàng Thị
Thu Hường, 2006: tr. 374 - 379]; sách Đại thư hay còn gọi là sách Bàn Vương
thư thường được dùng trong các buổi lễ nghi tôn giáo của dân tộc Dao. Khúc

Hà Vật là khúc hát được ghi chép trong sách Đại thư của người Dao, bao
gồm các câu đố với nhiều nội dung khác nhau. Nhóm câu đố về con vật, đồ
dùng nghi lễ, nhóm câu đố về các loại cây, đồ trang sức của phụ nữ,…
Những câu đố này góp phần phong phú thêm vào kho tàng ca dao, dân ca
của Việt Nam. Bài viết đã bước đầu giới thiệu về văn bản chữ Nôm của
người Dao ở Việt Nam, mặc dù chưa có phần phiên âm Nôm Dao của văn
bản, nhưng bài viết đã góp phần rất lớn vào việc cung cấp thông tin, giá trị
của văn bản khúc hát Hà Vật đến bạn đọc.
Tác giả Nguyễn Thị Hường trong bài viết “Sơ bộ giới thiệu sách Hán
Nôm của người Dao ở xã Cao Bồ huyện Vị Xuyên tỉnh Hà Giang”, đăng
trong Thông báo Hán Nôm học [23, tr.484 - 493], bài viết đã thống kê được
tên các sách cúng, sách chép các câu thần chú, sách hát, sách bói, kinh của
đạo giáo, sách y, lịch vạn sự, sách giáo khoa dạy trẻ em làm lễ, sách hành
giáo của Đạo giáo, sách chép thần chú, sách về luật lệ, sách hát giao duyên
trong đám cưới, sách chọn ngày tốt kết hôn, sách hát đối đáp nam nữ… theo
thống kê đó thì sách cúng có 99 cuốn trên tổng số 140 cuốn sách thống kê
được, chiếm 70% tổng số sách thống kê. Trong số các sách cúng đó thì có 37
cuốn sách có đuôi là khoa trên tổng số 99 cuốn sách chiếm 37 %, như An long
khoa 安龍科, Cáo đấu khoa 告斗科, Chiêu binh khoa 招兵科, Chư chương

4


cách khoa 諸章格科, Cung lục khoa 恭錄科, Cứu hoạn khoa 救患科, Đại
đạo khoa 大道科 …
Tác giả Nguyễn Thế Nam trong bài viết “Quá sơn bảng văn - câu chuyện
về nguồn gốc người Dao” đăng trong Thông báo Hán Nôm học [36, tr.704 709], đã giới thiệu về sách Quá sơn bảng văn, nội dung sách nói lên chuyện
ông tổ người Dao vốn là con Long khuyển, lông đen vằn vàng, có công diệt
giặc, được Bình Hoàng yêu quý gả cho cung nữ làm vợ. Sinh ra 12 người con,
các con đều được phân phong. Sau con cháu người Dao ngày càng sinh sôi

đông đúc, Bình Hoàng đành cấp cho Quá sơn bảng văn làm giấy tờ hộ thân và
có quyền đi đến các vùng khác nhau để sinh sống. Phần cuối của văn bản còn
nói đến 12 họ con cháu Bàn Hộ chia thành các nhóm ngành Dao khác, đi đến
các vùng khác nhau lập nghiệp và có các tên gọi khác nhau. Sách cho thấy
nguồn gốc của người Dao, vấn đề sử dụng văn bản và nội dung văn bản được
ghi lại. Qua đó giải thích tại sao người Dao lại có 12 họ và tại sao người Dao
lại coi Bàn Vương là ông tổ của người Dao.
Bàn về sách giáo dục của người Dao có bài viết của tác giả Phạm Thị
Thảo về "Sách giáo dục của người Dao đôi điều bàn thảo", được đăng trong
Thông báo Hán Nôm học [48, tr.877 - 888), bài viết cho thấy sách giáo dục
của người Dao luôn đề cao đạo đức con người, tinh thần hiếu học, sự hiếu
thảo kính trọng cha mẹ, chăm chỉ cần cù kiên nhẫn trong công việc, lên án
thói hư tật xấu... Bài viết giới thiệu cho người đọc những tri thức trong sách
cổ của người Dao mang đậm tính chất văn học, giáo dục. Nhưng đôi điều bàn
thảo này cũng cho thấy hiện nay những văn bản cổ của người Dao cũng được
các nhà nghiên cứu chú trọng và quan tâm.
Bài "Về loại hình văn bản dân tộc Dao tỉnh Yên Bái" của tác giả Nguyễn
Minh Tuân in trong Thông báo Hán Nôm học [44, tr.1029 - 1037], đã mô tả

5


đặc điểm văn bản dân tộc Dao ở tỉnh Yên Bái và nêu lên vấn đề cần nghiên
cứu khai thác các văn bản này.
Hoàng Hựu tác giả cuốn sách Bảng tra chữ Nôm dân tộc Dao (2012) in
tại Nxb. Khoa học xã hội. Đây là cuốn sách có giá trị về mặt học thuật, cuốn
sách cung cấp cho độc giả chữ Nôm Dao, cách ghi âm đọc đúng theo tiếng
Dao, chua âm đọc Hán Việt, giải thích nghĩa ra tiếng Việt và những câu ví dụ
về chữ Nôm Dao đó để người đọc dễ hiểu, dễ học, dễ nhớ. Cuốn sách giúp
cho việc tra cứu chữ Nôm Dao trở nên dễ dàng hơn, cuốn sách cũng cung cấp

những tri thức chung nhất về người Dao.
Đặc biệt, bộ sách 3 tập Thư mục sách Hán Nôm các dân tộc thiểu số Việt
Nam, Tập 1 (2008), Tập 2 (2009), Tập 3 (2011) do Trịnh Khắc Mạnh chủ biên,
Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội; đã giới thiệu 4.364 cuốn sách Hán Nôm dân
tộc thiểu số Việt Nam, trong đó có rất nhiều sách chữ Nôm Dao, như : Đăng
ty xướng 燈司唱, Hạ bản triều khoa 下本朝科, Bàn hoàng ca khoa 盤皇歌科,
Cấp sắc 給敕,Khuyến nhi lang 勸兒郎,Tam tự kinh 三字经,Đáo lôi gia
xướng 到雷家唱,v.v...
Gần đây, có bài viết "Giới thiệu văn bản Nôm Dao lưu trữ tại Viện
Nghiên cứu Hán Nôm" của Nguyễn Hạnh Vân (tác giả luận văn) in trong Tạp
chí Hán Nôm số 4 (155) năm 2019 [51, tr.68 - 77]. Bài viết đã khảo sát, hệ
thống hóa và mô tả 18 văn bản Nôm Dao hiện lưu trữ tại Viện Nghiên cứu
Hán Nôm dựa trên những thông tin giới thiệu trong bộ Thư mục sách Hán
Nôm các dân tộc thiểu số Việt Nam, qua đó nêu lên những đặc điểm văn bản
và giá trị nội dung của các văn bản Nôm Dao

6


3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu giới thiệu tác phẩm Nôm Dao Hạ bản triều khoa
đến độc giả, với mong muốn kho sách cổ này (gồm những tài liệu có giá trị
lịch sử văn hóa), sẽ không bị mất đi theo thời gian. Qua đó, luận văn nghiên
cứu về nghi thức tín ngưỡng, việc thờ cúng của người Dao được thể hiện trong
tác phẩm Hạ bản triều khoa, cũng như nghi thức tín ngưỡng, việc thờ cúng của
đồng bào dân tộc Dao trong cuộc sống.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục đích nêu trên, đề tài tập trung giải quyết những nhiệm
vụ sau:

- Tìm hiểu kho sách chữ Nôm Dao hiện lưu giữ tại VNCHN và chọn tác
phẩm Hạ bản triều khoa để khảo sát và nghiên cứu.
- Giới thiệu nội dung tác phẩm Hạ bản triều khoa.
- Giới thiệu tính ứng dụng của tác phẩm Hạ bản triều khoa trong đời
sống văn hóa người Dao nói chung và tín ngưỡng thờ cúng nói riêng.
- Phiên âm tiếng Dao, dịch nghĩa và dịch thơ, chú thích nội dung tác
phẩm Hạ bản triều khoa.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài luận văn là văn bản tác phẩm Hạ bản
triều khoa, độc bản, được lưu trữ tại VNCHN, kí hiệu ST.6168.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Ngoài ra những nội dung trọng tâm của luận văn như đã nêu trong mục
nhiệm vụ nghiên cứu, luận văn mở rộng phạm vi nghiên cứu về tình hình xã
hội người Dao, văn hóa người Dao và những vấn đề về lịch sử, về văn học, về
tín ngưỡng của người Dao nói chung.

7


5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Trên cơ sở quan điểm của Đảng và Nhà nước Việt Nam trong việc sưu
tầm, bảo tồn, nghiên cứu khai thác và phát huy văn hóa truyền thống, xây
dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.
Những tri thức về Ngữ văn Hán Nôm, văn bản học, văn hóa học, văn tự
học và nghiên cứu liên ngành đã được vận dụng lý thuyết nghiên cứu khoa
học trong từng chương của luận án.
Kế thừa thành quả nghiên cứu từ các công trình đi trước được công bố có
liên quan đến đề tài, chúng tôi tập trung nghiên cứu văn bản học, khai thác

sâu nội dung tác phẩm Hạ bản triều khoa chữ Nôm Dao, góp phần vào các
kết quả nghiên cứu về giá trị văn hóa của các dân tộc thiểu số Việt Nam.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp văn bản học: nghiên cứu, khảo sát văn bản tác phẩm Hạ
bản triều khoa trong kho sách của VNCHN, nêu lên đặc điểm văn bản và quá
trình lưu truyền văn bản.
- Phương pháp phiên dịch học (còn gọi là thuyên thích học hay thông
diễn học) cũng được sử dụng để diễn dịch tác phẩm Hạ bản triều khoa cũng
như giải thích, giải nghĩa, giúp chúng ta thấu hiểu văn bản sâu hơn.
- Phương pháp phân tích tác phẩm, nhằm giới thiệu giá trị tác phẩm Hạ
bản triều khoa cũng như ứng dụng của tác phẩm trong đời sống văn hóa của
dân tộc Dao.
- Phương pháp văn tự học, nhằm vận dụng kiến thức về văn tự học mà
trước hét là văn tự học chữ Nôm để nghiên cứu chữ Nôm của người Dao
(trong đó có chữ Nôm Dao mượn Hán và những chữ Nôm Dao do người Dao
sáng tạo) xuất hiện trong tác phẩm Hạ bản triều khoa.

8


- Phương pháp liên ngành nhằm nêu ra những giá trị lịch sử, giá trị văn
hóa, tôn giáo tín ngưỡng, phong tục tập quán, v.v… được thể hiện trong các
giá trị nội dung của tác phẩm Hạ bản triều khoa.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Hạ bản triều khoa, tồn tại như là loại văn bản đã được văn bản hóa
trong quá trình thực hành dân ca nghi lễ của người Dao, từ đó nghiên cứu mối
quan hệ giữa văn học viết nói chung và văn học dân gian Việt Nam nói riêng.
Khẳng định giá trị văn hóa trong đời sống văn hóa xã hội Việt Nam nói
chung và văn hóa dân tộc Dao nói riêng.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Thông qua việc nghiên cứu, khảo sát văn bản tác phẩm Hạ bản triều
khoa chữ Nôm Dao, luận văn phiên âm, dịch nghĩa, chú thích nội dung văn
bản, cung cấp những tư liệu văn hóa, văn tự và tôn giáo tín ngưỡng của dân
tộc Dao; góp phần bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa, lịch sử dân tộc
Dao trong đời sống văn hóa xã hội Việt Nam hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài Phần mở đầu, Tài liệu tham khảo, Phụ lục, luận văn gồm có 3 chương:
Chương 1: Lược khảo về dân tộc Dao và văn bản chữ Nôm Dao hiện
lưu giữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm
Tiến hành mô tả khái quát về xã hội, con người và văn hóa của dân tộc
Dao ở Việt Nam; cũng như mô tả và giới thiệu các văn bản viết bằng chữ
Nôm của người Dao hiện lưu giữ tại VNCHN.
Chương 2: Tìm hiểu giá trị tác phẩm Hạ bản triều khoa
Triển khai nghien cứu giới thiệu giá trị nội dung và hình thức nghệ thuật
của tác phẩm Hạ bản triều khoa trong đời sống văn hóa của dân tộc Dao

9


Chương 3: Tính ứng dụng của tác phẩm Hạ bản triều khoa và vấn đề
bảo tồn văn bản
Giới thiệu tính ứng dụng của tác phẩm Hạ bản triều khoa trong đời sống
văn hóa tâm linh của người Dao, đặt vấn đề về bảo tồn và phát huy giá trị của
tác phẩm trong đời sống văn hóa của người Dao đương đại.
Kết luận
Phụ lục 1: Phiên âm, dịch nghĩa, chú giải, dịch thơ văn bản Hạ bản
triều khoa. ST. 6168.
Phụ lục 2: Bản photocopy văn bản Hạ bản triều khoa, ST. 6168.


10


Chương 1
LƯỢC KHẢO VỀ DÂN TỘC DAO VÀ VĂN BẢN CHỮ NÔM DAO
HIỆN LƯU GIỮ TẠI VIỆN NGIÊN CỨU HÁN NÔM
Trong chương này, chúng tôi giới thiệu khái quát về xã hội, con người và
văn hóa của dân tộc Dao ở Việt Nam và giới thiệu các văn bản viết bằng chữ
Nôm của người Dao hiện lưu giữ tại VNCHN.
1.1. Giới thiệu về dân ca nghi lễ của người Dao
1.1.1. Vài nét về dân tộc Dao Việt Nam
Trước cách mạng tháng 8 năm 1945, dân tộc Dao ở miền Bắc Việt Nam
sống rải rác ở các vùng sâu vùng xa, làm nương rẫy, họ thường sống tập trung
thành từng làng, từng bản và xen kẽ cùng các dân tộc Mông, Tày, Nùng.
Sau cách mạng Tháng 8 năm 1945, theo chủ trương chính sách định canh
định cư của Đảng và Nhà nước đối với đồng bào các dân tộc thiểu số ở vùng
cao Việt Nam, người Dao đã có những thay đổi đáng kể trong lối sống định
canh định cư và có cuộc sống ngày càng phát triển.
Về nguồn gốc của người Dao Việt Nam, tác giả Nguyễn Thế Nam (2009)
Viện Nghiên cứu Tôn giáo trong bài viết Quá sơn bảng văn - câu chuyện về
nguồn gốc người Dao đăng trong Thông báo Hán Nôm học, cho rằng người
Dao Việt Nam cho rằng mình là con cháu của Bàn Vương, là anh em với
người Dao ở Trung Quốc.
Theo sách Người Dao ở Việt Nam do Nxb. Khoa học xã hội xuất bản
năm 1971, có hai giả thuyết về gốc tích của người Dao lưu truyền ở Trung
Quốc: Can Bảo (thế kỷ 3 trước công nguyên) cho rằng “nguồn gốc của người
Dao là Khuyển Nhung đời Chu ở vùng Thiểm - Cam - Ninh” [41, tr.35].

11



Phạm Thành Đại giả định “người Dao vốn dòng dõi Bàn Hồ và nơi cư
trú cổ của họ là đất Ngũ Khê, tức là nơi tiếp giáp giữa Hồ Nam và Qúy Châu”
[41, tr.28].
Khuất Đại Quan cho rằng “nguồn gốc người Dao là Mân Việt thời Hán
sơ ở vùng Chiết Giang, Phúc Kiến và phía đông Giang Tây” [41, tr.28].
Từ Tùng Thạch đoán định “nơi ở xưa của người Dao là đất Giang - Chiết
- Cống - Mân” [41, tr.28].
Như vậy đa phần đều đoán định rằng người Dao có gốc từ Bàn Vương và
nằm trong khối Bách Việt ở miền Hoa Nam.
Khoảng thế kỷ VIII, nhóm Mông - Dao tách làm hai bộ phận; người
Mông dạt về phía Tây, cư trú khắp miền Quý Châu, Hồ Nam, Vân Nam;
người Dao đi tới vùng núi phía Đông bao gồm Lưỡng Quảng. Đến thế kỷ IX
mới xuất hiện tên gọi Miêu và Dao trong lịch sử Trung Hoa.
Người Dao sang Việt Nam từ khi nào, cũng có rất nhiều thuyết và ý kiến
khác nhau:
Năm 1933, Tòa công sứ Pháp tỉnh Yên Bái biên soạn cuốn Tỉnh Yên Bái
hiện nay ước đoán: “Người Mán hình như đến ở giữa vùng dân tộc Thái đã
được bốn thế kỷ” [37, tr.10].
Báo cáo của Đoàn nghiên cứu tình hình dân tộc Khu Tây Bắc được Khu
ủy Tây Bắc thông qua ngày 1-4-1945, đã đề cập đến tình hình người Dao di
dân sang Việt Nam là từ hồi quân Minh xâm chiếm nước ta: “Huyện ủy Mộc
Châu cho biết, đồng bào Dao sang Việt Nam từ hồi quân Minh xâm chiếm
nước ta. Ngày ấy, đồng bào theo quân Minh về tận trung du và đồng bằng Bắc
Bộ. Sau quân Minh bị ta đánh đuổi về Trung Quốc, đồng bào phiêu dạt lên
Tây Bắc” [24, tr.5].

12



Có nhiều ghi chép, nghiên cứu về nguồn gốc và việc di dân của người
dân ở Việt Nam. Song chưa thể có tư liệu khoa học cụ thể để khẳng định chắc
chắn về nguồn gốc và sự di cư của người Dao ở Việt Nam như thế nào.
Người Dao ở Việt Nam được chia thành các ngành Dao chính: Dao Đỏ,
Dao Tiền, Dao Quần Chẹt, Dao Lô Gang, Dao Quần Trắng, Dao Tuyển…
Mỗi một nhóm Dao có đặc trưng riêng, chịu ảnh hưởng của văn hóa
vùng miền. Nhưng tựu chung lại họ vẫn mang nhiều đặc điểm chung về ngôn
ngữ và tiếng nói.
Về ngôn ngữ và văn tự, tất cả các nhóm Dao đều nói chung một thứ
tiếng là tiếng Dao. Ngôn ngữ Dao ngày càng phong phú do được bổ sung
tiếng Quốc ngữ - tiếng Việt trên các mặt chính trị, kinh tế, quân sự, khoa học.
Giáo dục phổ cập và giáo dục nâng cao thống nhất được thực thi đến vùng sâu
vùng xa heo hút, do vậy chữ La tinh - phiên bản tiếng dân tộc chiếm ưu thế
trong hệ thống chữ viết của người Dao. Song bên cạnh đó, người Dao vẫn sử
dụng chữ Nôm trong việc ghi chép lại các văn bản, ghi chép về các hoạt động
trong đời sống sinh hoạt thường ngày của họ. Người Dao hiện còn lưu giữ rất
nhiều văn bản viết bằng chữ Nôm Dao này. Thông qua văn bản, phản ánh đời
sống sinh hoạt, văn hóa tâm linh, tín ngưỡng của họ. Các văn bản này như
những món ăn tinh thần không thể thiếu trong cuộc sống thường ngày.
1.1.2. Giới thiệu về dân ca nghi lễ của người Dao
Người Dao thường sống chan hòa, đoàn kết với nhau,họ rất coi trọng
việc thờ cúng, tổ chức các nghi lễ. Trong một năm họ thường tổ chức các lễ
hội, qua đó thực hành nghi lễ cúng tế như: Lễ cấp sắc, Lễ cúng cơm mới, Lễ
hội Bàn Vương, Lễ cúng tổ tiên…
Lễ hội Bàn Vương: Bàn Vương 盤王 tiếng Dao là Puồn uầng, là lễ hội
đặc sắc của cộng đồng người Dao, được phục dựng và tổ chức hàng năm tại
các địa phương có người Dao sinh sống, nhằm bảo tồn và phát huy những giá
13



trị văn hóa đặc sắc của dân tộc Dao. Ở buổi lễ, các nghệ nhân dân gian tiến
hành nghi thức cúng tế, các nghệ nhân dân gian đã trình diễn điệu múa bắt rùa,
một điệu múa phổ biến trong sinh hoạt văn hóa của dân tộc Dao. Lễ hội Bàn
Vương nhằm ca ngợi công lao của Bàn Vương, ông tổ người Dao cũng như
giới thiệu nét văn hóa đặc sắc, thông qua đó quảng bá tiềm năng du lịch của
địa phương đến khách du lịch trong và ngoài nước.
Lễ hội cấp sắc: Cấp sắc 給敕 tiếng Dao gọi là Chấu đàng, là lễ đặt tên
cho con trai của người Dao, diễn ra trong 2 đêm 3 ngày. Buổi lễ đánh dấu sự
trưởng thành cho người con trai trong gia đình. Người con trai trong gia đình
người Dao, khi được làm lễ cấp sắc sẽ được công nhận là con cháu người Dao.
Lễ cấp sắc là nghi lễ cúng đặc sắc trong văn hóa của các gia đình và họ hàng
người Dao có con trai. Lễ cấp sắc của người Dao khác với lễ cấp sắc của
người Tày ở chỗ: lễ cấp sắc của người Dao là công nhận sự trưởng thành của
người con trai trong gia đình và nghi lễ chỉ được thực hiện cho người con trai;
còn lễ cấp sắc của người Tày là một nghi lễ khẳng định tiêu chuẩn và trình độ
cúng lễ của thầy Then, công nhận làm thầy Then ở các mức khác nhau.
Lễ cúng cơm mới: Lễ mừng cơm mới là lễ hội đặc sắc trong văn hóa của
các dân tộc vùng núi phía Bắc như : người Dao, người Thái, người Xá Phó,
người Mông,... Lễ cúng cơm mới của người Dao được tổ chức vào tháng 10
âm lịch hàng năm, khi nhà nhà lúa đã vào bồ, bữa cơm gia đình đã thơm mùi
gạo mới, các gia đình người Dao lại tổ chức cúng cơm mới, để tạ ơn tổ tiên, tạ
ơn Bàn Vương đã phù hộ cho một năm mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu.
Lễ cúng tổ tiên của người Dao, vào dịp lễ tết, hay thời điểm trọng đại
trong năm người Dao đều tổ chức nghi lễ cúng tổ tiên. Với mong muốn tổ tiên
phù hộ độ trì, đem lại may mắn hạnh phúc cho con cháu. Đối với người Dao
việc thờ cúng tổ tiên là việc quan trọng, mà bất cứ gia đình người Dao nào

14



cũng phải thực hiện. Lễ vật cúng tổ tiên thường gồm rượu, thịt lợn, thịt gà và
cúng cáo (là đồ vật xin âm dương của người Dao), để xin tổ tiên đồng ý, và
cầu mong sự tốt lành may mắn cho cả năm đối với người Dao.
Bên cạnh các nghi lễ cúng tế của người Dao, thì dân ca cũng là một hình
thức thể hiện giúp người Dao đoàn kết, gắn bó và yêu thương nhau hơn. Hát
chèo và hát Páo dung là hai hình thức dân ca tiêu biểu của người Dao, đem lại
niềm vui, niềm hạnh phúc trong lao động sản xuất đối với họ.
Hát chèo [21] là hình thức hát được sử dụng trong lễ cấp sắc của người
Dao. Trong lễ cấp sắc, khi việc cúng tế diễn ra xong, thì những người đàn ông
Dao vừa múa vòng quanh, vừa hát chèo để thể hiện sự vui mừng, niềm
hạnh phúc khi việc cúng tế tốt đẹp. Những người đàn ông Dao tay cầm que
dài khoảng 30 đến 45 cm, nhìn như chiếc gậy chèo thuyền, vừa múa theo
nhịp, vừa hát tạo thành một vòng tròn, khi múa những người nam xoay nửa
vòng bên phải, sau đó xoay nửa vòng bên trái, rồi xoay một vòng bên phải
và nhún chân theo nhịp trống, chiêng. Hát chèo là phong tục thấm đậm vào
máu thịt của người Dao, hun đúc nên tình yêu quê hương đất nước và niềm
tự hào về dân tộc mình.
Hát Páo dung là hình thức hát đối đáp giữa người con trai và con gái dân
tộc Dao, kể về số phận người phụ nữ, hoặc ca ngợi vẻ đẹp của núi sông, tình
yêu quê hương đất nước của người Dao. Páo dung thường được hát trong dịp
lễ hội, lễ cấp sắc của người Dao. Hát Páo dung trong lễ cấp sắc, kể về ma nhà,
về những lí do mà gia đình người Dao tổ chức lễ cấp sắc muộn như: ở gia
đình người Dao đàn gà không được đẹp, con cháu không được lớn, khất ma
nhà, có 2 thầy đến uống trà, khất năm nào con lớn, lợn gà cơm gạo có đủ thì
mới làm lễ cấp sắc. Hát Páo dung chính là bày tỏ mong muốn, khát vọng của
người Dao trong cuộc sống, trong gia đình và trong cộng đồng Dao.

15



1.2. Khảo sát văn bản chữ Nôm Dao lưu giữ tại VNCHN
1.2.1. Tình hình văn bản chữ Nôm Dao hiện lưu giữ tại VNCHN
Tại VNCHN hiện lưu giữ khoảng hơn 10.000 đơn vị sách Hán Nôm dân
tộc thiểu số, căn cứ vào bộ Thư mục đã giới thiệu tóm lược được 4.364 đơn vị
sách và bước đầu chúng tôi sưu tập được 18 văn bản Nôm Dao. Bộ Thư mục
đã đóng góp rất nhiều giá trị văn hóa to lớn, giới thiệu, sưu tầm và bảo tồn
những văn bản của các dân tộc thiểu số trên đất nước Việt Nam như: Tày,
Nùng, Dao, v.v...
Những văn bản ghi chép về Bàn Vương
Bàn Vương hay còn gọi là Bàn Hoàng là ông tổ của người Dao. Nguồn
gốc của Bàn Vương đã được nhắc đến trong sách Quá sơn bảng văn - Câu
chuyện về nguồn gốc người Dao được tác giả Nguyễn Thế Nam giới thiệu.
1. Bàn Hoàng ca khoa (Puồn uầng co liền) 盤皇歌科, 1 bản chép tay, 27
tr, khổ 19 × 25 cm, do Đặng Pháp Liêm 鄧法廉 chép năm Nhâm Tý (?), ký
hiệu ST.4869. Nội dung chép các khoa hát cúng Bàn Hoàng, cầu mùa, cầu
phúc, cầu lộc, có các bài: Tán hoa 散花 , Thập nhị mai hoa 十二梅花, Tạ ca,
謝歌 ... đều theo thể thất ngôn. Cuối sách có khoa: Đại trai nom tướng bạch
văn khoa 大斋喃相白文科 thỉnh các vị: Thủy đức tinh quân, Thánh tổ ty
mệnh, Bắc Đẩu cửu tinh, Đế phụ Đế mẫu nhị hậu nguyên quân, Từ phụ từ
mẫu thập phương, v.v... Cầu giáng đàn hộ mệnh.
2. Cửu lang xướng (Cáo lòng tsáng) 九郎唱, 1 bản chép tay, 90 tr, khổ
20 × 20 cm, không ghi niên đại, ký hiệu ST.5791. Nội dung chép các bài hát
xướng thể thất ngôn, ca ngợi các vị thần khi cúng lễ, ... như: Hát về Thành
hoàng (Xã hoàng xướng 社皇唱), Hát về Bàn Vương (Bàn Vương xướng 盤王
16


唱), Hát về Thần Nông (Thần Nông xướng 神農唱), Hát về Lôi vương (Lôi
vương xướng 雷王唱), Hát về Sơn thần Thổ địa (Song bản cảnh xướng 双本
警唱), Hát về Mã nguyên soái (Mã tiền xướng 馬前唱). Hát về gia tiên (Gia

tiên xướng 家先唱), Hát về thần Trương thiên (Lục thần Trương Thiên xướng
六臣張天唱), Hát về thần Ngũ lôi (Ngũ lôi xướng 五雷唱), Hát về âm dương
(Âm dương xướng 陰陽唱), Hát về hai cung tả hữu (Tả hữu lưỡng cung xướng
左右兩宮唱 ), v.v...
3. Tin đầu ngữ (Xiến đào ọa) 信頭語,1 bản chép tay, 82 tr, khổ 15 × 20
cm, do Bàn Giác Tiên 盤覺仙 chép, không ghi niên đại, ký hiệu ST.4715. Nội
dung chép các bài ca về nhân vật Bàn Hoàng, là vị thần cai quản con người và
vạn vật, v.v...
Những văn bản ghi chép về cấp sắc
Cấp sắc là lễ đặt tên cho con của người Dao, cấp sắc người Dao còn gọi
là Lập tịnh hay là Chấu đàng, diễn ra trong 2 đêm 3 ngày. Buổi lễ đánh dấu
sự trưởng thành cho người con trai trong gia đình. Người con trai trong gia đình
người Dao, khi được làm lễ cấp sắc sẽ được công nhận là con cháu người Dao.
1. Cấp sắc (Chấu đàng) 給敕,1 bản chép tay, 52 tr, khổ 15 × 28 cm,
không ghi niên đại, ký hiệu ST.4014. Nội dung ghi chép các văn chú, thỉnh
thần giáng đàn chứng minh công đức để cấp sắc cho thày Tào. Trong đó, một
bài chú theo Ngũ hành (Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ) ; một bài thỉnh về Đông
phương vị Long miếu, Nam phương vị Hổ trang ; một bài phụng mệnh Thái
Thượng Lão quân cấp sắc, v.v...
17


2. Hành đàn ca (Hàng căn co) 行壇歌, 1 bản chép tay, 56 tr, khổ 14 ×
25 cm, không ghi niên đại, ký hiệu ST.5968. Nội dung chép các bài ca cúng
về lập đàn cấp sắc cho thày Tào: Ca cấp sắc lần đầu, ca cấp sắc lần thứ hai,
lần thứ ba (Đại nhị hành đàn 大二行壇, Đại tam hành đàn 大三行壇); bài
Nhập Phật tiền quỳ nạp thuyết 入佛前跪納說 .
3. Quá tam giới điều (Kúa sam chái 過三界調, 1 bản chép tay, 38 tr, khổ
13 × 22 cm, không ghi niên đại, ký hiệu ST.5099. Nội dung chép các bài hát
cúng đăng đàn cấp sắc cho thày Tào: Hát khi qua tam giới (Quá tam giới điều

dụng 過三界調用), Lời đáp lại của sư nhân (Sư nhân hoàn đáp 師人还答),
Hát về nàng Cửu (Cửu nương văn 九娘文), Hát về tiểu nương (Tiểu nương
văn 小娘文), Lời ca về lôi hoàng (Lôi hoàng văn 雷皇文), Lời ca về vũ quan
(Vũ quan văn 武官文), Lời ca về Trương đại quan (Trương đại quan văn 張大
官文), Lời ca về ba thày pháp (Tam sư văn 三師文), v.v...
4. Bái sám tội Phật Đạo gia (Pái sám chuội phua tộ cka) 拜懺罪佛道家,
1 bản chép tay, 68 tr, khổ 15 × 23 cm, do Nguyễn Đạo Thăng 阮道昇 chép
năm Mậu Tý (1948), ký hiệu ST.2390. Nội dung: đầu sách là khoa cúng thụ
chức của các thầy khi truyền đạo hay cấp sắc cho các đệ tử ; tiếp đến là kinh
Tam giáo hữu cảm công đức diệu kinh 三教有感功德妙經 của Đức Thái
thượng Lão Quân giảng về diệt ác hướng thiện và phương pháp tu luyện trong
đạo gia, diệt trừ lục dục thất tình hướng đạo vô thường ; sau cùng là các bài
mẫu văn sớ như: Sớ lễ sám tội (Sám tội thần sớ dụng 懺罪神疏用), Điệp văn
18


tẩy uế (Đằng uế văn dụng điệp 藤穢文用叠), Văn biểu sám tội (Sám tội biểu
văn dụng 懺罪表文用), v.v...
Những văn bản ghi chép về việc giáo dục, thi cử
Người Dao rất coi trọng việc giáo dục. Chính vì vậy mà những người có
học thức, am hiểu về chữ Nôm Dao đã thường xuyên mở lớp dạy học chữ cổ
này cho con cháu đời sau. Một lớp học thường kéo dài hàng năm trời, họ
thường tổ chức dạy và học vào ngày 01 và ngày 15 âm lịch hàng tháng.
1. Vô đề, 1 bản chép tay, 34 tr, khổ 12 × 19 cm, không ghi niên đại, ký
hiệu ST.6734. Nội dung: Phần đầu chép từ điển chữ Nôm dân tộc (chữ Nôm
Dao) giải nghĩa ra chữ Hán. Phần sau chép mẫu các bài văn khấn tổ tiên. Cẩn
thỉnh bản tộc, huynh đệ chiêm nhị lang mỗ cụ phối, v.v...
2. Khuyến nhi lang (Khuyến nhầy lòng) 勸兒郎, 1 bản chép tay, 28 tr,
khổ 17 × 20 cm, không ghi niên đại, ký hiệu ST.6655. Nội dung chép bài ca
thể sáu chữ, khuyên con cháu hiếu với cha mẹ, thuận hòa với anh em. Bên

cạnh một số chữ Hán có chua âm đọc của người Dao.
3. Tân điển khai khoa (Phiên hiếp hoi liền) 新典開科, 1 bản chép tay, 16 tr,
khổ 17 × 19 cm, không ghi niên đại, ký hiệu ST.6735. Nội dung chép 6 bài ca về
việc học hành thi cử,... lấy từ sách Tân điển khai khoa 新典開科. Sách có chú
âm đọc của người Dao một số chữ Hán, như: 愁 slầu, 依 ý, 樣 dắng, v.v...
4. Tam tự kinh (Sam dảng kênh) 三字经,1 bản chép tay, 14 tr, khổ 13,5
× 24 cm, không ghi niên đại, ký hiệu ST.9362. Nội dung chép sách Tam tự
kinh 三字经 dạy cho học trò, đạo nghĩa làm người, sống biết trời đất, cương

19


×