Tải bản đầy đủ (.pdf) (116 trang)

Xử lý tài sản bảo đảm cho các khoản nợ vay từ ngân hàng thương mại theo pháp luật Việt Nam hiện hành

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.37 MB, 116 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

PHAN THỊ THÚY HẰNG

XỬ LÝ TÀI SẢN BẢO ĐẢM CHO CÁC KHOẢN NỢ
VAY TỪ NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI THEO PHÁP
LUẬT VIỆT NAM HIỆN HÀNH

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI – 2019


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

PHAN THỊ THÚY HẰNG

XỬ LÝ TÀI SẢN BẢO ĐẢM CHO CÁC KHOẢN NỢ VAY
TỪ NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI THEO PHÁP LUẬT
VIỆT NAM HIỆN HÀNH

Chuyên ngành: Luật Dân sự và tố tụng dân sự
Mã số: 8380101.04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Thị Phƣơng Châm

HÀ NỘI – 2019




LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết
quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các
số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung
thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài
chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo
vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

NGƢỜI CAM ĐOAN

Phan Thị Thúy Hằng


MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CỤM TỪ VIẾT TẮT
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
CHƢƠNG 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ VẬT QUYỀN BẢO ĐẢM ƢỚC ĐỊNH VÀ XỬ LÝ TÀI
SẢN BẢO ĐẢM TẠI NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI .............................................8
1.1. Lý luận chung về vật quyền bảo đảm ƣớc định. ..................................................8
1.1.2. Lý luận chung về vật quyền bảo đảm ƣớc định ..............................................12
1.2. Lý luận chung về xử lý tài sản bảo đảm ............................................................27
1.2.1 Khái niệm và ý nghĩa .......................................................................................27
1.2.2 Đặc điểm pháp lý .............................................................................................28
1.2.3 Nguyên tắc xử lý tài sản bảo đảm....................................................................31
1.2.4 Nội dung của xử lý tài sản bảo đảm ................................................................32

CHƢƠNG 2
PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ XỬ LÝ TÀI SẢN BẢO ĐẢM TẠI NGÂN HÀNG
THƢƠNG MẠI ........................................................................................................37
2.1 Tổng quan pháp luật Việt Nam về giao dịch bảo đảm vàtài sản bảo đảm .........37
2.1.2. Pháp luật Việt Nam về tài sản bảo đảm ..........................................................39
2.1.3 Một số loại tài sản thế chấp thông dụng để bảo đảm nghĩa vụ theo hợp đồng
tín dụng hiện nay ......................................................................................................41
2.2.2 Xử lý tài sản bảo đảm trong một số trƣờng hợp cụ thể trong hoạt động của
ngân hàng thƣơng mại ..............................................................................................62
CHƢƠNG 3
VƢỚNG MẮC VÀ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XỬ LÝ TÀI SẢN BẢO
ĐẢM TẠI NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI .............................................................77
3.1. Một số vƣớng mắc liên quan đến xử lý tài sản bảo đảm ...................................77
3.1.1 Vƣớng mắc về tài sản bảo đảm.......................................................................77
3.1.2 Một số vƣớng mắc liên quan đến xử lý tài sản bảo đảm ................................92
3.2. Kiến nghị, đề xuất nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật ....................101
3.2.1 . Kiến nghị hoàn thiện pháp luật đối với một số vƣớng mắc về tài sản bảo đảm
................................................................................................................................101
3.2.2. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về xử lý tài sản bảo đảm.............................104
KẾT LUẬN ............................................................................................................107
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...............................................................109


DANH MỤC CÁC CỤM TỪ VIẾT TẮT
 BLDS năm 2005: Bộ Luật dân sự năm 2005
 Luật các TCTD: Luật Các TCTD năm 2010
 Luật KDBĐS: Luật Kinh doanh Bất động sản năm 2014
 BLHH năm 2015: Bộ Luật hàng hải năm 2015
 BLDS năm 2015: Bộ Luật dân sự năm 2015
 Nghị quyết số 42: Nghị quyết số 42 ngày 21/6/2017 về thí điểm xử lý nợ

xấu của các TCTD.
 Nghị định số 163: Nghị định 163/2006/NĐ-CP về giao dịch bảo đảm
 Nghị định số 11: Nghị định số 11/2012/NĐ-CP ngày 22/01/2012 về sửa đổi,
bổ sung một số điều của Nghị định số 163/2006/NĐ-CP
 Thông tƣ liên tịch số 16: Thông tƣ liên tịch số 16/2014/TTLT-BTPBTNMT-NHNN ngày 06/6/2014 của Bộ Tƣ pháp, Bộ Tài nguyên và Môi
trƣờng và Ngân hàng Nhà nƣớc hƣớng dẫn một số vấn đề về xử lý TSBĐ;
 NHTM: Ngân hàng Thƣơng mại
 NHNNVN: Ngân hàng Nhà nƣớc Việt Nam
 TSBĐ: Tài sản bảo đảm:
 TCTD : Tổ chức tín dụng:


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Trong hoạt động ngân hàng thì hoạt động cho vay luôn là một trong những
hoạt động cơ bảncó ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của
mỗi ngân hàng. Hoạt động kinh doanh ngân hàng luôn là hoạt động tiềm ẩn rủi ro
cao, trong những năm gần đây hoạt động củaTCTD (đặc biệt là NHTM) đã bộc lộ
nhiều tồn tại, yếu kém do chất lƣợng tín dụng thấp, nợ quá hạn cao, hiệu quả xử lý
TSĐBTV chƣa cao.
Xử lý TSBĐ (TSBĐ) là một hoạt động có ý nghĩa quan trọng ảnh hƣởng
trực tiếp đến quyền lợi của NHTM (đặc biệt là trong việc thu hồi nợ xấu). Trên thực
tế, quá trình xử lýTSBĐ rất dễ xảy ra tranh chấp, bất đồng giữa các bên (bên bảo
đảm, bên nhận bảo đảm và bên có liên quan), vì vậy, việc xây dựng, ban hành và
hoàn thiện hệ thống các quy định pháp luật về xử lý TSBĐ là rất cần thiết.
Trong thời gian qua, về cơ bản, pháp luật về xử lý TSBĐ đã góp phần tạo
lập, cơ sở pháp lý, môi trƣờng pháp lý thuận lợi cho quá trình xử lý TSBĐ, giúp
bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các bên tham gia giao dịch, đặc biệt là
cácNHTM. Để tháo gỡ vƣớng mắc của các TCTD trong đó có NHTM, khơi thông
“dòng chảy” tín dụng, ngày 21/6/2017, Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 42về

thí điểm xử lý nợ xấu của các TCTD. Nghị quyết có hiệu lực 15/8/2017. Theo đó,
Nghị quyết đã quy định thí điểm một số chính sách về xử lý nợ xấu và xử lý TSBĐ
của khoản nợ xấu của TCTD, chi nhánh ngân hàng nƣớc ngoài, tổ chức mà Nhà
nƣớc sở hữu 100% vốn điều lệ do Chính phủ thành lập để xử lý nợ xấu của TCTD;
quyền, nghĩa vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan trong việc xử lý nợ xấu
và xử lý TSBĐ của khoản nợ xấu của các tổ chức này.
Nghị quyết số 42 về xử lý nợ xấu đƣợc đánh giá là văn bản pháp lý quan
trọng khi lần đầu tiên, các vƣớng mắc pháp lý của ngành ngân hàng liên quan đến
xử lý nợ xấu và TSBĐ của các khoản nợ của TCTD đã kéo dài nhiều năm qua đƣợc
giải quyết trong một văn bản của Quốc hội. Nếu đƣợc triển khai tốt trong thực tiễn
sẽ tạo cơ chế xử lý đồng bộ, hiệu quả, khả thi để xử lý nhanh, dứt điểm nợ xấu của
TCTD, qua đó góp phần khơi thông nguồn vốn của TCTD. Tuy nhiên, bên cạnh đó
còn nhiều vần đề cần phải nghiên cứu, đánh giá nhằm hoàn thiện hơn khung pháp
1


lý về xử lý TSBĐ, tạo thuận lợi cho các TCTD nói chung và NHTM nói riêng trong
việc xử lý nợ xấu, xử lý TSBĐ để thu hồi nợ.
Bên cạnh những kết đã quả đạt đƣợc, các quy định của pháp luật hiện hành
vẫn còn tồn tại đòi hỏi cần phải có sự nghiên cứu thêm nhằm tiếp tục hoàn thiện
khung pháp lý. Hiện nay, các quy định của pháp luật đã bƣớc đầu tiếp thu những
đặc điểm cơ bản của vật quyền bảo đảm, song các quy định đó lại đƣợc nhìn nhận
và xây dựng trên cơ sở kết hợp với nguyên lý về trái quyền. Do vậy, một số quy
định của BLDS mặc dù đã mang “dáng dấp” của vật quyền bảo đảm nhƣ thứ tự ƣu
tiên thanh toán, hiệu lực pháp lý đối với ngƣời thứ ba nhƣng chƣa thực sự triệt để,
toàn diện. Do vật quyền đƣợc tiếp cận từ góc độ là hợp đồng (trái vụ) nên các
nguyên tắc pháp lý gắn liền với vật quyền bảo đảm (ví dụ nhƣ quyền đeo đuổi hoặc
quyền ƣu tiên) chƣa đƣợc quy định cụ thể và đầy đủ. Thực tiễn xử lý tài sản cho
thấy quyền của bên cho vay có bảo đảm (chủ thể có quyền trong quan hệ vật quyền)
phụ thuộc nhiều vào ý chí, trách nhiệm của bên vay (chủ sở hữu tài sản). Pháp luật

hiện hành chỉ đề cập đến những vấn đề cơ bản về quyền, nghĩa vụ của các bên đƣợc
thỏa thuận trong hợp đồng bảo đảm, còn những vấn đề có tính xuyên suốt, quan
trọng về vật quyền bảo đảm vẫn chƣa đƣợc quy định để làm nền tảng cho sự vận
hành của chế định vật quyền bảo đảm nhƣ BLDS của một số quốc gia thuộc hệ
thống luật Civil Law. Do vậy, các quy định chƣa thực sự đáp ứng đầy đủ nhu cầu
điều chỉnh của thực tiễn xử lý TSBĐ thể hiện ở việc pháp luật chƣa bảo đảm đầy đủ
quyền lợi của chủ nợ có bảo đảm; chƣa tạo hành lang pháp lý an toàn để khai thác
tối đa giá trị kinh tế của TSBĐ, một số quy định của pháp luật hiện hành thiếu cụ
thể, rõ ràng, thậm chí còn nhiều mâu thuẫn, chồng chéo dẫn đến những vƣớng mắc
trong việc xác định hiệu lực của giao dịch bảo đảm, gây rủi ro cho bên nhận bảo
đảm; hoạt động xử lý TSBĐ chƣa có sự hỗ trợ cần thiết và đầy đủ từ các quy định
của pháp luật khác có liên quan (pháp luật về tố tụng, hành chính, định giá TSBĐ,
bán đấu giá tài sản ...) và từ các cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền (công an, tòa án,
thi hành án, UBND các cấp...). Các bất cập đã, đang ảnh hƣởng rất lớn đến hiệu quả
của hoạt động xử lý TSBĐ của hệ thống TCTD nói chung và NHTM nói riêng.
Nhận thức đƣợc tầm quan trọng của vấn đề TSBĐ và xử lý TSBĐ trong việc
thu hồi nợ vay, trong thời gian qua, các NHTM luôn cố gắng nỗ lực để giảm tỷ lệ
nợ xấu, góp phần vào sự phát triển chung của ngành ngân hàng nói riêng và nền
2


kinh tế nói chung. Tuy nhiên, do đặc thù của hoạt động kinh doanh ngân hàng là
hoạt động tiềm ẩn rủi ro cao, luôn phải đối mặt với những bất cập, khó khăn trong
quá trình xử lý TSBĐ để thu hồi nợ, thực trạng công tác xử lý TSBĐ còn nhiều khó
khăn,vƣớng mắc ảnh hƣởng đến việc thu hồi nợ vay của NHTM liên quan đến
nhiều nguyên nhân cả chủ quan và khách quan.
Từ những vấn đề nêu trên, tác giả đã chọn đề tài “Xử lý TSBĐ cho các
khoản nợ vay từ NHTM theo pháp luật Việt Nam hiện hành” làm đề tài luận văn
của mình. Các vấn đề nêu ra trong luận văn xuất phát từ việc nghiên cứu các quy
định của pháp luật Việt Nam hiện hành, có tìm hiểu, tham khảo các quy định pháp

luật một số nƣớc và tổng kết từ thực tiễn xử lý TSBĐ tại các NHTM, nghiên cứu,
tham khảo sách chuyên khảo của một số tác giả, các luận văn, luận án của một số
tác giả đã nghiên cứu qua đó đề xuất một số hƣớng hoàn thiện các quy định của
pháp luật nói chung và quy định về xử lý TSBĐ nói riêng.
Hiện nay, đã có một số công trình nghiên cứu về đề tài này:
i) Nhóm các công trình nghiên cứu ở cấp độ luận án tiến sĩ, luận văn thạc sỹ hoặc
các sách chuyên khảo, tham khảo nghiên cứu về các biện pháp bảo đảm cụ thể hoặc
các nghiên cứu chung về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự, chẳng hạn: các luận
văn Thạc sỹ luật học với đề tài: “Bảo đảm tiền vay ngân hàng -Thực trạng và giải
pháp” của tác giả Lê Thu Hiền; “Những vấn đề pháp lý về bảo lãnh ngân hàng” của
tác giả Nguyễn Thành Long,... “Pháp luật về xử lý TSBĐ hoạt động cho vay của
các NHTM, thực tiễn áp dụng tại NHTM cổ phần công thƣơng Việt Nam - Chi
nhánh Đống Đa” của tác giả Trần Thị Thu Trang; Thế chấp và xử lý tài sản thế
chấp theo pháp luật dân sự Việt Nam hiện hành của tác giả Nguyễn Trung Hiếu, Xử
lý tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất để bảo đảm tiền vay ngân hàng từ thực tiễn
xét xử tại Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội của tác giả Hoàng Thị Huế,...Thế
chấp tài sản để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trong hợp đồng tín dụng của các ngân
hàng thƣơng mại theo pháp luật Việt Nam của tác giả Nguyễn Hoàng Vũ,...
ii) Nhóm sách chuyên khảo: “Pháp luật về các biện pháp hạn chế rủi ro trong
hoạt động cho vay của TCTD ở Việt Nam và một số nƣớc trên thế giới” Nhà xuất
bản Đại học Quốc gia Hà Nội do PGS.TS Lê Thị Thu Thủy chủ biên; “Một số suy
nghĩ về đảm bảo thực hiện nghĩa vụ trong Luật Dân sự Việt Nam” Nhà xuất bản trẻ

3


TP.Hồ Chí Minh của tác giả Nguyễn Ngọc Điện nghiên cứu chung về các biện pháp
bảo đảm,...
iii) Nhóm tạp chí: Các bài viết đăng trên các Tạp chí thƣờng chỉ bàn về vấn
đề nhỏ trong một biện pháp cụ thể. Chẳng hạn, bài viết: “Bàn về biện pháp bảo

lãnh” của tác giả Phạm Văn Tuyết đăng trên Tạp chí Luật học số 01/1999 chỉ bàn
riêng về tính liên đới về thực hiện nghĩa vụ đƣợc bảo đảm bằng biện pháp bảo lãnh;
bài viết: “Về các biện pháp bảo đảm hợp đồng tín dụng” của tác giả Lê Hồng Hạnh
chỉ bàn về các biện pháp thế chấp, cầm cố, bảo lãnh trong hoạt động tín dụng;
iv) Các tài liệu liên quan đến hội thảo cấp Bộ: (i)Tham luận Quyền xử lý
TSBĐ dƣới góc nhìn kinh tế của Tiến sỹ Vũ Đình Ánh; (ii)TCTD và khó khăn,
vƣớng mắc trong quá trình nhận TSBĐ là nhà ở của Viettinbank,...Các bài viết này
chỉ nghiên cứu dƣới góc độ thực tiễn hoặc vƣớng mắc ở một số tình huống cụ thể
mà không đi sâu tìm hiểu dƣới góc độ lý luận.
Các công trình nghiên cứu, các bài viết nêu trên tiếp cận xử lý TSBĐ dƣới
góc độ đi sâu phân tích các vấn đề lý luận về xử lý TSBĐ hoặc thiên về đánh giá
khó khăn, vƣớng mắc trong quá trình triển khai thực hiện, chƣa đánh giá đúng thực
trạng TSBĐ hiện nay tại các NHTM cũng nhƣ các khó khăn vƣớng mắc mà NHTM
đang phải “đƣơng đầu” trong quá trình xử lý TSBĐ.
Nhiều công trình nghiên cứu nhƣng tập trung vào một số biện pháp cụ thể
của bảo đảm tiền vay tại NHTM là thế chấp hoặc có công trình nghiên cứu về
TSBĐ nhƣng không tiếp cận dƣới lý thuyết là vật quyền, vật quyền bảođảm, vật
quyền bảođảm ƣớc định, chủ thuyết về tài sản do đó các công trình nghiên cứu đâu
đó chƣa có cách tiếp cận một cách đầy đủ, toàn diện dƣới góc độ lý thuyết và thực
tiễn để từ đó có những kiến nghị, đề xuất phù hợp. Do đó, trên cơ sở kế thừa những
nội dung cơ bản về vật quyền bảo đảm đã đƣợc quy định tại BLDS năm 2015 và
các văn bản có liên quan, tác giả sẽ tiếp tục nghiên cứu vấn đề TSBĐ, xử lý TSBĐ
dƣới nguyên lý, đặc tính khách quan của vật quyền, vật quyền bảo đảm.
Ngoài ra, đa số các đề tài nghiên cứu đƣợc thực hiện theo BLDS năm 2005,
trong khi hiện nay BLDS năm 2015 đang điều chỉnh, trong đó một số vấn đề tài sản
đƣợc tiếp cận có sự khác biệt so với BLDS năm 2005. Ngoài ra, các đề tài nêu trên
cũng chƣa có cơ hội tiếp cận nghiên cứu Nghị quyết số 42về thí điểm xử lý nợ xấu
4



của các TCTD và các văn bản của cơ quan có thẩm quyền hƣớng dẫn triển khai
Nghị quyết số 42 nhƣ văn bản của TANDTC, Bộ Tài Nguyên môi trƣờng, Bộ Công
an,...
Trong khuôn khổ nghiên cứu của một luận văn thạc sỹ, việc nghiên cứu vấn
đề lý luận về xử lý TSBĐ của NHTM và thực tiễn áp dụng tại một số ngân hàng
hiện nay không chỉ có ý nghĩa lý luận nhằm hoàn thiện khung pháp lý về xử lý
TSBĐ mà còn có ý nghĩa thực tiễn áp dụng tại TCTD nói chung và NHTM nói
riêng. Tác giả hy vọng rằng với sự đầu tƣ thích đáng, kết quả nghiên cứu sẽ là một
tài liệu tham khảo có giá trị cho các công trình nghiên cứu sau này.
2. Phạm vi và mục đích nghiên cứu
Trong phạm vi giới hạn nhất định, luận văn tập trung nghiên cứu các vấn đề
sau nhằm đƣa ra các kết luận và đánh giá mang tính khoa học về các vấn đề pháp lý
liên quan đến đề tài nghiên cứu:
a) Lý luận chung về vật quyền bảo đảm ƣớc định và xử lý TSBĐ tại NHTM.
b) Pháp luật Việt Nam về xử lý TSBĐ tại NHTM.
c) Vƣớng mắc, kiến nghị và hoàn thiện pháp luật.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Để đạt đƣợc mục đích đặt ra khi nghiên cứu đề tài,đòi hỏi luận văn phải giải
quyết các vấn đề sau:
a) Làm rõ vấn đề lý luận về một số nội dung sau:
- Làm rõ nội hàm của vật quyền, vật quyền bảođảm và vật quyền bảođảm
ƣớc định. Đặc tính và hiệu lực của vật quyền bảo đảm ƣớc định. Nội dung nghiên
cứu này là nền tảng, cơ sở pháp lý khi nghiên cứu chuyên sâu về xử lý TSBĐ.
- Các vấn đề chung về xử lý TSBĐ nhƣ khái niệm, đặc điểm pháp lý, nội
dung cơ bản của xử lý TSBĐ.
b) Làm rõ các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về vật quyền, vật
quyền bảođảm và vật quyền bảođảm ƣớc định. Đánh giá, so sánh với một số quy
định tại BLDS năm 2015 và các quy định về xử lý TSBĐ theo quy định của BLDS
năm 2005 và các văn bản có liên quan.
5



c) Đánh giá các quy định của pháp luật qua thực tiễn cho vay của NHTM để
từ đó có những đề xuất nhằm hoàn thiện khung pháp lý về TSBĐ, nâng cao hiệu
quả công tác xử lý TSBĐ tại các NHTM hiện nay.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu:
Để đạt đƣợc các mục tiêu nghiên cứu mà đề tài đặt ra, trong quá trình nghiên
cứu luận văn đã sử dụng những phƣơng pháp nghiên cứu cơ bản sau:
- Phƣơng pháp phân tích, tổng hợp đƣợc sử dụng khi phân tích các vấn đề về
lý luận đƣợc nghiên cứu trong luận văn.
- Phƣơng pháp phân tích quy phạm pháp luật, phƣơng pháp phân tích vụ việc
để nghiên cứu, đánh giá tính phù hợp, vƣớng mắc của quy định pháp luật hiện hành.
- Phƣơng pháp lịch sử đƣợc sử dụng khi nghiên cứu, tìm hiểu việc quy định
xử lý TSBĐ qua các giai đoạn lịch sử.
- Phƣơng pháp so sánh đƣợc thực hiện nhằm tìm hiểu pháp luật Việt Nam và
pháp luật của một số nƣớc trên thế giới về xử lý TSBĐ để từ đó có kiến nghị, đề
xuất phù hợp với tình hình thực tế Việt Nam.
- Phƣơng pháp quy nạp, diễn dịch: Đƣợc vận dụng để phân tích các vƣớng
mắc, bất cập trong quá trình thực thi liên quan đến phạm vi nghiên cứu.
- Phƣơng pháp thống kê đƣợc thực hiện trong quá trình khảo sát thực tiễn.
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
a) Về khoa học pháp lý
Xây dựng khung cơ sở lý luận, mô hình cấu trúc xử lý TSBĐ hệ thống dựa
trên nền tảng tƣ duy vật quyền, đặc biệt hƣớng các hoạt động thực tiễn không tách
rời cơ sở khoa học pháp lý, cụ thể lý thuyết cơ bản về hiệu lực của vật quyền là
những cơ sở lý luận không thể thiếu khi bàn luận và nghiên cứu về xử lý TSBĐ.
b) Về mặt thực tiễn:
- Luận văn sẽ là tài liệu tham khảo nhằm nâng cao hiệu quả xử lý TSBĐ
trong hoạt động của hệ thống NHTM.


6


- Nội dung và kết quả nghiên cứu của luận văn có thể đƣợc sử dụng làm tài
liệu trong quá trình nghiên cứu, hoàn thiện khung pháp lý về giao dịch bảo đảm, xử
lý TSBĐ tại NHTM.
- Luận văn có thể thành tập tài liệu đƣợc sử dụng tại các cơsở đào tạo Luật.
6) Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và danh mục tham khảo, nội dung của luận
văn gồm 03 chƣơng nhƣ sau:
Chƣơng 1: Lý luận chung về vật quyền bảođảm ƣớc định và xử lý TSBĐ tại
NHTM;
Chƣơng 2: Pháp luật Việt Nam về xử lý TSBĐ tại NHTM;
Chƣơng 3: Vƣớng mắc, kiến nghị hoàn thiện pháp luật.

7


CHƢƠNG 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ VẬT QUYỀN BẢO ĐẢM ƢỚC ĐỊNHVÀXỬ LÝ TÀI
SẢN BẢO ĐẢM TẠI NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI
1.1 Lý luận chung về vật quyền bảo đảm ƣớc định.
1.1.1 Khái niệm và phân loại vật quyền bảo đảm
1.1.1.1 Khái niệm
Để thực hiện mục đích nghiên cứu của đề tài về nội dung xử lý TSBĐ tại
NHTM thì những nghiên cứu mang tính lý luận chuyên sâu về vật quyền, vật quyền
bảo đảm, vật quyền bảo đảm ƣớc định là những nội dung không thể thiếu. Do vậy,
luận văn sẽ tiếp cận nghiên cứu các khái niệm cơ bản trong một hệ thống logic.
Vật quyền (droits réels) là một khái niệm của hệ thống pháp luật Châu Âu
lục địa (Civil law), đã đƣợc hình thành và phát triển từ thời La Mã cổ đại (cách đây

hơn 1500 năm). Vật quyền (real right) và trái quyền (droit personnel hay droit de
créance - jus adrem) là hai phạm trù khoa học cơ bản của pháp luật dân sự. Vật
quyền và trái quyền là cơ sở lý luận để các nhà lập pháp trên thế giới nghiên cứu
luật tài sản. Theo đó, các quan hệ tài sản đƣợc chia thành hai loại: (1) quan hệ giữa
ngƣời với ngƣời và (2) quan hệ giữa ngƣời với vật. Theo luật dân sự truyền thống,
quan hệ giữa ngƣời với ngƣời có ý nghĩa kinh tế đƣợc gọi là quan hệ nghĩa vụ hay
gọi cách khác là “Quyền đối nhân” (right in personam). Còn quan hệ giữa ngƣời
với vật đƣợc gọi là “quyền đối vật” hay chính là “Vật quyền” (right in rem)[1] .
Theo đó, vật quyền được hiểu là quyền đối vật (Quyền trên vật), là quyền
của một người được tác động trực tiếp lên vật và thông quan việc tác động đó mà
thỏa mãn nhu cầu vật chất, tinh thần của mình, “các quyền đối vật hay vật quyền
cho phép người có quyền được trực tiếp và tự do tiếp cận vật để thực hiện quyền
của mình”[2]. Theo Edward C.Abell Jr[3] thì vật quyền còn đƣợc xem nhƣ một
công cụ chống lại tất cả những ngƣời khác trên thế giới, còn theo Planio[4] chủ thể
có quyền đối vật là ngƣời có quyền đó, chủ thể nợ là tất cả mọi ngƣời, những ngƣời
thuộc phần còn lại của thế giới có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ hoàn toàn thụ
động - nghĩa vụ tôn trọng quyền của ngƣời có quyền đối với tài sản trong khi đó
quyền đối nhân bao gồm các quyền tƣơng ứng với các nghĩa vụ tài sản mà ngƣời
khác phải thực hiện vì lợi ích của ngƣời có quyền[5]. Trái quyền là quyền của một
8


ngƣời đƣợc yêu cầu của một ngƣời khác phải thực hiện hoặc không thực hiện một
hành vi nhất định và chỉ thông qua hành vi của ngƣời đó thì quyền và lợi ích của
ngƣời có quyền mới đƣợc đáp ứng.
Về phân loại vật quyền: Hiện nay có nhiều cách phân loại vật quyền, tuy
nhiên dựa trên mức độ tác động vật chất mà chủ thể đƣợc phép thực hiện đối với
vật trong khuôn khổ tìm kiếm lợi ích đƣợc xem là cách phân loại vật quyền phổ
biến nhất. Theo đó, vật quyền đƣợc chia thành 02 nhóm: Các vật quyền chính là
quyền trên tài sản của mình (vật quyền chính yếu hay còn gọi là quyền sở hữu) và

vật quyền phụ là quyền trên tài sản của ngƣời khác (vật quyền hạn chế).
- Vật quyền chính: Đây chính là chế định quan trọng nhất trong số các chế
định quyền đối vật và là chế định cơ sở không chỉ của pháp luật dân sự mà cả toàn
bộ hệ thống pháp luật.
Quyền sở hữu là biểu hiện cao nhất của vật quyền chính yếu, là vật quyền
thống trị, chi phối các vật quyền khác. Đây là vật quyền trung tâm, hoàn hảo của hệ
thống vật quyền[6]. Trong vật quyền, ngƣời có vật quyền đƣợc thực hiện hành vi
một cách trực tiếp, ngay lập tức, không thông qua trung gian tác động lên tài sản là
đối tƣợng của vật quyền. Đây chính là mối quan hệ giữa một ngƣời xác định có
quyền với một vật cụ thể là đối tƣợng của quyền. Phạm vi quyền của quyền sở hữu
(vật quyền chính) toàn năng bao gồm việc sử dụng, hƣởng hoa lợi lợi tức và quyền
định đoạt.
- Vật quyền hạn chế: Vật quyền hạn chế là quyền trên tài sản của ngƣời khác
với mục đích và công năng hay nói cách khác phạm vi hƣởng quyền thấp hơn
quyền sở hữu và có các đặc điểm cơ bản sau:
Thứ nhất: Quyền này phái sinh từ một quyền sở hữu nào đó. Có nghĩa là
trƣớc vật quyền hạn chế bao giờ cũng có một vật quyền gốc là quyền sở hữu;
Thứ hai: Nội dung của vật quyền hạn chế luôn mang tính không đầy đủ,
không trọn vẹn nhƣ quyền sở hữu. Nội dung của các vật quyền hạn chế này là khác
nhau về mục đích chi phối trực tiếp lên vật.

9


Dựa vào nội dụng quyền chi phối trực tiếp, trong nhóm vật quyền hạn chế
có vật quyền hạn chế bảo đảm (hay còn đƣợc gọi là vật quyền hạn chế phụ thuộc) 1.
Vật quyền bảo đảm không hƣớng tới nội dung quyền nhƣ thoả mãn một nhu cầu vật
chất nào đó nhƣ sử dụng, hƣởng hoa lợi, lợi tức…mà mục đích chính, chủ yếu đó là
việc chi phối vật nhƣ một biện pháp bảo đảm cho khoản nợ đến hạn chƣa đƣợc
thanh toán. Trong trƣờng hợp ngay cả khoản nợ đến hạn chƣa đƣợc thanh toán, thì

chủ thể vật quyền bảo đảm cũng không đƣợc công nhận quyền năng chi phối trực
tiếp với mục đích thoả mãn nhu cầu vật chất mà chỉ có quyền năng xử lý tài sản –
vật bảo đảm để thực hiện thanh toán nghĩa vụ đối với mình [13,tr.213].
Vậy về khái niệm: Vật quyền bảo đảmlà quyền chi phối của chủ thể có
quyền một cách trực tiếp lên vật với mục đích để bảo đảm cho một hoặc một số trái
quyền (khoản nợ) của mình được thực hiện một cách đầy đủ.
1.1.1.2Đặc điểm pháp lý và phân loại vật quyền bảo đảm
a. Đặc điểm pháp lý của vật quyền bảo đảm
Thứ nhất, công nhận hiệu lực tuyệt đối khi phân tích dựa trên mối quan hệ
giữa hai yếu tố: (i) chủ thể của quyền (con ngƣời) và (ii) đối tƣợng của quyền (tài
sản). Chủ thể có quyền chủ động, trực tiếp chi phối lên vật mà không thông qua tác
động của một chủ thể khác. Tuy nhiên, khác với vật quyền hạn chế dụng ích, nội
dung quyền của vật quyền bảo đảm không hƣớng tới công năng đó là thực hiện một
trong số các quyền chính yếu của quyền sở hữu nhƣ sử dụng, hƣởng hoa lợi, lợi
tức...mà nó hƣớng tới quyền chi phối vật với mục đích đảm bảo cho một nghĩa vụ
đƣợc thanh toán.
Thứ hai, xét trong mối quan hệ chủ thể của quyền và đối tƣợng của quyền thì
chủ thể của quyền đó chính là con ngƣời. Con ngƣời với đặc trƣng riêng của mình
1

Vật quyền hạn chế được phân loại thành vật quyền hạn chế dụng ích và vật quyền hạn chế bảo đảm (hay vật

quyền hạn chế phụ thuộc). Trong đó Vật quyền hạn chế dụng ích: Là quyền chi phối của chủ thể hướng tới
nội dung quyền là quyền năng chủ thể có thể thực hiện trực tiếp lên vật với mục đích thoả mãn nhu cầu lợi
ích vật chất của mình như quyền địa dịch (Quyền đối với bất động sản liền kề) (quyền của chủ thể về lối đi,
lối thoát nước trên bất động sản của người khác), quyền hưởng dụng (quyền sử dụng tài sản của người khác,
quyền hưởng hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản của người khác), quyền bề mặt (quyền sử dụng tài sản của
người khác là bất động sản để xây dựng, sở hữu các công trình gắn trên đất…).

10



xác lập trên tài sản những hành vi nhất định đƣợc pháp luật cho phép đƣợc gọi là
quyền. Quyền này khi đƣợc đem ra làm biện pháp dự phòng cho thiệt hại có thể xảy
đến trong hợp đồng đồng trái quyền thì đƣợc gọi là quyền bảo đảm. Quyền bảo đảm
đƣợc thể hiện thông qua một tài sản hay một vật chất nhất định thì những quyền
trên tài sản đó chính là vật quyền bảo đảm cho nghĩa vụ mà ngƣời có nghĩa vụ phải
thực hiện.
Thứ ba, vật quyền bảo đảm là vật quyền phụ thuộc dựa trên một trái quyền
và nhằm đảm bảo cho trái quyền đó đƣợc thực hiện. Điều đó có nghĩa là nó tạo ra
để đảm bảo cho ngƣời có trái quyền đƣợc thực hiện quyền một cách đầy đủ trƣớc
bên có nghĩa vụ. Với tính chất dự phòng, vật quyền bảo đảm chỉ đƣợc sử dụng khi
ngƣời có nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ của mình. Và với đặc tính phụ thuộc,
vật quyền này chỉ tồn tại khi nghĩa vụ đƣợc bảo đảm tồn tại, chấm dứt khi nghĩa vụ
đƣợc bảo đảm chấm dứt và ngay cả khi nghĩa vụ đƣợc chuyển giao, vật quyền bảo
đảm cũng đƣợc chuyển giao cùng.
Điểm khác biệt giữa vật quyền chính yếu và vật quyền phụ thuộc là ngƣời có
vật quyền bảo đảm (phụ thuộc) không thể khai thác khả năng của vật để thỏa mãn
nhu cầu về vật chất hay tinh thần của mình nhƣ vật quyền chính. Sở dĩ vật quyền
đƣợc gọi là bảo đảm hay phụ thuộc bởi vì tài sản đối tƣợng của quyền đƣợc coi nhƣ
một thứ “dự trữ giá trị” (value reserve). Điều này có nghĩa là dự trữ này sẽ đƣợc và
chỉ đƣợc mang ra sử dụng một khi ngƣời đó có quyền không còn sự lựa chọn nào
khác cho việc thực hiện nghĩa vụ của mình. Vật quyền phụ không trao cho ngƣời có
quyền những công cụ khai thác các khả năng của tài sản để phục vụ cho cuộc sống,
sinh hoạt của mình nhƣ các vật quyền chính hay vật quyền hạn chế khác.
Nhƣ vậy, vật quyền đảm bảo hay còn đƣợc gọi là vật quyền phụ thuộc là vật
quyền phái sinh trên một trái quyền nhằm đảm đảm bảo cho trái quyền đó đƣợc
thực hiện theo đúng thỏa thuận[7].
b. Phân loại vật quyền bảo đảm
Vật quyền bảo đảm dựa trên căn cứ phát sinh có vật quyền bảo đảm ƣớc

định (thế chấp, cầm cố) và vật quyền bảo đảm pháp định (cầm giữ). Với những đặc
tính khác nhau xuất phát từ căn cứ phát sinh khác nhau cũng dẫn tới hiệu lực của
các loại vật quyền bảo đảm này có những điểm khác biệt [13, tr.215].
11


Vật quyền bảo đảm pháp định đƣợc hiểu là những vật quyền bảo đảm đƣơng
nhiên phát sinh dựa trên quy định của pháp luật, là biện pháp bảo đảm không theo
thỏa thuận (non-consensual security). Vật quyền bảo đảm pháp định đƣợc xác lập
không dựa trên sự thỏa thuận của các chủ thể tham gia mà dƣới những điều kiện
nhất định (khung pháp lý) do nhà lập pháp đặt ra với mục đích đảm bảo tính công
bằng trong quan hệ dân sự. Bên cạnh đó việc xác lập quan hệ bảo đảm mang tính
vật quyền do luật định này nhằm bảo vệ quyền lợi của bên có quyền đồng thời cũng
hạn chế các tranh chấp xảy ra góp phần đảm bảo an toàn, ổn định cho các giao dịch
dân sự, thúc đẩy kinh tế phát triển. Trong khi đó, vật quyền bảođảm ƣớc định là
quan hệ pháp luật dân sự đƣợc xác lập dựa trên sự thỏa thuận của các chủ thể có
liên quan trong quan hệ dùng tải sản bảo đảm để đảm bảo nghĩa vụ trả nợ từ việc
vay vốn ngân hàng.
1.1.2. Lý luận chung về vật quyền bảo đảm ƣớc định
1.1.2.1. Khái niệm
Vật quyền bảo đảm ước định được hiểu là những vật quyền bảo đảm phát
sinh dựa trên cơ sở của hợp đồng. Xét về bản chất đây chính là biện pháp bảo đảm
theo thỏa thuận đƣợc xác lập trên cơ sở một hợp đồng, là sự thỏa thuận (consensual
security), thống nhất ý chí của các chủ thể tham gia có liên quan. Đối với vật
quyền bảo đảm ƣớc định chủ thể có quyền đƣợc xử lý tài sản thông qua hình thức
kê biên, bán đấu giá với để thu hồi nợ.
Vật quyền bảo đảm ƣớc định là biện pháp bảo đảm có ý nghĩa nhằm củng cố
kỷ luật hợp đồng và hạn chế các tiêu cực về các biện pháp bảo đảm có thể phát sinh
từ việc không thực hiện nghĩa vụ. Theo hợp đồng bảo đảm, bên nhận bảo đảm có
quyền xử lý TSBĐ trong trƣờng hợp đến hạn mà bên có nghĩa vụ không thực hiện

hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ của mình.Thông thƣờng giá trị thực tế của
TSBĐ thƣờng lớn hơn giá trị của nghĩa vụ phải thực hiện và có ý nghĩa quan trọng
đối với bên nhận bảo đảm.Việc xử lý TSBĐ trong trƣờng hợp các bên không thực
hiện đúng nghĩa vụ của hợp đồng là điều các bên không mong muốn hƣớng tới mà
ý nghĩa chủ yếu của biện pháp này là ràng buộc chủ thể có nghĩa vụ phải thực hiện
đúng nghĩa vụ của mình.

12


Đối tƣợng của vật quyền bảođảm ƣớc định chính là tài sản. Do đó, tài sản
đƣợc chủ thể có liên quan đƣa ra bảođảm cho quá trình thực hiện nghĩa vụ của
mình đƣợc gọi là tài sản bảo đảm (TSBĐ).Đặt trong mối quan hệ tổng quát giữa
ngƣời và vật (tài sản) có thể đƣợc gọi chung là vật quyền bảo đảm. Theo đó quan hệ
vật quyền bảo đảm cho phép chủ thể có quyền “chi phối” quyền của mình lên tài
sản mà không cần đến sự đồng ý hay không đồng ý của chủ thể khác. Để trở thành
vật bảo đảm trong quan hệ vật quyền bảođảm ƣớc định vật đó phải thỏa mãn yếu tố
là thuộc sở hữu của bên bảo đảm hoặc đƣợc chủ sở hữu giao cho bên bảo đảm để
bảođảm nghĩa vụ dân sự.
Vật quyền bảo đảm là một đặc trƣng cho phép bên có quyền “chống lại” các
chủ thể khác có liên quan đến TSBĐ. Điều này có nghĩa, khi vật bảo đảm đã đƣợc
công khai với bên thứ ba (thông qua cơ chế đăng ký giao dịch bảo đảm hoặc việc
nắm giữ - chiếm hữu tài sản) thì quyền đƣợc xác lập trên tài sản của không phụ
thuộc vào ý chí hoặc đang chịu sự chi phối dƣới quyền của chủ thể khác ngay cả
chủ sở hữu. Về bản chất, đăng ký vật quyền bảo đảm là đăng ký giao dịch bảo đảm.
Đây là hoạt động của cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền phải tiến hành theo một
trình tự, thủ tục pháp luật quy định nhằm bảo đảm hiệu lực của các giao dịch bảo
đảm hoặc có hiệu lực đối kháng với ngƣời thứ ba. Khi giao dịch bảo đảm đƣợc
đăng ký, hiệu lực đối kháng sẽ phát sinh và không bị thay đổi kể cả trong trƣờng
hợp: thay đổi các bên tham gia giao dịch bảo đảm, thay đổi hình thức giao dịch bảo

đảm, thay đổi TSBĐ bằng các khoản tiền thu đƣợc, quyền yêu cầu thanh toán hoặc
tài sản khác có đƣợc từ việc mua bán, trao đổi TSBĐ.
1.1.2.2. Phân loại vật quyền bảo đảm ƣớc định
Nhƣ trên đã đề cập, bảo đảm đối vật là các biện pháp bảo đảm thực hiện
nghĩa vụ mà theo đó bên bảo đảm dùng một hoặc nhiều tài sản thuộc quyền sở hữu
của mình giao cho bên có quyền để bảo đảm cho việc thực hiện nghĩa vụ của mình.
Trong trƣờng hợp ngƣời có nghĩa vụ không thực hiện hoặc thực hiện không đúng
nghĩa vụ đã đƣợc bảo đảm bằng tài sản thì TSBĐ sẽ đƣợc mang ra xử lý theo yêu
cầu của bên nhận bảo đảm để thỏa mãn yêu cầu của mình.
Pháp luật Việt Nam cũng nhƣ pháp luật các nƣớc trên thế giới để quy định
nhiều biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ là biện pháp đối vật(cầm cố, thế chấp
13


tài sản, đặt cọc,ký cƣợc, ký quỹ,bảo lƣu quyền sở hữu) và biện pháp đối nhân nhƣ
bảolãnh, tín chấp. Nếu nhƣ hai biện pháp bảo lãnh,tín chấp là biểu hiện cụ thể của
biện pháp đối nhân thì cầm cố và thế chấp là hai biện pháp bảo đảm truyền thống có
lịch sử hình thành từ hàng nghìn năm lịch sử, là biểu hiện cụ thể của vật quyền bảo
đảm ƣớc định và là biện pháp bảo đảm thƣờng đƣợc các chủ thể liên quan lựa chọn
đảm bảo nghĩa vụ. Trong quan hệ vay vốn ngân hàng thì đây là các biện pháp mà
bên cho vay và ngân hàng thƣờng xuyên lựa chọn, đặc biệt là quan hệ thể chấp.
Trong phạm vi nghiên cứu của luận văn tác giả chủ yếu tập trung nghiên cứu hai
biện pháp bảo đảm đối vật là cầm cố và thế chấp và là biện pháp bảo đảm nghĩa vụ
trả nợ vay tại NHTM.
a) Cầm cố
Chế định cầm cố xuất hiện từ rất lâu của lịch sử xã hội loài ngƣời. Chế định
này đƣợc quy định tại bộ luật Manu của Ấn Độ và luật La Mã cổ đại. Theo luật La
Mã, hình thức đầu tiên của cầm cố là fiducica và cho phép ngƣời cho vay có quyền
sở hữu vật cầm cố cho đến khi bên đi vay thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của mình.
Trong trƣờng hợp bên đi vay không thực hiện nghĩa vụ,vật cầm cố sẽ thuộc sở hữu

của bên cho vay, thậm chí cả khi số tiền vay nhỏ hơn nhiều so với giá trị tài sản
cầm cố. Nhƣ vậy,ngƣời có nghĩa vụ là bên đi vay đảm bảo việc thực hiện nghĩa vụ
bằng việc đƣa tài sản cầm cố cho bên đi vay làm sở hữu.Nội dung cầm cố từ thuở
sơ khai thác với nội dung cầm cố theo pháp luật dân sự hiện đại.Nếu thời kỳ La Mã
tài sản cầm cố sẽ thuộc sở hữu của bên có quyền (bên cho vay)trong thời hạn cho
vay thì theo pháp luật dân sự hiện đại thì tài sản cầm cố vẫn thuộc sở hữu của bên
có nghĩa vụ. Sự thay đổi về việc sở hữu tài sản phù hợp nhu cầu của xã hội,thúc đẩy
các giao dịch dân sự, kinh tế phát triển.
Theo quy định của BLDS Nhật Bản: Cầm cố là một quyền bảo đảm bằng tài
sản,trong đó chủ nợ tiếp nhận từ ngƣời mắc nợ hoặc ngƣời thứ ba một vật sản nhất
định và cầm giữ vật đó cho đến khi nghĩa vụ đƣợc thực hiện, nhằm đảm bảo thực
hiện nghĩa vụ và bằng cách đó gián tiếp ép buộc ngƣời mắc nợ phải thực hiện nghĩa vụ.
Theo quy định tại Điều 309 của BLDS Việt Nam năm 2015[8] thì cầm cố tài
sản là việc một bên (sau đây gọi là bên cầm cố) giao tài sản thuộc quyền sở hữu của
mình cho bên kia (sau đây gọi là bên nhận cầm cố)để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ.
14


Cầm cố tài sản có những đặc điểm pháp lý cơ bản sau:
- Về mặt chủ thể: Gồm bên cầm cố và bên nhận cầm cố.Bên cầm cố là bên
có nghĩa vụ,bên nhận cầm cố là bên có quyền. Bên cầm cố chính là khách hàng vay.
Bên nhận cầm cố chính là bên NHTM.Khách hàng vay vốn tại NHTM hiện nay
theo quy định tại Thông tƣ 39/2017/TT-NHNN [9] gồm 02 chủ thể là cá nhân và
pháp nhân. Trong đó pháp nhân gồm pháp nhân thƣơng mại và pháp nhân phi
thƣơng mại. Cá nhân thì từ đủ 15-18 tuổi, không bị mất, hạn chế năng lực hành vi
dân sự, khó khăn trong nhận thức và làm chủ hành vi thì đƣợc vay vốn.
- Về điều kiện vay vốn: Ngoài yếu tố chủ thể nhƣ đã đề cập ở trên, bên vay
vốn phải có năng lực tài chính để đảm bảo nghĩa vụ trong thời gian cam kết, có mục
đích sử dụng vốn vay hợp pháp, có dự án kinh doanh khả thi; nếu cầm cố tài sản để
đảm bảo nghĩa vụ trả nợ thì phải là chủ sở hữu hoặc ngƣời có quyền quản lý đối với

trƣờng hợp doanh nghiệp nhà nƣớc.
- Tài sản cầm cố:
+Phải là tài sản thuộc sở hữu của bên cầm cố hoặc tài sản đƣợc giao quyền
quản lý trong một số trƣờng hợp đặc biệt.
+Về đối tƣợng cầm cố, pháp luật trên thế giới quy định có khác nhau:
BLDS Nhật Bản quy định đối tƣợng cầm cố là động sản, bất động sản và
cầm cố quyền. Đối tƣợng cầm cố đƣợc quy định trong BLDS Nhật Bản là những
vật đặc định. Đối tƣợng cầm cố có thể là đất đai thì phải chuyển giao cho bên nhận
cầm cố quản lý và khai thác lợi ích trực tiếp. Đối với quyền thăm dò khai thác và
đánh bắt hải sản mặc dù là quyền tài sản nhƣng Nhật Bản không chấp nhận là đối
tƣợng cầm cố.
BLDS Liên bang Nga năm 1992: So với Nhật Bản đối tƣợng cầm cố theo
pháp luật dân sự Nga có mở hơn, cụ thể: bất cứ tài sản nào (trừ tài sản cấm lƣu
thông) hoặc quyền tài sản (trừ quyền nhân thân) cũng có thể là đối tƣợng cầm cố
đảm bảo thực hiện nghĩa vụ.
Pháp luật quy định đối tƣợng của cầm cố là động sản, không căn cứ vào tiêu
chí chuyển giao tài sản.Theo pháp luật Pháp, động sản có thể là động sản hữu hình
hoặc động sản vô hình.Động sản vô hình nhƣ quyền đòi nợ, quyền sở hữu trí tuệ
15


…có thể đƣợc cầm cố để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ. Quyền đòi nợ đƣợc cầm cố
có thể là đang tồn tại hoặc sẽ hình thành trong tƣơng lai. Doanh thu hoặc tiền thuê
nhà trong tƣơng lai có thể là đối tƣợng cầm cố.
Pháp luật Việt Nam: Theo khái niệm đƣợc định nghĩa là tại BLDS Việt Nam
hiện hành thì đối tƣợng của cầm cố là động sản hoặc bất động sản và gắn với việc
chuyển giao cho bên nhận cầm cố. Về đối tƣợng cầm cố là động sản hoặc bất động
sản về cơ bản pháp luật Việt Nam phù hợp với pháp luật các nƣớc nhƣ Nhật Bản,
Pháp, Nga nhƣng về yếu tố chuyển giao thì pháp luật Việt Nam quy định giống
pháp luật Nhật Bản nhƣng khác pháp luật của Nga, cụ thể pháp luật Nga đã quy

định cầm cố có 02 loại chuyển giao và không chuyển giao. Theo pháp luật Nga, tài
sản cầm cố chuyển giao cho bên nhận cầm cố trừ trƣờng hợp các bên có thỏa thuận
hoặc pháp luật có quy định khác.Theo Điều 338 BLDS Liên bang Nga năm 1994
thì tài sản là hàng hóa đang lƣu thông,doanh nghiệp, đất đai không đƣợc giao cho
bên nhận cầm cố.
+ Tính chuyển giao tài sản: Pháp luật một số nƣớc (Nhật Bản) quy định bên
có tài sản đảm bảo có thể chuyển giao hoặc không chuyển giao tài sản. Pháp luật
Việt Nam hiện hành yêu cầu bên cầm cố phải chuyển giao tài sản cầm cố cho bên
nhận cầm cố giữ.
- Là loại hợp đồng thực tế và là hợp đồng song vụ (hợp đồng song vụ là hợp
đồng mà mỗi bên đều có nghĩa vụ đối với nhau). Là hợp đồng phụ bên cạnh hợp
đồng chính, hợp đồng tín dụng. Hợp đồng cầm cố có thể đƣợc lập thành văn bản
riêng hoặc cơ cấu vào hợp đồng chính (hợp đồng cấp tín dụng của NHTM).
-Hình thức của hợp đồng: Hợp đồng cầm cố phải lập thành văn bản, pháp
luật đã cho phép các bên đƣợc lựa chọn có hoặc không công chứng, chứng thực hợp
đồng cầm cố trừ trƣờng hợp pháp luật quy định các trƣờng hợp cụ thể buộc phải
công chứng, chứng thực.Các trƣờng hợp phải đăng ký quyền sở hữu phƣơng tiện
thủy nội địa; tàu cá, phƣơng tiện giao thông cơ giới đƣờng bộ,xe,máy chuyên dùng
thi công đƣờng bộ đăng ký quyền sở hữu tàu bay, đăng ký phƣơng tiện giao thông
đƣờng sắt.Ngoài ra, pháp luật cũng quy định trong một số trƣờng hợp,hợp đồng có
hiệu lực pháp lý kể từ thời điểm các bên ký kết hoặc công chứng/chứng thực tùy
từng trƣờng cụ thể nhƣng phải đƣợc đăng ký thì mới có giá trị pháp lý với bên thứ
16


ba,đó là trƣờng hợp đối tƣợng của cầm cố là bất động sản thì việc cầm cố bất động
sản có hiệu lực đối kháng với ngƣời thứ ba kể từ thời điểm đăng ký(thời điểm cơ
quan nhà nƣớc có thẩm quyền ghi vào sổ đăng ký).
b) Thế chấp
Quy định của pháp luật về thế chấp qua các thời kỳ có sự khác nhau, cụ thể

nhƣ sau:
Quy định về thế chấp tài sản vay vốn ngân hàng ban hành kèm theo Quyết
định số 156/NH-QĐ ngày 18/11/1989 của NHNN (Điều 3) không đƣa ra khái niệm
về tài sản thế chấp mà liệt kê một số tài sản dùng làm thế chấp nợ vay bao gồm
động sản và bất động sản nhƣ vàng lá, đồ trang sức bằng vàng, bạc, đá quý, kim
cƣơng, các vật dụng đắt tiền trong sinh hoạt gia đình… Tài sản thế chấp do Ngân
hàng cho vay bảo quản (trừ loại tài sản dùng làm thế chấp là bất động sản), chỉ trả
lại cho bên vay khi trả hết nợ và lãi Ngân hàng.
Nghị định số 17/HĐBT ngày 16/1/1990 của Hội đồng Bộ trƣởng (nay là
Chính phủ) hƣớng dẫn thi hành Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế năm 1989 quy định:
“Thế chấp tài sản là dùng động sản và bất động sản hoặc giá trị tài sản khác thuộc
quyền sở hữu của mình để bảo đảm cho việc thực hiện hợp đồng kinh tế đã ký kết”.
Khoản 1 Điều 346 BLDS Việt Nam năm 1995 quy định:
“Thế chấp tài sản là việc bên có nghĩa vụ dùng tài sản là bất động sản thuộc
sở hữu của mình để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ đối với bên có quyền.
Hoa lợi, lợi tức và các quyền phát sinh từ bất động sản được thế chấp thuộc
tài sản thế chấp, nếu có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định.
Trong trường hợp thế chấp toàn bộ bất động sản có vật phụ, thì vật phụ chỉ
thuộc tài sản thế chấp, nếu có thỏa thuận…”
Nhƣ vậy, có thể thấy, dấu hiệu đặc trƣng của tài sản thế chấp theo quy định
của BLDS Việt Nam năm 1995 là đối tƣợng tài sản dùng để đảm bảo nghĩa vụ là
bất động sản. Việc chiếm hữu tài sản thế chấp không phải là điều kiện để phân biệt
thế chấp tài sản với các biện pháp bảo đảm nghĩa vụ bằng tài sản khác.
Bản Quy chế thế chấp, cầm cố tài sản và bảo lãnh vay vốn ngân hàng ban
hành kèm theo Quyết định của Thống đốc Ngân hàng Nhà nƣớc số 271/QĐ-NH1
ngày 17/8/1996, tại Điều 2 có quy định: “Thế chấp tài sản vay vốn ngân hàng là
việc bên vay vốn (gọi là bên thế chấp) dùng tài sản là bất động sản thuộc sở hữu
17



của mình để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trả nợ (bao gồm nợ gốc, lãi và tiền phạt
lãi quá hạn) đối với bên cho vay (gọi là bên nhận thế chấp)”.
Điều 8 Nghị định số 165/1999/NĐ-CP ngày 19/11/1999 của Chính phủ quy
định về tài sản thế chấp gồm:
- Nhà ở, công trình xây dựng gắn liền với đất, kể cả các tài sản gắn liền với
nhà ở, công trình xây dựng đó, các tài sản khác gắn liền với đất;
- Quyền sử dụng đất mà pháp luật về đất đai quy định đƣợc thế chấp;
- Hoa lợi, lợi tức, khoản tiền bảo hiểm và các quyền phát sinh từ bất động
sản thế chấp thuộc tài sản thế chấp, nếu các bên có thoả thuận hoặc pháp luật có
quy định;
- Trong trƣờng hợp thế chấp toàn bộ bất động sản có vật phụ, thì vật phụ
cũng thuộc tài sản thế chấp. Trong trƣờng hợp thế chấp một phần bất động sản có
vật phụ, thì vật phụ chỉ thuộc tài sản thế chấp, nếu các bên có thoả thuận;
- Tàu biển theo quy định của Bộ luật Hàng hải Việt Nam, tàu bay theo quy
định của Luật Hàng không dân dụng Việt Nam trong trƣờng hợp đƣợc thế chấp;
- Các tài sản khác theo quy định của pháp luật.
Căn cứ các quy định của của pháp luật nêu trên có thể nói việc việc thế chấp
đƣợc chiathành các giai đoạn.Từ giai đoạn năm 1989 (giai đoạn pháp lệnh hợp
đồng kinh tế có hiệu lực), nhà nƣớc cho phép dùng động sản và bất động sản để thế
chấp vay vốn ngân hàng, đồng thời có tính đến yếu tố chuyển giao tài sản, cụ thể tài
sản thế chấp do Ngân hàng cho vay bảo quản, chỉ trả lại cho bên vay khi trả hết nợ
và lãi Ngân hàng (trừ loại tài sản dùng làm thế chấp là bất động sản). Các giai đoạn
tiếp theo trƣớc khi BLDS năm 2015 có hiệu lực, thông qua định nghĩa thế chấp tài
sản và đều nhìn nhận tài sản thế chấp dƣới dạng là bất động sản và các loại tài sản
có tính chất đặc thù nhƣ máy bay, tàu biển cũng đƣợc dùng để thế chấp.
Về vấn đề này, một số quy định của pháp luật nƣớc ngoài quy định nhƣ sau:
Điều 2114 BLDS Pháp quy định: “Thế chấp là một quyền tài sản đối với bất
động sản được sử dụng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ”.
Pháp luật của Bang Floria (Mỹ) cũng quy định: “Bất kỳ một công cụ hay
cách thức nào mà sử dụng tài sản làm vật bảo đảm đều được coi là thế chấp. Thế

chấp là một sự bảo đảm bằng đất cho việc hoàn trả tiền vay”.
18


Điều 369 BLDS Nhật Bản quy định: “Người nhận thế chấp có quyền ưu tiên
so với các chủ nợ khác trong việc đáp ứng yêu cầu của mình từ bất động sản mà
bên nợ hoặc người thứ ba đưa ra như một biện pháp bảo đảm trái vụ và không
chuyển giao quyền chiếm hữu nó”.
Có thể nói pháp luật hiện hành của Việt Nam về thế chấp có sự tiếp thu, kế
thừa các quy định của pháp luật qua các thời kỳ và quy định của một số nƣớc tiên
tiến trên thế giới.
Cũng nhƣ cầm cố,thế chấp tài sản để đảm bảo thực hiện nghĩa là biện pháp
bảo đảm đối vật và là vật quyền phụ thuộc phái sinh từ vật quyền chính, ngoài
những đặc điểm trong tƣơng tự nhƣ cầm cố (về chủ thể,về tài sản,loại hợp đồng),thế
chấp có những đặc điểm pháp lý cơ bản sau:
-Về chuyển giao tài sản: Trong quan hệ thế chấp tài sản thế chấp đƣợc để lại
cho ngƣời thế chấp giữ, trừ trƣờng hợp các bên có thỏa thuận khác. Pháp luật Việt
Nam cũng nhƣ hầu hết các nƣớc trên thế giới đều quy định: Tài sản thế chấp do bên
thế chấp giữ. Các bên có thể thuận giao cho ngƣời thứ ba giữ tài sản thế chấp. Nhƣ
vậy, việc thế chấp tài sản không phải dùng quyền sở hữu tài sản để bảo đảm vì
quyền sở hữu tài sản thực tế vẫn nằm trong tay ngƣời vốn là chủ sở hữu thực sự của
tài sản thế chấp.
So với cầm cố,khi áp dụng biện pháp này bên có nghĩa vụ giải quyết tài sản
cho bên nhận cầm cố.Pháp luật Việt Nam hiện hành không căn cứ vào việc phân
biệt TSBĐ là động sản hay bất động sản mà căn cứ vào khả năng dịch chuyển của
tài sản.Nếu là cầm cố thì phải chuyển giao tài sản từ bên cầm cố sang bên nhận cầm
cố,còn nếu là thế chấp thì không phải chuyển giao tài sản từ bên thế chấp sang bên
nhận thế chấp mà bên thế chấp chỉ phải giao các giấy tờ chứng minh quyền sở hữu,
sử dụng của mình đối với tài sản cho bên nhận thế chấp.
- Về ngƣời thứ ba giữ tài sản cầm cố và ngƣời thứ ba giữ thế chấp: Trong

trƣờng hợp thế chấp,việc ngƣời thứ ba giữ tài sản thế chấp phải do hai bên thỏa
thuận và đồng ý, đồng thời ngƣời thứ ba có các quyền và nghĩa vụ nhất định. Đối
với trƣờng hợp cầm cố, việc ngƣời thứ ba giữ tài sản này hoàn toàn do ý chí của
bên cầm cố thông qua hoạt động ủy quyền của ngƣời này cho bên thứ ba. Đây là
quan hệ độc lập với quan hệ giữa bên có quyền và bên có nghĩa vụ trong giao dịch
19


đƣợc bảo đảm. Do đó, ngay cả khi ngƣời thứ ba giữ tài sản thì bên nhận cầm cố vẫn
phải chịu trách nhiệm trƣớc bên cầm cố về việc thực hiện các nghĩa vụ theo quy
định và theo thỏa thuận trong hợp đồng cầm cố.
- Về hiệu lực của hợp đồng thế chấp: Hợp đồng thế chấp có hiệu lực đối với
hai bên giao kết kể từ thời điểm giao kết, nghĩa là từ lúc các bên ký vào văn bản thế
chấp hoặc cơ quan có chức năng công chứng, chứng thực chứng nhận trừ trƣờng
hợp các bên có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác, đối với ngƣời thứ
ba, hợp đồng thế chấp chỉ có hiệu lực kể từ ngày đăng ký thế chấp. “Hợp đồng thế
chấp, khi phát sinh hiệu lực với bên giao kết, thiết lập giữa hai bên những mối quan
hệ đặc biệt; khi phát sinh hiệu lực đối với ngƣời thứ ba, nó có tác dụng bảo vệ
ngƣời nhận thế chấp chống lại những đòi hỏi của ngƣời thứ ba về việc thực hiện các
quyền lợi của ngƣời này trên tài sản thế chấp”[10].
1.1.2.3. Đối tƣợng của vật quyền đảm bảo ƣớc định (sau đây gọi là
TSBĐ)
Đối tƣợng của vật quyền đảm bảo ƣớc định là tài sản mà bên có nghĩa vụ
dùng để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ dân sự đối với bên có quyền.
Theo ngôn ngữ đời thƣờng thì “tài sản” đƣợc hiểu là của cải,tiền bạc[11].
Dƣới góc độ khoa học pháp lý, trƣớc hết theo Luật La Mã cổ đại,tài sản bao
gồm các vật và quyền tài sản. Theo đó, thuật ngữ res đƣợc sử dụng trong ngôn ngữ
pháp lý La tinh để chỉ một vật tồn tại theo tính chất của nó, một vật có biểu hiện vật
chất và cụ thể. Mặt khác res cũng đƣợc hiểu nhƣ một quyền trừu tƣợng mà con
ngƣời có đƣợc đối với vật[12]. Vật là những đối tƣợng hữu hình đơn lẻ, phân biệt

đƣợc, có tính độc lập mà con ngƣời có thể cầm nắm, khai thác lợi ích kinh tế và có
giá trị nhất định.
Ở các nƣớc theo hệ thống pháp luật Civil Law nhƣ Pháp,Nhật Bản đều
không có định nghĩa về tài sản trong các BLDS mà chỉ quy định về tài sản thông
qua hệ thống phân loại. Theo BLDS Pháp, tài sản bao gồm động sản và bất động
sản(Điều 516); tài sản có thể là động sản do tính chất hoặc do pháp luật quy
định(Điều 527).Nhìn chung, trong hệ thống Civil Law thay vì khái niệm tài sản
đƣợc quy định tại BLDS thì chế định về vật trong đó bao gồm cả khái niệm với tƣ
cách là đối tƣợng của quyền tài sản đƣợc quy định minh thị tại phần chung
20


×