Tải bản đầy đủ (.docx) (9 trang)

Nguyên tắc "suy đoán vô tội” trong tố tụng hình sự và điều kiện bảo đảm thực hiện

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (77.21 KB, 9 trang )

Họ và tên: Đỗ Hoàng Dương
Mã học viên: K16FCQ086
Lớp: K16F

Bài 5
Nguyên tắc "suy đoán vô tội” trong tố tụng hình sự
và điều kiện bảo đảm thực hiện
"Suy đoán vô tội” là sự thể hiện quan điểm của Nhà nước trong việc tôn trọng
các giá trị cao quý của con người (nhân phẩm, danh dự) trong xã hội và coi một
người có đủ tư cách công dân với các quyền, nghĩa vụ do Hiến pháp và pháp luật quy
định, khi người đó chưa bị Tòa án (cơ quan có thẩm quyền xét xử) kết tội bằng một
bản án có hiệu lực pháp luật. Vì vậy, để loại trừ, ngăn ngừa sự tùy tiện, lộng quyền,
áp đặt hay vi phạm pháp luật từ phía cơ quan tiến hành tố tụng (THTT), người THTT
mà Hiến pháp và Bộ luật Tố tụng hình sự (TTHS) Việt Nam đã quy định rõ các hoạt
động TTHS phải tuân thủ nghiêm chỉnhnguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa
(XHCN) "Mọi hoạt động TTHS của cơ quan THTT, người THTT và người tham gia
tố tụng phải được tiến hành theo quy định của Bộ luật này” (Điều 3 Bộ luật TTHS
năm 2003).
Thuật ngữ "suy đoán vô tội” chưa được Hiến pháp và pháp luật Việt Nam sử
dụng và ghi nhận chính thức. Tuy nhiên, trên cơ sởnhững tư tưởng tiến bộ trong Điều
11 Tuyên ngôn thế giới về quyền con người năm 1948 "Một người bị buộc tội về hình
sự, đều có quyền được coi là vô tội cho đến khi được chứng minh là phạm tội theo
pháp luật, tại một phiên tòa xét xử công khai, nơi người đó được bảo đảm những điều
kiện cần thiết để bào chữa cho mình...”và Điều 14 Công ước quốc tế về các quyền
dân sự và chính trị năm 1966 của Liênhiệp quốc"Người bị cáo buộc là phạm tội hình
sự có quyền được coi là vô tội cho tới khi hành vi phạm tội của người đó được chứng
minh theo pháp luật...”, thì nội dung của nguyên tắc này đã được đề cập trong Hiến


pháp Việt Nam năm 1992, sửa đổi năm 2001 (Điều 72), Bộ luật TTHS năm 1988 (các
điều 10, 11) và Bộ luật TTHS năm 2003 (các điều 9,10). Cho nên, xét dưới góc độ


tôn trọng và bảo vệ quyền con người, quyền công dân, yêucầu của nguyên tắc "suy
đoán vô tội” đòi hỏi tất cả các chủ thể, trước hết là các cơ quanTHTT, người tiến
hành TTHS phải tôn trọng danh dự, nhân phẩm của công dân, sau đến những người
khác, cơ quan, tổ chức, báo chí, truyền thông... cũng phải đối xử và tôn trọng họ khi
chưa có bản án kết tội đã có hiệu lực pháp luật.Còn khi họ đã có bản án kết tội đã có
hiệu lực pháp luật, thì Nhà nước đã quy định các quyền và nghĩa vụ của họ với tư
cách là người đã bị kết án.
Điều 72 Hiến pháp năm 1992, sửa đổi năm 2001 quy định: "Không ai bị coi là
có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đó có hiệu lực
pháp luật.
Người bị bắt, bị giam giữ, bị truy tố, xét xử trái pháp luật có quyền được bồi
thường thiệt hại về vật chất và phục hồi danh dự. Người làm trái pháp luật trong việc
bắt, giam giữ, truy tố, xét xử gây thiệt hại cho người khác phải bị xử lý nghiêm
minh”.
Điều 9 Bộ luật TTHS năm 2003 nhắc lại và đặt tên nguyên tắc "Không ai bị coi là có
tội khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật” quy định: "Không
ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có
hiệu lực pháp luật”.
Ngoài ra,Điều 32 Dự thảo sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992 (Điều 72)
ngày 23/11/2012 quy định:
"1. Không ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu
lực pháp luật.
2. Người bị buộc tội có quyền được Tòa án xét xử. Không ai bị kết án hai lần
vì một tội phạm.
3. Người bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam, bị điều tra, truy tố, xét xử có quyền sử
dụng trợ giúp pháp lý của người bào chữa.
4.Người bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam, bị điều tra, truy tố, xét xử trái pháp luật
có quyền được bồi thường thiệt hại về vật chất, tinh thần và phục hồi danh dự. Người



làm trái pháp luật trong việc bắt, tạm giữ, tạm giam, điều tra, truy tố, xét xử gây thiệt
hại cho người khác phải bị xử lý theo pháp luật”.
Nghiên cứu Điều luật này trongDự thảo sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992,
chúng tôi nhận thấy, nội dung liên quan đến nguyên tắc "suy đoán vô tội” và một số
điểm hạn chế, tồn tại của Điều 72 Hiến pháp hiện hành đã được Ban soạn thảo hoàn
thiện như sau:
Một là, đã bỏ đi cụm từ "và phải chịu hình phạt” trong khoản 1 để bảo đảm
tính thống nhất và chặt chẽ với Bộ luật Hình sự (BLHS) năm 1999, sửa đổi năm 2009
về miễn hình phạt (Điều 54) vì phải bao quát hai trường hợp có hậu quả pháp lý khác
nhau:
a) Một người phạm tội và đến khi xét xử, trong bản án kết tội có hiệu lực pháp
luật của Tòa án, người đó bị coi là có tội và bị áp dụnghình phạt;
b) Một người phạm tội nhưng đến khi xét xử, trong bản án kết tội có hiệu lực
pháp luật của Tòa án, người đó bị coi là có tội nhưng không bị áp dụnghình phạtmà
đượcmiễn hình phạt.
Hai là, đã bổ sung nội dung "Người bị buộc tội có quyền được Tòa án xét xử.
Không ai bị kết án hai lần vì một tội phạm” để bảo đảm nguyên tắc pháp chế XHCN
và quyền được xét xử công bằng được ghi nhận trong Điều 10Tuyên ngôn thế giới về
quyền con người năm 1948 "Mọi người đều bình đẳng về quyền được xét xử công
bằng và công khai bởi một Tòa án độc lập và khách quan để xác định các quyền và
nghĩa vụ của họ, cũng như bất cứ sự buộc tội nào đối với họ” và Điều 11 (đã dẫn ở
trên), cũng như Điều 14 Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị năm 1966
của Liên hiệp quốc. Hơn nữa, logic đương nhiên là "người bị buộc tội” mới cần được
"suy đoán vô tội”. Ngoài ra, Điều 32 Dự thảo đã bổ sung nội dung "Người bị bắt,bị
tạm giữ, tạm giam, bị điều tra, truy tố, xét xử có quyền sử dụng trợ giúp pháp lý của
người bào chữa” cho bảo đảm tương thích với các Công ước quốc tế (đã dẫn), cũng
như tôn trọng quyền bào chữa và trợ giúp pháp lý của những người bị buộc tội tương
ứng với các giai đoạn TTHS, thậm chỉ bao gồm cả người bị tình nghi (người bị bắt).
Ba là, đã bổ sung cho chính xác trong các giai đoạn tố tụng và thuật ngữ thống
nhất trong Bộ luật TTHS về người bị bắt và các người tham gia tố tụng (người bị tạm

giữ, tạm giam) về việc tôn trọng quyền con người của những người này. Khi họ bị
điều tra, truy tố, xét xử trái pháp luật có quyền được bồi thường thiệt hại về vật chất,


tinh thần và phục hồi danh dự. Còn người nào làm trái pháp luật trong việc bắt, tạm
giữ, tạm giam, điều tra, truy tố, xét xử gây thiệt hại cho người khác phải bị xử lý theo
pháp luật.
2. Kiến nghị sửa đổi, bổ sung Điều 32 Dự thảo sửa đổi, bổ sung Hiến pháp 1992,
Điều 9 Bộ luật Tố tụng hình sự 2003, Điều 293, 294 Bộ luật Hình sự hiện hành
Từ nội dung Điều 32 Dự thảo Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung Điều 72
Hiến pháp hiện hành), chúng tôi xin đóng góp thêm để hoàn thiện Điều luật này, cũng
như bảo đảm tính thống nhất giữa Hiến pháp với BLHS và Bộ luật TTHS như sau:
Một là, về cơ bản, chúng tôi nhất trí với những đề xuất của Ban soạn thảo sửa
đổi Hiến pháp về Điều 32 Dự thảo lần này, tuy nhiên, có ba điểm nên sửa đổi, bổ
sung bao gồm:
- Khoản 1 Điều 32 Dự thảo quy định: "Không ai bị coi là có tội khi chưa có bản án
kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật”. Sau khi đã bỏ đi cụm từ "và phải chịu
hình phạt” nội dung khoản này đã rất đầy đủ. Mặc dù vậy, để bảo đảm nội dung
nguyên tắc "suy đoán vô tội” và thống nhất với quy định của Bộ luật TTHS, cũng như
tương ứng với các chức năng cơ bản trong TTHS, khoản này nên bổ sung thêm nội
dung: "Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về các cơ quan THTT. Người bị tạm
giữ, bị can, bị cáo có quyền nhưng không buộc phải chứng minh là mình vô tội”.
-Khoản 2 Điều 32 Dự thảo quy định: "Người bị buộc tội có quyền được Tòa án xét
xử. Không ai bị kết án hai lần vì một tội phạm” nên sửa đổi, bổ sung thành: "Người bị
buộc tội có quyền được Tòa án xét xử. Không ai bịTòa ánkết án hai lần về một tội
phạmmà người đó đã bị kết án”cho bảo đảm đầy đủ nội dung (logic là thẩm quyền
kết án chỉ do duy nhất Tòa án, đồng thời không thể bị kết án hai lần về một tội phạm
mà người đó đã bị kết án), đồng thời phù hợp với khoản 7 Điều 14Công ước quốc tế
về các quyền dân sự, chính trị năm 1966 của Liên hiệp quốc, cũng như nguyên tắc
pháp chế XHCN trong Hiến pháp và pháp luật.

- Khoản 3 Điều 32 Dự thảo quy định:"Người bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam, bị điều tra,
truy tố, xét xử có quyền sử dụng trợ giúp pháp lý của người bào chữa” nên sửa đổi,
bổ sung thêm cả "những người khác theo quy định của pháp luật” (cùng với người
bào chữa). Bởi lẽ, Bộ luật TTHS năm 2003 quy định người bào chữa có thể là: luật
sư; người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo; bào chữa viên nhân
dân (Điều 56), nhưng Luật Trợ giúp pháp lý năm 2006 còn quy định cả Trợ giúp viên


pháp lý cũng được coi làngười bào chữa thực hiện các nhiệm vụ như: tư vấn pháp
luật, tham gia tố tụng, đại diện theo pháp luật... (điểm b khoản 3 Điều 21); hoặc dự
phòng sau này có thể có thêm chủ thể nào đó được pháp luật quy định có quyền này.
- Khoản 4 Điều 32 Dự thảo quy định: "Người bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam, bị điều tra,
truy tố, xét xử trái pháp luật có quyền được bồi thường thiệt hại về vật chất, tinh thần
và phục hồi danh dự. Người làm trái pháp luật trong việc bắt, tạm giữ, tạm giam, điều
tra, truy tố, xét xử gây thiệt hại cho người khác phải bị xử lý theo pháp luật” nên sửa
đổi, bổ sung cho ngắn gọn và thống nhất với Điều 29 Bộ luật TTHS năm 2003, cũng
như cần phục hồi cả các quyền lợi khác cho họ ngoài việc bồi thường, khôi phục danh
dự (chức vụ, lương bổng...) như sau: "Người bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam, bị điều tra,
truy tố, xét xử trái pháp luật có quyền được bồi thường thiệt hại về vật chất, tinh thần
và phục hồi danh dự, quyền lợi. Người làm trái pháp luật trong các hoạt động tố tụng
đógây thiệt hại cho người khác phải bị xử lý nghiêm minh theo các quy định của pháp
luật”.
Như vậy, Điều 32 Dự thảo Hiến pháp nên sửa đổi, bổ sung như sau:
Điều 72 Hiến Điều
32
Dự
pháp hiện hành Hiến pháp sửa đổi

thảo Kiến nghị sửa đổi


Không ai bị coi là 1. Không ai bị coi là có tội 1. Không ai bị coi là có
có tội và phải khi chưa có bản án kết tội tội khi chưa có bản án kết
chịu hình phạt của Tòa án đã có hiệu lực tội của Tòa án đã có hiệu
khi chưa có bản pháp luật.
lực
pháp
luật.Trách
án kết tội của Tòa 2. Người bị buộc tội có nhiệm chứng minh tội
án đó có hiệu lực quyền được Tòa án xét xử. phạm thuộc về các cơ
pháp luật.
Không ai bị kết án hai lần vì quan THTT. Người bị
tạm giữ, bị can, bị cáo
Người bị bắt, bị một tội phạm.
giam giữ, bị truy 3. Người bị bắt, bị tạm giữ, cóquyền nhưng không
tố, xét xử trái tạm giam, bị điều tra, truy buộc phảichứng minh là
pháp luật có tố, xét xử có quyền sử dụng mình vô tội.
quyền được bồi trợ giúp pháp lý của người Người bị buộc tội có
thường thiệt hại bào chữa.
quyền được Tòa án xét
về vật chất và
xử. Không aibị kết án hai


phục hồi danh 4.Người bị bắt, bị tạm giữ, lầnvềmột tội phạmmà
dự. Người làm tạm giam, bị điều tra, truy người đó đã bị kết án.
trái pháp luật tố, xét xử trái pháp luật có 3. Người bị bắt, bị tạm
trong việc bắt, quyền được bồi thường thiệt giữ, tạm giam, bị điều tra,
giam giữ, truy tố, hại về vật chất, tinh thần và truy tố, xét xử có quyền
xét xử gây thiệt phục hồi danh dự. Người sử dụng trợ giúp pháp lý
hại cho người làm trái pháp luật trong việc của người bào chữavà

khác phải bị xử bắt, tạm giữ, tạm giam, điều của những người khác
lý nghiêm minh. tra, truy tố, xét xử gây thiệt theo quy định của pháp
hại cho người khác phải bị luật.
xử lý theo pháp luật.
4. Người bị bắt, bị tạm
giữ, tạm giam, bị điều tra,
truy tố, xét xử trái pháp
luật có quyền được bồi
thường thiệt hại về vật
chất, tinh thần và phục
hồi danh dự,quyền lợi.
Người làm trái pháp
luậttrong các hoạt động
tố tụng đógây thiệt hại
cho người khác phải bị
xử
lýnghiêm
minhtheocác quy định
củapháp luật.

Hai là, thông qua việc hoàn thiện Điều 32 Dự thảo Hiến pháp sửa đổi, chúng
tôi cho rằng, các bộ luật, luật dưới Hiến pháp phải phù hợp và thống nhất với Hiến
pháp, vì Hiến pháp là đạo luật cơ bản. Nếu không phù hợp, mâu thuẫn với Hiến pháp
phải sửa đổi, bổ sung. Do đó, liên quan đến nội dung về "suy đoán vô tội”, Điều 9 Bộ
luật TTHS năm 2003 đã gián tiếp thể hiện ởnguyên tắc: "Không ai bị coi là có tội khi
chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật”, còn Điều 10 quy định


nguyên tắc: "Xác định sự thật vụ án” nhưng nội dung thứ hai của Điều 10 "Trách
nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về các cơ quan THTT. Bị can, bị cáo có quyền

nhưng không buộc phải chứng minh là mình vô tội” lại phản ánh nội dung của
nguyên tắc "suy đoán vô tội”. Vì vậy, cóbanội dung cần sửa đổi, bổ sung như sau:
- Sửa đổi tên gọi Điều 9 "Không ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội của Tòa
án đã có hiệu lực pháp luật” thành tên gọi "suy đoán vô tội” để tránh trùng lặp với nội
dung của Điều luật này.
- Nội dung Điều 9 nêu: "Không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có
bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật” cần sửa đổi vấn đề liên quan đến
vế thứ hai "và phải chịu hình phạt…” cho bảo đảm phù hợp với các quy định của
BLHS và thực tiễn xét xử, cũng như thống nhất với Điều 32 Dự thảo Hiến pháp sửa
đổi (đã nêu) với hai trường hợp tương ứng khác nhau.
- Chuyển nội dung thứ hai trong Điều 10 Bộ luật TTHS năm 2003 (đã nêu)đưa vào
Điều 9 cho phù hợp và phản ánh nội dung của nguyên tắc "suy đoán vô tội” (còn
Điều 10 chỉ còn một nội dung). Việc bổ sung này hoàn toàn phù hợp với cáctư tưởng
tiến bộ trong Tuyên ngôn thế giới về quyền con người năm 1948 và Công ước quốc tế
về các quyền dân sự và chính trị năm 1966 của Liên hiệp quốc (đã nêu). Ngoài ra,
việc bổ sung này cònbảo đảm trách nhiệm của các cơ quan, người THTT trong việc
chứng minh tội phạm và người phạm tội, tránh làm oan người vô tội. Hơn nữa, điều
này còn tương thích với pháp luật TTHS nhiều nước (ví dụ: Điều 14 Bộ luật TTHS
Liên bang Nga cũng quy định về nguyên tắc "suy đoán vô tội”). Đặc biệt, Điều 48 Bộ
luật TTHS có quy định về người tham gia TTHS là "Người bị tạm giữ” - cũng là một
chủ thể cần được suy đoán vô tội, do đó, nên bổ sung thêm chủ thể này đầy đủ hơn.
Như vậy, Điều 9 Bộ luật TTHS năm 2003 nên sửa đổi, bổ sung như sau:
Bộ luật Tố tụng hình sự hiện hành

Kiến nghị sửa đổi

Điều 9. Không ai bị coi là có tội khi Điều 9. Suy đoán vô tội
chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có 1. Không ai bị coi là có tội khi chưa có
hiệu lực pháp luật
bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực

Không ai bị coi là có tội và phải chịu pháp luật.
hình phạt khi chưa có bản án kết tội của 2. Trách nhiệm chứng minh tội phạm


Tòa án đã có hiệu lực pháp luật.

thuộc về các cơ quan THTT. Người bị
tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền nhưng
không buộc phải chứng minh là mình vô
tội.
3. Mọi sự nghi ngờ về tội phạm của
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, nếu
khôngđược loại trừ theo trình tự, thủ tục
do Bộ luật TTHS quy định thì các cơ
quan THTT, người THTT phải giải thích
theo hướng có lợi cho họ.

Ba là, tương tự, để bảo đảm tính thống nhất giữa Hiến pháp với BLHS và Bộ luật
TTHS, Điều 293 về "Tội truy cứu trách nhiệm hình sự người không có tội”và Điều
294 về "Tội không truy cứu trách nhiệm hình sự ngườicótội” trong BLHS năm 1999,
sửa đổi năm 2009 nên sửa tên tội và nội dung thay cụm từ "có tội” thành cụm từ
"phạm tội” chođúng với bản chất của hành vi phạm tội do chủ thể có thẩm quyền
thực hiện trong từng giai đoạn tương ứng khác nhau (điều tra, truy tố, xét xử).
Hiện trong khoa học luật hình sự, BLHS và thực tiễn xét xử tồn tại hai khái
niệm "người phạm tội” và "người có tội” nên cần có sự phân biệt rạch ròi, chỉ rõ tư
cách tham gia tố tụng nhằm bảo đảm quyền lợi và sinh mệnh chính trị cho họ. Thuật
ngữ "người phạm tội” dùng để chỉ một người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội
mà BLHS quy định là tội phạm. Nói một cách khác, hành vi do người đó thực hiện đã
thỏa mãn các dấu hiệu của một cấu thành tội phạm nào đó được quy định trong Phần
các tội phạm BLHS và người thực hiện hành vi đó bị coi là chủ thể của tội phạm

(phạm tội là động từ). Trong khi đó, thuật ngữ "người có tội” cũng được sử dụng để
xác định một người đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội mà BLHS quy định là
tội phạm, nhưng thu hẹp hơn với người phạm tội - với họ đã có bản án kết tội đã có
hiệu lực pháp luật của Tòa án (có tội là tính từ). Cho nên, thời điểm phát sinh cơ sở
của trách nhiệm hình sự là thời điểm một người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã
hội mà BLHS quy định là tội phạm, nhưng có thể trách nhiệm hình sự sẽ không được
thực hiện trên thực tế, nếu có những điều kiện để miễn trách nhiệm hình sự cho người
đó theo quy định của pháp luật hình sự trên những cơ sở chung.


Như vậy, nhằm thực hiện đầy đủ và nghiêm minh các quy định của Hiến pháp và Bộ
luật TTHS, chúng tôi cho rằng, tên tội danh và nội dung trong hai điều luật trên trong
BLHS nên sửa đổi, bổ sung như sau:
Bộ luật Hình sự hiện hành

Kiến nghị sửa đổi

Điều 293 - Tội truy cứu trách nhiệm Điều 293 - Tội truy cứu trách nhiệm
hình sự người không có tội
hình sự người không phạm tội
1. Người nào có thẩm quyền mà truy cứu 1. Người nào có thẩm quyền mà truy cứu
trách nhiệm hình sự người mà mình biết trách nhiệm hình sự người mà mình biết
rõ là không có tội, thì bị phạt tù từ một rõ là khôngphạmtội, thì bị phạt tù từ một
năm đến năm năm.
năm đến năm năm.
......

......

Điều 294 - Tội không truy cứu trách Điều 294 - Tội không truy cứu trách

nhiệm hình sự người có tội
nhiệmhình sự người phạm tội
1. Người nào có thẩm quyền mà không 1. Người nào có thẩm quyền mà không
truy cứu trách nhiệm hình sự người mà truy cứu trách nhiệm hình sự người mà
mình biết rõ là có tội, thì bị phạt tù từ mình biết rõ là phạm tội, thì bị phạt tù từ
sáu tháng đến ba năm.
sáu tháng đến ba năm.
......

......

Tóm lại, suy đoán vô tội là một nguyên tắc văn minh, tiến bộ trên thế giới và
trong pháp luật của nhiều quốc gia. Việc hoàn thiện các nội dung cơ bản của nó và
bảo đảm tính thống nhất liên thông trong Hiến pháp, BLHS và Bộ luật TTHS không
chỉ có ý nghĩa chính trị, xã hội và pháp lý quan trọng, mà còn là "lá chắn thép” trong
việc phòng chống oan sai, tôn trọng và bảo vệ các giá trị cao quý của con người. Đặc
biệt, qua đó còn đề cao trách nhiệm của các cơ quan THTT, người THTT trước số
phận chính trị, danh dự, nhân phẩm và quyền lợi của công dân, họ vẫn có quyền và
nghĩa vụ do Hiến pháp và pháp luật quy định cho đến khi có bản án kết tội đã có hiệu
lực pháp luật của Tòa án./.



×