Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

Bài học kỳ tố tụng hình sự địa vị pháp lý của người bào chữa trong tố tụng hình sự (8 điểm)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (142.01 KB, 17 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Xuất phát từ sự nhìn nhận một cách đúng đắn về vai trò của người bào chữa và với
chủ trương nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên toà cũng như nâng cao chất lượng của
hoạt động tố tụng hình sự, Nhà nước ta đã chủ trương tạo điều kiện thuận lợi để người bào
chữa phát huy vai trò của mình và được quy định cụ thể trong Bộ luật tố tụng hình sự năm
2003. Để có thể đưa ra nhận xét, đánh giá về giá trị thực tiễn của các quy định trong Bộ
luật Tố tụng hình sự năm 2003 về người bào chữa, từ đó đưa ra các ý kiến đóng góp vào
quá trình hoàn thiện pháp luật tố tụng thì nhất thiết phải có sự nghiên cứu một cách kỹ
lưỡng những vấn đề lý luận chung về người bào chữa, thực tiễn hoạt động của người bào
chữa cũng như các quy định của pháp luật tố tụng liên quan đến người bào chữa. Bài viết
dưới đây sẽ đi sâu phân tích và làm rõ vấn đề “Địa vị pháp lý của người bào chữa trong
tố tụng hình sự”.

NỘI DUNG
I. Khái quát chung về người bào chữa trong tố tụng hình sự
1. Khái niệm địa vị pháp lý của người bào chữa trong tố tụng hình sự
1.1- Khái niệm về người bào chữa
Ở Việt Nam, cho đến nay vẫn chưa có một định nghĩa thống nhất cũng như không nêu
khái niệm thế nào là người bào chữa trong tố tụng hình sự (TTHS), nhưng dựa vào khái
niệm chung về người bào chữa, về luật sư... trong các quy định tại các văn bản pháp luật
TTHS và theo cách giải thích hiện nay thì ta có thể hiểu: người bào chữa là người được
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người đại diện hợp pháp của họ, những người khác được
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo ủy quyền mời hay được cơ quan tiến hành tố tụng yêu cầu
Đoàn luật sư phân công Văn phòng luật sư hoặc đề nghị Ủy ban mặt trận Tổ quốc Việt
Nam, tổ chức thành viên của mặt trận cử để bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo,
nhằm sáng tỏ những tình tiết gỡ tội hoặc làm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho người bị
tạm giữ, bị can, bị cáo và giúp đỡ họ về mặt pháp lý.
1.2 - Khái niệm địa vị pháp lý của người bào chữa
Địa vị pháp lý là tổng hợp các quyền và nghĩa vụ mà pháp luật quy định cho một chủ
thể pháp luật, tạo cho chủ thể đó có khả năng tham gia quan hệ pháp luật một cách độc lập.
Hệ thống quy định của BLTTHS năm 2003 chỉ tập trung quy định về chủ thể, quyền và


nghĩa vụ, lựa chọn và thay đổi người bào chữa trong tố tụng hình sự. Theo đó, Điều 56
BLTTHS năm 2003 quy định, người bào chữa có thể là: luật sư; người đại diện hợp pháp
của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo; bào chữa viên nhân dân.
- Luật sư bào chữa: Luật sư là người có đủ điều kiện hành nghề theo quy định của pháp
luật tham gia tố tụng hình sự theo yêu cầu của các cá nhân, tổ chức nhằm bảo vệ quyền, lợi
ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức đó theo quy định của pháp luật. Theo quy định của pháp
1

MSSV 350744 – Lớp N01.TL4


luật TTHS và theo Luật Luật sư năm 2006, một người muốn trở thành luật sư bào chữa
trong tố tụng hình sự phải đủ điều kiện hành nghề theo quy định của Luật Luật sư 2006 và
được người bị tạm giữ, bị can, bị cáo hay người đại diện hợp pháp yêu cầu hoặc được cơ
quan tiến hành tố tụng chỉ định tham gia tố tụng bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Luật sư có thể tham gia tố tụng với tư cách người bào
chữa trong những trường hợp: Thứ nhất, theo hợp đồng dịch vụ pháp lý (Điều 26 Luật Luật
sư). Thứ hai, theo yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng (Khoản 2, Điều 57 BLTTHS năm
2003).
- Người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo: BLTTHS năm 2003
không quy định rõ khái niệm “người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị
cáo” mà quy định tại Điều 305, người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị
cáo là người chưa thành niên, người có nhược điểm về thể chất, hoặc tâm thần có thể tự
mình bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo hoặc lựa chọn người bào chữa. Người
đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo nhất thiết phải là người đã thành
niên; không bị tâm thần, có quốc tịch Việt Nam và cư trú tại Việt Nam, trừ trường hợp
pháp luật có quy định khác đối với người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người có quốc tịch
nước ngoài, người không quốc tịch, hoặc là người Việt Nam ở nước ngoài.
- Bào chữa viên nhân dân: Theo quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 57 BLTTHS năm
2003 có thể hiểu bào chữa viên nhân dân là người được Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ

chức thành viên của Mặt trận cử để bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là thành
viên của tổ chức mình. Bào chữa viên nhân dân tham gia tố tụng để bào chữa cho người bị
tạm giữ, bị can, bị cáo trong hai trường hợp: Một là, theo yêu cầu của cơ quan tiến hành tố
tụng hình sự (Khoản 2, Điều 57 BLTTHS năm 2003). Hai là, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam, tổ chức thành viên của mặt trận tự cử bào chữa viên nhân dân tham gia tố tụng
hình sự (Khoản 3 Điều 57 BLTTHS). Người bào chữa tham gia tố tụng cần có sự đồng ý
của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, hoặc người đại diện hợp pháp của họ. Tuy nhiên khi
đã tham gia tố tụng hình sự, họ có địa vị pháp lý độc lập, có quyền và nghĩa vụ riêng biệt
không phụ thuộc vào quyền và nghĩa vụ của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo.
Tóm lại, từ những phân tích trên có thể đưa ra khái niệm địa vị pháp lý của người bào
chữa là tổng thể các quyền và nghĩa vụ của người bào chữa mà pháp luật quy định cho
người bào chữa khi tham gia tố tụng hình sự.
2. Vai trò của người bào chữa trong tố tụng hình sự:
Trước hết, người bào chữa có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc bảo đảm quyền bào
chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Pháp luật quy định người bị tạm giữ, bị can, bị
cáo có quyền bào chữa, thông qua việc tự bào chữa hoặc lựa chọn người bào chữa cho
mình. Tuy nhiên nếu nhìn từ tính phức tạp của vụ án hình sự thì vấn đề tự bào chữa là việc
2

MSSV 350744 – Lớp N01.TL4


hết sức khó khăn. Sự hỗ trợ từ phía người bào chữa – thường là những người có kiến thức
pháp lý chuyên sâu – sẽ góp phần tích cực đảm bảo thực hiện quyền bào chữa của người bị
tạm giữ, bị can, bị cáo trên thực tế. Bên cạnh đó, sự tham gia của người bào chữa trong tố
tụng hình sự còn góp phần giải quyết vụ án một cách khách quan, tăng cường tính dân chủ
trong hoạt động tư pháp, đảm bảo pháp chế xã hội chủ nghĩa. Như vậy, xét về bản chất, vị
trí, vai trò của người bào chữa trong tố tụng hình sự được quyết định bởi nguyên tắc tôn
trọng quyền bào chữa của người bị buộc tội (người bị tạm giữ, bị can, bị cáo). Với vai trò
đó, vị trí của người bào chữa được xác định là người tham gia tố tụng, thực hiện chức năng

trợ giúp pháp lý cho người bị buộc tội và góp phần làm cho quá trình giải quyết vụ án hình
sự được khách quan, toàn diện.
II. Những quy định của pháp luật tố tụng hình sự về địa vị pháp lý của người bào
chữa trong tố tụng hình sự
1. Quyền của người bào chữa theo quy định của BLTTHS năm 2003
- Quyền tham gia tố tụng hình sự: Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 quy định người
bào chữa tham gia tố tụng từ khi khởi tố bị can. Trong trường hợp bắt người quy định tại
Điều 81, 82 Trong trường hợp bắt người theo quy định tại Điều 81 và Điều 82 của Bộ luật
này thì người bào chữa tham gia tố tụng từ khi có quyết định tạm giữ. Trong trường hợp
cần giữ bí mật điều tra đối với tội xâm phạm an ninh quốc gia, thì Viện trưởng Viện kiểm
sát quyết định để người bào chữa tham gia tố tụng từ khi kết thúc điều tra. Theo đó, người
bào chữa có thể tham gia tố tụng vào một trong ba thời điểm: Người bào chữa tham gia tố
tụng từ khi khởi tố bị can; Người bào chữa tham gia tố tụng từ khi có quyết định tạm giữ,
trong trường hợp bắt người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã (Điều 80 BLTTHS), bắt
người trong trường hợp khẩn cấp (Điều 82 BLTTHS); Người bào chữa tham gia tố tụng từ
khi kết thúc điều tra trong trường hợp cần giữ bí mật điều tra đối với tội xâm phạm an ninh
quốc gia theo quyết định của Viện trưởng Viện kiểm sát. Theo quy định tại BLTTHS 1988
thì người bào chữa chỉ được tham gia tố tụng từ khi khởi tố bị can. Như vậy, quy định này
là một bước tiến của BLTTHS năm 2003 so với BLTTHS năm 1988, thể hiện sự dân chủ
và tiến bộ trong tố tụng hình sự, đảm bảo cho việc tạm giữ của cơ quan điều tra là đúng
pháp luật và có căn cứ, tránh sự lạm quyền từ phía các cơ quan điều tra bắt tạm giam, tạm
giữ không cần thiết, việc thực hiện quyền này cũng giúp cho luật sư bào chữa được tiếp
xúc với vụ việc ngay từ đầu, sẽ thuận lợi hơn trong việc thu thập chứng cứ gỡ tội và những
tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm cho bị can để có thể bào chữa cho bị can ở các giai đoạn sau.
Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 dành khoản 2 Điều 58 để quy định về quyền của người
bào chữa trong tố tụng hình sự:
- Quyền có mặt khi lấy lời khai của người bị tạm giữ, khi hỏi cung bị can, và nếu điều
tra viên đồng ý thì được hỏi người bị tạm giữ, bị can, bị cáo và có mặt trong các hoạt
3


MSSV 350744 – Lớp N01.TL4


động điều tra khác, xem xét các biên bản về hoạt động tố tụng có sự tham gia của mình
và các quyết định tố tụng liên quan đến người mình bào chữa: Đây là quy định mở rộng
sự tham gia của người bào chữa trong các hoạt động điều tra, việc tham gia này có ý nghĩa
trợ giúp ban đầu đối với người bị tạm giữ, bị can, bị cáo như giúp họ ổn định tâm lý khi
điều tra viên hỏi cung, giúp họ nhìn ra những điểm sơ hở, thiếu chặt chẽ trong biên bản lời
khai, giúp họ khai lại, giải thích lại đúng với sự thật vụ án, đồng thời đảm bảo cho những
hoạt động này được thực hiện đầy đủ, tuân thủ đúng pháp luật hơn. Người bào chữa còn có
thể hỏi người bị tạm giữ, bị can, bị cáo nếu được sự đồng ý của điều tra viên, đây là quy
định thể hiện sự công bằng của pháp luật. Bên cạnh đó, người bào chữa có thể tham gia
vào các hoạt động điều tra khác như: hoạt động đối chất; nhận dạng; hoạt động khám
nghiệm, thực nghiệm hiện trường; khám xét, thu giữ tài sản....Khi tham gia các hoạt động
điều tra, người bào chữa có quyền “xem xét các biên bản về các hoạt động tố tụng có sự
tham gia của mình và các quyết định tố tụng có liên quan đến người mà mình bào chữa”. Quyền đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch: Để
đảm bảo cho việc giải quyết vụ án được khách quan, toàn diện và chính xác góp phần bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo, BLTTHS năm 2003 quy định người bào
chữa có quyền đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên
dịch. Quyền này xuất phát từ nguyên tắc đảm bảo sự vô tư khách quan của những người
tiến hành tố tụng hoặc tham gia tố tụng (Điều 14 BLTTHS). Đối với người tiến hành tố
tụng, những căn cứ này được quy định tại Điều 42 BLTTHS. Với người giám định, họ phải
từ chối tiến hành tố tụng hoặc bị thay đổi nếu thuộc một trong những trường hợp được quy
định tại khoản 4 Điều 60 BLTTHS năm 2003. Ngoài ra, nếu người giám định không đủ khả
năng chuyên môn để đáp ứng yêu cầu giám định học cũng có thể bị thay đổi. Việc thay đổi
người giám định do cơ quan trưng cầu quyết định. Đây cũng là những căn cứ tương tự để
thay đổi người phiên dịch quy định tại Điều 61 BLTTHS.
- Quyền đề nghị cơ quan điều tra báo trước về thời gian và địa điểm hỏi cung bị can đề
có mặt hỏi cung bị can: Quy định đã tạo điều kiện cho người bào chữa có thể chủ động
thời gian thực hiện quyền có mặt trong các hoạt động điều tra mà mình thấy cần thiết, đặc

biệt là quyền có mặt khi lấy lời khai người bị tạm giữ, hỏi cung bị can và tham gia hỏi cung
khi được Điều tra viên đồng ý. BLTTHS năm 2003 đã khắc phục thiếu sót của BLTTHS
năm 1988 khi quy định thêm quyền đề nghị cơ quan điều tra báo trước về thời gian và địa
điểm hỏi cung bị can đề có mặt hỏi cung bị can của người bào chữa. Đây cũng là một điểm
mới tiến bộ và hợp lý của BLTTHS năm 2003. Sự có mặt của người bào chữa trong các
buổi hỏi cung bị can sẽ khắc phục hiện tượng bức cung, ép cung, đồng thời tránh được tình
trạng khi ra Toà bị cáo phản cung và đổ lỗi cho Điều tra viên đã bức cung, ép cung bị cáo
trong giai đoạn điều tra.
4

MSSV 350744 – Lớp N01.TL4


- Quyền thu thập tài liệu đồ vật, tình tiết liên quan đến việc bào chữa từ người bị tạm
giữ, bị can, bị cáo, người thân thích của những người này hoặc từ cơ quan, tổ chức, cá
nhân theo yêu cầu của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo nếu không thuộc bí mật nhà
nước, bí mật công tác: Quy định này tạo điều kiện cho người bào chữa tiếp xúc với vụ án
ở mức độ khái quát hơn, chuyên sâu hơn, để người bào chữa bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của người vị tạm giữ, bị can, bị cáo, góp phần đảm bảo tính khách quan, chính xác,
đúng pháp luật của hoạt động tố tụng. Người bào chữa được thu thập tài liệu, đồ vật, tình
tiết liên quan đến việc bào chữa một cách hợp pháp; sau đó, người bào chữa sử dụng những
gì thu thập được để thực hiện nhiệm vụ bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo hiệu
quả hơn. Cơ quan điều tra, viện kiểm sát, tòa án xem xét những đồ vật, tài liệu này, nếu nó
đảm bảo tính khách quan và hợp lý thì có thể sử dụng như là chứng cứ để giải quyết vụ án.
- Quyền đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu: Những tài liệu, đồ vật này thường là theo hướng
có lợi cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Người bào chữa có thể đưa ra những yêu cầu
trong các giai đoạn tố tụng khác nhau như: yêu cầu cơ quan điều tra bổ sung chứng cứ, yêu
cầu triệu tập thêm người làm chứng, yêu cầu giám định hoặc giám định lại nếu có căn cứ
cho rằng kết quả giám định trước đó không đúng sự thật, yêu cầu hoãn phiên tòa,... người
bào chữa phải xem xét tính hợp lý và quan trọng là phải có lợi cho người được bào chữa để

đưa ra những đồ vật, tài liệu, yêu cầu. Cơ quan tiến hành tố tụng phải tôn trọng quyền đưa
ra những đồ vật tài liệu, yêu cầu của người bào chữa (Điều 122 BLTTHS)
- Quyền gặp người bị tạm giữ, bị can, bị cáo đang bị giam giữ: Trao cho người bào chữa
quyền này là hết sức cần thiết, bởi lẽ, để đảm bảo cho việc bào chữa được hiệu quả thì
người bào chữa phải có những thông tin chính xác về vụ án và cần thiết phải tiếp xúc trực
tiếp với người bị tạm giữ, bị can, bị cáo để trao đổi, tìm hiểu thêm những thông tin đó. Qua
gặp gỡ, trao đổi, người bào chữa giải thích những vấn đề về pháp luật và cũng có thể tác
động đến người được bào chữa, làm cho họ có thái độ khai báo tốt hơn để có thể được
giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.
-Quyền đọc, ghi chép và sao chụp tài liệu trong hồ sơ vụ án liên quan đến việc bàochữa
theo quy định của pháp luật: người bào chữa có quyền đọc, ghi chép và sao chụp tài liệu
trong hồ sơ vụ án liên quan đến việc bào chữa, nhưng không được tiết lộ bí mật điều tra mà
mình biết được khi thực hiện việc bào chữa, không được sử dụng tài liệu đã ghi chép, sao
chụp trong hồ sơ vụ án vào mục đích xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp
pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Nếu người bào chữa làm trái pháp luật thì tuỳ theo tính
chất, mức độ vi phạm có thể bị xử lý kỷ luật, xử phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách
nhiệm hình sự, nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật.
- Quyền tham gia xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa: Vai trò của người bào chữa được thể
hiện rõ nét nhất tại phiên tòa xét xử. Người bào chữa có quyền hỏi bị cáo và những người
5

MSSV 350744 – Lớp N01.TL4


khác về những vấn đề của vụ án để có được những câu trả lời theo hướng có lợi cho bị cáo.
Tại phiên tòa, người bào chữa phải tập trung phân tích những ý kiến, câu trả lời trong quá
trình xét hỏi. Khi tranh luận với bên buộc tội, người bào chữa phải tìm ra những lý lẽ thích
hợp để đối đáp, bảo vệ cho bị cáo, và bác bỏ những lời buộc tội bị cáo. Không chỉ trao
quyền cho người bào chữa, pháp luật còn tạo cơ sở pháp lý quan trọng để họ thực hiện
quyền này trên thực tế (Điều 19, Điều 217, 218, 245, 280 BLTTHS năm 2003).

- Quyền khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến
hành tố tụng: Khi tham gia tố tụng dù ở giai đoạn nào, người bào chữa nếu phát hiện thấy
quyết định hoặc hành vi của các cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng có những
điểm bất hợp lý, vi phạm pháp luật họ có quyền khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của
cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, các quy định về khiếu nại được ghi nhận
trong Chương XXXV BLTTHS. Quy định quyền này nhằm bảo đảm các quyết định, hành
vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng luôn được đặt trong sự kiểm
tra, giám sát, tránh oan sai, đảm bảo tính khách quan, toàn diện.
- Quyền xem biên bản phiên tòa, yêu cầu ghi những sửa đổi, bổ sung vào biên bản
phiên tòa và ký xác nhận: Theo quy định của pháp luật TTHS, sau khi Toà tuyên án thì
người bào chữa được xem biên bản phiên toà, có quyền yêu cầu ghi những sửa đổi, bổ
sung vào biên bản phiên toà và ký xác nhận. Đây là một quyền rất quan trọng, giúp cho
người bào chữa có điều kiện kiểm tra biên bản phiên toà, qua đó có thể phát hiện ra những
điểm biên bản phiên toà phản ánh không đúng diễn biến của phiên toà để kịp thời yêu cầu
Toà án sửa chữa, bổ sung. Trong trường hợp Toà án không chấp nhận yêu cầu sửa chữa, bổ
sung vào biên bản phiên toà thì người bào chữa ghi rõ các yêu cầu của mình gửi cho Toà án
để vào hồ sơ vụ án.
- Quyền kháng cáo bản bản án, quyết định của Toà án nếu bị cáo là người chưa thành
niên hoặc người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất quy định tại điểm b khoản 2
Điều 57 của BLTTHS năm 2003: Đây là một quyền rất quan trọng của người bào chữa, nó
độc lập mà không phụ thuộc vào ý chí của bị cáo cũng như người đại diện hợp pháp của
họ. Giới hạn của quyền này chính là người bào chữa chỉ được Pháp luật tố tụng hình sự
quy định khi bản án đã tuyên mà chưa có hiệu lực pháp luật nếu phát hiện thấy sai sót hoặc
không đồng ý với bản án, quyết định của tòa nếu bị cáo là người chưa thành niên hoặc
người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất. Kháng cáo của người bào chữa phải theo
hướng có lợi cho bị cáo.
Tóm lại, BLTTHS năm 2003 đã quy định khá đầy đủ về quyền của người bào chữa
trong tố tụng hình sự. Không chỉ tập trung quy định tại khoản 2 Điều 58 bộ luật còn có
những quy định cụ thể quyền của người bào chữa trong các giai đoạn khác nhau của quá
6


MSSV 350744 – Lớp N01.TL4


trình giải quyết vụ án. Điều này góp phần đảm bảo quyền của người bào chữa không chỉ
được quy định trong luật mà còn được thực thi trên thực tế.
2. Nghĩa vụ của người bào chữa theo quy định của BLTTHS năm 2003
Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 quy định về nghĩa vụ của người bào chữa tại khoản 3
Điều 58, theo đó, người bào chữa có những nghĩa vụ sau:
- Sử dụng mọi biện pháp do pháp luật quy định để làm sáng tỏ những tình tiết xác định
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo vô tội, những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự
của bị can, bị cáo: Người bào chữa phải thực hiện chức năng của mình, những quyền mà
pháp luật quy định trao cho họ chính là những biện pháp mà pháp luật cho phép họ sử dụng
và người bào chữa có trách nhiệm sử dụng chúng để làm sáng tỏ những tình tiết có lợi cho
người được bào chữa. Quy định này nhằm hạn chế tình trạng người bào chữa không có
trách nhiệm với công việc bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, bào chữa qua loa,
không đem lại sự trợ giúp đáng kể nào cho người được bào chữa. Người bào chữa phải ý
thức được nghĩa vụ của mình do pháp luật quy định, chuyên tâm, tích cực tìm hiểu vụ án,
làm sáng tỏ những tình tiết liên quan để chứng minh sự vô tội hoặc giảm nhẹ trách nhiệm
hình sự của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo.
- Tùy theo mỗi giai đoạn tố tụng, khi thu thập được tài liệu, đồ vật liên quan đến vụ án,
thì người bào chữa có trách nhiệm giao cho Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án.
Việc giao nhận các tài liệu, đồ vật đó giữa người bào chữa và cơ quan tiến hành tố tụng
phải được lập biên bản theo quy định tại Điều 95 của Bộ luật này: Căn cứ vào quy định
nêu trên thì việc thu thập chứng cứ của người bào chữa được thực hiện ở cả ba giai đoạn
của tố tụng hình sự, đó là: giai đoạn điều tra vụ án hình sự; giai đoạn truy tố và giai đoạn
xét xử vụ án hình sự. Quy định này được cụ thể hóa tại Điều 9 Thông tư số 70/2011/TTBCA ngày 10/10/2011 của Bộ Công an. Người bào chữa có nghĩa vụ giao nộp chứng cứ
thu thập được (tài liệu, đồ vật và tình tiết có liên quan) cho cơ quan tiến hành tố tụng. Cơ
quan tiến hành tố tụng lập biên bản tiếp nhận và đưa vào hồ sơ vụ án.
- Giúp người bị tạm giữ, bị can, bị cáo về mặt pháp lý nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp

pháp của họ: Đây là nghĩa vụ đương nhiên của người bào chữa đối với người bị tạm giữ,
bị can, bị cáo. Người bào chữa có nghĩa vụ giải thích cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo
về các quyền của mình, quyền và nghĩa vụ của cơ quan tiến hành tố tụng hoặc thực hiện
các yêu cầu, mong muốn của người được bào chữa, giúp họ cung cấp thêm những tình tiết
liên quan đến vụ án có lợi cho họ. Quy định này là rất cần thiết đối với người bị tạm giữ, bị
can, bị cáo, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của họ.
- Không được từ chối bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo mà mình đã đảm
nhận bào chữa, nếu không có lý do chính đáng: Quy định này được hiểu là khi đã đảm
nhận công việc bào chữa theo lời mời của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo hoặc người đại
7

MSSV 350744 – Lớp N01.TL4


diện hợp pháp của họ hoặc được cử theo yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng thì người
bào chữa không được từ chối bào chữa, trừ trường hợp có lý chính đáng (Khoản 2 Điều 56
BLTTHS). Quy định thể hiện sự ràng buộc trách nhiệm của người bào chữa đối vói người
bị tạm giữ, bị can, bị cáo., góp phần aảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ.
- Tôn trọng sự thật và pháp luật; không được mua chuộc, cưỡng ép hoặc xúi giục người
khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật: Người bào chữa có nghĩa vụ không
được làm sai lệch sự thật vụ án để đạt được mục đích, không được mua chuộc, cưỡng ép,
xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật; như vậy là làm sai lệch
sự thật khách quan của vụ án. Người bào chữa là những người am hiểu pháp luật, bởi vậy,
người bào chữa càng phải tôn trọng sự thật của vụ án và pháp luật, không được vi phạm
pháp luật để đạt được mục đích.
- Có mặt theo giấy triệu tập của Toà án: Giấy triệu tập người bào chữa tham dự phiên tòa
là một văn bản tố tụng, do tòa án (thẩm phán phụ trách vụ án) ban hành, nhằm mục đích
“triệu” người bào chữa đến tham dự phiên tòa. Việc người bào chữa phải có mặt theo giấy
triệu tập của Tòa mang ý nghĩa bắt buộc. Điều 190 BLTTH quy định người bào chữa có
nghĩa vụ tham gia phiên toà. Nếu người bào chữa vắng mặt, nhưng có gửi trước bản bào

chữa thì Toà án vẫn mở phiên toà xét xử. Trong trường hợp người bào chữa quy định tại
khoản 2 Điều 57 luật mới Bộ luật tố tụng hình sự vắng mặt thì Hội đồng xét xử phải hoãn
phiên toà. Quy định này nhằm phát huy tinh thần cải cách tư pháp, buộc người bào chữa
phải có trách nhiệm với công việc bào chữa.
- Không được tiết lộ bí mật điều tra mà mình biết được khi thực hiện việc bào chữa;
không được sử dụng tài liệu đã ghi chép, sao chụp trong hồ sơ vụ án vào mục đích xâm
phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và cá nhân:
Trong quá trình thực hiện việc bào chữa, người bào chữa có nghĩa vụ bảo đảm bí mật điều
tra, không được sử dụng những tài liệu đã ghi chép, sao chụp trong hồ sơ vụ án vào mục
đích xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và cá
nhân. Quy định này không những góp phần bảo đảm bí mật quốc gia và lợi ích chung của
xã hội mà còn nâng cao tinh thần trách nhiệm và đạo đưc nghề nghiệp của người bào chữa.
Người bào chữa làm trái pháp luật thì tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị thu hồi
giấy chứng nhận người bào chữa, xử lý kỷ luật, xử phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách
nhiệm hình sự, nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật. Như vậy,
nghĩa vụ của người bào chữa trong tố tụng hình sự đã được pháp luật quy định một cách
khá toàn diện và hợp lý. Việc thực hiện tốt các nghĩa vụ này sẽ giúp cho người bào chữa
thể hiện rõ vai trò và nâng cao địa vị pháp lý của mình trong TTHS.
III. Thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật và một số kiến nghị giải pháp
nhằm nâng cao địa vị pháp lý của người bào chữa trong tố tụng hình sự
8

MSSV 350744 – Lớp N01.TL4


1. Thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật về địa vị pháp lý của người bào chữa
Có thể khẳng định, với việc xác định quyền bào chữa là quyền Hiến định, phù hợp với các
Công ước quốc tế của Liên Hợp quốc về các quyền dân sự, chính trị, kinh tế mà Việt Nam
đã tham gia và ký kết, quá trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật liên quan đến bảo đảm
quyền bào chữa đã được Nhà nước Việt Nam quan tâm đúng mức thông qua việc ban hành

BLTTHS 2003, Luật Luật sư 2006, các Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán TAND tối
cao, Thông tư hướng dẫn của Bộ trưởng Bộ Công an. Vị trí, vai trò và chức năng xã hội
của người bào chữa đã có bước chuyển mạnh mẽ, tạo được chỗ đứng trong xã hội, có được
sự tin cậy nhất định từ phía các thiết chế quyền lực, quản lý, các chủ thể xã hội và công
dân. Trong một chừng mực nhất định, hoạt động của người bào chữa đã góp một phần quan
trọng trong cuộc đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm, đóng vai trò ngày càng đậm nét
trong quá trình dân chủ hóa hoạt động tố tụng, từng bước bảo đảm quyền con người trong
đời sống tư pháp. Tuy nhiên, trên thực tế việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của người bào
chữa cũng gặp nhiều khó khăn, vướng mắc cần khắc phục:
1.1 – Về tỷ lệ người bào chữa tham gia tố tụng hình sự ở Việt Nam
Trong thực tiễn tố tụng hình sự ở Việt Nam hiện nay, người bào chữa khi tham gia tố
tụng hình sự chủ yếu là luật sư. Sự tham gia của người đại diện hợp pháp là rất ít và đặc
biệt là rất hiếm đối với bào chữa viên nhân dân. Hiện nay, hoạt động bào chữa của luật sư
trong tố tụng hình sự đã có những thay đổi rõ rệt: số lượng luật sư và Đoàn luật sư tăng lên
nhanh chóng, luật sư tham gia nhiều hơn trong các cấp tòa án, đầy đủ hơn trong các vụ án
mà theo quy định của pháp luật bắt buộc phải có người bào chữa, tham gia giúp các cơ
quan tiến hành tố tụng giải quyết các vụ án hình sự đúng người, đúng tối, đúng pháp luật,
hạn chế oan sai. Theo số liệu thống kê thì trong những năm qua, số lượng vụ án có người
bào chữa nói chung luôn có xu hướng tăng lên, tuy nhiên, tốc độ tăng không cao. Tỷ lệ luật
sư tham gia bào chữa trong những năm qua chỉ chiếm khoảng 10% - 11% số vụ án đã được
xét xử, trong đó có đến 50% số luật sư tham gia bào chữa là do cơ quan tiến hành tố tụng
chỉ định [1]. Tuy nhiên, về chất lượng người bào chữa vẫn còn nhiều hạn chế.
1.2 - Một số hạn chế vướng mắc trong việc thực hiện các quy định của pháp luật tố tụng
hình sự về quyền và nghĩa vụ của người bào chữa
- Về địa vị pháp lý của người bào chữa: Liên quan đến địa vị pháp lý là người tham gia tố
tụng, có các quyền và nghĩa vụ được quy định tại Điều 58 BLTTHS, cho thấy tư cách tham
gia tố tụng của người bào chữa không bình đẳng với người tiến hành tố tụng, là quyền năng
phái sinh của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, hoàn toàn phụ thuộc vào sự chấp thuận hay
không của cơ quan THTT. Người bào chữa không được bình đẳng trong việc điều tra, thu
thập chứng cứ nhằm bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho người bị tình nghi phạm tội.

- Về diện chủ thể người bào chữa: Theo quy định tại khoản 1 Điều 56 BLTTHS, người
9

MSSV 350744 – Lớp N01.TL4


bào chữa có thể là: Luật sư; Người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo;
Bào chữa viên nhân dân.Tuy nhiên, diện chủ thể người bào chữa hiện hành quá rộng, một
số đối tượng chưa quy định tiêu chuẩn, điều kiện đáp ứng yêu cầu của việc tham gia bào
chữa, hiệu quả tham gia tố tụng, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị tạm giữ, bị
can, bị cáo còn hạn chế.
- Về thủ tục cấp Giấy chứng nhận người bào chữa: Mặc dù Điều 27 Luật Luật sư quy
định rất rõ các thủ tục cần thiết, và mới đây, Thông tư 70/2011/TT-BCA ngày 10/10/2011
của Bộ trưởng Bộ Công an quy định chi tiết, nhưng thực tế phần lớn thời hạn cấp Giấy
chứng nhận người bào chữa (GCNNBC) không được bảo đảm trong vòng 3 ngày. Các vấn
đề về hiệu lực giá trị GCNNBC qua các giai đoạn TTHS, thủ tục cấp và thu hồi GCN
người bảo vệ quyền lợi cho đương sự trong TTHS cũng chưa được làm rõ trong BLTTHS
năm 2003.
- Về sự tham gia tố tụng của người bào chữa trong giai đoạn điều tra: Việc tham gia tố
tụng của luật sư trong giai đoạn điều tra gặp rất nhiều vướng mắc, khó khăn và mang nặng
tính hình thức:
+ Thứ nhất, BLTTHS không quy định cách thức thông báo, giải thích quyền tự bào chữa
và nhờ người khác bào chữa, cung cấp danh sách người bào chữa trên địa hạt tố tụng để
cho người bị tạm giữ, bị can lựa chọn và thực hiện quyền của mình. [2].
+ Thứ hai, BLTTHS không có quy định cho phép người bào chữa được tiếp xúc riêng tư
với người bị tạm giữ, bị can trong Trại tạm giam trong giai đoạn điều tra, nên hoàn toàn tùy
thuộc vào lịch làm việc hoặc sự chấp thuận hay không của Điều tra viên. Quy định về
quyền gặp mặt người bị tạm giữ, bị can của người bào chữa trong Thông tư 70/2011/TTBCA chưa rõ ràng, gặp nhiều khó khăn trong thực tế.
+ Thứ ba, trừ trường hợp theo quy định tại Khoản 2 Điều 57 BLTTHS, hiện nay, chưa có
quy định thống nhất về giá trị pháp lý sự hiện diện và chữ ký của luật sư trên các biên bản

hỏi cung người bị tạm giữ, bị can là bắt buộc[3].
+ Thứ tư, việc quy định luật sư chỉ được phép hỏi khi điều tra viên đồng ý đã hạn chế
quyền của người bào chữa và đặt vị thế của luật sư trong quá trình tham gia tố tụng rất bị
động, hạn chế việc bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tạm giữ.
+ Thứ năm, thời gian tiếp xúc của luật sư với người bị tạm giữ, bị can bị hạn chế trong
vòng 01 giờ đồng hồ do vướng quy định tại Nghị định số 89/ 1998/NĐ-CP của Chính phủ.
+ Thứ sáu, BLTTHS chưa quy định cụ thể quyền điều tra, thu thập chứng cứ của người bào
chữa, cũng như cơ chế bảo đảm. Một số hoạt động tố tụng thiếu vắng sự tham gia hoặc
chứng kiến của người bào chữa như khám nghiệm hiện trường, thực nghiệm điều tra, thu
giữ vật chứng, bán đấu giá tài sản...
10

MSSV 350744 – Lớp N01.TL4


+ Thứ bảy, các quy định về trả hồ sơ điều tra bổ sung liên quan Thông tư liên tịch số
01/2010/TTLT-BCA-VKSTC-TATC ngày 27/8/2010 đã hạn chế quyền của người bào chữa
trong việc kiến nghị, yêu cầu giải quyết những vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng và
đánh giá, áp dụng sai lầm về pháp luật, về nội dung xác định các yếu tố cấu thành tội
phạm.
+ Thứ tám, các kiến nghị, khiếu nại, tố cáo của người bào chữa trong quá trình tham gia tố
tụng ở giai đoạn điều tra phần lớn không được giải quyết đúng theo quy định của pháp luật.
Đa phần các quyết định tố tụng, trả hồ sơ điều tra bổ sung... ít khi được gửi đến hoặc thông
báo cho người bào chữa.
- Về sự tham gia tố tụng của người bào chữa trong giai đoạn quyết định truy tố: Giai
đoạn quyết định truy tố hiện chưa có nhiều quy định cụ thể về sự tham gia của người bào
chữa. Thực tiễn tố tụng cho thấy trong giai đoạn này, nhiều hoạt động của Kiểm sát viên
như tiến hành phúc cung, thực nghiệm điều tra, trưng cầu giám định tư pháp... không có sự
tham gia của người bào chữa. Cụ thể, Khoản 1 Điều 156 BLTTHS quy định Điều tra viên,
Kiểm sát viên có quyền tham dự giám định, nhưng phải báo trước cho người giám định

biết, mà không quy định quyền của người bào chữa.Việc trả hồ sơ điều tra bổ sung cũng
không được thông báo cho người bào chữa. Phần lớn các khiếu nại, tố cáo, kiến nghị của
người bào chữa không được Viện kiểm sát trả lời hoặc giải quyết.
- Về sự tham gia tố tụng của người bào chữa trong giai đoạn xét xử tại Tòa án các cấp:
Trong giai đoạn này, các vướng mắc về thủ tục liên quan đến yêu cầu của người thân bị cáo
ở cấp phúc thẩm chưa được giải quyết: Một là, theo Khoản 3 Điều 56 BLTTHS, một người
bào chữa có thể bào chữa cho nhiều người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong cùng một vụ án,
nếu quyền và lợi ích của họ không đối lập nhau, nhưng việc xác định tính chất “không đối
lập nhau” thường không rõ ràng. Hai là, người bào chữa không được Tòa án thông báo về
quyết định trả hồ sơ điều tra bổ sung, thậm chí có trường hợp quyết định nói trên còn đóng
dấu “mật”[4], ảnh hưởng đến quá trình tham gia tố tụng của người bào chữa. Ba là,
BLTTHS không quy định các trường hợp người bào chữa được quyền chủ động đề xuất
người làm chứng, chứng cứ, cũng như triệu tập những người liên quan khác có mặt tại
phiên tòa, nếu không được sự chấp thuận của Tòa án. Bốn là, pháp luật TTHS hiện nay
không thừa nhận các chứng cứ do người bào chữa thu thập được, cũng không quy định
quyền đánh giá chứng cứ của người bào chữa. Năm là, điểm k Khoản 2 Điều 58 BLTTHS
quy định luật sư có quyền kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án nếu bị cáo là người
chưa thành niên hoặc người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất. Tuy nhiên, điều quy
định nói trên không nói rõ quyền kháng cáo của người bào chữa trong trường hợp này là
độc lập hay phải tùy thuộc ý chí của bị cáo hoặc của người đại diện hợp pháp cho bị cáo?
11

MSSV 350744 – Lớp N01.TL4


2. Nguyên nhân của thực trạng thực hiện các quy định về quyền và nghĩa vụ của người
bào chữa
+ Thứ nhất, do hạn chế của các quy định của pháp luật, chưa có cơ chế bảm đảm để người
bào chữa thực hiện quyền của mình.
+ Thứ hai, do các Cơ quan tiến hành tố tụng chưa thực sự tạo điều kiện cho người bào

chữa thực hiện quyền theo quy định của pháp luật.
+ Thứ ba, do hạn chế từ số lượng, chất lượng của người bào chữa hiện nay.
3. Một số kiến nghị giải pháp nâng cao địa vị pháp lý của người bào chữa trong tố
tụng hình sự
3.1. Những kiến nghị mang tính định hướng
3.1.1 - Mở rộng hoạt động tranh tụng và ghi nhận tranh tụng là một nguyên tắc cơ bản,
quan trọng trong tố tụng hình sự: Mục đích cuối cùng của TTHS là đảm bảo tính công
bằng của pháp luật và hơn hết là đảm bảo quyền con người, quyền công dân trong quá trình
giải quyết vụ án hình sự. Theo ý kiến của em, mở rộng tranh tụng cần thiết phải đi đôi với
ghi nhận tranh tụng là nguyên tắc cơ bản của BLTTHS. Việc ghi nhận nguyên tắc tranh
tụng sẽ cân bằng lại vai trò của các bên trước Tòa án, khẳng định hơn nữa vai trò của người
bào chữa đồng thời sẽ là cơ chế bảo đảm hiệu quả nhất quyền có người bào chữa của người
bị tạm giữ, bị can, bị cáo.
3.1.2 - Nâng cao năng lực và nhận thức của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố
tụng: Là người trực tiếp giải quyết vụ án hình sự, hơn ai hết, người THTT phải am hiểu
pháp luật, họ có nghĩa vụ phải giải thích cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo hiểu rõ quyền
bào chữa, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi để quyền này được thực hiện có hiệu quả. Như
vậy, ngoài việc nâng cao năng lực chuyên môn, những người THTT phải có ý thức tuân thủ
và nhận thức một cách nghiêm túc và đúng đắn vấn đề này, bằng cách: thường xuyên đào
tạo, bồi dưỡng và tập huấn cho những người THTT; thay đổi nhận thức chưa đúng đắn của
họ về vai trò, vị trí của người bào chữa trong TTHS; đồng thời, trang bị đầy đủ phương
tiện, kinh phí phục vụ công tác cho những người THTT.
3.1.3 - Tuyên truyền và nâng cao ý thức pháp luật đối với người dân: Cần phải thay đổi
nhận thức của người dân nói chung và người bị tạm giữ, bị can, bị cáo nói riêng khi cho
rằng, sự tham gia tố tụng của người bào chữa là không cần thiết và tốn kém. Đối với người
bào chữa, việc bồi dưỡng, nâng cao kiến thức pháp luật và kỹ năng hành nghề là một việc
làm cần thiết. Người bào chữa phải nhận thức và nêu cao hơn nữa trách nhiệm của mình
khi tham gia tố tụng bảo vệ quyền lợi cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo.
3.2. Những kiến nghị cụ thể hoàn thiện pháp luật về địa vị pháp lý của người bào chữa
- Thứ nhất, phân định rành mạch các chức năng cơ bản của tố tụng hình sự: buộc tội, bào

chữa và xét xử. Đưa các chủ thể về đúng vị trí, vai trò tố tụng của mình, loại bỏ các thẩm
12

MSSV 350744 – Lớp N01.TL4


quyền không phù hợp với chức năng tố tụng của các chủ thể. Bỏ cách phân chia chủ thể tố
tụng thành chủ thể tiến hành tố tụng và chủ thể tham gia tố tụng như quy định hiện hành
mà quy định chung là các chủ thể tố tụng.
- Thứ hai, cùng với việc tiếp tục ghi nhận các quyền của người bào chữa như quy định của
pháp luật hiện hành, cần bổ sung các cơ chế để bảo đảm cho người bào chữa thực hiện tốt
các quyền luật định. Các vi phạm quyền của người bào chữa từ phía các cơ quan tiến hành
tố tụng, người tiến hành tố tụng phải bị xem là những vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng
và không có giá trị chứng minh tại phiên toà.
- Thứ ba, bổ sung một số quyền của người bào chữa để thực hiện tốt chức năng tố tụng của
mình như: quyền thu thập chứng cứ, quyền được nhận các quyết định tố tụng liên quan đến
người mà mình nhận bào chữa (cáo trạng, quyết định đình chỉ vụ án hoặc quyết định tạm
đình chỉ vụ án đối với bị can...); chất vấn, đối chất người làm chứng, người bị hại và người
tham gia tố tụng khác trong các giai đoạn tố tụng. Thủ tục xét hỏi tại phiên toà (từ Điều
206 đến Điều 216 BLTTHS) phải được sửa đổi theo hướng tập trung vào hoạt động tranh
tụng giữa các bên, giữa bên bào chữa và bên buộc tội, mà không chỉ đơn thuần là xét hỏi.
Điểm e khoản 2 Điều 58 cần bổ sung theo tinh thần: người bào chữa có quyền gặp riêng
làm việc với người bị tạm giữ, bị can, bị cáo khi cần thiết. Trong trường hợp đặc biệt, một
số tội cụ thể luật sư có quyền làm việc với bị can trong tầm nhìn nhưng không trong tầm
nghe của cán bộ tố tụng. Không bị hạn chế về số lượng lần gặp và thời gian gặp, không
quy định chung chung là được gặp để tránh những sự gây khó khăn từ phía cơ quan và
người thi hành tố tụng chỉ cho gặp một cách hình thức và hạn chế thời gian được gặp. Sửa
đổi, bổ sung khoản 1 Điều 58 theo hướng mở rộng hơn, cho phép người bào chữa tham gia
từ khi khởi tố bị can đối với những tội xâm phạm an ninh quốc gia. Quy định tại điểm a
Khoản 2 Điều 58 BLTTHS năm 2003 là không hợp lý, vì vậy quy định này nên sửa đổi

theo hướng “....sau khi điều tra viên đã thực hiện xong phần lấy lời khai, hỏi cung thì
người bào chữa được hỏi...” Điểm g, khoản 2 Điều 58 pháp luật nên có quy định cụ thể
những tài liệu nào được ghi chép, sao chụp, những tài liệu nào không được sử dụng, nên
mở rộng tất cả các tài liệu có trong hồ so vụ án trừ những tài liệu thuộc bí mật quốc gia, bí
mật nhà nước.
- Thứ tư, thay đổi quan niệm về chứng cứ và quy định quyền thu thập chứng cứ của người
bào chữa thay vì chỉ giới hạn quyền của họ đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu như pháp luật
hiện hành nhằm bảo đảm thực hiện yêu cầu tranh tụng bình đẳng, dân chủ tại phiên toà.
Nếu có khó khăn trong việc thu thập chứng cứ thì tuỳ theo giai đoạn tố tụng, Viện kiểm sát,
Toà án phải là cơ quan hỗ trợ họ trong việc thu thập chứng cứ như ra lệnh triệu tập nhân
chứng hay yêu cầu các cơ quan, tổ chức cung cấp chứng cứ.
13

MSSV 350744 – Lớp N01.TL4


- Thứ năm, sửa đổi, bổ sung các quy định để tạo điều kiện thuận lợi cho người bào chữa
nhanh chóng tham gia tố tụng, tiếp cận với quá trình giải quyết vụ án theo hướng đơn giản
hoá các thủ tục cấp giấy chứng nhận bào chữa và thủ tục tham gia bào chữa (khoản 4 Điều
56 BLTTHS). Để được cấp giấy chứng nhận người bào chữa, luật sư chỉ cần xuất trình thẻ
luật sư và giấy đề nghị nhờ luật sư bào chữa của bị can, bị cáo; những người bào chữa khác
thì xuất trình giấy giới thiệu của cơ quan, tổ chức, chính quyền địa phương nơi người đó cư
trú, làm việc và chứng minh thư, giấy đề nghị nhờ bào chữa của bị can, bị cáo. Giấy chứng
nhận người bào chữa được cấp một lần và có giá trị trong cả giai đoạn điều tra, truy tố, xét
xử; nếu có sự thay đổi người bào chữa khác thì hồ sơ vụ án đang ở cơ quan nào, cơ quan
đó có trách nhiệm cấp lại giấy chứng nhận.
- Thứ sáu, quy định trách nhiệm của cơ quan và người THTT phải tôn trọng kết quả bào
chữa. Các tài liệu, đồ vật do bên bào chữa cung cấp; các tình tiết và những lập luận do bên
bào chữa nêu ra phải được các cơ quan và người tiến hành tố tụng xem xét. Nếu có căn cứ
thì phải chấp nhận để giải quyết đúng đắn vụ án hình sự; nếu không có căn cứ thì bác bỏ và

nêu rõ lý do trong bản án hoặc quyết định tố tụng của cơ quan có thẩm quyền.
- Thứ bảy, để nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động bào chữa, cần sửa đổi, bổ sung
Điều 190 BLTTHS, nên quy định sự có mặt của người bào chữa là bắt buộc. Mọi trường
hợp vắng mặt người bào chữa, Hội đồng xét xử phải hoãn phiên toà. Người bào chữa có
hành vi trái pháp luật gây khó khăn, trở ngại cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thì tùy
theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật, xử lý hành chính hoặc truy cứu trách
nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường.
- Thứ tám, hoàn thiện các thời hạn tố tụng theo hướng bổ sung các thời hạn tố tụng cho các
hoạt động tố tụng cụ thể, bảo đảm mọi hoạt động tố tụng, mọi hành vi tố tụng phải bị ràng
buộc bởi các thời hạn tố tụng cụ thể. Quyền yêu cầu của người bào chữa phải được các cơ
quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng giải quyết trong thời hạn luật định.
- Thứ chín, sửa đổi một số thủ tục tố tụng để những người tham gia tố tụng dễ dàng tiếp
cận hơn với quá trình giải quyết vụ án, tăng cường tính công khai, minh bạch của hoạt
động TTHS như: Cần sửa đổi quy định tại điểm b khoản 2 Điều 58 BLTTHS theo hướng
cơ quan THTT có nghĩa vụ phải thông báo trước về thời gian và địa điểm hỏi cung bị can.
Người bào chữa có quyền được thông báo mà không chỉ là quyền đề nghị được thông báo
như quy định hiện hành. Bên cạnh đó, hoàn thiện thủ tục, thời hạn, cách thức công khai
chứng cứ buộc tội cho bên bào chữa nhằm tạo điều kiện để bị can, bị cáo và người bào
chữa của họ thực hiện tốt việc bào chữa tại phiên toà. Toà án có trách nhiệm bảo đảm cho
thủ tục công khai chứng cứ buộc tội được thực hiện đúng quy định của pháp luật. Những vi
phạm liên quan đến việc công khai chứng buộc tội cho bên bào chữa cần được coi là vi
phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, thuộc trường hợp Toà án trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ
14

MSSV 350744 – Lớp N01.TL4


sung. Đồng thời, đổi mới căn bản các thủ tục tố tụng tại phiên toà sơ thẩm để thực hiện tốt
yêu cầu tăng cường tranh tụng, tạo cơ sở để toàn bộ quá trình tố tụng tại phiên toà sơ thẩm
là quá trình đối chất, kiểm tra chứng cứ giữa bên buộc tội và bên bào chữa, Toà án ra phán

quyết dựa trên kết quả kiểm tra chứng cứ và sự tranh tụng của các bên tại phiên toà.
- Thứ mười, phát triển đội ngũ người bào chữa nhằm đáp ứng tốt nhu cầu được trợ giúp
pháp lý: Trước hết, cần đào tạo đội ngũ luật sư, đây là lực lượng nòng cốt thực hiện các
dịch vụ pháp lý nói chung và tham gia bào chữa trong vụ án hình sự nói riêng. Pháp luật
cần có những sửa đổi, bổ sung hợp lý nhằm tạo khung pháp lý đồng bộ về đội ngũ luật sư,
đó là: cần sớm bổ sung quy định của Luật Luật sư theo hướng mở rộng đối tượng được
tham gia hành nghề đối với giảng viên dạy luật là viên chức tại các trường đại học công
lập; mở rộng hợp tác đào tạo kiến thức và kỹ năng hành nghề; tăng cường hợp tác trao đổi
với các tổ chức luật sư nước ngoài để học hỏi kinh nghiệm; nâng cao mức thù lao chi phí
đối với luật sư chỉ định. Đồng thời, phát triển trợ giúp viên pháp lý ở các địa phương, đây
sẽ là giải pháp hiệu quả nhằm tăng cường hoạt động bào chữa. Mặt khác, cần hoàn thiện
quy định về Bào chữa viên nhân dân (BCVND): Chức danh BCVND ở nước ta ra đời trên
cơ sở Sắc lệnh số 69/SL ngày 18/6/1949 của Chủ tịch nước. Tuy nhiên, từ năm 1989 đến
nay, khi các đoàn luật sư được khôi phục lại thì hoạt động BCVND hầu như chấm dứt,
chức danh BCVND chỉ tồn tại trên phương diện pháp lý. Hiện tại không có văn bản pháp
quy nào quy định về thành lập, tổ chức, quản lý, phát triển đội ngũ này. Do đó, cần sớm
xây dựng những quy phạm pháp luật quy định thống nhất về BCVND. Bên cạnh đó, ban
hành quy chế hoặc điều lệ mẫu về tổ chức và hoạt động của BCVND theo hướng giao cho
Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc đứng ra thành lập và quản lý về mặt tổ chức; Bộ Tư pháp chịu
trách nhiệm về đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ bào chữa.

KẾT LUẬN
Địa vị pháp lý của người bào chữa trong tố tụng hình sự và việc hoàn thiện pháp
luật nhằm nâng cao hiệu quả việc tham gia tố tụng của người bào chữa là vấn đề hết
sức quan trọng trong quá trình xây dựng nền tảng pháp lý của nhà nước pháp quyền.
Bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là một nguyên tắc cơ
bản của luật tố tụng hình sự Việt Nam. Tuy nhiên, thực tế giải quyết vụ án hình sự
cho thấy, vai trò của người bào chữa khi tham gia tố tụng chưa được tôn trọng và
quyền có người bào chữa chưa được bảo bảm một cách toàn diện, thậm chí bị vi
phạm. Vì vậy, cần thiết phải sớm hoàn thiện các quy định của BLTTHS về quyền và

nghĩa vụ của người bào chữa cũng như cơ chế đảm bảo thực hiện, nhất là trong giai
đoạn hiện nay, khi Việt Nam đang tiến hành cải cách tư pháp và hội nhập quốc tế./.
15

MSSV 350744 – Lớp N01.TL4


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trường Đại học Luật Hà nội, Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb Tư Pháp,
Hà Nội, 2006;
2. Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội, Giáo trình luật tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb,
Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 2001;
3. Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam năm 2003;
4. Nghị quyết 05/2005/NQ- HĐTP của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao,

Hướng dẫn thi hành một số quy định trong Phần thứ tư "Xét xử phúc thẩm" của Bộ
luật tố tụng hình sự
5. Luật Luật sư năm 2006
6. Thông tư 70/2011/TT-BCA, quy định chi tiết thi hành các quy định của Bộ luật Tố
tụng hình sự liên quan đến việc bảo đảm quyền bào chữa trong giai đoạn điều tra vụ
án hình sự
7. Địa vị pháp lý của người bào chữa trong Luật Tố tụng hình sự Việt Nam, những vấn
đề lý luận và thực tiễn: Luận văn thạc sĩ luật học / Đỗ Đình Nghĩa; Người hướng
dẫn: PGS.TS. Phạm Hồng Hải . - H., 2004
8. Địa vị pháp lý của người bào chữa trong tố tụng hình sự : Khoá luận tốt nghiệp /
Văn Hoàng Anh; Người hướng dẫn: PGS. TS. Hoàng Thị Minh Sơn. Hà Nội, 2010
9. Địa vị pháp lý của luật sư bào chữa trong tố tụng hình sự : Khoá luận tốt nghiệp / Đỗ
Thị Loan; Người hướng dẫn: TS. Phan Thị Thanh Mai
10. Một số vấn đề về người bào chữa không phải là luật sư / Đinh Văn Quế // Tạp chí
Toà án nhân dân. Toà án nhân dân tối cao, Số 13/2011, tr. 17 – 21

11. Hoàn thiện quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự nhằm nâng cao hiệu quả việc tham
gia tố tụng của người bào chữa : Khoá luận tốt nghiệp / Đinh Kiều Anh; Người
hướng dẫn: TS. Vũ Gia Lâm
12. Một số website
/> />p_page_id=1754190&p_cateid=1751909&article_details=1&item_id=14077018
/>Chú thích:
[1], [2], [3], [4] />16

MSSV 350744 – Lớp N01.TL4


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU...........................................................................................1
NỘI DUNG................................................................................................1
I.

Khái quát chung về người bào chữa trong tố tụng hình sự............1

1. Khái niệm địa vị pháp lý của người bào chữa trong tố tụng hình sự...1
2. Vai trò của người bào chữa..................................................................2
II. Những quy định của pháp luật tố tụng hình sự về địa vị pháp lý của người
bào chữa..................................................................................3
1. Quyền của người bào chữa theo quy định của BLTTHS năm 2003......3
2. Nghĩa vụ của người bào chữa theo quy định của BLTTHS năm
2003.......................................................................................................7
III. Thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật về địa vị pháp lý của người
bào chữa và một số kiến nghị giải pháp nhằm nâng cao địa vị pháp lý của người
bào chữa trong tố tụng hình sự...........................8
1. Thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật về địa vị pháp lý của người bào
chữa.....................................................................................9

2. Nguyên nhân của thực trạng thực hiện các quy định về quyền và nghĩa vụ của
người bào chữa..............................................................12
3. Một số kiến nghị giải pháp nâng cao địa vị pháp lý của người bào chữa trong tố
tụng hình sự..................................................................12
KẾT LUẬN.............................................................................................15
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..............................................16

17

MSSV 350744 – Lớp N01.TL4



×