Tải bản đầy đủ (.pdf) (109 trang)

Người tiến hành tố tụng theo pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam hiện hành

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1004.76 KB, 109 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

ĐỖ THỊ THÚY HẰNG

NGƢỜI TIẾN HÀNH TỐ TỤNG THEO
PHÁP LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT
NAM HIỆN HÀNH

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2019


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

ĐỖ THỊ THÚY HẰNG

NGƢỜI TIẾN HÀNH TỐ TỤNG THEO
PHÁP LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM
HIỆN HÀNH

Chuyên ngành: Luật dân sự và tố tụng dân sự
Mã số: 8380101.04

Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN VINH HƢNG

Hà Nội - 2019



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƢỜI CAM ĐOAN

ĐỖ THỊ THÚY HẰNG


MỤC LỤC

Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGƢỜI TIẾN HÀNH
TỐ TỤNG DÂN SỰ ........................................................................... 7
1.1.

Khái quát chung về ngƣời tiến hành tố tụng dân sự....................... 7

1.1.1. Khái niệm ngƣời tiến hành tố tụng dân sự ........................................... 7

1.1.2. Bản chất, đặc điểm ngƣời tiến hành tố tụng dân sự ........................... 10
1.1.3. Vị trí, vai trò của ngƣời tiến hành tố tụng dân sự .............................. 14
1.1.4. Nguyên tắc tiến hành hoạt động của ngƣời tiến hành tố tụng dân
sự ........................................................................................................ 19
1.1.5. Sự tham gia của ngƣời tiến hành tố tụng dân sự trong quá trình
giải quyết vụ việc dân sự .................................................................... 21
1.2.

Lƣợc sử hình thành các quy định về ngƣời tiến hành tố tụng
dân sự theo pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam ............................ 22

1.2.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1989 ............................................... 22
1.2.2. Giai đoạn từ năm 1989 đến năm 2004 ............................................... 26
1.2.3. Giai đoạn từ năm 2004 đến năm 2014 ............................................... 27
1.2.4. Giai đoạn từ năm 2014 đến nay ......................................................... 29
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1................................................................................ 31
Chƣơng 2: QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY VỀ
NGƢỜI TIẾN HÀNH TỐ TỤNG DÂN SỰ ..........................................32
2.1.

Ngƣời tiến hành tố tụng dân sự trong hệ thống Tòa án nhân


dân...................................................................................................... 32
2.1.1. Chánh án Tòa án nhân dân ................................................................. 32
2.1.2. Thẩm phán Tòa án nhân dân .............................................................. 34
2.1.3. Hội thẩm nhân dân ............................................................................. 39
2.1.4. Thẩm tra viên...................................................................................... 41
2.1.5. Thƣ ký Tòa án .................................................................................... 42
2.2.


Ngƣời tiến hành tố tụng dân sự trong hệ thống Viện kiểm
sát nhân dân...................................................................................... 44

2.2.1. Viện trƣởng Viện kiểm sát ................................................................. 44
2.2.2. Kiểm sát viên ...................................................................................... 46
2.2.3. Kiểm tra viên ...................................................................................... 50
2.3.

Căn cứ từ chối, thay đổi và trình tự, thủ tục từ chối, đề nghị
thay đổi ngƣời tiến hành tố tụng dân sự ........................................ 51

2.3.1. Tầm quan trọng và ý nghĩa của việc từ chối, thay đổi ngƣời tiến
hành tố tụng dân sự ............................................................................ 51
2.3.2. Căn cứ từ chối, thay đổi ngƣời tiến hành tố tụng dân sự ................... 54
2.3.3. T rình tự, thủ tục từ chối, thay đổi ngƣời tiến hành tố tụng dân sự ....... 59
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2................................................................................ 63
Chƣơng 3: THỰC TIỄN VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN
THIỆN QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ NGƢỜI TIẾN HÀNH
TỐ TỤNG DÂN SỰ................................................................................ 64
3.1.

Thực tiễn về ngƣời tiến hành tố tụng dân sự hiện nay ................. 64

3.1.1. Hoạt động của ngƣời tiến hành tố tụng dân sự .................................. 64
3.1.2. Những bất cập trong hoạt động của ngƣời tiến hành tố tụng dân
sự ........................................................................................................ 74
3.2.

Một số giải pháp nhằm hoàn thiện quy định pháp luật về

ngƣời tiến hành tố tụng dân sự ....................................................... 83

3.2.1. Các giải pháp nhằm hoàn thiện quy định pháp luật về ngƣời tiến
hành tố tụng trong tố tụng dân sự....................................................... 83


3.2.2. Các giải pháp khác ............................................................................. 87
KẾT LUẬN CHƢƠNG 3................................................................................ 94
KẾT LUẬN .................................................................................................... 95
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 97


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BLTTDS:

Bộ luật Tố tụng dân sự

HĐND:

Hội đồng nhân dân

TAND:

Tòa án nhân dân

TTDS:

Tố tụng dân sự


VKSND:

Viện kiểm sát nhân dân


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 về chiến lƣợc xây dựng và
hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010 định hƣớng đến năm
2020 xác định: “xây dựng và hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động
của các cơ quan tư pháp phù hợp với mục tiêu, định hướng của Chiến lược
cải cách tư pháp; xác định đúng, đủ quyền năng và trách nhiệm pháp lý cho
từng cơ quan, chức danh tư pháp” [5, tr.5]. Tiếp đó, ngày 02/6/2005, Bộ
chính trị ban hành Nghị quyết số 49-NQ/TW về Chiến lƣợc cải cách tƣ pháp
đến năm 2020, trong đó đã xác định rõ phƣơng hƣớng “xây dựng đội ngũ cán
bộ tư pháp, bổ trợ tư pháp, nhất là cán bộ có chức danh tư pháp theo hướng
đề cao quyền hạn, trách nhiệm pháp lý, nâng cao và cụ thể hóa tiêu chuẩn về
chính trị, phẩm chất, đạo đức, chuyên môn nghiệp vụ và kinh nghiệm, kiến
thức xã hội đối với từng loại cán bộ…” [6, tr.3]. Ngoài ra, trải qua các kỳ Đại
hội của Đảng và trong các Nghị quyết của Bộ chính trị đều đã thể hiện tầm
quan trọng của việc đổi mới đội ngũ cán bộ xét xử, kiểm sát theo hƣớng
chuyên nghiệp, hiện đại.
Hiện nay, từ thực tiễn xét xử cho thấy, các tranh chấp dân sự tại Việt
Nam ngày càng có xu hƣớng gia tăng và với tính chất, mức độ phức tạp hơn
trƣớc. Chính vì vậy, việc xét xử giải quyết các tranh chấp ngày càng khó khăn
và đòi hỏi trình độ những ngƣời tiến hành tố tụng phải nâng cao, hoàn thiện
hơn trƣớc đây. Bởi, trong quá trình giải quyết các vụ việc dân sự thì khả năng
chuyên môn của những ngƣời tiến hành tố tụng là một trong các yếu tố quyết
định. Chính vì vậy, nhằm đáp ứng với tình hình thực tiễn, Bộ luật Tố tụng dân
sự năm 2015 (BLTTDS năm 2015) và các văn bản pháp luật có liên quan nhƣ

Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 (Luật tổ chức TAND năm 2014),
Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014 (Luật tổ chức VKSND năm

1


2014)… đều quy định khá chặt chẽ, đầy đủ và chi tiết về những ngƣời tiến
hành tố tụng dân sự. Đây là những quy định quan trọng và là cơ sở để giải
quyết các vụ việc dân sự và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho các chủ thể
trong tố tụng dân sự và đồng thời đáp ứng với yêu cầu cải cách tƣ pháp tại
Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Xuất phát từ những lý do trên, việc tìm hiểu, nghiên cứu về những
ngƣời tiến hành tố tụng theo quy định của BLTTDS năm 2015 hiện nay là rất
cần thiết và mang lại nhiều giá trị cả trên phƣơng diện lý luận khoa học và
thực tiễn xét xử. Bởi, quá trình nghiên cứu có thể mang lại các kiến nghị quan
trọng cho việc hoàn thiện các quy định pháp luật về ngƣời tiến hành tố tụng
trong tố tụng dân sự tại Việt Nam. Đây cũng chính là lý do, tác giả đã lựa
chọn đề tài “Người tiến hành tố tụng theo pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam
hiện hành” làm luận văn thạc sĩ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trên thực tế, nghiên cứu về sự tham gia của ngƣời tiến hành tố tụng
trong tố tụng dân sự cũng nhƣ vai trò, nhiệm vụ, quyền hạn của họ luôn là đề
tài thu hút nhiều sự quan tâm, chú ý. Chính vì vậy, trong một số năm gần đây
đã có khá nhiều công trình nghiên cứu về lĩnh vực này. Trong phạm vi giới
hạn, những công trình nghiên cứu điển hình sau có liên quan đến đề tài:
Các công trình nghiên cứu dƣới dạng sách chuyên khảo, giáo trình
trong đó có phần nghiên cứu về ngƣời tiến hành tố tụng trong tố tụng dân sự:
Giáo trình Luật tố tụng dân sự Việt Nam, Khoa Luật - Đại học Quốc
gia Hà Nội, nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2014;
Giáo trình Luật tố tụng dân sự Việt Nam, Trƣờng Đại học Luật Hà Nội,

nhà xuất bản Công an nhân dân, năm 2014;
Giáo trình Luật tố tụng dân sự, tác giả Nguyễn Công Bình chủ biên,
nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam, năm 2011;

2


Cẩm nang Hội thẩm nhân dân của Học viện Tư pháp, học giả Phan
Hữu Thƣ chủ biên, nhà xuất bản Lao động - xã hội, năm 2005;
Những điểm mới của Bộ luật tố tụng dân sự, nhóm tác giả Trần Văn
Biên và Lê Quang Thành, năm 2007.
Bình luận những điểm mới trong Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, tác
giả Nguyễn Thị Hoài Thƣơng chủ biên, năm 2016;
Nhóm các công trình nghiên cứu dƣới dạng luận văn tiêu biểu gồm:
Luận văn Thạc sĩ luật học “Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát
nhân dân trong tố tụng dân sự Việt Nam” của tác giả Phùng Thanh Hà, bảo vệ
tại Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội năm 2014;
Luận văn Thạc sĩ luật học “Người tiến hành tố tụng và việc thay đổi
người tiến hành tố tụng trong tố tụng dân sự” của tác giả Lã Thị Vân Anh,
bảo vệ tại Trƣờng Đại học Luật Hà Nội năm 2016;
Luận văn Thạc sĩ luật học “Nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của
Thẩm phán trong tố tụng dân sự” của tác giả Nguyễn Thị Hằng, bảo vệ tại
Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội năm 2013.
Về các bài viết trên các tạp chí chuyên ngành của ngành Luật học tại
Việt Nam, điển hình gồm có:
“Trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố
tụng trong việc tôn trọng và bảo vệ các quyền cơ bản của công dân” của tác
giả Bùi Kiên Điện, Tạp chí luật học, số 8/2011;
“Viện kiểm sát nhân dân trong hoạt động tố tụng dân sự và thực tiễn”
của tác giả Trần Xuân Hách, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 19/2012;

“Những điểm mới cơ bản về vai trò của Viện kiểm sát trong tố tụng dân
sự theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật tố tụng dân sự” của tác
giả Hoàng Thị Quỳnh Chi, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 12/2011;
“Hoàn thiện các quy định của pháp luật về Thẩm tra viên Tòa án nhân

3


dân” của tác giả Trần Anh Tuấn và Hoàng Văn Tùng, Tòa án nhân dân tối cao,
số 5/2016;
“Quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 về cơ quan tiến hành
tố tụng dân sự, người tiến hành tố tụng dân sự” của tác giả Trần Phƣơng
Thảo, Tạp chí luật học, số 8/2017;
“Quá trình bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong tố
tụng dân sự và thi hành án dân sự”, tác giả Nguyễn Vinh Hƣng, Tạp chí
Khoa học Kiểm sát số 06/2016;
“Người tiến hành tố tụng trong Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015” của
tác giả Nguyễn Vinh Hƣng, Tạp chí Khoa học Kiểm sát số 4/2017.
Về cơ bản, các công trình nghiên cứu trên chủ yếu đi sâu phân tích, tìm
hiểu về một chủ thể ngƣời tiến hành tố tụng hoặc một số vấn đề nhƣ vị trí, vai
trò, nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của ngƣời tiến hành tố tụng. Ngoài ra, một số
công trình nghiên cứu do thời điểm nghiên cứu đã khá lâu nên chƣa đề cập
đến những vấn về đang đặt ra trong điều kiện BLTTDS năm 2015 mới đƣợc
ban hành với nhiều quy định mới. Đồng thời, cũng chƣa có nhiều bài viết
nghiên cứu một cách tổng thể, toàn diện các quy định pháp luật và thực trạng
của những ngƣời tiến hành tố tụng trong tố tụng dân sự. Do đó, việc nghiên
cứu tổng thể các quy định pháp luật về ngƣời tiến hành tố tụng trong tố tụng
dân sự trên góc độ khoa học pháp lý và việc áp dụng các quy định đó trong
thực tế là rất cần thiết và quan trọng.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của đề tài

3.1. Đối tượng nghiên cứu của đề tài
Đối tƣợng nghiên cứu là các quy định pháp luật về ngƣời tiến hành tố
tụng trong tố tụng dân sự Việt Nam hiện nay.
3.2. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Phạm vi nghiên cứu của luận văn là các vấn đề trong pháp luật thực định

4


bao gồm các quy định hiện hành của Việt Nam về ngƣời tiến hành tố tụng trong
tố tụng dân sự (Bộ luật, Nghị quyết, Thông tƣ liên tịch, Thông tƣ...). Từ các quy
định này đƣợc đƣa vào thực tiễn áp dụng đã làm nảy sinh những vấn đề hạn chế,
bất cập gây ảnh hƣởng đến hoạt động của ngƣời tiến hành tố tụng dân sự. Bên
cạnh đó, từ phạm vi nghiên cứu, tác giả luận văn sẽ đề xuất một số kiến nghị cụ
thể để nhằm mục đích hoàn thiện các quy định pháp luật về ngƣời tiến hành tố
tụng trong tố tụng dân sự tại Việt Nam.
4. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài
4.1. Mục đích của đề tài
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận về ngƣời tiến hành tố tụng trong tố
tụng dân sự.
- Phân tích, đánh giá thực trạng của các quy định pháp luật hiện hành
về ngƣời tiến hành tố tụng dân sự.
- Chỉ rõ các khó khăn vƣớng mắc và nguyên nhân của các khó khăn
vƣớng mắc trong hoạt động của những ngƣời tiến hành tố tụng dân sự.
- Đề xuất một số kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật về
ngƣời tiến hành tố tụng dân sự.
4.2. Nhiệm vụ của đề tài
Với mục đích trên, nhiệm vụ cụ thể của luận văn:
Nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn các hoạt động của ngƣời
tiến hành tố tụng dân sự, quy định pháp luật hiện hành về ngƣời tiến hành tố

tụng dân sự tại Việt Nam. Trên cơ sở nghiên cứu, đề xuất một số kiến nghị
nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật về ngƣời tiến hành tố tụng dân sự.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu đề tài
Phƣơng pháp luận bao trùm đƣợc tác giả sử dụng làm định hƣớng trong
suốt quá trình nghiên cứu luận văn là phƣơng pháp luận triết học duy vật biện
chứng và triết học duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác - Lênin.

5


Bên cạnh đó, các phƣơng pháp nghiên cứu đặc thù của ngành khoa
học xã hội nói chung và khoa học pháp lý nói riêng đƣợc tác giả luận văn
kết hợp sử dụng nhƣ: phƣơng pháp tổng hợp; phƣơng pháp phân tích;
phƣơng pháp so sánh, phƣơng pháp đánh giá các quy định pháp luật,
phƣơng pháp điều tra xã hội học pháp luật...
6. Đóng góp mới của đề tài
Trong phạm vi nghiên cứu giới hạn, luận văn tập trung vào những điểm
chính nhƣ:
Về mặt lý luận, luận văn nghiên cứu và phân tích có hệ thống các vấn
đề lý luận cơ bản về ngƣời tiến hành tố tụng dân sự.
Về mặt thực tiễn, từ thực trạng quy định của pháp luật về ngƣời tiến
hành tố tụng dân sự hiện nay, luận văn chỉ rõ những khó khăn, hạn chế của
các quy định này đối với hoạt động của những ngƣời tiến hành tố tụng.
Về mặt định hướng hoàn thiện pháp luật, luận văn đề xuất một số kiến
nghị quan trọng là cơ sở để hoàn thiện các quy định pháp luật về ngƣời tiến
hành tố tụng trong tố tụng dân sự tại Việt Nam.
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục và danh mục tài liệu tham khảo,
luận văn bao gồm 03 chƣơng với kết cấu nhƣ sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về ngƣời tiến hành tố tụng dân sự.

Chương 2: Quy định pháp luật Việt Nam hiện nay về ngƣời tiến hành
tố tụng dân sự.
Chương 3: Thực tiễn và một số kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định
pháp luật về ngƣời tiến hành tố tụng dân sự.

6


Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGƢỜI TIẾN HÀNH
TỐ TỤNG DÂN SỰ
1.1. Khái quát chung về ngƣời tiến hành tố tụng dân sự
1.1.1. Khái niệm người tiến hành tố tụng dân sự
Theo Từ điển tiếng Việt, “tố tụng” đƣợc hiểu là trình tự, thủ tục đƣợc
tiến hành theo quy định của pháp luật [17, tr.1008]. Còn cụm từ “tiến hành” là
làm, thực hiện một cách chủ động một công việc nào đó đã đƣợc định trƣớc
[17, tr.986]. Vì vậy, ngƣời tiến hành tố tụng trong tố tụng dân sự có thể đƣợc
hiểu là cá nhân hay đó là những con ngƣời cụ thể trong các cơ quan tiến hành
tố tụng để thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn theo trình tự, thủ tục do pháp
luật quy định.
Về khái niệm của ngƣời tiến hành tố tụng trong tố tụng dân sự, có quan
điểm cho rằng: “ngƣời tiến hành tố tụng dân sự là ngƣời thực hiện nhiệm vụ,
quyền hạn trong việc giải quyết vụ việc dân sự hoặc kiểm sát việc tuân theo
pháp luật trong tố tụng dân sự” [15, tr.109]. Hay theo quan điểm khác, “ngƣời
tiến hành tố tụng dân sự là ngƣời thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn trong việc giải
quyết vụ việc dân sự, thi hành án dân sự hoặc kiểm sát việc tuân theo pháp luật
trong tố tụng dân sự” [15, tr.91]. Căn cứ theo quan điểm này thì ngƣời tiến
hành tố tụng là những chủ thể sử dụng quyền lực nhà nƣớc, đƣợc trao những
nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể trong quá trình thực thi pháp luật. Đồng thời, ngƣời
tiến hành tố tụng là những ngƣời thuộc Tòa án nhân dân (TAND), Viện kiểm

sát nhân dân (VKSND) và cả Cơ quan thi hành án dân sự. Theo đó, họ thay
mặt cho các cơ quan trên để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn trên thực tế trong
quá trình giải quyết các vụ việc dân sự và cả thi hành án dân sự.
Hiện nay, có quan điểm cho rằng Cơ quan thi hành án dân sự cũng là

7


cơ quan tiến hành tố tụng nên Thủ trƣởng cơ quan thi hành án dân sự và Chấp
hành viên cũng chính là ngƣời tiến hành tố tụng [46, tr.92]. Cơ sở cho nhận
định này bởi, “quá trình bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các đƣơng sự bao
gồm nhiều giai đoạn khác nhau. Việc giải quyết vụ việc dân sự tại Tòa án tuy
rất quan trọng nhƣng thực ra mới chỉ là giai đoạn đầu của quá trình bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của đƣơng sự. Trong giai đoạn này, Tòa án mới chỉ
làm rõ các tình tiết của vụ việc dân sự và áp dụng các quy phạm pháp luật
quyết định quyền và nghĩa vụ của các đƣơng sự. Quyền và nghĩa vụ của các
đƣơng sự trong vụ việc dân sự muốn trở thành hiện thực thì phải thông qua
việc thi hành án”. [4, tr.9].
Hay trong pháp luật thời kỳ trƣớc tại Việt Nam, cũng từng có nhận
định: “Hết đƣờng lối tố cầu, bản án tuyên xử xong phải đƣợc đem ra chấp
hành hay thi hành” [9, tr.691]. Tuy nhiên, không đồng tình với quan điểm
này, có nhận định cho rằng Thủ trƣởng cơ quan thi hành án dân sự, Chấp
hành viên không phải là ngƣời tiến hành tố tụng vì: “Thi hành án là dạng hoạt
động của cơ quan hành chính nhà nƣớc. Theo quan niệm này thì tố tụng là quá
trình tiến hành giải quyết các vụ án theo quy định của pháp luật; quá trình này
trải qua nhiều giai đoạn nhƣng các giai đoạn có liên quan mật thiết với nhau
trong thể thống nhất và xét xử là giai đoạn cuối cùng của quá trình tố tụng cho
nên bản án, quyết định của toà án là kết quả cuối cùng đánh dấu sự kết thúc của
quá trình tố tụng” [52].
Hoặc quan điểm khác lại cho rằng: “Ngƣời tiến hành tố tụng phải là

ngƣời đƣợc thực hiện những hành vi tố tụng mang tính quyền lực nhà nƣớc
có ý nghĩa thúc đẩy tiến trình giải quyết vụ án, do vậy, chỉ bao gồm Thẩm
phán và Hội thẩm nhân dân” [15, tr.109].
Còn theo tác giả Nguyễn Vinh Hƣng: “Giữa tố tụng dân sự và thi hành

8


án dân sự luôn có sự khác biệt rõ ràng. Sự khác biệt này thể hiện rõ nhất ở
nhiệm vụ giữa tố tụng dân sự và thi hành án dân sự. Tố tụng dân sự với
nhiệm vụ chính là xét xử, để đƣa ra các phán quyết công bằng, đúng pháp
luật nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho các chủ thể khi bị xâm
phạm. Còn thi hành án dân sự thì nhiệm vụ của các cơ quan thi hành án dân
sự sẽ không xem xét lại vụ việc dân sự và cũng không ra quyết định giải
quyết lại nội dung của vụ việc dân sự. Thi hành án dân sự chỉ áp dụng các
biện pháp cần thiết, để nhằm mục đích tổ chức thực hiện các bản án, quyết
định đƣợc đƣa ra thi hành. Các chủ thể tham gia vào quá trình thi hành án
dân sự, không có nhiệm vụ làm sáng tỏ nội dung vụ việc nhƣ trong quá
trình tố tụng dân sự” [12, tr.6].
“Bên cạnh đó, theo xu thế phát triển của khoa học pháp lý ở Việt Nam
các ngành luật ngày càng đƣợc chia nhỏ hơn, theo đó tập hợp các quy phạm
pháp luật điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong một lĩnh vực nhất định cũng
có thể trở thành ngành luật độc lập” [45, tr.14].
Vậy giữa tố tụng dân sự và thi hành án dân sự phải là hai hoạt động
khác nhau, do đó giữa những ngƣời tiến hành tố tụng dân sự và những ngƣời
thực hiện nhiệm vụ thi hành án dân sự cũng khác nhau. Từ đó, tác giả luận
văn cho rằng, chỉ nên quan niệm ngƣời tiến hành tố tụng dân sự là những
ngƣời trực tiếp tham gia giải quyết vụ việc dân sự.
Qua phân tích các khái niệm trên, có thể quan niệm ngƣời tiến hành tố
tụng dân sự nhƣ sau:

Người tiến hành tố tụng dân sự là người được Nhà nước trao quyền
hạn cụ thể để thực hiện những nhiệm vụ khác nhau phát sinh trong quá trình
giải quyết vụ việc dân sự hoặc kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong quá
trình tố tụng dân sự.

9


1.1.2. Bản chất, đặc điểm người tiến hành tố tụng dân sự
1.1.2.1. Bản chất người tiến hành tố tụng dân sự
Hiến pháp năm 2013 thể hiện “Nhà nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam là nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân
dân, vì Nhân dân”. Để xây dựng một Nhà nƣớc pháp quyền đòi hỏi phải xây
dựng một hệ thống pháp luật chặt chẽ, nghiêm minh. Trong đó, TAND là cơ
quan xét xử còn VKSND là cơ quan kiểm sát hoạt động tƣ pháp thông qua
hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ việc
dân sự. Để TAND và VKSND thực hiện những nhiệm vụ, quyền hạn đó cần
phải thông qua ngƣời tiến hành tố tụng.
Vì vậy, ngƣời tiến hành tố tụng dân sự là ngƣời thay mặt các cơ quan
tiến hành tố tụng thực hiện quyền lực nhà nƣớc trong việc giải quyết vụ việc
dân sự, kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong quá trình tố tụng dân sự. Trong
tố tụng dân sự, ngƣời tiến hành tố tụng của Tòa án là ngƣời thay mặt Tòa án
thực hiện quyền xét xử còn ngƣời tiến hành tố tụng của VKSND là ngƣời thay
mặt VKSND kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ
việc dân sự. Hay nói cách khác, bản chất của ngƣời tiến hành tố tụng dân sự
chính là ngƣời nhân danh Nhà nƣớc, thực hiện quyền lực Nhà nƣớc khi giải
quyết vụ việc dân sự hoặc kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong quá trình
giải quyết vụ việc dân sự.
Pháp luật quy định những nhiệm vụ, quyền hạn của ngƣời tiến hành tố
tụng dân sự trong quá trình thực hiện các hoạt động giải quyết vụ việc dân sự.

Đồng thời đó cũng chính là giới hạn mà pháp luật quy định cho ngƣời tiến
hành tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự. Việc thực hiện
nhiệm vụ, quyền hạn của ngƣời tiến hành tố tụng dân sự đều phải tuân theo
các quy định của pháp luật và họ phải chịu trách nhiệm trƣớc pháp luật với

10


các hoạt động của mình.
1.1.2.2. Đặc điểm người tiến hành tố tụng dân sự
Thứ nhất, ngƣời tiến hành tố tụng dân sự thực hiện nhiệm vụ, quyền
hạn của họ trong quá trình giải quyết các vụ việc dân sự: Điều này bởi lẽ,
pháp luật chỉ trao quyền hạn cho những ngƣời tiến hành tố tụng dân sự các
quyền hạn liên quan đến quá trình giải quyết vụ việc dân sự. Vì thế, ngƣời
tiến hành tố tụng dân sự chỉ đƣợc thực hiện quyền hạn của họ và quyền hạn
của họ chỉ liên quan đến quá trình giải quyết vụ việc dân sự.
Thứ hai, ngƣời tiến hành tố tụng dân sự tiến hành các hoạt động nhằm
mục đích giải quyết các vụ việc dân sự: Những hoạt động của ngƣời tiến hành
tố tụng dân sự chỉ hƣớng đến mục đích giải quyết các vụ việc dân sự. Trong
quá trình giải quyết vụ việc dân sự, mỗi chủ thể tiến hành tố tụng sẽ thực hiện
những nhiệm vụ, quyền hạn cũng nhƣ công việc riêng của họ nhƣng điểm
chung đều hƣớng đến việc làm sáng tỏ các tình tiết, sự kiện đang tranh chấp
giữa các bên đƣơng sự. Nhƣ vậy, mọi hoạt động của ngƣời tiến hành tố tụng
dân sự dù cho diễn ra tại các thời điểm khác nhau hay họ có thể là ngƣời của
các cơ quan tiến hành tố tụng khác nhau nhƣng đều hƣớng đến một mục đích
chung là giải quyết vụ việc dân sự.
Thứ ba, ngƣời tiến hành tố tụng dân sự thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn
của mình một cách chủ động: Tòa án, Viện kiểm sát nhân dân là các cơ quan
tiến hành tố tụng dân sự có tƣ cách pháp nhân, thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn
của mình thông qua những cá nhân đƣợc Nhà nƣớc trao quyền trong việc giải

quyết vụ việc dân sự và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự.
Hoạt động của những cá nhân này gắn liền với việc thực hiện quyền lực Nhà
nƣớc nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các đƣơng sự [3, tr.72].
Thứ tư, ngƣời tiến hành tố tụng dân sự là những ngƣời đƣợc bầu cử

11


hoặc bổ nhiệm theo quy định pháp luật: Chế độ bầu cử, bổ nhiệm của ngƣời
tiến hành tố tụng dân sự đƣợc quy định rất cụ thể trong Luật tổ chức TAND
năm 2014 và Luật tổ chức VKSND năm 2014. Trƣớc hết ngƣời tiến hành tố
tụng dân sự phải là công dân Việt Nam, trung thành với Tổ quốc và Hiến
pháp nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đồng thời có phẩm chất đạo
đức tốt, có bản lĩnh chính trị vững vàng, tiếp đó là các điều kiện về trình độ
học vấn, trình độ chuyên môn, thời gian công tác trong công tác pháp luật,
điều kiện sức khỏe… Hiện nay, quy định của Luật tổ chức TAND năm 2014,
chế độ bầu cử đƣợc áp dụng đối với Hội thẩm nhân dân (khoản 2, Điều 7);
chế độ bổ nhiệm áp dụng đối với Chánh án Tòa án nhân dân, Thẩm phán,
Thẩm tra viên, Thƣ ký Tòa án (khoản 1 Điều 7; khoản 1 Điều 35, khoản 1
Điều 42, khoản 1 Điều 47, khoản 1 Điều 92, khoản 1 Điều 93). Tuy nhiên, đối
với Chánh án Tòa án nhân dân tối cao không do bổ nhiệm mà do Quốc hội
bầu. Theo quy định tại khoản 1 Điều 65, khoản 1 Điều 66, khoản 1 Điều 67
Luật tổ chức VKSND năm 2014 thì Viện trƣởng VKSND là ngƣời đƣợc bổ
nhiệm (Viện trƣởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao do Quốc hội bầu- khoản 1
Điều 62); Kiểm sát viên, Kiểm tra viên là những ngƣời đƣợc bổ nhiệm theo
quy định pháp luật (Điều 74, khoản 1 Điều 90). Việc bầu, cử hoặc bổ nhiệm
ngƣời tiến hành tố tụng phải tuân theo các quy định của pháp luật nhằm phù
hợp với nhu cầu của từng cơ quan và của ngành tƣ pháp đặt ra.
Một điểm mới đáng chú ý của BLTTDS năm 2015 đó là quy định bổ
sung chức danh Thẩm tra viên và Kiểm tra viên là ngƣời tiến hành tố tụng.

Bởi xuất phát từ “thực tiễn công tác giải quyết vụ việc dân sự cho thấy, bên
cạnh Chánh án Tòa án, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thƣ ký Tòa án, Viện
trƣởng Viện kiểm sát, Kiểm sát viên thì Thẩm tra viên và Kiểm tra viên cũng
là những ngƣời tham gia trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự, đặc biệt có
vai trò quan trọng trong công tác giám đốc thẩm” [41, tr.80]. Còn trên thực tế

12


trong giai đoạn giải quyết vụ việc dân sự theo trình tự giám đốc thẩm, tái
thẩm cho thấy, Thẩm tra viên là ngƣời tiến hành tố tụng đóng vai trò quan
trọng, họ chính là ngƣời trực tiếp xem xét, giải quyết vụ việc dân sự, xác
minh các vấn đề nếu cần làm rõ, sau đó đề xuất ý kiến lên Chánh án Tòa án
nhân dân tối cao.
Thứ năm, ngƣời tiến hành tố tụng dân sự chịu trách nhiệm trƣớc pháp
luật trong việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình: Có thể khẳng định,
hoạt động của ngƣời tiến hành tố tụng dân sự có vai trò và ý nghĩa quyết định
đối với quá trình giải quyết vụ việc dân sự. Ngƣời tiến hành tố tụng dân sự
đƣợc pháp luật trao cho những quyền hạn nhất định và họ đƣợc nhân danh cơ
quan tiến hành tố tụng để thực thi pháp luật. Một trong những nguyên tắc hiến
định là ngƣời tiến hành tố tụng dân sự phải tôn trọng nhân dân và chịu sự
giám sát của nhân dân. Để việc giải quyết vụ việc dân sự đƣợc đúng pháp
luật, tránh việc lạm quyền thì pháp luật quy định ngƣời tiến hành tố tụng dân
sự phải chịu trách nhiệm trƣớc pháp luật. “Nếu có hành vi trái pháp luật thì
tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách
nhiệm hình sự theo quy định pháp luật. Ngƣời tiến hành tố tụng nếu có hành
vi trái pháp luật gây thiệt hại thì cơ quan trực tiếp quản lý ngƣời thi hành công
vụ đó phải bồi thƣờng cho ngƣời bị thiệt hại theo quy định của pháp luật về
trách nhiệm bồi thƣờng của Nhà nƣớc”. [2, tr.27]
Thứ sáu, ngƣời tiến hành tố tụng dân sự là cán bộ, công chức nhà nƣớc

(chỉ trừ Hội thẩm nhân dân): Với nhiệm vụ, quyền hạn giải quyết vụ việc dân
sự và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ việc dân
sự, đòi hỏi ngƣời tiến hành tố tụng dân sự phải công tác trong các cơ quan tƣ
pháp là TAND và VKSND. Nhƣ vậy, ngƣời tiến hành tố tụng dân sự là đại
diện của cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn đƣợc pháp
luật quy định và giữ ngạch công chức Nhà nƣớc trong các cơ quan tƣ pháp.

13


Tuy nhiên, Hội thẩm nhân dân là chức danh tƣ pháp không yêu cầu bắt
buộc phải là công chức nhà nƣớc và công tác trong các cơ quan nhƣ TAND
hoặc VKSND. Bởi lẽ, việc tham gia của Hội thẩm nhân dân trong tố tụng dân
sự chủ yếu để thể hiện sự tham gia của nhân dân trong các hoạt động giải
quyết vụ việc dân sự. Thông thƣờng, những ngƣời đƣợc bầu làm Hội thẩm
nhân dân thƣờng công tác trong các cơ quan hành chính, sự nghiệp Nhà nƣớc
và có uy tín trong xã hội.
1.1.3. Vị trí, vai trò của người tiến hành tố tụng dân sự
1.1.3.1. Vị trí của người tiến hành tố tụng dân sự
Hiến pháp năm 2013 quy định: “Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của
nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tƣ pháp” (khoản 1,
Điều 102). Nhƣ vậy, quy định này đã khẳng định rõ ràng trong hệ thống các
cơ quan nhà nƣớc tại Việt Nam hiện nay thì chỉ duy nhất Tòa án mới có chức
năng xét xử. Ngoài ra, căn cứ khoản 1, Điều 107 của Hiến pháp năm 2013,
“Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tƣ
pháp”. Điều này cũng khẳng định rõ chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của
VKSND trong hoạt động xét xử nói chung cũng nhƣ tố tụng dân sự nói riêng.
Tuy nhiên, bản thân Tòa án hay Viện kiểm sát đều không thể trực tiếp
thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn đƣợc pháp luật giao phó mà cụ thể để có
thể thực hiện đƣợc các nhiệm vụ, quyền hạn xét xử giải quyết vụ việc dân sự

và kiểm sát việc tuân theo pháp luật thì chỉ đƣợc thực hiện thông qua hoạt
động của những ngƣời tiến hành tố tụng dân sự. Theo đó, khi tham gia vào
quá trình giải quyết vụ việc dân sự và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong
tố tụng dân sự thì bản thân mỗi ngƣời tiến hành tố tụng dân sự lại giữ vai trò
khác nhau và thực hiện các công việc khác nhau tùy thuộc vào vị trí của họ
phụ trách.
Ngƣời tiến hành tố tụng dân sự trong cơ quan Tòa án là những ngƣời

14


luôn giữ vai trò là ngƣời làm sáng tỏ bản chất vụ việc dân sự để giải quyết
theo đúng quy định của pháp luật. Còn ngƣời tiến hành tố tụng dân sự trong
Viện kiểm sát lại là những ngƣời thực hiện việc giám sát việc tuân theo pháp
luật của những ngƣời tiến hành tố tụng dân sự khác và còn của cả những
ngƣời tham gia tố tụng nhƣ đƣơng sự, ngƣời đại diện của đƣơng sự, ngƣời
làm chứng... Tuy nhiên, dù cho mỗi ngƣời tiến hành tố tụng dân sự luôn giữ
một vị trí, vai trò khác nhau nhƣng lại có mối liên hệ với nhau để cùng chung
nhiệm vụ là giải quyết sáng tỏ vụ việc dân sự. Trong đó, “Thẩm phán là ngƣời
tiến hành tố tụng không thể thiếu và đóng vai trò chủ yếu trong tố tụng dân
sự” [15, tr.109]. Điều này thể hiện rõ vai trò và tầm quan trọng của Thẩm
phán trong quá trình giải quyết các vụ việc dân sự. Hay nói cách khác, chất
lƣợng và kết quả giải quyết các vụ việc dân sự dựa rất nhiều vào khả năng của
ngƣời Thẩm phán.
1.1.3.2. Vai trò của người tiến hành tố tụng dân sự
Về nguyên tắc, “mọi hoạt động của ngƣời tiến hành tố tụng đều có tác
động trực tiếp hoặc gián tiếp đến quá trình giải quyết một vụ việc dân sự, có vai
trò quyết định đối với hoạt động của cơ quan tiến hành tố tụng” [1, tr.12]. Vì
vậy, vai trò của những ngƣời tiến hành tố tụng dân sự đƣợc thể hiện nhƣ sau:
Thứ nhất, có thể khẳng định, hoạt động của ngƣời tiến hành tố tụng dân

sự có vai trò bảo vệ pháp luật và bảo vệ công lý. Trong nhà nƣớc pháp quyền,
vấn đề bảo vệ pháp luật luôn đƣợc xác định đó chính là việc bảo vệ những giá
trị công bằng, dân chủ, bình đẳng hay bảo vệ lẽ phải. Nghị quyết số 49/NQTW ngày 02 tháng 6 năm 2005 của Bộ chính trị về chiến lƣợc cải cách tƣ
pháp đến năm 2020 đã khẳng định Tòa án có vị trí trung tâm trong việc tổ
chức và thực hiện quyền tƣ pháp với chức năng tổ chức và tiến hành hoạt
động xét xử [6, tr.2]. Việc khẳng định vị trí của Tòa án, Viện kiểm sát đã góp
phần khẳng định mục tiêu cơ bản trong chiến lƣợc phát triển kinh tế- xã hội

15


của Đảng, Nhà nƣớc ta là xây dựng nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa và
Nhà nƣớc quản lý xã hội bằng pháp luật.
Tòa án và Viện kiểm sát đƣợc xác định là những cơ quan duy nhất có
chức năng xét xử và kiểm sát việc tuân theo pháp luật. Thông qua hoạt động
của ngƣời tiến hành tố tụng dân sự đã góp phần thực thi pháp luật và điều
chỉnh các quan hệ tranh chấp phát sinh bằng pháp luật. Đồng thời, thông qua
hoạt động xét xử, Tòa án đã giải quyết các tranh chấp dân sự trong xã hội và
đó là nơi nhân dân tìm đến nhằm để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của họ khi
bị xâm phạm. Hiện nay, xã hội ngày càng phát triển và đi liền với đó là các
quan hệ dân sự cũng ngày càng đa dạng, phong phú, phức tạp hơn. Nhƣ vậy,
vai trò của ngƣời tiến hành tố tụng dân sự trong quá trình xác định sự thật
khách quan, bảo vệ lẽ công bằng bằng hoạt động xét xử hay bằng hoạt động
kiểm sát việc tuân theo pháp luật lại càng có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Bởi
đó cho thấy pháp luật và công lý tại Việt Nam đang đƣợc thực thi nghiêm túc
và công bằng.
Thứ hai, thông qua hoạt động của ngƣời tiến hành tố tụng dân sự đã
góp phần bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa. Bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa
thông qua pháp luật trong đó hoạt động mang tính trọng tâm chính là hoạt
động tổ chức thực hiện pháp luật và bảo đảm cho pháp luật đƣợc thực thi

thống nhất, hiệu quả. “Những hành vi xâm hại các chuẩn mực pháp luật trong
xã hội pháp quyền bị coi là những hành vi xâm hại công lý, công bằng, bình
đẳng xã hội, dân chủ xã hội chủ nghĩa. Vì thế, trong nhà nƣớc pháp quyền,
bảo vệ pháp luật không còn đơn thuần là phục vụ nhu cầu quản lý xã hội của
nhà nƣớc mà trở thành hoạt động quan trọng nhất, cao nhất và có tính cuối
cùng để Nhà nƣớc và nhân dân bảo vệ các giá trị cao đẹp của nhà nƣớc pháp
quyền, bảo vệ công bằng, bình đẳng xã hội” [16]. Nhƣ vậy, hoạt động xét xử,
kiểm sát việc tuân theo pháp luật của ngƣời tiến hành tố tụng dân sự không

16


chỉ có ý nghĩa bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đƣơng sự bị xâm hại mà
còn có ý nghĩa rất lớn trong việc bảo vệ xã hội bằng pháp luật và đồng thời
còn góp phần nâng cao uy tín của Nhà nƣớc, củng cố, tăng cƣờng pháp chế xã
hội chủ nghĩa.
Thứ ba, hoạt động của ngƣời tiến hành tố tụng dân sự góp phần bảo vệ
quyền công dân và quyền con ngƣời. Tại Điều 3 của Hiến pháp năm 2013 đã
khẳng định rõ ràng: “Nhà nƣớc bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của Nhân
dân; công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con ngƣời, quyền công
dân”. Có thể khẳng định, bảo vệ quyền con ngƣời là một nhiệm vụ tất yếu của
nền tƣ pháp nói riêng và của Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa nói
chung. Thông qua các hoạt động của mình, những ngƣời tiến hành tố tụng dân
sự có vai trò rất quan trọng trong việc bảo vệ quyền con ngƣời. Khi giải quyết
các vụ việc dân sự yêu cầu đặt ra là ngƣời tiến hành tố tụng dân sự phải thực
hiện đúng quy định của pháp luật và phải khách quan ở tất cả các giai đoạn để
nhằm mục đích tìm ra sự thật khách quan để qua đó bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp của đƣơng sự hay đó chính là đã góp phần bảo vệ quyền con ngƣời. Bên
cạnh đó, việc kiểm sát việc tuân theo pháp luật của những ngƣời tiến hành tố
tụng trong VKSND cũng chính là bảo đảm pháp luật đƣợc thực thi đúng đắn,

góp phần bảo vệ quyền con ngƣời.
Thứ tư, hoạt động của ngƣời tiến hành tố tụng dân sự góp phần thực
hiện các cam kết quốc tế và giải quyết các tranh chấp có yếu tố nƣớc ngoài.
Khi xã hội ngày càng phát triển, hợp tác quốc tế sâu rộng và các quan hệ xã
hội mở rộng thì yếu tố nƣớc ngoài trong các quan hệ dân sự ngày càng nhiều
hơn. Đƣợc xác định là một trong những cơ quan thực hiện pháp luật nên Tòa
án có vai trò rất quan trọng trong việc thực hiện các cam kết quốc tế mà Việt
Nam tham gia. Vì thế, cũng đã có nhận định cho rằng, hiện nay, “Tòa án ngày
càng đóng vai trò quan trọng trong việc thực hiện chính sách đối ngoại của

17


một quốc gia. Tòa án vừa là cơ quan trực tiếp áp dụng các cam kết quốc tế mà
quốc gia là thành viên vừa là cơ quan có trách nhiệm giám sát và trực tiếp
phân xử một hành vi pháp lý có vi phạm các cam kết mà quốc gia đã ký kết
hoặc tham gia” [16].
Thứ năm, hoạt động của ngƣời tiến hành tố tụng dân sự đã góp phần
hạn chế những sai sót, tiêu cực trong xã hội và góp phần nâng cao tinh thần, ý
thức trách nhiệm cho những ngƣời tiến hành tố tụng dân sự. Tính chính xác,
khách quan của bản án, quyết định của Tòa án phụ thuộc rất lớn vào hoạt
động của ngƣời tiến hành tố tụng dân sự. Do vậy, điều này đòi hỏi sự trách
nhiệm, công tâm, khách quan, liêm chính của ngƣời tiến hành tố tụng dân sự.
Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy, quá trình giải quyết vụ việc dân sự luôn tiềm ẩn
những yếu tố có thể ảnh hƣởng đến sự vô tƣ, khách quan của ngƣời tiến hành
tố tụng dân sự và có thể gây ảnh hƣởng đến quá trình giải quyết vụ việc dân
sự hoặc thậm chí làm sai lệch tính khách quan của bản án, quyết định. Vì vậy,
cần thiết phải có sự tham gia của những ngƣời tiến hành tố tụng dân sự đến từ
các cơ quan khác với Tòa án nhƣ là Viện kiểm sát hay thậm chí Hội thẩm
nhân dân. Viện kiểm sát với chức năng kiểm tra và giám sát hoạt động của

ngƣời tiến hành tố tụng dân sự của Tòa án đã góp phần làm cho hoạt động xét
xử vụ việc dân sự đƣợc khách quan, công bằng và đúng pháp luật. Còn sự
tham gia của Hội thẩm nhân dân cũng góp phần mở rộng tính dân chủ, minh
bạch trong hoạt động xét xử các vụ việc dân sự hơn.
Thứ sáu, hoạt động của ngƣời tiến hành tố tụng dân sự còn góp phần
hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung cũng nhƣ pháp luật tố tụng dân sự
nói riêng. Về cơ bản, văn bản quy phạm pháp luật đƣợc ban hành nhằm mục
đích điều chỉnh các quan hệ xã hội. Muốn kiểm tra việc ban hành văn bản
pháp luật có đáp ứng đƣợc các điều kiện đó hay không thì “một trong các
kênh kiểm chứng hữu hiệu là thông qua hoạt động xét xử của Tòa án” [41,

18


×