Tải bản đầy đủ (.doc) (54 trang)

Vận dụng tư tưởng hồ chí minh về tự học vào nâng cao hiệu quả tự học các môn lý luận chính trị của sinh viên trường đại học sư phạm hà nội 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (581.64 KB, 54 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ
======

NGUYỄN THỊ THƠM

VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ TỰ HỌC
VÀO NÂNG CAO HIỆU QUẢ TỰ HỌC CÁC MÔN LÝ
LUẬN CHÍNH TRỊ CỦA SINH VIÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Tư tưởng Hồ Chí Minh

Hà Nội, 2019


TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ
======

NGUYỄN THỊ THƠM

VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ TỰ HỌC
VÀO NÂNG CAO HIỆU QUẢ TỰ HỌC CÁC MÔN LÝ
LUẬN CHÍNH TRỊ CỦA SINH VIÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Tư tưởng Hồ Chí Minh
Người hướng dẫn khoa học



ThS. Vi Thị Lại

Hà Nội, 2019


LỜI CẢM ƠN

Để “hoàn thành đề tài khóa luận và kết thúc khóa học, với tình cảm chân
thành, em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới trường Đại học Sư phạm Hà Nội
2 đã tạo điều kiện cho em có môi trường học tập tốt trong suốt thời gian em
học tập, nghiên cứu tại trường.
Em xin gửi lời tới cô ThS. Vi Thị Lại đã giúp đỡ em trong suốt quá
trình nghiên cứu và trực tiếp hướng dẫn em hoàn thành đề tài khóa luận tốt
nghiệp này. Đồng thời em xin bày tỏ lòng cảm ơn tới thầy cô trong khoa Giáo
dục chính trị, bạn bè đã giúp đỡ, tạo điều kiện cho em trong suốt quá trình học
tập và hoàn thành khóa luận tốt nghiệp lần này.
Với điều kiện thời gian và kiến thức của bản thân nên khóa luận khó
tránh khỏi những thiếu sót trong quá trìnhem nghiên cứu.
Em kính mong nhận được sự đóng góp từ thầy cô và các bạn.
Em xin trân trọng cảm ơn”!

Hà Nội, ngày 5 tháng 5 năm 2019
Sinh viên

Nguyễn Thị Thơm


LỜI CAM ĐOAN


Khóa luận tốt nghiệp “chuyên ngành tư tưởng Hồ Chí Minh với đề tài
“Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về tự học vào nâng cao hiệu quả tự học
các môn lý luận chính trị của sinh viên trường Đại học sư phạm Hà Nội
2” được thực hiện dưới sự hướng dẫn của ThS. Vi Thị Lại. Tôi xin cam đoan
đây là công trình nghiên cứu của riêng cá nhân tôi. Các số liệu, kết quả
nêu trong khóa luận là trung thực và chưa được công bố trong các công trình
khác”.
Nếu sai, tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm!

Hà Nội, ngày 5 tháng 5 năm 2019
Sinh viên

Nguyễn Thị Thơm


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU........................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài........................................................................................... 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ............................................................................ 2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu................................................................ 3
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu................................................................. 3
5. Phương pháp nghiên cứu............................................................................... 4
6. Kết cấu của đề tài .......................................................................................... 4
CHƯƠNG 1: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ TỰ HỌC ............................... 5
1.1. Một số khái niệm cơ bản ............................................................................ 5
1.1.1. Khái niệm tự học ..................................................................................... 5
1.1.2.Hiệu quả của việc tự học .......................................................................... 8
1.1.3.Các môn lý luận chính trị ......................................................................... 9
1.2. Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về tự học.............................................. 12
1.2.1. Quan điểm của Hồ Chí Minh về vị trí và vai trò của tự học................. 12

1.2.2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về mục đích của tự học.......................... 14
1.2.3. Quan điểm của Hồ Chí Minh về môi trường, đối tượng tự học............ 16
1.2.4. Quan điểm của Hồ Chí Minh về thái độ tự học .................................... 19
1.2.5. Quan điểm của Hồ Chí Minh về nội dung tự học ................................. 21
1.2.6. Quan điểm của Hồ Chí Minh về biện pháp tự học ............................... 22
CHƯƠNG 2: NÂNG CAO HIỆU QUẢ “TỰ HỌC CÁC MÔN LÝ LUẬN
CHÍNH TRỊ CỦA SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
HIỆN NAY THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH”........................................ 29
2.1.1. Đặc điểm của sinh viên trường Đại học sư phạm Hà Nội 2 ................. 29
2.1.2. Yêu cầu của việc tự “học các môn lý luận chính trị của sinh viên” trong
xu thế hội nhập ................................................................................................ 30


2.2.Thực trạng tự học các môn Lý luận chính trị của sinh viên trường Đại học
sư phạm Hà Nội 2............................................................................................ 31
2.2.1. Những “thành tựu đạt được trong việc tự học các môn Lý luận chính trị
của sinh viên trường Đại học” sư phạm Hà Nội 2 .......................................... 31
2.2.2. Những hạn chế đạt được trong việc tự học các môn Lý luận chính trị
của sinh viên trường Đại học sư phạm Hà Nội 2 ............................................ 33
2.3. Nguyên nhân của thực trạng về tự “học các môn Lý luận chính trị của
sinh viên trường Đại học” sư phạm Hà Nội 2................................................. 34
2.3.1. Nguyên “nhân của thành tựu tự học các môn lý luận chính trị của sinh
viên trường Đại học sư” phạm Hà Nội 2 ........................................................ 34
2.3.2. Nguyên “nhân hạn chế về tự học các môn lý luận chính trị của sinh viên
trường Đại học sư” phạm Hà Nội 2 ................................................................ 35
2.4. Một “số giải pháp nhằm nâng cao hiệu tự học các môn Lý luận chính trị
của sinh viên trường Đại học sư phạm Hà Nội 2 hiện nay theo tư tưởng Hồ
Chí Minh”........................................................................................................ 36
2.4.1. Xác định đúng đắn mục đích học tập các môn lý luận chính trị........... 36
2.4.2. Cần “có thái độ học tập với các môn lý luận chính trị đúng đắn, nghiêm

túc” .................................................................................................................. 38
2.4.3. Lập và “thực hiện kế hoạch tự học tập các môn lý luận chính trị cho
bản thân mình” ................................................................................................ 38
2.4.4. Phát “huy các phương pháp tự học các môn lý luận chính trị có hiệu
quả” ................................................................................................................. 39
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 42
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................ 44
PHỤ LỤC


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài

1


Chủ “tịch Hồ Chí Minh là một nhà văn hoá lớn. Với quan niệm “Một
dân tộc dốt là một dân tộc yếu”, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng sự dốt nát
cũng là kẻ địch phải chống. Người chủ trương phải phát triển nền giáo dục thì
mới xây dựng được chủ nghĩa xã hội, mới tiến kịp được sự phát triển chung
của nhân loại. Xác định rõ học tập để làm việc, làm người, để phụng sự Tổ
quốc, phục vụ nhân dân và nhân loại. Là nhà giáo dục vĩ đại, với tinh thần “Vì
lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người”.
Với mục tiêu của chiến lược “trồng người” là “dạy dỗ con em của nhân dân
thành người công dân tốt, người lao động tốt, người chiến sĩ tốt, người cán bộ
tốt của nước nhà”. “Theo Người, phải xây dựng một nền giáo dục toàn diện
để đào tạo những con người vừa có đức vừa có tài. Nền giáo dục đó phải kết
hợp chặt chẽ giữa học và hành, lý luận gắn liền với thực tiễn, gắn liền giáo
dục của nhà trường với gia đình và xã hội, học suốt đời. Kết hợp tự học với
học trong nhà trường, học trong sách vở và học trong cuộc sống”. Với quan

điểm về tự học “tự động học tập”. Người đã chỉ rõ việc học tập là do chính
bản thân người học quyết định, phải tự giác, tự chủ không cần ai nhắc nhở.
Người học tự vạch ra kế hoạch học tập cho chính mình chủ động tìm tòi tích
lũy kiến thức cho bản thân mình. Đây là một tư tưởng giáo dục quý báu của
Hồ Chí Minh. Tư tưởng đó đến nay vẫn còn nguyên giá trị, cần được nghiên
cứu và học tập”.
Ngày “nay cùng với nhiều môn học khác, môn học về lý luận chính trị
được đánh giá là môn học vô cùng quan trọng nhằm hình thành thế giới quan,
phương pháp luận, củng cố niềm tin và bản lĩnh chính trị cho người
học.Những môn học lý luận chính trị bao gồm: Những nguyên lý cơ bản của
Chủ nghĩa Mác – Lênin,Tư tưởng Hồ Chí Minh, Đường lối cách mạng của
Đảng Cộng sản Việt” Nam
Tại trường Đại học sư phạm Hà Nội 2,với trình độ nhạy bén, tư duy sáng
tạo, sinh viên không ngừng tiếp thu kiến thức các môn lý luận chính trị một
cách tương đối tốt. Không chỉ có vậy, nhiều sinh viên còn tự học tự tích lũy

2


cho mình những kiến thức chính trị nhằm phục vụ cho việc học tập rèn luyện
của mình. Tuy nhiên so với các môn học khác, lý luận chính trị là môn học
khái quát cao, là môn học mang tính lý thuyết đòi hỏi tư duy, tính biện luận
với rất nhiều các thuật ngữ. Vì vậy các môn học này đòi hỏi người học ngoài
việc nghiên cứu học tập trên lớp dưới sự hướng dẫn của giảng viên cần có sự
tích cực tự học tập
Vì vậy việc “nghiên cứu vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về tự học vào
nâng cao hiệu quả tự học các môn lý luận chính trị của sinh viên trường Đại
học” sư phạm Hà Nội 2 là một việc rất cần thiết. Đó là lí do để tôi chọn đề tài:
“Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về tự học vào nâng cao hiệu quả tự học các
môn lý luận chính trị của sinh viên trường Đại học sư phạm Hà Nội 2”

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Từ “trước đến nay đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về tư tưởng tự
học của Hồ Chí Minh và vận dụng tư tưởng của Người vào vấn đề học tập và
giáo dục” tiêu biểu có:
- Ngô “Thị Lan Hương (2014), “Một số giải pháp nhằm nâng cao ý thức tự
học của sinh viên trường Đại học sư phạm Hà Nội 2 theo tấm gương tự học
của Chủ tịch Hồ Chí Minh”, Đề tài khoa học cấp cơ sở, Trường Đại học sư
phạm Hà Nội” 2.
- Lê “Thị Thanh Hoa (2008), Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục
vào việc đổi mới giáo dục Cao đẳng ở Nghệ An giai đoạn hiện nay, Luận văn
Thạc sĩ chuyên ngành: Hồ Chí Minh học, Học viện chính trị - Hành chính
Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội”
- Nguyễn “Thị Linh ( 2016), Hồ Chí Minh với vấn đề tự học và vận dụng
cho sinh viên các trường đại học, cao đẳng hiện nay, Luận văn Thạc sĩ chuyên
ngành: Hồ Chí Minh học, Học viện chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí
Minh, Hà Nội”.
- Tác giả Dương Thị Linh (2010), “Một số vấn đề về hoạt động tự học của
sinh viên trong giai đoạn hiện nay”, tạp chí Giáo dục, số Đặc biệt, tháng 1.

3


- Lê Văn Yên (2006), “ Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục”. Nxb Lao
động, Hà Nội
- Phan Ngọc Liên ( 2007), Hồ Chí Minh về giáo dục, Nxb Từ điển Bách
khoa
- Lê Văn Tích, Nguyễn Thị Kim Dung ( biên soạn) ( 2007), Hồ Chí Minh
về giáo dục đào tạo, Nxb Lao động – Xã hội
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu:

Làm “rõ quan điểm tư tưởng Hồ Chí Minh về tựhọc, vận dụng tư tưởng đó
vào nâng cao hiệu quả tự học các môn Lý luận chính trị của sinh viên trường
Đại học” sư phạm Hà Nội 2.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu:
Để “hoàn thành mục đích nghiên cứu đã được xác định ở trên, khóa
luận thực hiện những nhiệm vụ” sau:
Thứ nhất, “làm rõ tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề tự học”
Thứ hai, phân tích thực trạng “trong việc tự học các môn học lý luận chính trị
của sinh viên trường Đại học sư phạm Hà Nội” 2
Thứ ba, “đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả tự học tập các
môn lý luận chính trị cho sinh viên trường Đại học sư phạm Hà Nội 2 hiện
nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh”
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Tư “tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề tự học, thực trạng tự học các môn lý
luận chính trị của sinh viên trường Đại học” sư phạm Hà Nội 2
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Về “nội dung: Tư tưởng Hồ Chí Minh về tự học”
Về không gian: Thực trạng tự học các môn lý luận chính trị của sinh viên
trường Đại học sư phạm Hà Nội 2

4


Về thời gian: năm 2016 - 2018
5. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở vận dụng phương pháp luận của chủ “nghĩa
duy vật biện chứng kết hợp với các phương pháp cụ thể: logic lịch sử, phân
tích – tổng hợp,nghiên cứu tài liệu, điều tra thực tiễn, phương pháp phỏng
vấn, đối chiếu để làm rõ nội dung của đề” tài

6. Kết cấu của đề tài
Ngoài “phần mở đầu, kết luận, danh mục, tài liệu tham khảo. Khóa luận bao
gồm 2 chương 6 tiết”

5


CHƯƠNG 1
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ TỰ HỌC
1.1. Một số khái niệm cơ bản
1.1.1. Khái niệm tự học
Tự học là phương pháp học tập chủ động, lấy bản thân làm trung tâm.
Người học tự phát hiện và nghiên cứu vấn đề theo kế hoạch của bản thân. Tự
học sẽ giúp người học làm chủ được tiến trình, làm chủ tri thức, làm chủ bản
thân.
Theo “Từ điển Giáo dục học”: “Tự học là một bộ phận không thể tách
rời của quá trình giáo dục, là quá trình mà người học tự mình hoạt động lĩnh
hội tri thức khoa học và rèn luyện kỹ năng thực hành mà không có sự hướng
dẫn trực tiếp của giáo viên và sự quản lý trực tiếp của cơ sở giáo dục, đào tạo.
Đây là phương thức học tập cơ bản của giáo dục không chính quy, giáo dục
thường xuyên, đồng thời còn là bộ phận không thể tách rời của quá trình học
tập có hệ thống trong các trường học nhằm đào sâu, mở rộng để nắm vững
kiến thức của học sinh” [14, tr458].
Nhà tâm lý học N.ARubakin khẳng định: “Tự tìm lấy kiến thức – có
nghĩa là tự học” [15, tr 55] . Tự “học tức là quá trình lĩnh hội tri thức, các kinh
nghiệm xã hội, lịch sử trong thực tiễn hoạt động cá nhân bằng cách thiết lập
các mối quan hệ cải tiến kinh nghiệm ban đầu, đối chiếu với các mô hình
phản ánh hoàn cảnh thực tại. Biến tri thức của loài người thành vốn tri thức,
kinh nghiệm, kỹ năng , kỹ xảo” của chủ thể.
Tác giả Nguyễn Kỳ: “Tự học là người học tích cực chủ động, tự mình tìm ra

tri thức kinh nghiệm bằng hành động của mình, tự thể hiện mình. Tự học là tự
đặt mình vào tình huống học, vào vị trí nghiên cứu, xử lí các tình huống, giải
quyết các vấn đề, thử nghiệm các giải pháp…Tự học thuộc quá trình cá nhân
hóa việc học”. [16, tr 69]
Trần Phương cho rằng: “ Học bao giờ và lúc nào cũng chủ yếu là tự học,
tức là biến kiến thức khoa học tích lũy từ nhiều thế hệ của nhân loại thành

6


kiến thức của mình, tự cải tạo tư duy của mình và rèn luyện cho mình kĩ năng
thực hành những tri thức ấy”. [ 17, tr 22]
Bên cạnh đó tác giả Cao Xuân Hạo khẳng định: “…dù có học trường
gì, thầy nào nổi tiếng đến đâu chăng nữa, thì nhân tố quan trọng nhất, quyết
định kết quả mỹ mãn của quá trình đào tạo vẫn là cái công tự học của học trò.
Tự học ở đây chỉ cái phần tích cực chủ động, quyết đoán của người học. Vai
trò quyết định sự thành công hay thất bại của quá trình học tập là vai trò của
người học, tuy vai trò của người dạy không phải không quan trọng” [ 18, tr
51]
Về cách tự học, tác giả Quang Huy: “Có nhiều cách tự học như: tự mình
mò mẫm (người học không có điều kiện đi học, các tri thức họ tìm được là do
sự tìm tòi trải nghiệm của chính bản thân họ trong cuộc sống), tự học không
cần thầy hướng dẫn (người học đã có một trình độ học vấn nhất định, đã có
một thời gian dài học với thầy), tự học với sự hướng dẫn của thầy (hoạt động
tự học này gắn với quá trình dạy học). Đối với sinh viên, hoạt động tự học
gắn liền với sự hướng dẫn của thầy. Hoạt động này sẽ diễn ra ở hai phạm vi:
tự học trên lớp và tự học ngoài giờ trên lớp.” [ 19, tr 33]
Theo Giáo sư – Tiến sỹ Nguyễn Cảnh Toàn: “Tự học – là tự mình động
não, suy nghĩ, sử dụng các năng lực trí tuệ (quan sát, so sánh, phân tích, tổng
hợp...) và có khi cả cơ bắp (khi phải sử dụng công cụ) cùng các phẩm chất của

mình, rồi cả động cơ, tình cảm, cả nhân sinh quan, thế giới quan (như tính
trung thực, khách quan, có chí tiến thủ,không ngại khó, ngại khổ, kiên trì,
nhẫn nại, lòng say mê khoa học, ý muốn thi đỗ, biến khó khăn thành thuận
lợi..vv...) để chiếm lĩnh một lĩnh vực hiểu biết nào đó của nhân loại, biến lĩnh
vực đó thành sở hữu của mình”[20, tr 35].
Tác giả Ngô Nhật Quang trong bài viết “Tư tưởng tự giáo dục liên tục ở
Bác Hồ” [21, tr.143] đã nêu lên những kết luận rút ra từ tấm gương tự đào tạo
của Hồ Chí Minh:
+ Ý chí tự đào tạo mãnh liệt, bền bỉ, bắt nguồn từ lý tưởng cách mạng
và từ trong thực tiễn đấu tranh.
+ Cốt lõi của việc tự đào tạo là tự học, mà công cụ quan trọng nhất là
sách.
7


Từ đó, tác giả cho rằng đứng trước nhiệm vụ mới của công cuộc xây
dựng đất nước thì sự suy nghĩ, gương tự học, tự giáo dục và những lời dạy
của Bác về tự học, tự giáo dục cần được mỗi người lĩnh hội đầy đủ trong sự
nghiệp chống nạn thất học, nâng cao dân trí.
Từ “các cách hiểu trên ta thấy việc học có cốt lõi là tự học, tự học là
công việc chính của người học vì không thể ai học thế cho mình được. Tự học
là để tự mình khẳng định chính mình, vượt qua mọi hoàn cảnh, hoà nhập
với cuộc sống và sống tốt hơn”.
Như vậy, mỗi tác giả ở từng góc độ nghiên cứu khác nhau có những
quan điểm khác nhau về tự học . Tuy nhiên các nhà nghiên cứu đều nhất trí
rằng: tự học phải được xem là một bộ phận không thể thiếu của việc học trong
nhà trường.
Ở nước ta “vấn đề tự học được phát động nghiên cứu nghiêm túc, rộng
rãi từ khi nền giáo dục cách mạng ra đời (1945), mà Chủ tịch Hồ Chí Minh
vừa là người khởi xướng vừa nêu tấm gương về tinh thần và phương pháp học

và dạy học”.
Sinh “ra trong một gia đình nhà nho khoa bảng, lại được tiếp thu truyền
thống hiếu học của quê hương, đất nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh hết sức coi
trọng vai trò của giáo dục. Người đã khởi đầu sự nghiệp cách mạng bằng công
việc giáo dục quần chúng nhân dân, nhất là lực lượng thanh thiếu niên, hiểu
rõ con đường phải đi để giành lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Trong quá
trình tổ chức và lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Người đã nêu những luận đề
nổi tiếng thể hiện sự quan trọng của giáo dục, như”: “Một dân tộc dốt là một
dân tộc yếu” [4, tr.7], hay “Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích
trăm năm thì phải trồng người” [10, tr.528]...
Từ “vai trò một nhà tư tưởng, một nhà tổ chức, đặc biệt là từ vai trò một
nhà giáo. Hồ Chí Minh rất chú ý nhấn mạnh đến yếu tố tự giáo dục, tự giác
học tập, bởi quá trình giáo dục xét đến cùng là nhằm khơi dậy và phát huy sự
tự giáo dục của người học. Quá trình này không thể đạt kết quả nếu người học
không có ý thức nỗ lực học tập, tiếp thu tri thức, biến tri thức của nhân loại
thành tri thức của bản thân mình. Tự học tập, tự giáo dục trở thành khâu phát
8


triển cao nhất, quan trọng nhất, là nội dung cốt lõi của quá trình giáo dục. Do
đó, Hồ Chí Minh nhắc nhở các cán bộ, đảng viên”: “chúng ta phải học và hoạt
động cách mạng suốt đời. Còn sống thì còn phải học, còn phải hoạt động cách
mạng” [12; tr.113]. Theo Người, “Không ai có thể tự cho mình đã biết đủ rồi,
biết hết rồi. Thế giới ngày ngày đổi mới, nhân dân ta ngày càng tiến bộ, cho
nên chúng ta phải tiếp tục học và hành để tiến bộ kịp nhân dân” [12, tr.377].
Những “điều được học, được nghiên cứu tại trường chỉ có thể ví như một “hạt
nhân bé nhỏ” đòi hỏi người học sau khi ra trường” “sẽ tiếp tục săn sóc, vun
xới, làm cho hạt nhân ấy mọc thành cây và dần dần nở hoa, kết quả” [12,
tr.377].
Người từng nói: “còn sống thì còn phải học” và cho rằng: “về cách học

phải lấy tự học làm cốt”. Có thể nói tự học là một tư tưởng lớn của Hồ Chí
Minh về phương pháp học tập. Người cho rằng: “Tự học là cách học tự động”
và “phải biết tự động học tập”. Theo Người: “tự động học tập” tức “là tự học
một cách hoàn toàn tự giác, tự chủ, không chờ ai nhắc nhở, không đợi ai giao
nhiệm vụ mà tự mình chủ động vạch kế hoạch học tập cho chính mình, rồi tự
mình triển khai, thực hiện kế hoạch đó một cách tự giác, độc lập, tự mình làm
chủ thời gian để học tập và tự mình kiểm tra đánh giá việc” học của mình”.[3,
tr.360]. Hồ Chí Minh luôn phê phán việc thụ động trong học tập. Theo
Người việc tự học là không ai thay được cho mình phải tự học ở mọi nơi
mọi lúc, biến tri thức khoa học được tích lũy từ nhiều thế hệ nhân loại
thành kiến thức của mình và tự học là yếu tố quan trọng nhất của quá trình
ấy.
Như vậy, tự học là quá trình người học tự ý thức, tự nỗ lực chiếm lĩnh tri
thức bằng hành động của chính mình hướng tới mục đích nhất định. Nó còn
là “quá trình tự giác tích cực chiếm lĩnh lĩnh hội tri thức, hình thành kỹ năng
kỹ xảo của bản thân người học. Trong quá trình đó, người học thực sự là chủ
thể của nhận thức, nỗ lực huy động các chức năng tâm lý” nhằm đạt được
những mục tiêu đã định. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, khái niệm tự học có
nhiều điểm tương đồng với quan niệm của giáo dục học hiện đại.
1.1.2.Hiệu quả của việc tự học

9


Hiệu quả của việc tự học được hiểu là kết quả của việc tự học đạt đến
mức độ như thế nào. Hiểu quả của việc tự học thường được căn cứ trên các
tiêu chí cơ bản sau:
Thứ nhất, “tự học có giúp cho sinh viên có cái nhìn đúng đắn về vị trí,
vai trò của các môn học trong việc tích lũy tri thức để phát triển con người
một cách toàn diện, khả năng ứng xử linh hoạt trong cuộc sống, khả năng khái

quát, hình thành kỹ năng sống phù hợp với xu hướng hội nhập quốc tế hiện
nay. Tự học chính là cách thức học tập nhằm khai thác triệt để quỹ thời gian
nhàn rỗi trong sinh viên và là cơ hội để sinh viên đào sâu suy nghĩ, nghiền
ngẫm ôn lại những kiến thức mà giảng viên đã hướng dẫn, giảng giải trên
lớp”.
Thứ hai, tự “học giúp sinh viên phát huy tính tự giác của mình, tích
cực và năng lực đọc giáo trình, sách, báo, văn kiện, tạp chí… để tìm tòi,
nghiên cứu, biến “quá trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo” của sinh viên.
Việc tự học giúp sinh viên có nếp sống kỷ luật và làm việc một cách khoa
học, rèn luyện ý chí phấn đấu, tính kiên nhẫn, óc phê phán, tạo sự hứng thú
học tập, say mê và khát khao vươn tới những đỉnh cao của khoa học, sống có
lý tưởng, hoài bão, ước mơ”.
Thứ ba, tự “học giúp khơi dậy ở sinh viên năng lực tự thể hiện khẳng
định mình và hợp tác với các thành viên khác trong tập thể khi cùng đảm nhận
nhiệm vụ thuyết trình, thảo luận do giảng viên phân công. Vì thông qua việc
hành động hợp tác giữa các thành viên trong nhóm, sinh viên phải nỗ lực tự
thể hiện mình, tức là phải tự mình giải quyết tình huống, giải quyết các vấn đề
được đặt ra; từ đó khơi dậy tính chủ động, sáng tạo, tự giác học tập, nghiên
cứu và lĩnh hội tri thức, khắc phục tính thụ động của sinh viên trong quá trình
học tập”.
1.1.3.Các môn lý luận chính trị
Giáo dục “chính trị tại Việt Nam là giáo dục cho người học về chủ
nghĩa Mac Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh và lịch sử, đường lối cách mạng của
Đảng Cộng sản Việt Nam. Giáo dục chính trị giúp cho người học có sự hiểu
biết sâu sắc hơn, đầy đủ hơn, toàn diện hơn những tri thức lý luận chính trị -

10


hành chính. Từ đó trang bị cho bản thânvốn tri thức khoa học lý luận.Việc học

tập, nghiên cứu lý luận chính trị nhằm củng cố niềm tin và bản lĩnh chính trị,
ý thức giai cấp và tinh thần yêu nước.Việc học tập và nghiên cứu lý luận
chính trị nhằm cung cấp cho người học thế giới quan và phương pháp luận,
cách mạng và khoa học, từ đó vận dụng vào thực tiễn cuộc sống và công việc,
để hoàn thành và hoàn thành xuất sắc công việc được giao. Hơn hết là xây
dựng mỗi quan hệ giữa người với người trên tinh thần tôn trọng, tương trợ và
thương yêu lẫn nhau”.
Giáo dục chính trị được đào tạo dưới “các hình thức: môn học Giáo dục
Công dân ( cấp trung học phổ thông), môn chủ nghĩa Marx-Lenin, môn Tư
tưởng Hồ Chí Minh, chủ nghĩa Xã hội khoa học, Lịch sử Đảng, Triết học,...
tại tất cả các trường Đại học”.
Thực hiện công văn 2488/BGDĐT – ĐH & SĐH: “Sinh viên tất cả các
trường đại học phải học 4 môn học lý luận chính trị bắt buộc gồm:Những
nguyên lý cơ bản của Chủ nghĩa Mác – Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, Lịch
sử Đảng Cộng sản Việt Nam, Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt
Nam. Thời lượng dạy - học các môn Lý luận chính trị là 10 tín chỉ (gồm 15
đơn vị học trình)”
Không có lĩnh vực nào của “đời sống xã hội lại đứng ngoài chính trị,
từ vấn đề phát triển kinh tế, văn hóa đến xây dựng đạo đức, lối sống; từ sự
đánh giá về quá khứ, đến dự báo tương lai... đều phải có định hướng chính trị
rõ ràng. Theo đó, nội dung của các môn lý luận chính trị là rất rộng, từ lý luận
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối của Đảng, chính
sách và pháp luật của Nhà nước trên các lĩnh vực chính trị, quốc phòng, an
ninh, đối ngoại”...
Đối với sinh viên, việc học tập các môn lý luận chính trị và quán triệt
nghiêm túc nội dung lý luận chính trị có ý nghĩa quan trọng:
Thứ nhất, góp phần phát triển con người toàn diện: Cùng “với việc học
tập các kiến thức chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp cho bản thân, sinh viên
phải được trang bị hệ thống tri thức lý luận chính trị đúng đắn. Bởi kiến thức
lý luận chính trị là kim chỉ nam chỉ phương hướng rèn luyện phẩm chất chính

11


trị, đạo đức hướng các em đến hành động thực tiễn nhân văn, tiến bộ, khoa
học. Hun đúc cho sinh viên lòng yêu nước chân chính; có tinh thần kiên định,
vững vàng”.
Thứ hai, góp phần “nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đáp ứng yêu cầu
của sự nghiệp đổi mới: Học tập và quán triệt nội dung các môn lý luận chính
trị giúp sinh viên có trình độ và năng lực tư duy lý luận khoa học. Có quan
điểm đúng đắn, lập trường cách mạng vững chắc và phương pháp luận khoa
học, là điều kiện để sinh viên chủ động, tự tin vươn lên làm chủ khoa học và
công nghệ tiên tiến”, hiện đại.
Thứ ba, giúp sinh viên có lập trường tư tưởng kiên định, bản lĩnh chính
trị vững vàng, củng “cố niềm tin, bản lĩnh chính trị, ý thức giai cấp và tinh
thần yêu nước cho sinh viên, từ đó thúc đấy sinh viên tự giác, tự nguyện, hăng
hái hành động, thực hiện tốt nhiệm vụ” cá nhân.
Thứ tư, việc tự học “các môn lý luận chính trị góp phần chuyển biến thái
độ học tập của sinh viên đối với môn học như cần cù, siêng năng, có kỉ luật
hơn trong học tập, có nhu cầu mở rộng hiểu biết về tri thức môn học, tài liệu
tham khảo, thông tin, tư liệu mới để học, mong muốn được hướng dẫn phân
tích mở rộng kiến thức đã được tiếp thu…giúp sinh viên phát huy được tính
tích cực trong việc tìm tòi tài liệu, chủ động nắm bắt tri thức, nền tảng lí luận
một cách có hệ thống” và logic
Thứ năm, hoạt động học tập các môn “lý luận chính trị góp phần kích
thích tinh thần say mê, hứng thú học tập của sinh viên. Trong việc học tập các
môn lý luận chính trị bản thân sinh viên khi đã đạt được mục tiêu tiếp cận
khối lượng tri thức và nắm vững tri thức đó thì tinh thần say mê, hứng thú học
tập sẽ được khơi dậy, được phát huy cao đồng thời cũng từ say mê, hứng thú
học tập các môn học một cách tự giác, mở rộng khả năng độc lập sáng tạo, tự
tìm tòi phương pháp, kĩ năng. Vận dụng các môn lí luận chính trị vào việc lí

giải những vấn đề nhận thức, gải quyết những vấn đề đặt ra trong thực tiễn
cuộc sống”, gắn kết lí luận với thực tiễn, tư tưởng và hành động
Thứ sáu, việc “học tập các môn lý luận chính trị , giúp sinh viên nắm
vững được tri thức các vấn đề lý luận nhằm phục vụ các kết quả học tập,
12


khích lệ sinh viên quyết tâm, phấn đấu vận dụng tri thức góp phần vào việc
học tập các môn học khác trên cơ sở phân tích, đánh giá đúng đắn quy luật,
vận động phát triển của lịch sử”
Sinh viên là những người đang trong quá trình phát “triển về trí tuệ và
nhân cách. Đây là giai đoạn mà họ đang khẳng định vai trò, vị trí và trách
nhiệm của mình với xã hội. Tuy nhiên, bên cạnh sự mạnh dạn, dám nghĩ, dám
làm, khát khao lý tưởng và hành động để thực hiện lý tưởng của mình, hướng
tới những giá trị xã hội mới, sinh viên lại cũng có cả tính bồng bột, thậm chí
liều lĩnh, mạo hiểm, chưa đủ kinh nghiệm và từng trải để có cách suy xét,
đánh giá các giá trị, lựa chọn giá trị theo tinh thần duy lý... Thông qua học tập
các môn lý luận chính trị, sinh viên có nhận thức cần thiết về hệ tư tưởng xã
hội chủ nghĩa; niềm tin vững chắc vào sự lãnh đạo của Đảng, vào sự nghiệp
đổi mới đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay. Từ đó, sẽ quyết định
khuynh hướng, mục đích và hiệu quả hoạt động của sinh viên trong học tập,
lao động; có lý tưởng cách mạng trong sáng, làm chủ bản thân, giàu lòng yêu
quê hương, đất nước, xây dựng và củng cố vững chắc mục tiêu lý tưởng của”
bản thân
1.2. Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về tự học
1.2.1. Quan điểm của Hồ Chí Minh về vị trí và vai trò của tự học
Tự “học có vị trí và vai trò quan trọng trong giáo dục. Khi nói về tự học,
Hồ Chí Minh cũng khẳng định rất rõ tầm quan trọng của việc tự học đối với
quá trình học tập và sự phát triển của con người. Người khẳng định đối với
việc học tập thì tự học có vai trò rất quan trọng, là yếu tố quyết định chất

lượng học tập của bản thân mỗi cá nhân. Theo Người trong học tập là “ lấy tự
học làm cốt” [4, tr 273] , lấy tự học làm cốt tức là lấy việc mình tìm tòi , học
tập làm điều cơ bản , quyết định . Câu nói của Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng
định vai trò , giá trị , tầm quan trọng của tự học có ý nghĩa quyết định của
việc học tập . Người khẳng định vai trò to lớn của việc tự học vì tri thức là vô
hạn”.
Tự học “cũng chính là hoạt động tiếp thu tri thức của mỗi cá nhân, là tiền
đề quan trọng dẫn tới sự phát triển ở mỗi con người. Quá trình học tập bao

13


gồm học tại trường, lớp, ở những giai đoạn nhất định của cuộc đời và tự học
suốt cả cuộc đời mỗi người. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, còn sống còn
phải học. Đây là biện pháp tốt nhất để nâng cao trình độ hiểu biết, đáp ứng
yêu cầu ngày càng cao của nhiệm vụ cách mạng. “Nếu không chịu khó học thì
không tiến bộ được. Không tiến bộ là thoái bộ. Xã hội càng đi tới, công việc
càng nhiều, máy móc càng tinh xảo. Mình mà không chịu khó học thì lạc hậu,
mà lạc hậu thì bị đào thải, tự mình đào thải mình”. Trong học tập, cần kết hợp
cả học tập ở trường, ở lớp và tự học”.
Tự học cũng là “quá trình giúp con người tự bồi bổ kiến thức, rèn luyện
ý chí , nghị lực, thói quen tích cực , chủ động tích lũy kinh nghiệm cho bản
thân để không bị tụt hậu , luôn nhạy bén trong thực tế do biết áp dụng những
kiến thức đã học . Từ đó tạo ra cho con người tính tự lập và có thể làm chủ
được cuộc sống của bản thân . Một người luôn có tinh thần tự lập sẽ luôn chủ
động trong mọi việc , có kiến thức, kỹ năng để hoàn thành mọi công việc
được giao. Tự học có ý nghĩa quan trọng tạo tiền đề cho sự sáng tạo của mỗi
người trong công việc và cuộc sống” .
Việc “tự học giúp con người hiểu vấn đề một cách sâu sắc , giải quyết
vấn đề nhanh chóng chính xác . Việc tự học có thể coi là chìa khóa đưa chúng

ta đến kho tàng tri thức , là điều kiện giúp ta thành công trong học tập . Nếu
chúng ta biết tự học cho bản bản thân thì chúng ta chắc chắn ở kiến thức và
nâng cao được tri thức cho chính mình . Những người có tinh thần tự học sẽ
chủ động suy nghĩ , tìm tòi , khám phá , nghiên cứu và hiểu bản chất vấn đề” .
Khi chúng ta đã biết tự học thì chúng “ta cũng biết chủ động thực hành , giúp
chúng ta nhanh chóng hình thành kỹ năng , kỹ xảo, ghi nhớ kiến thức rất tốt”
Tự học sẽ bổ trợ cho những “phương pháp học tập khác . Từ đó củng cố
những kĩ năng thái độ của người học đối với việc học” tập của bản thân.
Tóm lại “bản chất của tự học là một quá trình học tập , người học phải độc
lập xây dựng kế hoạch, phương pháp học tập, tự tìm hiểu, phân tích những
kiến thức trong sách vở, tài liệu để tiến tới làm chủ tri thức. Nếu thiếu sự kiên
trì, lòng quyết tâm và sự nghiêm túc của bản thân, thì sẽ không thể thực hiện
được kế hoạch học tập do mình đặt ra. Chính việc tự học sẽ giúp mỗi người

14


nhớ lâu và vận dụng những kiến thức đã học một cách có ích vào cuộc sống.
Và, tự học còn giúp cho mỗi người trở nên năng động, sáng tạo, không phụ
thuộc vào người khác, từ đó hạn chế những khuyết điểm và hoàn thiện bản
thân. Càng cố gắng tự học, con người càng trau dồi được nhân cách và tri
thức”.
1.2.2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về mục đích của tự học
Tự học “là hoạt động có mục đích của con người, là điều cần thiết trong
quá trình tiếp nhận tri thức . Với Chủ tịch Hồ Chí Minh, tự học có vị trí và vai
trò đặc biệt quan trọng.Khi bàn về tự học, Hồ Chí Minh cũng đã khẳng định
tự học có mục đích riêng nhằm thực hiện mục tiêu chung” của việc học tập.
Trước hết, Người khẳng định mục đích của tự học là nhằm nâng cao
sự hiểu biết của bản thân mình để phát triển và hoàn thiện nhân cách. Theo
Hồ Chí Minh, tri thức của nhân loại là vô cùng vô tận, vì vậy việc học hỏi là

vô cùng. Trên hành trình tìm đường cứu nước giải phóng dân tộc, không có
nhiều điều kiện để học tập chính quy, Hồ Chí Minh phải tiến hành tự học để
nâng cao hiểu biết của mình. Người quan niệm “học hỏi là vô cùng”, và theo
Người, để có một trình độ hiểu biết uyên thâm thì nhất định phải tiến hành tự
học. Thông qua tự học, hiểu biết của người học ngày càng được nâng cao. Nội
dung của tự học phong phú và đa dạng, do vậy tự học làm cho kiến thức của
người học không những được nâng cao mà còn góp phần hình thành và phát
triển nhân cách. Người cho rằng “học tập để phát triển ưu điểm, sửa chữa
khuyết điểm” [4, tr.143] hay “phải ra sức học tập, tu dưỡng, tự cải tạo để tiến
bộ mãi” [6, tr.602]. Tự học trước hết có mục đích là thúc đẩy và nâng cao tầm
hiểu biết của bản thân người học, “đồng thời nó cũng là một trong những nhân
tố góp phần” thúc đẩy việc hình thành và phát triển nhân cách .
Thứ hai, “tự học để phục vụ sự nghiệp cách mạng. Thông qua quá
trình tự học, Hồ Chí Minh cho rằng tầm hiểu biết của cá nhân không những
được nâng cao mà năng lực của người học cũng ngày càng được trau dồi. Thực
tế Hồ Chí Minh không có nhiều thời gian học chính quy về chính trị nhưng
bản thân Người là một nhà chính trị kiệt xuất; chưa từng học ở trường dạy viết
báo nhưng Người là một nhà báo thiên tài. Để đạt được những trình độ như vậy,
Hồ
15


Chí Minh đều nhờ vào quá trình tự học, thông qua quá trình rèn luyện kỹ năng,
năng lực của cá nhân ngày càng hoàn thiện. Sau này, Người nhiều lần khẳng
định tự học góp phần rất lớn trong việc” trau dồi năng lực của cá nhân, từ đó
hướng tới mục đích cao nhất của việc tự học là phục vụ sự nghiệp cách mạng,
phục vụ công cuộc giành độc lập, tự do và xây dựng đất nước. “Mục đích học
là để làm kinh tế, chính trị, văn hóa đều tiến bộ, các dân tộc đều đoàn kết với
nhau. Học để làm gì nữa? Để xây dựng chủ nghĩa xã hội” [8, tr.270].
“Học để làm việc,

làm người,
làm cán bộ.
Học để phụng sự Đoàn thể,
giai cấp và nhân dân,
Tổ quốc và nhân loại.” [3, tr.208].
Sự khổ công tự học tập, chịu đựng gian khổ của Người đều nhằm mục đích
như Người nói: “Cả đời tôi chỉ có một mục đích, là phấn đấu cho quyền lợi
Tổ quốc và hạnh phúc của quốc dân. Những khi tôi phải ẩn nấp nơi núi
non, hoặc ra vào chốn tù tội, xông pha sự hiểm nghèo - là vì mục đích đó”
[1, tr.272]. Làm cách mạng giải phóng dân tộc chính là mục đích của tự
học trong tư tưởng Hồ Chí Minh; sự nghiệp cách mạng của dân tộc chính là
trường học lớn của Người để Người hoàn thiện, trau dồi kỹ năng phục vụ
cách mạng.
Thứ ba, tự học để khẳng định mình. “Trong tư tưởng Hồ Chí Minh,
giải phóng con người là mục tiêu cao nhất. Để giải phóng con người trước
hết phải hình thành ở con người năng lực làm chủ và khả năng tự giải
phóng. Năng lực làm chủ chính là khả năng tự khẳng định bản thân mình
trong các mối quan hệ với tự nhiên, xã hội và với chính mình. Theo Người,
tự học là một biểu hiện sinh động của ý thức tự chủ; thông qua tự học,
người học khẳng định được giá trị của mình. Tự học chính là tự chủ vì “ý
thức làm chủ không phải chỉ tỏ rõ ở tinh thần hăng hái lao động mà còn
phải tỏ rõ ở tinh thần say mê học tập để không ngừng nâng cao năng lực

16


làm chủ của mình” [7, tr.527]. Bằng say mê tự học, tự nghiên cứu, người
học” có được sự hiểu biết về tự nhiên và xã hội, từ đó có những hoạt động
thích hợp đáp ứng yêu cầu của cuộc sống, khẳng định giá trị của bản thân
người học. Ý nghĩa nhân văn, quyền con người nằm ngay trong quan điểm

phát huy tính chủ thể ở người học. Muốn vậy, mỗi người phải biết không
ngừng tự học, tự đào tạo, tự khẳng định mình. Tư tưởng đó rất gần với tư
tưởng giáo dục hiện đại ngày nay: học để biết, học để làm, học để chung
sống, học để khẳng định mình.
1.2.3. Quan điểm của Hồ Chí Minh về môi trường, đối tượng tự học
1.2.3.1. Quan điểm của Hồ Chí Minh về môi trường tự học
Về môi trường tự học, theo Hồ Chí Minh là phải “triệt để tận dụng mọi
hoàn cảnh, mọi phương tiện, mọi hình thức để tự học”. Người thường đặt câu
hỏi: Học ở đâu? và khẳng định: “Học ở trường, học ở sách vở, học lẫn nhau và
học nhân dân...” [3, tr.361] hay “Học trong xã hội, học nơi công tác thực tế,
học ở quần chúng” [3, tr.163]. Đó chính là môi trường toàn diện cho việc tự
học.
Có thể nói, Hồ “Chí Minh đạt được những thành công to lớn trong tự
học chính là nhờ việc Người rất chú tâm tích lũy cho mình một vốn sống,
những kinh nghiệm phong phú trong thực tiễn đấu tranh, thực tiễn đời sống
của giai cấp công nhân và của nhân dân các nước thuộc địa, đồng thời cũng
nhờ những ngày miệt mài với sách báo, mà phương tiện tốt nhất là dựa vào
thư viện. Bác đã triệt để sử dụng thư viện để làm giàu vốn kiến thức của
mình, để trang bị cho mình một trình độ lý luận sắc bén nhằm giải đáp những
vấn đề mà thực tiễn cách mạng đặt ra”.
Trong “quá trình tự học, ngoài thư viện, Hồ Chí Minh còn triệt để tận
dụng những câu lạc bộ, các sách báo, các bài nói chuyện, các buổi hội thảo,
các viện bảo tàng…; đồng thời tự mình tạo ra các hình thức học tập mới, sinh
động và bổ ích như: tranh thủ sự giúp đỡ, sự hướng dẫn chỉ bảo của người
khác, học trong khi giao tiếp, học trong công tác vận động quần chúng mà
Người gọi là” “học trong nhân dân”. Người chỉ rõ: “không học nhân dân là
một thiếu sót lớn” [3, tr.361].
17



Trong “suốt những năm tháng hoạt động cách mạng ở nước ngoài, Người
vừa lao động kiếm sống, vừa tìm mọi cách và tận dụng mọi nơi, mọi lúc để tự
học, nhất là học tiếng nước ngoài. Có lần nói chuyện với thanh niên, Người
cho biết: Để học được ngoại ngữ, phải kiên trì mỗi ngày học thuộc mười từ.
Hằng ngày, trước khi thức dậy, Người viết những từ mới vào một mảnh giấy,
dán vào chỗ hay nhìn thấy nhất, có khi viết lên cánh tay để khi vừa làm vừa
nhẩm học, đến khi chữ mờ hết thì cũng đã thuộc. Lại cả khi đi đường, Người
cũng nhẩm bài học. Ban đêm, khi chưa ngủ, Người lấy tay viết mò những chữ
khó xuống chăn cho kỳ nhớ mới thôi và thế là đã học thêm được vài từ mới.
Hồ Chí Minh có một nguyên tắc là, học đến đâu, luyện tập và thực hành đến
đó, học được chữ nào là tìm cách ghép câu để dùng ngay, cho nên sau một
thời gian ngắn, Người viết được báo và sách bằng tiếng nước ngoài. Bằng
cách đó, dần dần Người đã học được rất nhiều ngoại ngữ”.
Để tự học đạt kết quả tốt, “theo Hồ Chí Minh phải có tinh thần vượt
gian khổ để học tập. Thời gian sống ở Thủ đô Pa-ri (Pháp), Người chỉ thuê
phòng trọ nhỏ trong một khách sạn rẻ tiền, mỗi sáng nấu cơm trong một cái
nồi nhỏ đặt trên ngọn đèn dầu. Cơm ăn với một con cá mắm hoặc một ít thịt,
ăn một nửa còn một nửa dành đến chiều. Có khi một miếng bánh mì với một
miếng pho-mai là đủ ăn cả ngày. Mùa đông lạnh, buổi sáng trước khi đi làm,
Người để một viên gạch vào lò bếp của khách sạn, chiều về lấy ra, bọc nó vào
trong những tờ báo cũ, để xuống nệm cho đỡ rét. Thường thường, Người chỉ
làm việc nửa ngày vào buổi sáng để kiếm tiền, còn buổi chiều đi đến thư viện
hoặc dự những buổi nói chuyện. Tối đến, Người đi dự các cuộc mít-tinh và
thường xuyên phát biểu ý kiến, khéo lái những vấn đề thảo luận sang vấn đề
thuộc địa. Hồ Chí Minh làm quen với những nhà chính trị, nhà văn để nâng
cao trình độ chính trị, văn học của mình, đồng thời làm phong phú thêm vốn
từ ngữ mới và cũng là điều kiện để vận dụng những từ đã học, trau dồi thêm
vốn hiểu biết của mình về ngoại ngữ”.
Sau này, “trên cương vị cao nhất của Đảng và Nhà nước, dù bận trăm
công nghìn việc, khi tuổi cao, sức khỏe giảm, Hồ Chí Minh vẫn không ngừng

tự học tập, đọc thêm nhiều tài liệu, sách báo trong nước và nước ngoài. Bác
luôn khuyên cán bộ, đảng viên phải không ngừng học tập để có trình độ hiểu
18


biết mọi mặt nhằm nâng cao chất lượng công tác. Cần tự học để nâng cao
trình độ của bản thân, coi đây là tiêu chuẩn, giá trị đạo đức của mỗi người và
là nhu cầu, thói quen hằng ngày của cán bộ, đảng viên. Những cán bộ, đảng
viên lười học, lười suy nghĩ, không thường xuyên cập nhật thông tin mới, hiểu
biết mới cũng là một biểu hiện suy thoái về đạo đức. Năm 1966, trong một
buổi nói chuyện với đảng viên mới của Hà Nội, Người nhắc nhở: Thời kỳ bí
mật, điều kiện học tập của đảng viên rất khó khăn: thiếu thầy, thiếu sách,
thiếu tự do, nhưng cán bộ và đảng viên vẫn quyết tâm vì cách mạng mà học.
Bây giờ điều kiện thuận lợi nhiều, cho nên các cô, các chú càng phải ra sức
học tập cho tốt,... “Bác thường nghe nói có đồng chí 40 tuổi đã cho mình là
già nên ít chịu khó học tập. Nghĩ như vậy là không đúng, 40 tuổi chưa phải là
già. Bác đã 76 tuổi nhưng vẫn cố gắng học thêm. Chúng ta phải học và hoạt
động cách mạng suốt đời”. Còn sống thì còn phải học, còn phải hoạt động
cách mạng”(5, tr 56).
Như vậy, để tự học có hiệu quả, theo Hồ Chí Minh cần có một môi
trường tự học mà ở đó người học có thể tận dụng mọi điều kiện, “mọi hoàn
cảnh, mọi phương tiện, mọi hình thức để tiến hành tự học. Phải tìm ra cách
học tập mới sinh động và hứng thú. Quan điểm này hoàn toàn trùng hợp với
triết lý giáo dục toàn diện của xã hội hiện đại điều mà Hồ Chí Minh đã nói và
làm suốt từ đầu thế kỷ XX.
1.2.3.2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về đối tượng tự học
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn xác định tự học là yêu cầu đối với tất cả
mọi người, không phân biệt già trẻ, trai gái, nghề nghiệp. Bởi lẽ, tri thức nhân
loại thì vô cùng vô hạn và ngày càng phát triển, nếu tự bản thân mỗi người
không tự học, không tự trau dồi kiến thức thì sớm muộn cũng bị lạc hậu và

thoái bộ. Người nói: “Xã hội càng đi tới, công việc càng nhiều, máy móc càng
tinh xảo. Mình mà không chịu học thì lạc hậu, mà lạc hậu là bị đào thải, tự
mình đào thải mình” [7, tr.333]. Điểm đặc sắc của Hồ Chí Minh khi xác định
chủ thể tự học ở đây chính là tất cả mọi người, không chỉ đối với những người
đang trực tiếp giảng dạy, học tập, không chỉ đối với thế hệ trẻ mà là tất cả mọi
tầng lớp, giới tính, tuổi tác, chức vụ,... đều phải ra sức tự học tập, tự đào tạo.

19


×