Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

TIỂU LUẬN Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (222.21 KB, 24 trang )

ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

TIỂU LUẬN
MÔN ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN
VIỆT NAM
Đề tài: “Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa”

Thực hiện: Nhóm 13
Giảng viên hướng dẫn: THs Nguyễn Thu Hải


Hà Nội, 2018 THỰC HIỆN:
1.
2.
3.
4.
5.
6.
7.

Thân Thị Thùy Trang
Nguyễn Thị Linh
Đỗ Anh Thư
Lê Thanh Tùng
Phạm Thị Xuân Mai
Hà Thị Ngân
Phạm Thị Loan

1718810079
1712210177


1713310148
1617710163
1711110450
1712210227
1712210191


MỤC LỤC

Lời mở đầu
Ở nước ta để bảo đảm phát huy sức mạnh toàn dân tộc, tiếp tục đổi mới,
đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, vì mục tiêu dân
giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh thì một trong những
vấn đề chiến lược là xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
dân, do dân, vì dân dưới sự lãnh đạo của Đảng. Do vậy cần làm sáng tỏ về
bản chất, nội dung cũng như những đặc trưng của nó, tạo thành hệ thống
quan điểm lý luận định hướng cho việc hoàn thiện nhà nước ta trong thời kỳ
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Những tư tưởng, những học
thuyết về Nhà nước pháp quyền đã ra đời ở các nước Châu Âu và chúng đã trở
thành di sản quý báu của nền văn hóa phương Tây. Vấn đề được đặt ra đối với
chúng ta là: ở mức độ nào, bằng hình thức nào, qua con đường nào, những tư
tưởng và học thuyết về Nhà nước pháp quyền có thể vận dụng ở Việt Nam - một
đất nước có nền văn hiến lâu đời, nơi mà Nhà nước và pháp luật cũng đã có từ
ngàn xưa, nơi mà đạo đức, phong tục tập quán đóng vai trò rất quan trọng trong
việc điều tiết các quan hệ xã hội. Có thể nói rằng, việc hình thành, xây dựng và
phát triển Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam là hoàn toàn có cơ sở.Hiện nay, ở
Việt Nam, đã có những tiền đề về kinh tế, chính trị, văn hóa, v.v…, cho việc
bắt đầu xây dựng một Nhà nước pháp quyền, nhưng quá trình đó không thể nóng
vội, mà nó là sự nghiệp lâu dài của nhiều thế hệ người Việt Nam. Chúng em đã
chọn đề tài: “Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ” để nghiên cứu



phần nào và muốn hiều rõ hơn về Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam.


I) Cơ sở lý luận về nhà nước và nhà nước pháp quyền
1)

Nhà nước
a)

Bản chất và đặc trưng của nhà nước

Bản chất của bất kỳ nhà nước nào trong xã hội có giai cấp đều mang bản chất
của giai cấp thống trị xã hội.
Sau Cách mạng Tháng Tám thành công, Nhà nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa
ra đời, đó là nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á. Nhà nước Việt
Nam Dân chủ cộng hòa trước đây nay là Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam là nhà nước kiểu mới về bản chất, khác hẳn với các kiểu nhà nước từng có
trong lịch sử. Bản chất bao trùm chi phối mọi lĩnh vực tổ chức và hoạt động của
đời sống nhà nước là tính nhân dân của nhà nước.
Điều 2 Hiếu pháp năm 2013 khẳng định: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân
dân, vì Nhân dân. Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm
chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa
giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức. Quyền lực nhà nước
là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước
trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”.
Bản chất nhà nước của dân, do dân và vì dân được thể hiện bằng những
đặc trưng sau:

- Nhân dân là chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước.


Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhân dân ta đã tiến hành đấu tranh cách mạng, trải
qua bao hy sinh gian khổ làm nên cách mạng Tháng Tám năm 1945, Nhân dân tự
mình lập nên nhà nước. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngày nay
là sự tiếp nối sự nghiệp của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, là nhà nước do
Nhân dân mà nòng cốt là liên minh công – nông – trí thức, tự mình định đoạt
quyền lực nhà nước.
- Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước của tất cả các dân
tộc trên lãnh thổ Việt Nam, là biểu hiện tập trung của khối đại đoàn kết toàn dân
tộc.
Tính dân tộc của Nhà nước Việt Nam là vấn đề có truyền thống lâu dài, là
nguồn gốc sức mạnh của nhà nước. Ngày nay, tính dân tộc ấy lại được tăng cường
và nâng cao nhờ khả năng kết hợp giữa tính giai cấp, tính nhân dân, tính dân tộc và
tính thời đại. Điều 5 Hiến pháp năm 2013 khẳng định: “ Nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam là quốc gia thống nhất của các dân tộc cùng sinh sống trên đất
nước Việt Nam. Các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát
triển; nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ dân tộc. Ngôn ngữ quốc gia là tiếng
Việt. Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc, phát
huy phong tục, tập quán, truyền thống và văn hóa tốt đẹp của mình. Nhà nước thực
hiện chính sách phát triển toàn diện và tạo điều kiện để các dân tộc thiểu số phát
huy nội lực, cùng phát triển với đất nước”.
- Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước dân chủ và pháp
quyền
Dân chủ hóa đời sống nhà nước và xã hội không chỉ là nhu cầu bức thiết của
thời đại mà còn là một đòi hỏi có tính nguyên tắc, nảy sinh từ bản chất dân chủ của
Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.



Dân chủ bao giờ cũng gắn với pháp luật. Đó là bản chất của nhà nước pháp
quyền. Vì vậy, toàn bộ cơ quan nhà nước từ cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp
đều phải được tổ chức và hoạt động theo pháp luật, bằng pháp luật. Nhà nước ban
hành pháp luật, quản lý xã hội bằng pháp luật, nhưng nhà nước và cơ quan nhà
nước phải đặt mình dưới pháp luật. Cơ quan nhà nước “chỉ được làm những điều
pháp luật cho phép”; bảo đảm và phát triển quyền tự do dân chủ của nhân dân, còn
nhân dân “được làm tất cả những gì pháp luật không cấm”.
b)

Chức năng và vai trò kinh tế của nhà nước

- Chức năng thống trị chính trị của giai cấp và chức năng xã hội: Chức năng
thống trị chính trị của giai cấp là chức năng nhà nước làm công cụ chuyên chính
của một giai cấp nhằm bảo vệ thống trị giai cấp đó đối với toàn xã hội, bắt nguồn
từ lý do ra đời của nhà nước.
- Chức năng xã hội của nhà nước là chức năng nhà nước thể hiện sự quản lý
những hoạt động chung vì sự tồn tại của xã hội, của cộng đồng dân cư nằm dưới sự
quản lý của nhà nước.
Trong hai chức năng trên thì chức năng thống trị chính trị là cơ bản nhất , chức
năng xã hội phải phụ thuộc và phục vụ cho chức năng thống trị chính trị.
+ Giai cấp thống trị bao giờ cũng biết giới hạn chức năng xã hội trong khuôn
khổ lợi ích của mình.
+ Chức năng giai cấp chỉ có thể thực hiện được thông qua chức năng xã hội.
+ Xã hội không còn giai cấp thì chức năng xã hội sẽ do xã hội tự đảm nhận.
+ Chức năng đối nội của nhà nước: Nhằm duy trì trật tự kinh tế, xã hội, chính
trị và những trật tự khác hiện có theo lợi ích của giai cấp thống trị( thực hiện bằng
pháp luật và bằng sựu cưỡng bức của bộ máy nhà nước. Ngoài ra nhà nước còn


dùng nhiều hình thức khác: bộ máy thông tin, tuyên truyền, các cơ quan văn hóa,

giáo dục...) để xác lập, củng cố tư tưởng, ý chí của giai cấp thống trị.
+ Chức năng đối ngoại của nhà nước: Nhằm bảo vệ biên giới lãnh thổ quốc gia
và thực hiện cac mối quan hệ kinh tế, chính trị, xã hội với các nước khác vì
lợi ích của giai cấp thống trị và lợi ích của quốc gia.
Vai trò kinh tế của nhà nước.
-

Một là: Nhà nước điều chỉnh các quan hệ kinh tế, làm hạn chế khả năng

-

xẩy ra khủng hoảng.
Hai là: Phải có các khu vực kinh tế công cộng, không vì mục đích lợi

-

nhuận.
Ba là: Nhà nước tạo môi trường kinh tế vĩ mô ổn định cho phát triển kinh
tế.

2)

Nhà nước pháp quyền
a)

Khái niệm nhà nước pháp quyền

Nhà nước pháp quyền là một phạm trù mang tính lịch sử, xuất hiện cùng
Nhà nước và phát triển theo lịch sử tri thức nhân loại.
Tư tưởng về pháp quyền hay nhà nước pháp quyền đã bắt đầu xuất hiện

ngay từ thời cổ đại, khi xã hội vẫn còn nhiều bất công, quyền tự nhiên vốn có của
con người bị xâm phạm bởi chính nhà nước - thiết chế quyền lực công của xã hội.
Trước thực trạng ấy, các nhà tư tưởng Hy Lạp cổ đại mong muốn tìm kiếm một
phương thức hiệu quả để bảo về quyền tự nhiên vốn có, phẩm giá của con người.
Từ đó, tư tưởng về nhà nước pháp quyền ra đời, mà đại diện tiêu biểu là các nhà tư
tưởng Solon, Pitagore, Heraclit, Socrate, Platon, Aristote, Ciceron,... Tuy nhiên,
thời điểm đó các nhà tư tưởng Hy Lạp cổ đại chưa thấy được nguồn gốc của những


bất công xã hội cũng như chưa tìm ra được giải pháp hữu hiệu để xây dựng nhà
nước pháp quyền trong thực tiễn.
Đến thời kỳ trung cổ, sự câu kết giữa thần quyền và thế quyền tạo ra màn đêm
bao phủ xã hội loài người, khiến cho các tư tưởng tiến bộ của nhân loại trong đó có
tư tưởng về nhà nước pháp quyền bị chôn vùi. Tuy nhiên, niềm tin pháp luật có thể
mang đến cho con người tự do và bảo vệ quyền lợi tự nhiên vốn có vẫn luôn tồn
tại. Thánh Saint Thomas D’Aquin (1225-1274) cho rằng trật tự pháp lý đem đến
cho con người cái thuộc về họ và làm cho họ có thể đạt đến sự dồi dào về vật chất,
tinh thần, xã hội công dân sẽ thay thế xã hội thần dân.
Vào thế kỷ XVII, sự ra đời của chủ nghĩa tư bản đã mang lại những giá trị to
lớn cho nhân loại trong bối cảnh lúc bấy giờ, đưa nhân loại thoát khỏi “đêm trường
trung cổ”, tạo tiền đề cho sự phát triển mạnh mẽ của các ngành khoa học tự nhiên
và xã hội, đây cũng là thời kỳ mà tư tưởng nhà nước pháp quyền được tiếp tục
nghiên cứu và phát triển thành lý luận bởi các nhà tư tưởng phương Tây mà đại
diện là I. Kant (1724-1804), Hegel (1770-1831), Mohn và Valker, Stein…
Có thể hiểu, khái niệm Nhà nước pháp quyền đề cập đến phương thức tổ chức,
xây dựng và vận hành bộ máy nhà nước nói chung thông qua pháp luật, như hiến
pháp, luật và các văn bản pháp quy khác. Nói cách khác, nhà nước pháp quyền là
nhà nước được xem xét dưới góc độ pháp luật, trong đó tính tối cao của pháp luật
được tôn trọng, các tư tưởng và học thuyết chính trị, tôn giáo,... của bất cứ tổ chức
hoặc cá nhân nào cũng được giới hạn bởi khuôn khổ pháp luật và chịu sự điều

chỉnh của pháp luật. Như vậy, phương thức tổ chức xây dựng và vận hành của nhà
nước pháp quyền sẽ thể hiện cụ thể khác nhau về bản chất chế độ chính trị, hệ
thống quan điểm, mục đích nhiệm vụ của từng thời kỳ phát triển hoặc điều kiện cụ


thể của mỗi nước chứ không có mô hình, tiêu chí về nhà nước pháp quyền đồng
nhất.
Đặc trưng của nhà nước pháp quyền
Nhà nước pháp quyền là biểu hiện tập trung của chế độ dân chủ. Dân chủ vừa là
bản chất của nhà nước pháp quyền vừa là điều kiện, tiền đề của chế độ nhà nước.
Mục tiêu của nhà nước pháp quyền là xây dựng và thực thi một nền dân chủ, đảm
bảo quyền lực chính trị thuộc về nhân dân. Nhân dân thực hiện quyền dân chủ của
mình thông qua dân chủ trực tiếp; dân chủ đại diện.
Nhà nước pháp quyền được tổ chức và hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp
và pháp luật. Hiến pháp và pháp luật luôn giữ vai trò điều chỉnh cơ bản đối với
toàn bộ hoạt động Nhà nước và hoạt động xã hội, quyết định tính hợp hiến và hợp
pháp của mọi tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước. Tuy nhiên không phải
mọi chế độ lập Hiến, mọi hệ thống pháp luật đều có thể đưa lại khả năng xây dựng
nhà nước pháp quyền, mà chỉ có Hiến pháp và hệ thống pháp luật dân chủ, công
bằng mới có thể làm cơ sở cho chế độ pháp quyền trong nhà nước và xã hội.
Nhà nước pháp quyền tôn trọng, đề cao và đảm bảo quyền con người trong mọi
lĩnh vực của Nhà nước và xã hội. Quyền con người là tiêu chí đánh giá tính pháp
quyền của chế độ nhà nước. Mọi hoạt động của Nhà nước đều phải xuất phát từ sự
tôn trọng và đảm bảo quyền con người, tạo mọi điều kiện cho công dân thực hiện
quyền của mình theo đúng các quy định của luật pháp. Mối quan hệ giữa cá nhân
và nhà nước được xác định chặt chẽ về phương diện luật pháp và mang tính bình
đẳng. Mô hình quan hệ giữa Nhà nước và cá nhân được xác định theo nguyên tắc:
Đối với cơ quan nhà nước chỉ được làm những gì luật cho phép; đối với công dân
được làm tất cả trừ những điều luật cấm.



Nhà nước pháp quyền gắn liền với một cơ chế bảo vệ Hiến pháp và pháp luật
phù hợp. Nền tảng của nhà nước pháp quyền là Hiến pháp và một hệ thống pháp
luật dân chủ và công bằng, do vậy, một cơ chế bảo vệ Hiến pháp và pháp luật luôn
là một yêu cầu, một điều kiện cần thiết nhằm đảm bảo cho Hiến pháp, pháp luật
luôn được tôn trọng, đề cao và tuân thủ nghiêm minh. Hình thức và phương thức
bảo vệ Hiến pháp và pháp luật ở các quốc gia có thể đa dạng và khác nhau, nhưng
đều hướng tới mục tiêu là bảo đảm địa vị tối cao, bất khả xâm phạm của Hiến
pháp, loại bỏ hành vi trái với tinh thần và quy định của Hiến pháp, không phụ
thuộc và chủ thể của các hành vi này. Đồng thời với bảo vệ Hiến pháp, nhà nước
pháp quyền luôn đòi hỏi phải xây dựng và thực thi một chế độ tư pháp thật sự dân
chủ, minh bạch và trong sạch để duy trì và bảo vệ pháp chế trong mọi lĩnh vực hoạt
động của Nhà nước và xã hội.
Trong nhà nước pháp quyền, quyền lực nhà nước luôn được giới hạn trong các
mối quan hệ: Nhà nước và kinh tế; Nhà nước và xã hội. Trong mối quan hệ giữa
Nhà nước và kinh tế, vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước được xác
định bởi tính chất, trình độ của các mô hình kinh tế thị trường, theo hướng Nhà
nước tôn trọng, phát huy các quy luật khách quan của thị trường, thông qua thị
trường để điều tiết các quan hệ kinh tế, đồng thời khắc phục, hạn chế các mặt tiêu
cực của thị trường. Trong mối quan hệ với xã hội, Nhà nước thông qua luật pháp
để quản lý xã hội, tôn trọng đề cao vị trí, vai trò và quyền tự chủ (tự quản) của các
cấu trúc xã hội (các tổ chức xã hội, các cộng đồng xã hội). Mối quan hệ giữa Nhà
nước, kinh tế, xã hội là mối quan hệ tương tác, quy định và chi phối lẫn nhau. Nhà
nước không đứng trên kinh tế và xã hội. Nhà nước pháp quyền gắn liền với kinh tế
và xã hội, phục vụ kinh tế và xã hội trong phạm vi Hiến pháp và pháp luật.


a)

Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa


Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thừa nhận phương thức tổ chức, xây
dựng và vận hành bộ máy nhà nước do pháp luật quy định. Pháp luật trong Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thừa nhận tất cả quyền lực của nhà nước thuộc
về nhân dân, do nhân dân bầu ra các cơ quan quyền lực (Quốc hội, Chính phủ,...)
và chỉ có nhân dân trực tiếp hoặc thông qua các đại biểu của mình là chủ thể duy
nhất có quyền tuyên bố chấm dứt hoạt động của Quốc hội, Chính phủ hoặc tổ chức
ra Quốc hội và Chỉnh phủ nhiệm kỳ mới. Trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa, nhà nước và công dân đều phải thừa nhận tính tối cao của pháp luật và pháp
luật xã hội chủ nghĩa thể hiện ý chí, nguyện vọng của toàn thể nhân dân.
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa không thừa nhận việc phân chia
quyền lực mà coi quyền lực nhà nước là thống nhất và thuộc về nhân dân; trong đó,
có sự phân công, phối hợp, để thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp
nhằm đảm bảo cho quyền lực nhà nước thống nhất, được thực hiện với hiệu quả
cao nhất.
Về hệ thống pháp luật, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa chỉ công
nhận các quy phạm pháp luật khi nó được xác lập và thông qua theo một trình tự và
thủ tục nhất định.
Nhà nước Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
II) Vấn đề xây dựng nhà nước pháp quyền của ở Việt Nam

1. Quan điểm xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam


a) Tính tất yếu khách quan phải xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa Việt Nam
Vấn đề Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (XHCN) Việt Nam trong
Nghị quyết Đại hội XII của Đảng là nội dung trọng yếu, có nhiều điểm được bổ
sung, hoàn thiện mới. Ở nước ta, tư tưởng về một nhà nước pháp quyền đã manh
nha xuất hiện trong tư tưởng Hồ Chí Minh ngay từ khi Người đi tìm đường cứu

nước.
Từ Đại hội VII đến nay, tư tưởng về Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam
luôn được Đảng ta quan tâm, chú trọng hoàn thiện, bổ sung về mặt lý luận và từng
bước được hiện thực hóa trong thực tiễn xây dựng đất nước. Nghị quyết Đại hội
XII của Đảng về Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam được bổ sung, phát triển,
hoàn thiện và được diễn đạt khá rõ ràng so với các kỳ đại hội trước. Xuyên suốt
thời kỳ đổi mới, tư tưởng của Đảng về Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là
nhất quán và tuân thủ như một nguyên tắc, tính quy luật của quá trình phát triển đất
nước. Khi tiếp cận quan điểm về Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong
Nghị quyết Đại hội XII của Đảng là hướng tới làm rõ bản chất cách mạng, khoa
học và những bổ sung, phát triển mới, đồng thời phải cụ thể hóa vào giáo dục,
tuyên truyền để nó thâm nhập sâu rộng vào đời sống tinh thần, hoạt động thực tiễn
của quần chúng nhân dân.
Trước hết, cần nhận thức đầy đủ những nội dung thuộc bản chất khoa học,
cách mạng các quan điểm về Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong Nghị
quyết Đại hội XII của Đảng. Tư tưởng về Đảng là một bộ phận của hệ thống chính
trị và là lực lượng lãnh đạo Nhà nước luôn nhất quán, được thực hiện một cách
trung thành, xuyên suốt quá trình lãnh đạo cách mạng của Đảng ta. Tư tưởng ấy
trong Nghị quyết Đại hội XII của Đảng là sự tiếp nối, đồng thời được bổ sung, phát


triển mới phù hợp với thực tiễn đất nước và quốc tế hiện nay. Nghị quyết Đại hội
XII chỉ rõ: “Quan điểm và thể chế về Nhà nước pháp quyền XHCN được bổ sung,
hoàn thiện một bước quan trọng và cơ bản”. Khái quát trên tiếp tục khẳng định một
nguyên tắc về vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước pháp quyền XHCN Việt
Nam, đồng thời thể hiện sâu sắc nhất bản chất cách mạng, khoa học của quan điểm
này. Nó phản ánh đúng thực tiễn xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam
đã có những chuyển biến tích cực và mạnh mẽ.
Nội dung Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam có tính toàn diện,
đồng bộ trên tất cả các mặt, các phương diện, bảo đảm tính hệ thống và cho phép

hoạt động đúng nguyên tắc pháp quyền; trong đó tập trung nhất ở vấn đề lập pháp,
hành pháp, tư pháp. Về thể chế, chức năng, nhiệm vụ… của Nhà nước, Nghị quyết
Đại hội XII chỉ rõ: “… hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức… theo
quy định của Hiến pháp năm 2013, đáp ứng các đòi hỏi của Nhà nước pháp quyền
XHCN trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập
quốc tế”. Tinh thần trên được cụ thể hóa trở thành chức năng, nhiệm vụ của từng
cơ quan thuộc bộ máy Nhà nước, như: Đối với Quốc hội, Nghị quyết Đại hội XII
xác định: “… thực sự là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực
nhà nước cao nhất…”. Về Chính phủ là: “… cơ quan hành chính nhà nước cao
nhất, thực hiện quyền hành pháp, là cơ quan chấp hành của Quốc hội”. Về tư pháp
là: “… nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, từng bước hiện
đại”. Với các nội dung ấy đã thể hiện đầy đủ quan điểm về một Nhà nước pháp
quyền XHCN Việt Nam. Nội dung về: “Nhà nước pháp quyền trong điều kiện phát
triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế" được nêu
trong Nghị quyết Đại hội XII là một điểm mới, một đặc trưng cơ bản được khái
quát mang tính đặc thù hiện nay. Với sự bổ sung mới, hoàn thiện ấy đã phản ánh
đúng điều kiện, hoàn cảnh hiện nay, đồng thời cũng cho thấy yêu cầu cao về trình


độ phát triển ở tất cả các mặt, các nội dung thuộc nhà nước pháp quyền; trong đó
nổi bật nhất là tư tưởng về “nguyên tắc pháp quyền”. Đây là lần đầu tiên trong nghị
quyết “nguyên tắc pháp quyền” được khái quát. Nó như một điểm nhấn, nội dung
mới, sự khái quát hoàn chỉnh nhất từ trước đến nay, thể hiện sự phát triển tư duy
đổi mới của Đảng về Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam ở trình độ cao. Ở đó,
không chỉ thể hiện rõ quan điểm về các cơ quan trong bộ máy, mà bao hàm cả sự
hoàn thiện cơ chế vận hành, nguyên tắc tổ chức, hoạt động của nhà nước. Nghị
quyết Đại hội XII khẳng định: “Trong tổ chức và hoạt động của Nhà nước, phải
thực hiện dân chủ, tuân thủ các nguyên tắc pháp quyền…”, “… coi trọng xây dựng
nền tảng đạo đức xã hội”, cho nên càng làm rõ hơn bản chất giai cấp, đặc trưng dân
tộc và sự ưu việt, trình độ văn minh của Nhà nước ta trong Nghị quyết Đại hội XII

của Đảng.
Những vấn đề cơ bản về xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam
trong Nghị quyết Đại hội XII có tính toàn diện, trong tính chỉnh thể thống nhất rất
cao. Trong đó, những nội dung quan trọng nhất nổi lên là: “Tiếp tục quán triệt và
xử lý tốt các quan hệ lớn… giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm
chủ…”; “Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN do Đảng
lãnh đạo là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị”; “Tổ chức và hoạt
động của Nhà nước, phải thực hiện dân chủ, tuân thủ các nguyên tắc pháp
quyền…”; “Hoàn thiện thể chế, chức năng, nhiệm vụ, phương thức và cơ chế vận
hành…”; “Bảo đảm pháp luật vừa là công cụ để Nhà nước quản lý xã hội, vừa là
công cụ để nhân dân làm chủ, kiểm ra, giám sát quyền lực nhà nước. Quản lý đất
nước theo pháp luật, đồng thời coi trọng xây dựng nền tảng đạo đức xã hội”... Đây
là những nội dung có tính đặc trưng cơ bản; nguyên tắc bao trùm nhất trong xây
dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam hiện nay. Đặc biệt, quan điểm về:
“tuân thủ các nguyên tắc pháp quyền”; xây dựng Nhà nước pháp quyền mang đặc


trưng, sự phù hợp với: “... điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng
XHCN và hội nhập quốc tế”; “Quản lý đất nước theo pháp luật, đồng thời coi trọng
xây dựng nền tảng đạo đức xã hội”... là những điểm mới và rất quan trọng.
Hệ thống quan điểm của Đảng ta về Nhà nước pháp quyền XHCN
Việt Nam thể hiện rõ tính quy luật phát triển tư duy của Đảng, đồng thời cũng phản
ánh lộ trình xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong nhiệm kỳ Đại
hội XII với những thuận lợi và khó khăn cụ thể. Với bản chất cách mạng và khoa
học của các quan điểm trên là cơ sở để củng cố niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng,
về bản chất tốt đẹp và sự vững mạnh của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.
b) Quan điểm xây dựng nhà nước phá quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
hiện nay
Chủ trương xây dựng Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa của dân, do
dân, vì dân dưới sự lãnh đạo của Đảng là một bước đột phá lớn trong tư duy chính

trị của nước ta, đánh dấu một cột mốc quan trọng trong việc đổi mới hệ thống
chính trị nói chung, đổi mới của Đảng và Nhà nước ta nói riêng.
Khi chủ nghĩa xã hội bước vào cải tổ, cải cách, đổi mới, một số nhà lý
luận,chính trị gia xã hội chủ nghĩa đã đề xuất xây dựng mô hình nhà nước pháp
quyền. Đề xuất này đã làm nảy sinh những ý kiến chỉ trích, phản ứng từ không ít
người. Khi đồng nhất nhà nước pháp quyền với nhà nước tư sản, một số người đã
cho rằng, xây dựng nhà nước pháp quyền là từ bỏ chủ nghĩa xã hội. Có người lại
coi việc xây dựng nhà nước pháp quyền là thừa nhận sự phân lập các quyền lập
pháp, hành pháp và tư pháp, mà quyền lực của Nhà nước xã hội chủ nghĩa là thống
nhất, không phân chia, và do vậy, không phù hợp. Cũng có người đặt vấn đề, khi
đề cập tới nhà nước kiểu mới, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác –Lênin không
hề nói tới nhà nước pháp quyền và do vậy, xây dựng nhà nước pháp quyền trong


chủ nghĩa xã hội là không theo quan điểm của các nhà kinh điển, v.v.. Từ một phía
khác, có ý kiến lại cho rằng, trong nhà nước pháp quyền, mọi quyền lực nhà nước
đều thuộc về nhân dân, đó là nhà nước của dân, do dân, vì dân và do vậy, không
cần phải phân biệt nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa với nhà nước pháp
quyền tư bản chủ nghĩa nữa.
Sự xuất hiện những ý kiến như vậy trong giai đoạn đầu cải tổ, cải cách, đổi
mới ở các nước xã hội chủ nghĩa cũng là điều dễ hiểu. Một mặt, vấn đề nhà nước
pháp quyền tuy không phải là mới, nhưng phải nói rằng, trước đây, ở các nớc xã
hội chủ nghĩa, vấn đề này chưa được quan tâm nghiên cứu một cách đúng mức. Sự
chuẩn bị về mặt lý luận để xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa mới
chỉ là bước đầu, chưa có sự chín muồi cần thiết, những ý kiến đề xuất mô hình nhà
nước pháp quyền vẫn chỉ trên sách báo. Mặt khác, đổi mới tư duy lý luận, tư duy
chính trị đòi hỏi cũng phải có thời gian. Bởi lẽ, đây là lĩnh vực không chỉ mang
tính “nhạy cảm cao”, mà còn là lĩnh vực mà sự thay đổi không phải “một sớm một
chiều”. Đó là chưa nói đến tư duy giáo điều còn ảnh hưởng không nhỏ đối với cả
giới nghiên cứu lý luận lẫn những chính khách ở các nước xã hội chủ nghĩa.

2. Vấn đề xây dựng nhà nước phá quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện
nay
Ở nước ta, tư tưởng nhà nước pháp quyền cũng đã được thể hiện rất đậm nét
ở Hồ Chí Minh, khi Người lãnh đạo nhân dân ta xây dựng nhà nước cách mạng.
Đó là tư tưởng về xây dựng một nhà nước dân chủ, một chế độ dân chủ thực sự
theo phương châm “bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của
dân. Chính quyền từ xã đến Chính phủ trung ương do dân cử ra...Tư tưởng nhà
nước pháp quyền của Người còn thể hiện trong quyết tâm xây dựng nhà nước hợp
hiến, hợp pháp ngay trong tình thế cách mạng đang “nghìn cân treo sợi tóc”. Chỉ
một ngày sau khi đọc “Tuyên ngôn độc lập”, trong phiên họp đầu tiên của Hội


đồng Chính phủ, Hồ Chí Minh đã đề nghị Chính phủ lâm thời xác lập nền tảng dân
chủ và pháp quyền cho chế độ nhà nước cách mạng, đó là tổ chức Tổng tuyển cử
và xây dựng Hiến pháp dân chủ. Người nói: “Trước đây chúng ta bị chế độ quân
chủ chuyên chế cai trị, rồi đchế độ thực dân không kém phần chuyên chế, nên nước
ta không có hiến pháp. Nhân dân ta không được hưởng quyền tự do, dân chủ.
Chúng ta phải có một hiến pháp dân chủ. Tôi đề nghị Chính phủ tổ chức càng sớm
càng hay cuộc TỔNG TUYỂN CỬ với chế độ phổ thông đầu phiếu. Tất cả công
dân trai gái mười tám tuổi đều có quyền ứng cử và bầu cử, không phân biệt giàu
nghèo, tôn giáo, dòng giống, v.v.”.
Tuy nhiên, có thể nói, vì nhiều lý do khách quan và chủ quan, như chiến
tranh, nội chiến, quan niệm về chủ nghĩa xã hội một cách giản đơn và có phần cực
đoan khi đối lập một cách trừu tượng nhà nước tư sản với nhà nước xã hội chủ
nghĩa, đồng nhất nhà nước pháp quyền với nhà nước tư sản, coi mô hình nhà nước
pháp quyền là mang tính tư sản..., nên ở nhiều nước xã hội chủ nghĩa, trong đó có
nước ta, việc nghiên cứu và vận dụng một cách có ý thức (chủ động, tự giác) mô
hình nhà nước pháp quyền có nhiều hạn chế, nếu không muốn nói là có thời kỳ bị
lãng quên. Đó là một trong những nguyên nhân khiến dân chủ ở các nước xã hội
chủ nghĩa trở thành “có vấn đề”. Dân chủ mang nặng tínhhình thức; tình trạng độc

đoán, chuyên quyền, quan liêu có xu hướng phát triển đã làm suy yếu nhà nước. Tổ
chức bộ máy cồng kềnh, hoạt động kém hiệu lực,hiệu quả. Nhà nước quản lý, điều
hành xã hội chủ yếu bằng mệnh lệnh, chỉ thị, nghị quyết, bằng đạo lý, trong khi
pháp luật thì bị coi nhẹ.
Chính vì vậy, vấn đề dân chủ đã được đặt ra một cách bức bách ở các nước
xã hội chủ nghĩa nói chung,ở nước ta nói riêng. Trong quá trình đổi mới tư duy về
chính trị,về chủ nghĩa xã hội, nhận thức về nhà nước pháp quyền của Đảng ta ngày


càng đầy đủ hơn, rõ ràng và cụ thể hơn; quyết tâm chính trị là xây dựng nhà nước
xã hội chủ nghĩa dưới hình thức nhà nước pháp quyền cũng ngày càng cao hơn.
Trong Văn kiện Đại hội VI, quan điểm, chủ trương đổi mới Nhà nước đã
manh nha một số nội dung về Nhà nước pháp quyền. Đó là sự khẳng định “quản lý
nhà nước bằng pháp luật, chứ không phải bằng đạo lý”; phải quan tâm xây dựng
pháp luật;từng bước bổ sung và hoàn chỉnh hệ thống pháp luật để bảo đảm cho bộ
máy nhà nước được tổ chức và hoạt động theo pháp luật. Đến Đại VII, quan điểm
đổi mới Nhà nước đã được bổ sung thêm nội dung: “Nhà nước Việt Nam thống
nhất ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, với sự phân công rành mạch ba
quyền đó.
Như vậy, có thể nói, qua hai kỳ Đại hội của thời kỳ đổi mới, tư duy về đổi
mới Nhà nước theo hướng xây dựng nhà nước pháp quyền của Đảng đã có những
bước tiến quan trọng. Tuy nhiên, chỉ đến Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm
kỳ khoá VII (1994), chủ trương xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
mới được Đảng ta chính thức khẳng định và thuật ngữ “Nhà nước pháp quyền”
cũng mới lần đầu tiên được sử dụng trong văn kiện của Đảng.
Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong điều kiện chuyển
đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế thị
trường ở nước ta là việc làm mới mẻ, chưa có tiền lệ trong lịch sử, hiểu biết của
chúng ta còn ít, có nhiều việc phải vừa làm, vừa tìm tòi, rút kinh nghiệm. Điều này
đòi hỏi chúng ta cần phải thận trọng trong quyết định, cũng như trong tiến hành

thực hiện. Trong Văn kiện Đại hội VIII (1996), Đảng ta coi xây dựng Nhà nước
pháp quyền như một trong Trong chương này, tác giả còn trình bày lôgíc hình
thành cá nhân. Theo tác giả, việc nhận thức về cá nhân cũng rất quan trọng. Bởi,
chúng ta có thể thấy, những biến chuyển trong mọi lĩnh vực đời sống xã hội thường
bắt đầu từ những chuyển biến trong hoạt động của các cá nhân riêng biệt và của
các nhóm xã hội nhỏ, của những nhóm có phản ứng nhạy cảm nhất đối với sự thay


đổi của môi trường xã hội. Tất cả đều bắt đầu từ con người. Do vậy, vai trò và khả
năng của mỗi cá nhân con người là hết sức to lớn. Mỗi cá nhân con người đều có
ảnh hưởng ít nhiều đến kết quả của quá trình xã hội, đều có đóng góp nhất định cho
việc hoàn thiện cuộc sống.
II) Liên hệ thực tiễn việc xây dựng nhà nước phá quyền và đưa ra phương

hướng xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ
nghĩa
Một là, phát huy dân chủ, bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân: mở rộng
dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong xây dựng và
quản lý nhà nước. Đây là phương hướng vừa cơ bản, vừa cấp bách hàng đầu là
nhằm giữ vững và phát huy bản chất tốt đẹp của nhà nước ta, ngăn chặn và đẩy lùi
tình trạng suy thoái về đạo đức, tham nhũng, lãng phí, quan liêu sách nhiễu nhân
dân trong bộ máy nhà nước. Đây là vấn đề có ý nghĩa sống còn đối với chế độ ta.
Mở rộng dân chủ phải đi đôi với tăng cường kỷ luật, kỷ cương, quyền lợi đi đôi với
trách nhiệm, nghĩa vụ.
Hai là, đẩy mạnh xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật và tổ chức thực
hiện pháp luật


Cần tập trung xây dựng pháp luật trong lĩnh vực kinh tế như hoàn thiện pháp
luật doanh nghiệp, luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, pháp luật về sở





hữu…
Tập trung xây dựng pháp luật trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo
Tập trung xây dựng pháp luật trong lĩnh vực xã hội: trước hêt coi trọng
hoàn thiện pháp luật về chăm sóc và bảo vệ sức khỏe cho nhân dân, hoàn
thiện về p.luật dân tộc và tôn giáo, hoàn thiện p.luật về báo chí và xuất bản,
quan tâm việc xây dựng và ban hành các văn bản quy phạm pháp luật đảm


bảo thực hiện các chính sách công bằng xã hội về xóa đói, giảm nghèo về
bảo vệ người tiêu dùng…
Ba là, tiếp tục đổi mới, tổ chức, hoạt động của quốc hội: Xây dựng quốc hội
đảm bảo thực hiện được vai trò, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn do Hiến pháp và
luật quy định; bảo đảm hiệu lực, hiệu quả tính chuyên nghiệp, hiện đại, tính minh
bạch, công khai trong tổ chức, hoạt động của quốc hội. Để thực hiện tốt nội dung
nêu trên cân thực hiện nhưng giải pháp sau đây:


Tiếp tục nâng cao chất lượng, hiệu quả của việc thực hiện các chức năng của



quốc hội như lập pháp; đối nội và đối ngoại; giám sát.
Phát huy vai trò, trách nhiệm, năng lực, bản lĩnh và nghiệp vụ hành động đại
biểu của đại bểu quốc hội
Bốn là, đẩy mạnh cải cách nền hành chính nhà nước. Đây là nhiệm vụ trọng


tâm của việc xây dựng và hoàn thiện nhà nước trong những năm trước mắt, trong
đó có yêu cầu là xây dựng nếp sống và làm việc theo pháp luật trong xã hội. Cải
cách hành chính phải được tiến hành trên cơ sở pháp luật và tiến hành đồng bộ
nhưng có bước đi thích hợp trên cả ba mặt: cải cách thể chế hành chính; tổ chức bộ
máy và xây dựng, kiện toàn đội ngũ cán bộ công chức hành chính; cải cách tài
chính công.
Năm là, tiếp tục đẩy mạnh cải cách tổ chức và hoạt động tư pháp. Các cơ
quan tư pháp là các cơ quan giữ gìn và bảo vệ pháp luật mà trọng tâm là đối với tòa
án nhân dân các cấp. Vì thế toàn bộ hoạt động của nó là biểu hiệnđiển hình của
việc tuân thủ và thực hiện pháp luật. Tiếp tục sửa đổi, bổ sung hoàn thiện hệ thống
pháp luật; đổi mới tổ chức hành động của các cơ quan tư pháp; chấn chỉnh các tổ
chức và các hành động bổ trợ tư pháp; đẩy mạnh công tác xây dựng đội ngũ cán
bộ tư pháp đáp ứng về số lượng và chất lượng theo yêu cầu mới…


Sáu là, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức đủ năng lực, phẩm chất đáp ứng
yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân , do dân, vì dân:



Xây dựng và thực hiện tốt chiến lượt cán bộ
Đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức nhằm nâng cao chất
lượng về chuyên môn, nâng cao nhận thức về trình độ lý luận chính trị Mác-





Lê Nin.
Đổi mới cơ chế đánh giá , tuyển dụng cán bộ, công chức đảm bảo tính công

khai, dân chủ
Đổi mới chế độ chính sách tiền lương cho phù hợp với cán bộ, công chức.
Tăng cường công tác quản lý, kiểm tra , giám sát cán bộ, công chức
Bảy là, đẩy mạnh hoạt động đấu tranh chống quan liêu và những biểu hiện

tiêu cực khác trong bộ máy nhà nước:


Đánh gia đúng thực trạng tình hình về kết quả đấu tranh với các căn bệnh
nêu trên. Những trường hợp vi phạm phải được xử lý nghiêm minh và phải





được chuẩn mực đạo đức điều chỉnh.
Nhận thức đúng tầm quan trọng của cuộc đấu tranh chống quan liêu, tham
nhũng và những biểu hiện tiêu cực khác
Cần phải xác định đúng quan điểm và thái độ trong đấu tranh
Triển khai đồng bộ các giải pháp thực hiện để đấu tranh chống quan liêu,
tham nhũng.
Tám là, đổi mới tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước trong

điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì
dân


Kết Luận
Trong nhiều bài viết của các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước ta
những năm đã qua, cũng như trong Báo cáo chính trị của Ban chấp hành

Trung ương Đảng khóa VII trình Đại hội lần thứ VIII đều xem việc xây
dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam là một trong những nhiệm vụ trung
tâm của toàn bộ hệ thống chính trị.Xác định nhiệm vụ này, chẳng những
Đảng ta đã đứng vững trên lập trường của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật kiểu mới mà còn thể hiện sâu
sắc thái độ trân trọng và kế thừa những nhân tố hợp lý trong các học thuyết
và thực tiễn xây dựng Nhà nước pháp quyền của nhân loại.Chính vì thế, xây
dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam là một quá trình vừa vận dụng và phát
triển học thuyết Mác - Lênin về Nhà nước và pháp luật kiểu mới, lại vừa
phải tìm tòi, chọn lọc, kế thừa các nhân tố hợp lý trong các học thuyết về
Nhà

nước

pháp

quyền



thực

tiễn

áp

dụng




các

nước.

Với đề tài: “Nhà nước pháp quyền và vấn đề xây dựng nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam”, em muốn nhấn mạnh thêm rằng xây
dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân chính là tạo điều kiện
cho nhân dân có một cuộc sống ấm no, hanh phúc.Vì vậy, là một công dân
Việt Nam, chúng ta cần phải cố gắng học tập và làm việc để góp phần xây
dựng đất nước văn minh, giàu đẹp.


Tài liệu tham khảo
Trường Đại học Luật Hà Nội, 2007, Giáo trình lí luận chung về Nhà nước và
pháp luật, NXB Tư pháp
Giáo trình “ đường lối cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam”
Tạp chí cộng sản



×