Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

SKKN một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy và học môn khoa học lớp 5

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (145.35 KB, 20 trang )

- TẠO THANH HÓA
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO
PHÒNG GIÁO DỤC THÀNH PHỐ THANH HÓA
SỞ GIÁO
DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA
***************************
PHÒNG GIÁO DỤC THÀNH PHỐ THANH HÓA

***************************



SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG DẠY VÀ
HỌC MÔN KHOA HỌC LỚP 5

MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH GIẢI TOÁN VỀ
NgườiQUAN
thực hiện:
Nguyễn
Thị Nguyệt
HỆ TỈ
LỆ LỚP
5
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: TrườngTH Tân Sơn
SKKN thuộc lĩnh vực (môn): Khoa học


Người thực hiện: Nguyễn Thị Nguyệt
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: TrườngTH Tân Sơn
SKKN thuộc lĩnh vực (môn): Toán

THANH HÓA NĂM 2016
1


MỤC LỤC
Trang
I. MỞ ĐẦU

3

1. Lí do chọn đề tài.

3

2. Mục đích nghiên cứu.

4

3. Đối tượng nghiên cứu.

4

4. Phương pháp nghiên cứu.

4


II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
5
1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm.
5
2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.
5
3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề.
6 - 18
4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với bản
thân, đồng nghiệp và nhà trường.
III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

18
19

1. Kết luận.

19

2. Kiến nghị.

19

TÀI LIỆU THAM KHẢO

20

I. MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài:

2


Trong giai đoạn đổi mới và hội nhập quốc tế hiện nay, nguồn lực con
người Việt Nam trở nên có ý nghĩa quan trọng, quyết định sự thành công của
công cuộc phát triển đất nước. Giáo dục ngày càng có vai trò và nhiệm vụ
quan trọng trong việc xây dựng thế hệ người Việt Nam mới, đáp ứng yêu cầu
phát triển kinh tế - xã hội. Song song với nội dung chương trình là mục tiêu
giáo dục mà luật giáo dục đã xác định: Giúp học sinh phát triển toàn diện về
đạo đức, tri thức, thể chất thẩm mỹ và các kĩ năng cơ bản, phát triển năng lực
cá nhân, tính năng động và sáng tạo, hình thành nhân cách con người Việt
Nam xã hội chủ nghĩa, xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân, chuẩn bị
cơ sở cho học sinh tiếp tục học lên. Để đạt được mục tiêu trên, bản thân tôi
nhận thấy tầm quan trọng ở tất cả các môn học được dạy ở trường Tiểu học,
trong đó có môn khoa học. Môn khoa học góp phần không nhỏ vào việc hình
thành và phát triển toàn diện học sinh.
Môn khoa học được xây dựng trên cơ sở tiếp nối những kiến thức về tự
nhiên và xã hội của môn Tự nhiên và Xã hội lớp 1,2,3. Nội dung chương trình
được cấu trúc đồng tâm, mở rộng và nâng cao theo các chủ đề: Con người và
sức khỏe; Vật chất và năng lượng; Thực vật và động vật. Riêng lớp 5 có thêm
chủ đề Môi trường và Tài nguyên thiên nhiên nhằm giúp học sinh hệ thống
hóa lại những kiến thức các em đã được học về tự nhiên, xã hội và con người.
Tùy theo mỗi chủ đề, mỗi bài học mà giáo viên lựa chọn các phương
pháp giảng dạy khác nhau nhằm phát huy được tính tích cực của học sinh.
Tạo điều kiện để học sinh chủ động tìm tòi, tiếp nhận và chiếm lĩnh trí thức,
phát huy được quan hệ hợp tác của học sinh khi học.
Tuy nhiên, qua thực tế giảng dạy, qua dự giờ thăm lớp đồng nghiệp,
cũng như kinh nghiệm giảng dạy lớp 5 lâu năm, tôi thấy việc dạy và học môn
khoa học chưa được chú trọng, việc chuẩn bị cho tiết học chưa được chu đáo.
Vì vậy không tạo được hứng thú học tập của học sinh. Đa số học sinh nắm

nội dung bài học một cách sơ sài nên không khắc sâu được phần kiến thức
cần lĩnh hội, nhanh quên các nội dung cần ghi nhớ. Việc vận dụng những kiến
thức khoa học đã được học vào thực tế còn hạn chế. Học sinh chưa phát huy
được tính tích cực trong giờ học, chưa chịu tìm tòi để phát hiện ra kiến thức.
Vì những lí do trên, bản thân tôi đã suy nghĩ, nghiên cứu và đưa ra
“Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy và học môn khoa học lớp 5 ”
với mục đích nâng cao chất lượng môn khoa học và phát huy tích cực chủ
động, sáng tạo của học sinh trong các giờ học.
2. Mục đích nghiên cứu:
Qua việc nghiên cứu, tìm tòi và đưa ra một số giải pháp dạy học môn
khoa học, định hướng cho giáo viên thực hiện tổ chức dạy học sao cho hiệu
3


quả, phát huy được tính tích cực của học sinh; khắc phục một số hạn chế, khó
khăn và lúng túng trong quá trình dạy học. Nhằm góp phần vào tiến trình đổi
mới phương pháp dạy học, từng bước nâng cao dần chất lượng giáo dục môn
khoa học.
3. Đối tượng nghiên cứu:
Các phương pháp dạy học phát huy tính tích cực của học sinh được vận
dụng khi dạy môn khoa học ở Tiểu học.
4. Phương pháp nghiên cứu:
Trong quá trình nghiên cứu, tôi kết hợp sử dụng các phương pháp sau:
- Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lí thuyết: Đọc, phân tích, tổng hợp
các tài liệu về tâm lí giáo dục, tâm lí trẻ em, những tài liệu có liên quan đến
đề tài nghiên cứu.
- Phương pháp điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin: Điều tra bằng
phiếu để thăm dò tình hình học tập môn khoa học của học sinh; Trao đổi với
đồng nghiệp để có thêm thông tin về việc dạy học môn khoa học.
- Phương pháp thực nghiệm: Tôi dạy thực nhiệm ở lớp mình chủ nhiệm để

khẳng định kinh nghiệm của mình là có hiệu quả.
- Phương pháp thống kê, xử lý số liệu: Xử lý các số liệu thu được từ điều tra
thực tiễn dạy học.
- Ngoài ra tôi còn sử dụng phương pháp quan sát, phương pháp đàm thoại,..

II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
1. Cơ sở lí luận:
4


Khoa học lớp 5 cũng là một trong những môn học chiếm vị trí quan
trọng ở bậc Tiểu học với thời lượng 2 tiết/ tuần. Đây là môn học tích hợp các
nội dung của khoa học tự nhiên như vật lí, hóa học, sinh học với khoa học về
sức khỏe con người. Vì vậy, môn học này có nhiều điều kiện thuận lợi để vận
dụng các phương pháp dạy học tiên tiến, hiện đại vào quá trình dạy học để
bước đầu hình thành cho học sinh phương pháp học tập mang tính chất tự tìm
tòi nghiên cứu, rèn luyện nếp tư duy sáng tạo cho học sinh.
Dạy môn khoa học cần chú trọng phát huy tính tích cực của học sinh.
Tạo điều kiện để học sinh chủ động tìm tòi, tiếp nhận và chiếm lĩnh tri thức,
chú ý khả năng tự học của học sinh, phát huy được quan hệ hợp tác của học
sinh khi học. Chính vì vậy người giáo viên cần biết phối kết hợp các phương
pháp dạy học như : Phương pháp quan sát; phương pháp thí nghiệm; phương
pháp nhóm; phương pháp trò chơi học tập …nhằm khuyến khích sự tò mò
khoa học, thói quen đặt câu hỏi, tìm câu giải thích khi các em được tiếp cận
với thực tế, qua đó các em dễ dàng ghi nhớ nội dung bài học.
2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.
a. Về giáo viên:
Thực tiễn dạy học môn khoa học ở trường Tiểu học cho thấy, giáo viên
còn gặp nhiều khó khăn trong việc vận dụng các phương pháp dạy học tích
cực. Phương pháp dạy học truyền thống vẫn chiếm ưu thế, học sinh học tập

còn thụ động. Các thí nghiệm trong bài còn mang tính chất minh họa. Giáo
viên còn tự mình trình bày, biểu diễn các thí nghiệm thực hành để minh họa
cho kiến thức của bài học mà ít tổ chức cho học sinh tham gia hoạt động để
các em chiếm lĩnh tri thức khoa học một cách chủ động, thoả mãn nhu cầu
tìm tòi hiểu biết, óc tò mò khoa học của học sinh. Vì vậy các giờ học còn
mang tính áp đặt, kiến thức mà học sinh chiếm lĩnh trong giờ học chưa cao,
các em ít được tham gia vào quá trình dạy học.
Bên cạnh đó, việc sử dụng đồ dùng học tập, các thiết bị dạy học chưa
được giáo viên khai thác triệt để vào các tiết dạy. Việc giáo dục kĩ năng sống
qua từng tiết học chưa có hiệu quả đối với học sinh.
b. Về học sinh:
Học sinh chưa có ý thức học tập, chưa tự giác trong quá trình hợp tác,
trao đổi với bạn bè, với thầy cô giáo, chưa tự giác trong học tập. Nhiều em
chưa nhận thức đúng vai trò của môn khoa học, xem môn học như môn phụ.
Học sinh chưa ý thức được nhiệm vụ của mình, chưa chịu khó, chưa tích cực
tư duy, tìm tòi cho mình những phương pháp học đúng để biến tri thức của
thầy cô thành tri thức của riêng mình. Các em học tập một cách thụ động,
không hứng thú trong giờ học. Vì vậy kết quả chưa cao.
c. Khảo sát đầu năm:
Tổng số học sinh tham gia khảo sát : 42 học sinh lớp 5A.
5


Mức độ
Hoàn thành
Chưa hoàn thành

Số lượng

Tỉ lệ %


36 học sinh
6 học sinh

85,7%
14,3 %

Từ thực trạng trên và qua kinh nghiệm dạy học lớp 5 lâu năm, tôi đã
tìm tòi, nghiên cứu và đưa ra một số giải pháp dạy học môn khoa học nhằm
nâng cao chất lượng môn học.
3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề:
3.1. Dạy học theo phương pháp “Bàn tay nặn bột”.
Phương pháp “Bàn tay nặn bột” là một phương pháp dạy học mà trong
đó học sinh tiến hành các thao tác trí tuệ có sự hỗ trợ của một số dụng cụ và
những giác quan để nghiên cứu, tìm tòi, khám phá ra tri thức mới. Tất cả suy
nghĩ và kết quả được học sinh mô tả lại bằng chữ viết, lời nói, hình vẽ. Đây
là một phương pháp dạy học tích cực, thích hợp cho việc giảng dạy các kiến
thức khoa học tự nhiên, đặc biệt là đối với bậc Tiểu học, khi các em đang ở
giai đoạn bắt đầu tìm hiểu các kiến thức về khoa học.
“Bàn tay nặn bột” là một phương pháp dạy học mới nhằm thực hiện đổi
mới phương pháp dạy học trên tinh thần của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Sau khi
được triển khai và áp dụng vào dạy học đã mang lại kết quả nhất định trong
các trường Tiểu học.
* Phương pháp Bàn tay nặn bột có tác dụng:
+ Giúp học sinh đi sâu vào tìm hiểu bản chất các sự vật, hiện tượng.
+ Học sinh được bắt tay vào hành động, tự tìm ra kiến thức cho mình, được
sử dụng như “nguồn” dẫn học sinh đi tìm tri thức mới, vì thế các em sẽ hiểu
sâu và nhớ lâu.
+ Rèn luyện cho học sinh một số kĩ năng: Tiếp cận vấn đề, đặt ra tình huống,
nêu các giả thuyết, nhận định đề xuất, tiến hành thí nghiệm và đối chiếu.

+ Học sinh tích cực, năng động, có tinh thần trách nhiệm, tính nghiêm túc
trong học tập và thực hiện các hoạt động học được yêu cầu bởi giáo viên.
* Các bước của tiến trình dạy học:
Bước 1: Tình huống xuất phát và câu hỏi nêu vấn đề.
Tình huống xuất phát hay tình huống nêu vấn đề là một tình huống do
giáo viên chủ động đưa ra như là một cách dẫn nhập vào bài học. Tình huống
xuất phát phải ngắn gọn, gần gũi dễ hiểu đối với học sinh.
Câu hỏi nêu vấn đề là câu hỏi lớn của bài học. Câu hỏi nêu vấn đề cần
đảm bảo yêu cầu phù hợp với trình độ, gây mâu thuẫn nhận thức và kích thích
tính tò mò, thích tìm tòi, nghiên cứu của học sinh nhằm chuẩn bị tâm thế cho
học sinh trước khi khám phá, lĩnh hội kiến thức.
Bước 2: Bộc lộ biểu tượng ban đầu.
6


Hình thành biểu tượng ban đầu là bước quan trọng, đặc trưng của
phương pháp “ Bàn tay nặn bột”. Bước này khuyến khích học sinh nêu những
suy nghĩ, nhận thức ban đầu của mình trước khi được học kiến thức. Hình
thành biểu tượng ban đầu, giáo viên có thể yêu cầu học sinh nhắc lại kiến
thức cũ đã học có liên quan đến kiến thức mới của bài học. Khi yêu cầu học
sinh trình bày biểu tượng ban đầu, giáo viên có thể yêu cầu dưới nhiều hình
thức như bằng lời nói (thông qua phát biểu cá nhân), bằng cách viết hay vẽ để
biểu hiện suy nghĩ.
Bước 3: Đề xuất câu hỏi và phương án thí nghiệm.
Từ những khác biệt và phong phú về biểu tượng ban đầu của học sinh,
giáo viên giúp học sinh đề xuất các câu hỏi từ những sự khác biệt đó.
Ở bước này giáo viên cần khéo léo chọn lựa một số biểu tượng ban đầu
khác biệt để giúp học sinh so sánh, từ đó giúp học sinh đặt câu hỏi liên quan
đến nội dung bài học. Việc chọn lựa các biểu tượng ban đầu không tốt sẽ dẫn
đến việc so sánh và đề xuất câu hỏi của học sinh gặp khó khăn.

Bước 4: Tiến hành thí nghiệm tìm tòi - nghiên cứu.
Khi tiến hành thí nghiệm, giáo viên cần nêu rõ yêu cầu và mục đích thí
nghiệm hoặc yêu cầu học sinh cho biết mục đích thí nghiệm chuẩn bị tiến
hành để làm gì? Lúc này giáo viên mới phát các dụng cụ và vật liệu thí
nghiệm tương ứng với hoạt đông.
Giáo viên lưu ý học sinh ghi chép lại kết quả thực hiện thí nghiệm, kết
luận sau thí nghiệm.
Khi học sinh làm thí nghiệm, giáo viên bao quát lớp, quan sát từng
nhóm. Nếu thấy nhóm hoặc học sinh nào làm sai theo yêu cầu thì giáo viên
chỉ nhắc nhỏ trong nhóm đó hoặc với riêng học sinh đó, không nên thông báo
lớn tiếng chung cho cả lớp vì làm như vậy sẽ phân tán tư tưởng và ảnh hưởng
đến công việc của các nhóm học sinh khác.
Bước 5: Kết luận, hợp thức hóa kiến thức.
Sau khi thực hiện thí nghiệm tìm tòi - nghiên cứu, các câu trả lời dần
dần được giải quyết, kiến thức được hình thành, tuy nhiên vẫn chưa có hệ
thống hoặc chưa chuẩn xác một cách khoa học. Giáo viên có nhiệm vụ tóm
tắt, kết luận và hệ thống lại để học sinh ghi vào vở coi như là kiến thức của
bài học. Trước khi kết luận chung, giáo viên yêu cầu học sinh nêu ý kiến của
nhóm sau khi thực hiện thí nghiệm (rút ra kiến thức của bài học). Giáo viên
khắc sâu kiến thức cho học sinh bằng cách cho học sinh nhìn lại, đối chiếu lại
với các ý kiến ban đầu (biểu tượng ban đầu) trước khi học kiến thức. Như vậy
từ những quan niệm ban đầu sai lệch, sau quá trình thí nghiệm tìm tòi nghiên cứu, chính học sinh tự phát hiện ra mình sai hay đúng mà không phải
do giáo viên nhận xét một cách áp đặt. Chính học sinh tự phát hiện những sai
7


lệch trong nhận thức và tự sửa chữa, thay đổi một cách chủ động. Những thay
đổi này sẽ giúp học sinh ghi nhớ lâu hơn, khắc sâu kiến thức.
* Ví dụ 1: Bài 30 : CAO SU
I. Mục tiêu :

- Nhận biết một số tính chất của cao su.
- Nêu được một số công dụng, cách bảo quản các đồ dùng bằng cao su .
II. Chuẩn bị dùng dạy học:
- Học sinh chuẩn bị theo nhóm: 1 quả bóng cao su, 1 dây cao su; 1 ly
nước, 1mảnh săm xe đạp.
- Chuẩn bị vở thí nghiệm, bút, bảng nhóm.
- Giáo viên: một cây nến, một bật lửa.
III. Cách tiến hành:
Bước 1: Tình huống xuất phát và câu hỏi nêu vấn đề.
- Giáo viên nêu yêu cầu: Em hãy kể tên các đồ dùng được làm bằng cao su?
- Giáo viên tổ chức trò chơi “Truyền điện” để học sinh kể được các đồ dùng
làm bằng cao su.
- Sau khi kết thúc trò chơi, giáo viên đưa ra câu hỏi: Theo em, cao su có tính
chất gì?
Bước 2: Bộc lộ quan điểm ban đầu của học sinh.
Từ câu hỏi nêu vấn đề của giáo viên, học sinh bộc lộ những suy nghĩ của
mình và ghi vào vở thí nghiệm:
- Cao su có tính đàn hồi.
- Cao su tan trong nước.
- Cao su không tan trong nước.
- Cao su cách nhiệt.
Bước 3: Đề xuất câu hỏi và phương án thí nghiệm.
* Đề xuất câu hỏi: Từ kết quả thảo luận khác nhau của các nhóm, học sinh
đưa ra các câu hỏi đề xuất:
- Tính đàn hồi của cao su như thế nào?
- Cao su có tan trong nước không?
- Cao su có thể cách nhiệt được không?...
* Đề xuất phương án thí nghiệm:
Học sinh tiến hành thí nghiệm
Bước 4: Tiến hành thí nghiệm, tìm tòi.

* GV tổ chức cho HS thực hành theo nhóm:
+ Thí nghiệm 1: Ném quả bóng cao su xuống nền nhà.
+ Thí nghiệm 2: Kéo căng sợi dây cao su cho dãn ra sau đó buông tay.
+ Thí nghiệm 3: Nhúng mảnh săm cao su vào ly nước.
* HS quan sát và ghi kết quả vào vở thực hành thí nghiệm:
8


Các thí nghiệm
+ Thí nghiệm 1: Ném quả bóng cao
su xuống nền nhà.

Kết quả
- Quả bóng nảy lên.

+ Thí nghiệm 2: Kéo căng sợi dây
cao su cho dãn ra sau đó buông tay.
+ Thí nghiệm 3: Nhúng mảnh săm
cao su vào ly nước.

- Sợi dây cao su trở về hình dáng cũ.
+ Mảnh cao su không tan.

+ Thí nghiệm 4: Giáo viên cùng học sinh làm trước lớp.
- Giáo viên mời 1 học sinh lên cầm 1 đầu sợi dây cao su, đầu kia giáo viên bật
lửa đốt ( mời lần lượt đại diện mỗi nhóm một em lên cầm). Hỏi học sinh: Em
có thấy nóng tay không? ( không bị nóng). Điều đó chứng tỏ điều gì?
Bước 5: Kết luận và rút ra kiến thức.
- Giáo viên tổ chức cho các nhóm báo cáo kết quả sau khi trình bày thí
nghiệm.

- Giáo viên hướng dẫn học sinh so sánh kết quả thí nghiệm với các suy nghĩ
ban đầu để khắc sâu kiến thức.
- Học sinh nêu tính chất của cao su: cao su có tính đàn hồi tốt; ít bị biến đổi
khi gặp nóng, lạnh; cách nhiệt; không tan trong nước.
- Giáo viên kết luận về cao su:
+ Cao su có hai loại, cao su tự nhiên và cao su nhân tạo. Cao su tự nhiên được
chế biến từ nhựa cây cao su. Cao su nhân tạo thường được chế biến từ than
đá, dầu mỏ.
+ Cao su có tính đàn hồi tốt; ít bị biến đổi khi gặp nóng, lạnh; cách điện, cách
nhiệt; không tan trong nước, tan trong một số chất lỏng khác.
+ Cao su được sử dụng để làm săm, lốp xe; làm các chi tiết của một số đồ
điện, máy móc và đồ dùng trong gia đình.
* Ví dụ 2: Bài 53: CÂY CON MỌC LÊN TỪ HẠT
Mục tiêu: Chỉ trên hình vẽ hoặc vật thật cấu tạo của hạt gồm: vỏ, phôi, chất
dinh dưỡng dự trữ.
Hoạt động 1: Tìm hiểu cấu tạo của hạt (Phương pháp “Bàn tay nặn bột”)
1. Chuẩn bị:
* Giáo viên:
- Hạt đậu Hà Lan. ( Ngâm trước vào nước lạnh khoảng 30 phút trước khi tiến
hành tiết dạy để học sinh dễ tách), hạt lạc, hạt xoài…
- Giấy vẽ và bút dạ.
*Học sinh:
- Chuẩn bị theo nhóm: Các loại hạt: Hạt đậu, hạt lạc, hạt xoài…
- Dao nhỏ để tách hạt.
9


2. Cách tiến hành:
Bước 1: Tình huống xuất phát và câu hỏi nêu vấn đề.
- Giáo viên đưa ra một vài loại hạt ( hạt đậu, hạt lạc, hạt xoài... ) học sinh

quan sát. Giáo viên đặt câu hỏi nêu vấn đề:
- Quan sát và cho biết đây là hạt ǵì? ( Học sinh nêu tên từng loại hạt)
- Theo các em trong hạt có gì?
Bước 2: Bộc lộ quan điểm ban đầu của học sinh.
Từ câu hỏi nêu vấn đề của giáo viên, học sinh bộc lộ những suy nghĩ của
mình bằng cách thảo luận nhóm sau đó vẽ và ghi chú tên các bộ phận của hạt
và bên trong hạt.
Kết quả thảo luận của các nhóm:
- Hạt có vỏ, phôi, ruột.
- Hạt có vỏ, mầm, ruột.
- Hạt có vỏ, phôi, cây con.
- Hạt có vỏ, phôi, chất dinh dưỡng.
Bước 3: Đề xuất câu hỏi và phương án thí nghiệm.
* Đề xuất câu hỏi: Từ kết quả thảo luận khác nhau của các nhóm, HS đưa ra
các câu hỏi đề xuất:
- Có phải bên trong hạt có cây con?
- Có phải bên trong hạt có phôi?
- Có phải bên trong hạt có mầm?
- Có phải bên trong hạt có chất dinh dưỡng?
* Đề xuất phương án thí nghiệm: Vậy để biết trong hạt có gì, giáo viên yêu
cầu học sinh đưa ra các phương án và chọn phương án tốt nhất.
+ Các phương án:
- Tách hạt ra để quan sát bên trong.
- Xem hình vẽ trong sách giáo khoa.
- Xem tranh vẽ khoa học chụp hình cấu tạo bên trong hạt đậu…
+ Chọn phương án tốt nhất: Tách hạt ra để quan sát.
Bước 4: Tiến hành thí nghiệm tìm tòi - Nghiêm cứu.
- Giáo viên cho các nhóm học sinh thực hiện phương án tách hạt ( hạt đậu,
lạc, xoài) ra để quan sát tìm hiểu cấu tạo bên trong hạt.
- Yêu cầu học sinh quan sát về các bộ phận bên trong của hạt. Sau đó vẽ và

ghi chú lại xem trong hạt có những gì?
+ Kết quả thảo luận của các nhóm:
- Hạt có vỏ, phôi, ruột.
- Hạt có vỏ, mầm, ruột.
- Hạt có vỏ, phôi, chất dinh dưỡng.
- Hạt có vỏ, chất dinh dưỡng, phôi.
Bước 5: Kết luận và rút ra kiến thức:
Từ kết quả thảo luận của học sinh, giáo viên cho học sinh quan sát
thêm một tranh vẽ phóng to cấu tạo bên trong hạt đậu ( phóng lên màn hình
bằng máy chiếu).
10


Học sinh quan sát tranh vẽ về cấu tạo bên trong của hạt đậu, vẽ lại
hình và ghi chú lại kết quả. Lúc này học sinh sẽ tự điều chỉnh các thuật ngữ
khoa học cần chú thích trong hình vẽ mà các em làm chưa đúng.
Giáo viên giới thiệu cấu tạo bên trong của hạt đậu với hình vẽ khoa học
có sẵn (Hạt gồm: Vỏ, phôi, chất dinh dưỡng dự trữ).
3. 2. Tăng cường tổ chức các trò chơi học tập.
Vui chơi là một hoạt động không thể thiếu được của con người ở mọi
lứa tuổi, đặc biệt ở lứa tuổi tiểu học. Bởi lẽ, nó phù hợp với đặc điểm tâm
sinh lý của lứa tuổi này. Trò chơi không chỉ là một “công cụ” dạy học mà nó
còn là con đường sáng tạo xuyên suốt quá trình học tập của học sinh. Phương
pháp tổ chức trò chơi không chỉ là sự đánh giá trong quá trình dạy và học của
thầy và trò mà nó còn tạo cảm giác thoải mái, tự tin, sự sáng tạo, nhanh trí, óc
tư duy, tưởng tượng của học sinh. Thông qua trò chơi, học sinh được tập
luyện, làm việc cá nhân, làm việc theo đơn vị tập thể theo sự phân công với
tinh thần hợp tác. Đây là một trong những phương pháp dạy học có hiệu quả
nhằm khuyến khích sự tò mò khoa học, thói quen đặt câu hỏi, tìm câu giải
thích khi các em được tiếp cận với thực tế, qua đó các em dễ dàng ghi nhớ nội

dung bài học.
* Vai trò của trò chơi học tập:
+ Làm thay đổi hình thức học tập.
+ Làm không khí trong lớp học được thoải mái, dễ chịu hơn.
+ Làm quá trình học tập trở thành một hình thức vui chơi hấp dẫn.
+Học sinh thấy vui, nhanh nhẹn, cởi mở hơn.
+ Học sinh tiếp thu bài tự giác, tích cực hơn.
* Các yêu cầu của trò chơi học tập:
+ Trò chơi phải thú vị để học sinh thích được tham gia.
+ Trò chơi phải thu hút được đa số ( hay tất cả) học sinh tham gia.
+ Trò chơi phải đơn giản, dễ thực hiện.
+ Trò chơi không được tốn nhiều thời gian, sức lực để không ảnh hưởng đến
các hoạt động tiếp theo của tiết học hoặc ảnh hưởng đến tiết học khác.
+ Trò chơi phải có mục đích học tập, không đơn thuần là trò chơi giải trí.
* Cách tổ chức một trò chơi học tập:
+ Giáo viên giới thiệu tên trò chơi, hướng dẫn cách chơi, thời gian chơi và
phổ biến luật chơi.
+ Tổ chức cho học sinh chơi thử ( nếu cần thiết).
+ Học sinh tiến hành chơi thật.
+ Nhận xét kết quả của trò chơi ( có thể tuyên dương người thắng cuộc, động
viên người thua cuộc), nhận xét thái độ của người tham dự và rút kinh
nghiệm.
+ Kết thúc: Giáo viên yêu cầu học sinh nêu những gì các em đã học được qua
trò chơi hoặc giáo viên tổng kết lại những gì cần học qua trò chơi này.

11


Môn khoa học lớp 5 có rất nhiều tiết học cần sử dụng đến phương pháp
Trò chơi học tập. Trò chơi học tập trong môn khoa học lớp 5 được vận dụng

với mục đích: chơi để khám phá, hình thành kiến thức mới và chơi để củng
cố, hệ thống hoá kiến thức đã học. Ví dụ:
* Trò chơi để hình thành kiến thức mới:
+ Bài 1 (Trang 4): Trò chơi “Bé là con ai?”- Học sinh nhận ra mỗi trẻ em đều
do bố, mẹ sinh ra và có đặc điểm giống với bố, mẹ mình.
+ Bài 2-3 (Trang 6): Trò chơi “Ai nhanh, ai đúng?”- Học sinh phân biệt được
các đặc điểm về mặt sinh học và xã hội giữa nam và nữ.
+ Bài 9,10 (Trang 20): Trò chơi “Chiếc ghế nguy hiểm” - Học sinh nhận ra:
nhiều khi biết chắc hành vi nào đó sẽ gây nguy hiểm cho bản thân hoặc người
khác mà có người vẫn làm. Từ đó, học sinh có ý thức tránh xa nguy hiểm.
+ Bài 36 (Trang 74): Trò chơi “Tách các chất ra khỏi hỗn hợp” - Học sinh biết
được các phương pháp tách riêng các chất trong một số hỗn hợp.
+ Bài 38,39 (Trang 78): Trò chơi “Bức thư bí mật”- Học sinh biết vai trò của
nhiệt trong biến đổi hoá học.
+ Bài 57 (Trang 116): Trò chơi “Bắt trước tiếng kêu”- Học sinh biết được đặc
điểm sinh sản của ếch...
* Trò chơi để củng cố, hệ thống hoá kiến thức:
+ Bài 7 (Trang 16): Trò chơi “ Ai? Họ đang ở giai đoạn nào của cuộc đời? ” Củng cố cho học sinh những hiểu biết về tuổi vị thành niên, tuổi trưởng
thành, tuổi già; Học sinh xác định được bản thân đang ở vào giai đoạn nào
của cuộc đời.
+ Bài 11 (Trang 24): Trò chơi “Ai nhanh, ai đúng?”- Củng cố về giá trị dinh
dưỡng của thuốc và cách sử dụng thuốc an toàn.
+ Bài 33- 34 (trang 68): Trò chơi “Đoán chữ” - Củng cố kiến thức về chủ
đề:Con người và sức khoẻ.
+ Bài 52 (trang 106): Trò chơi “Ghép chữ vào hình” - Củng cố về sự thụ
phấn, thụ tinh của thực vật có hoa.
+ Bài 60 (trang 122): Trò chơi “Hươu mẹ dạy hươu con tập chạy?” - Củng cố
kiến thức về tập tính dạy con của một số loài thú.
+ Tiết 69 (trang 142): Trò chơi “Đoán chữ?” - Củng cố kiến thức có liên quan
đến sự ô nhiễm môi trường…

* Ví dụ 1: Bài 9 - 10: THỰC HÀNH: NÓI “ KHÔNG !” ĐỐI VỚI CÁC
CHẤT GÂY NGHIỆN.
Trò chơi : “Chiếc ghế nguy hiểm”
+ Mục tiêu: Học sinh nhận ra: nhiều khi biết chắc hành vi nào đó sẽ gây nguy
hiểm cho bản thân hoặc người khác mà có người vẫn làm. Từ đó, học sinh có
ý thức tránh xa nguy hiểm.
+ Chuẩn bị: Một chiếc ghế có phủ một chiếc khăn.
+ Cách tiến hành:
Bước 1: GV phổ biến cách chơi và luật chơi.
12


Giáo viên chỉ vào chiếc ghế và nói: Đây là một chiếc ghế rất nguy hiểm
vì nó đã nhiễm điện cao thế, ai chạm vào sẽ bị điện giật chết. Ai tiếp xúc với
người chạm vào ghế cũng bị chết vì điện giật. Chiếc ghế này sẽ được đặt ở
giữa cửa, khi các con từ ngoài cửa đi vào hãy cố gắng đừng chạm vào ghế.
Bạn nào không chạm vào ghế nhưng chạm vào người bạn đã đụng vào ghế
cũng bị điện giật.
Bước 2: Tổ chức cho học sinh chơi.
- Giáo viên yêu cầu cả lớp đi ra ngoài hành lang.
- Giáo viên để chiếc ghế ở ngay giữa cửa ra vào và yêu cầu cả lớp đi vào.
Giáo viên nhắc học sinh đi qua chiếc ghế phải rất cẩn thận để không chạm
vào ghế.
( Tình huống có thể xảy ra như sau: Các em đi đầu rất thận trọng và cố gắng
không chạm vào ghế, sau đó có em cố ý chạm vào ghế, có em cố ý dẩy bạn
chạm vào ghế, vài em đi sau cảnh giác và né tránh được để không chạm vào
người em đã bị chạm vào ghế,...)
Bước 3: Nhận xét, kết luận.
Sau khi học sinh về chỗ ngồi của mình, giáo viên nêu câu hỏi thảo luận:
+ Em cảm thấy thế nào khi đi qua chiếc ghế? ( Em cảm thấy rất sợ hãi, em

không sợ vì em nghĩ mình sẽ cẩn thận để không chạm vào ghế,…)
+ Tại sao khi đi qua chiếc ghế em đi chậm lại và rất thận trọng để không
chạm vào ghế? ( Để tránh bị điện giật gây nguy hiểm đến bản thân,…).
+ Tại sao có người biết là chiếc ghế rất nguy hiểm mà vẫn đẩy bạn, làm cho
bạn chạm vào ghế? ( Em vô tình bước nhanh làm bạn ngã, em thử xem bạn có
bị điện giật hay không ?,…)
+ Tại sao khi bị xô vào ghế, em cố gắng tránh để không ngã vào ghế? ( Để
không bị điện giật, gây nguy hiểm cho bản thân).
+ Tại sao có người lại tự mình thử chạm tay vào ghế?( Em muốn biết chiếc
ghế này có nguy hiểm thật không ?,…)
+ Sau khi chơi trò chơi “Chiếc ghế nguy hiểm” em có nhận xét gì ?( Khi đã
biết những gì là nguy hiểm, chúng ta hãy tránh xa : chúng ta phải thận trọng,
tránh xa những nơi nguy hiểm…)
Kết luận: Chiếc ghế bị nhiễm điện cao thế này cũng giống như
rượu,bia, thuốc lá, ma túy. Rượu, bia, thuốc lá, ma túy là chất gây nghiện.
Điều đó ai cũng biết. Nhưng qua trò chơi chúng ta cũng giải thích tại sao có
nhiều người biết chắc là nguy hiểm nếu thực hiện một hành vi nào đó như hút
thuốc lá, uống rượu, bia, sử dụng ma túy là gây nguy hiểm cho bản thân mình
hoặc những người xung quanh mà họ vẫn làm, thậm chí đẩy người khác vào
chỗ chết. Có những người chỉ vì tính tò mò mà gây ra nguy hại. Nhưng các
em cũng biết, nếu thận trọng và có mong muốn tránh xa nguy hiểm thì chúng
ta vẫn sống an toàn.
* Ví dụ 2: Bài 52: SỰ SINH SẢN CỦA THỰC VẬT CÓ HOA
Trò chơi : “Ghép chữ vào hình”
13


+ Mục tiêu: Củng cố cho học sinh kiến thức về sự thụ phấn, thụ tinh của thực
vật có hoa.
+Chuẩn bị: - 2 tranh câm: Sơ đồ cơ quan sinh sản của thực vật có hoa:


- 2 bộ thẻ chữ có ghi tên các bộ phận của cơ quan sinh sản của thực vật có hoa,bỏ
vào 2 cái hộp riêng biệt.
Hạt phấn

Đầu nhụy

Vòi nhụy

Ống phấn

Bao phấn

Bầu nhụy
Noãn

+ Cách tiến hành:
Bước 1: Giáo viên phổ biến cách chơi và luật chơi.
- Có 2 đội chơi, mỗi đội 7 em, các em trong đội của mình sẽ lên một chọn
một tấm thẻ có ghi chú thích( hạt phấn; ống phấn ; bao phấn ; bầu nhụy ; đầu
nhụy ; noãn ; vòi nhụy ) trong hộp để gắn vào sơ đồ câm: “Cơ quan sinh sản
của thực vật có hoa” . Mỗi em chỉ được gắn một lần, bạn sau có thể sửa lại
cho bạn trước trong đội của mình, hết lượt mình, sẽ xuống đứng vào cuối
hàng của đội. Đội nào nhanh và đúng hơn là đội thắng cuộc, thời gian tối đa
là 3 phút.
14


- Giáo viên và học sinh cử học sinh tham gia chơi( học sinh có thể xung
phong tham gia chơi, nếu không đủ thì giáo viên cử thêm).

Bước 2: Học sinh chơi như đã hướng dẫn.
Bước 3: Nhận xét, đánh giá.
- Giáo viên cùng học sinh nhận xét.
- Tuyên dương đội thắng cuộc.
3. 3. Vận dụng Phương pháp làm việc theo nhóm.
Dạy học theo nhóm là phương pháp giảng dạy trong đó giáo viên tổ chức
cho học sinh theo từng nhóm nhỏ để thực hiện các hoạt động như: thảo luận,
đóng vai, giải quyết vấn đề,... Mỗi thành viên trong nhóm không chỉ có trách
nhiệm thực hiện các hoạt động của nhóm mà còn phải có trách nhiệm hợp tác,
giúp đỡ các thành viên trong nhóm hoàn thành các nhiệm vụ được giao.
* Phương pháp làm việc theo nhóm có tác dụng:
- Nhằm thực hiện đổi mới phương pháp dạy học phát huy tính tích cực
chủ động sáng tạo của học sinh, đảm bảo nguyên tắc “Dạy học thông qua
cách tổ chức các hoạt động học tập của học sinh”. Việc dạy học theo nhóm
nhỏ cho phép học sinh có nhiều cơ hội để diễn đạt và khám phá ý tưởng của
mình, mở rộng suy nghĩ, rèn luyện kĩ năng nói, kĩ năng giao tiếp. Học sinh
vừa phát huy được vai trò của cá nhân, vừa có cơ hội để học tập từ các bạn
qua cách làm việc hợp tác giữa các thành viên trong nhóm. Việc tổ chức cho
học sinh làm việc theo nhóm chính là tạo điều kiện cho tất cả học sinh tham
gia vào bài học một cách chủ động và tạo được một môi trường thuận lợi để
trẻ hình thành tính cách đồng thời phát triển kĩ năng sống của mình.
- Nhằm phát triển kĩ năng sử dụng ngôn ngữ và khả năng giao tiếp cho
mọi đối tượng học sinh:
- Nhằm rèn luyện và phát triển “năng lực hợp tác” cho học sinh - một
trong những mục tiêu giáo dục hàng đầu hiện nay.
* Trình tự tiến hành dạy học theo nhóm:
Bước 1: Làm việc chung cả lớp
- Giáo viên nêu nhiệm vụ cần thảo luận.
- Chia nhóm, giao nhiệm vụ cho các nhóm, quy định thời gian và phân công
vị trí làm việc cho các nhóm.

- Hướng dẫn cách làm việc theo nhóm (nếu cần).
Bước 2: Làm việc theo nhóm
- Phân công trong nhóm, từng cá nhân làm việc độc lập.
- Trao đổi ý kiến, thảo luận trong nhóm.
- Cử đại diện trình bày kết quả làm việc của nhóm.
Bước 3: Làm việc cả lớp
- Đại diện từng nhóm trình bày kết quả thảo luận của nhóm.
- Các nhóm khác quan sát, lắng nghe, và bổ sung ý kiến.
- GV tổng kết và nhận xét, đặt vấn đề cho bài tiếp theo hoặc vấn đề tiếp theo.
15


*Một số lưu ý khi tổ chức dạy học theo nhóm:
- Sắp xếp bàn ghế thuận tiện cho việc học nhóm.
- Luôn tạo không khí thoải mái, vui vẻ trong giờ học.
- Chuẩn bị tốt nội dung thảo luận cho từng nhóm.
- Cần quy định rõ thời gian thảo luận nhóm và trình bày kết quả thảo luận cho
các nhóm.
* Ví dụ :
Bài 54: CÂY CON CÓ THỂ MỌC LÊN TỪ MỘT SỐ BỘ
PHẬN CỦA CÂY MẸ
Hoạt động 1: Quan sát
* Mục tiêu:
- Quan sát, tìm vị trí chồi ở một số cây khác nhau.
- Kể được tên một số cây có thể mọc từ thân, cành, lá, rễ của cây mẹ.
* Cách tiến hành: Học sinh làm việc theo nhóm.
Bước 1: Làm việc chung cả lớp:
- Giáo viên nêu nhiệm vụ:
Quan sát các hình vẽ trong sách giáo khoa ( trang 110), kết hợp với quan
sát vật thật các em mang đến lớp, hãy:

+ Tìm chồi của ngọn mía, củ khoai tây, lá bỏng, củ gừng, hành, tỏi.
+ Chỉ vào trong hình 1 trang 110 sách giáo khoa và nói về cách trồng mía.
- Chia nhóm: Học sinh làm việc theo nhóm 4, thời gian 5 phút.
Bước 2: Làm việc theo nhóm:
+ Nhóm trưởng điều khiển nhóm mình làm việc theo yêu cầu của giáo viên.
- Chỉ chồi của ngọn mía trên hình 1a (và trên vật thật), chồi mọc ra từ vị trí
nào trên thân cây? Chỉ vị trí chồi của củ khoai tây, lá bỏng, củ gừng, hành,tỏi.
- Nêu cách trồng mía dựa vào hình 1a,1b.
+ Giáo viên quan sát và giúp đỡ các nhóm làm việc.
Bước 3: Làm việc cả lớp:
+ Đại diện mỗi nhóm trình bày kết quả làm việc của nhóm mình, các nhóm
khác bổ sung.
+ Giáo viên tổng hợp ý kiến chung của các nhóm:
- Chồi mọc ra từ nách lá ở ngọn mía( hình 1a).
- Người ta trồng mía bằng cách đặt ngọn mía nằm dọc trong những rãnh sâu
bên luống. Dùng tro, trấu để lấp ngọn lại ( hình 1b). Một thời gian sau, các
chồi đâm lên khỏi mặt đất thành những khóm mía ( hình 1c).
- Trên củ khoai tây có nhiều chỗ lõm vào. Mỗi chỗ lõm đó có một chồi.
- Trên củ gừng cũng có những chỗ lõm vào. Mỗi chỗ lõm đó có một chồi.
- Trên phía đầu của củ hành hoặc củ tỏi có chồi mọc nhô lên.
- Lá bỏng, chồi được mọc ra từ mép lá.
+ Giáo viên cho học sinh kể tên một số cây khác có thể trồng bằng một bộ
phận của cây mẹ( cây nghệ, thanh long, cây hoa quỳnh…).
+ Giáo viên kết luận: Ở thực vật, cây con có thể mọc lên từ hạt hoặc mọc lên
từ một số bộ phận của cây mẹ.
16


3. 4. Dạy học bằng Giáo án điện tử.
Giáo án điện tử là giáo án được xây dựng bằng công nghệ thông tin, kết

hợp giữa kênh hình và kênh chữ, tạo hình ảnh, màu sắc, âm thanh, hiệu ứng
sống động hấp dẫn hơn. Nhờ đó giúp bài giảng được nhẹ nhàng, sinh động,
hấp dẫn hơn. Học sinh được kích thích trí tuệ, tiếp thu bài nhanh và cũng nhớ
lâu hơn.
Ở lứa tuổi tiểu học, học sinh rất say mê hình ảnh, nhất là những hình ảnh
mang tính thiết thực. Vì vậy việc sử dụng giáo án điện tử để trình chiếu các
hình ảnh trực quan, các đoạn phim tư liệu về các hoạt động, sự phát triển, sự
biến đổi…Giúp học sinh thích thú, say mê với bài học.
* Ví dụ 1 : Bài 48 “An toàn và tránh lãng phí khi sử dụng điện”, tôi trình
chiếu cho HS xem một số tai nạn về điện, các em sẽ thấy rõ được tác hại của
chúng mà sử dụng cho an toàn…..
* Ví dụ 2 : Bài 53: “Cây con mọc lên từ hạt”, tôi trình chiếu đoạn phim cây
con nảy mầm, xòe lá… Học sinh rất hào hứng, bị cuốn hút và hình dung rõ
hơn quá trình phát triển từ hạt thành cây.
* Ví dụ 3 : Bài 58: “Sự sinh sản và nuôi con của chim”, tôi trình chiếu đoạn
phim khi chim con chào đời, chim mẹ mớm mồi cho con. Âm thanh của tiếng
kêu chiêm chiếp của chim con khi đòi ăn tạo cho tiết học vui hơn, đạt hiệu
quả hơn.
* Ví dụ 4 : Bài 67: “Tác động của con người đến môi trường không khí và
nước”, tôi trình chiếu “clip về ô nhiễm môi trường”, qua đó học sinh biết
được các nguyên nhân gây ô nhiễm môi trường không khí và nước; tác hại
khi môi trường không khí và nước bị ô nhiễm. …
Từ năm học 2014 - 2015, nhà trường đã trang bị máy chiếu cho tất cả các
lớp học từ lớp 1 đến lớp 5. Đây là điều kiện thuận lợi để tôi soạn giảng và dạy
học bằng giáo án điện tử.
* Ưu điểm:
- Giáo viên ít dùng lời nói, đỡ mất thời gian trình bày các đồ dùng trực quan.
- Tiết dạy nhẹ nhàng, giáo viên tự tin vì mình đã chuẩn bị đầy đủ những kiến
thức cần thiết trong bài học.
- Học sinh hứng thú, sôi nổi vì được trực quan qua hình ảnh, phim tư liệu, âm

thanh nhằm giúp tiết học sinh động hơn.
- Qua những hình ảnh, đoạn phim, học sinh bộc lộ cảm xúc, tư duy của mình
rõ hơn.
*Lưu ý khi sử dụng giáo án điện tử.
Tránh trình chiếu quá nhiều tranh ảnh, phim minh họa vì học sinh chỉ
chú ý đến tranh ảnh mà không đi vào trọng tâm của bài học.
3. 5. Khuyến khích học sinh sưu tầm tranh ảnh, vật thật có liên quan đến
bài học.
Như chúng ta đã biết, đồ dùng học tập có vai trò rất quan trọng trong quá
trình dạy học. Nó góp phần không nhỏ trong sự thành công của mỗi tiết dạy.
Vì vậy, ngoài việc chuẩn bị của giáo viên, tôi thường động viên, khuyến khích
17


học sinh sưu tầm đồ dùng dạy học và các em đã hưởng ứng rất tích cực. Nó
trở thành một nề nếp trong lớp tôi chủ nhiệm. Việc sưu tầm đồ dùng học tập
của học sinh cũng rất phong phú và đa dạng. Đó có thể là các bức tranh, ảnh
hay vật mẫu, vật thật.
* Ví dụ 1: Chuẩn bị bài 22 “ Tre, mây, song”, tôi hướng dẫn học sinh sưu tầm
tranh ảnh về cây tre, cây mây, cây song, các đồ vật được làm từ tre, mây,
song.
* Ví dụ 2: Chuẩn bị bài 24 “ Đồng và hợp kim của đồng”, tôi hướng dẫn học
sinh sưu tầm tranh, ảnh các đồ dùng được làm bằng đồng hơặc hợp kim của
đồng, mang một dây điện có lõi đồng...
* Ví dụ 3: Chuẩn bị bài 27 “ Gốm xây dựng: gạch, ngói”, tôi hướng dẫn học
sinh sưu tầm một vài miếng ngói khô, gạch khô, lọ hoa nhỏ bằng sứ hoặc thủy
tinh.
* Ví dụ 4: Chuẩn bị bài 30 “ Cao su”, tôi hướng dẫn học sinh sưu tầm tranh,
ảnh về vườn cây cao su, tranh về công nhân đang lấy mủ cao su....các đồ
dùng làm bằng cao su như một miếng lốp ( xăm) xe, sợi dây bằng cao su...để

phục vụ cho tiết học.
* Ví dụ 5: Chuẩn bị bài 55“ Sự sinh sản của động vật”, tôi hướng dẫn học
sinh sưu tầm tranh ảnh các con vật khác nhau....vv..
Qua việc hướng dẫn học sinh sưu tầm các đồ dùng học tập, tôi thấy các
em rất thích thú và có trách nhiệm với việc học tập của mình. Từ đó giờ học
diễn ra một cách sôi động và mang lại kết quả cao.
4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với
bản thân, đồng nghiệp và nhà trường.
- Với việc áp dụng thường xuyên các giải pháp nêu trên, chất lượng môn khoa
học lớp 5A do tôi chủ nhiệm được nâng lên rõ rệt. Giờ học trở nên nhẹ nhàng,
thoải mái hơn. Học sinh đã có nhiều tiến bộ. Các em tỏ ra ham thích môn
khoa học, mạnh dạn, tự tin hơn khi tham gia xây dựng bài. Từng bước hình
thành được thói quen, ý thức tự học, tích cực hơn trong công việc được giao.
- Học sinh đã dần hình thành được các kĩ năng quan sát, phán đoán, kĩ năng
làm thí nghiệm, thực hành và khả năng vận dụng các kiến thức đã học vào
thực tế.
- Hoạt động của giáo viên và học sinh diễn ra một cách nhịp nhàng, đồng bộ.
*Kết quả khảo sát cụ thể như sau:
Mức độ
Hoàn thành
Chưa hoàn thành

Số lượng
42 Học sinh
0

Tỷ lệ %
100%
0
18



III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận:
Qua việc nghiên cứu và áp dụng, với vốn kiến thức - kinh nghiệm dạy học
của bản thân cùng với sự giúp đỡ tận tình của đồng nghiệp, sự chỉ đạo của
Ban giám hiệu nhà trường, tôi đã rút ra được một số kinh nghiệm khi lên lớp:
- Nắm vững nội dung, chương trình sách giáo khoa.
- Xác định đúng mục tiêu của tiết dạy, kiến thức trọng tâm cần cung cấp cho
học sinh.
- Sử dụng linh hoạt các phương pháp dạy học nhằm phát huy tính tích cực của
học sinh.
- Sử dụng có hiệu quả các thiết bị và đồ dùng dạy học.
- Thường xuyên tự học, tự bồi dưỡng để tích lũy, đúc rút kinh nghiệm và nâng
cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ của mình.
2. Kiến nghị:
Đề nghị các cấp lãnh đạo - quản lý có kế hoạch triển khai tập huấn
hoặc tổ chức hội thảo về ứng dụng các sáng kiến kinh nghiệm hay, các đề tài
nghiên cứu khoa học đã được công nhận - xếp từ cấp thành phố trở lên. Mỗi
giáo viên chúng tôi luôn mong muốn được học hỏi để bổ sung kinh nghiệm,
nâng cao năng lực, trình độ, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện
cho các thế hệ học sinh.
Tôi rất mong nhận được ý kiến đóng góp của các đồng chí lãnh đạo quản lý cùng các giáo viên trong trường, các đồng nghiệp khác để hoàn thiện
hơn kinh nghiệm của bản thân trong quá trình giảng dạy.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA HIỆU
TRƯỞNG NHÀ TRƯỜNG

Thanh Hóa, ngày 15 tháng 4 năm 2016
CAM KẾT KHÔNG COPPY

Người viết

Nguyễn Thị Nguyệt

19


TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Bùi Văn Huệ: Tâm lí học Tiểu học - NXB Giáo dục.
- Bùi Phương Nga (chủ biên): Khoa học 4,5 - NXB Giáo dục Việt Nam.
- Bùi Phương Nga (chủ biên): Khoa học 4,5 ( Sách giáo viên) - NXB Giáo
dục Việt Nam.
- Phạm Thu Hà: Thiết kế bài giảng Khoa học 5 - NXB Hà Nội.
- Nguyễn Văn Hiếu: Phương pháp dạy học môn khoa học ở Tiểu học.
- Phương pháp dạy học các môn học ở lớp 5 – NXB Giáo dục
- Phạm Ngọc Định - Nguyễn Ngọc Yến - Lương Việt Thái: Phương pháp
“Bàn tay nặn bột” trong dạy học môn Tự nhiên - Xã hội, môn Khoa học ở
trường Tiểu học - Bộ Giáo dục và Đào tạo.
- Gorger Charpark: Bàn tay nặn bột - Khoa học ở trường Tiểu học - NXB
Giáo dục.

20



×