Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

SKKN ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học giúp làm tăng hứng thú và hiệu quả cho tiết học lịch sử lớp 5

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (159.19 KB, 19 trang )

MỤC LỤC
NỘI DUNG

TRANG

MỤC LỤC

1

1. MỞ ĐẦU

2

1.1 Lí do chọn đề tài

2

1.2 Mục đích nghiên cứu

2

1.3 Đối tượng nghiên cứu

3

1.4 Phương pháp nghiên cứu

3

2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM


3

2.1 Cơ sở lý luận

3

2.2 Thực trạng của vấn đề nghiên cứu

5

2.3 Các giải pháp

6

2.4 Hiệu quả đạt được
3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ

14
15

3.1 Kết luận

15

3.2 Kiến nghị

16

Tài liệu tham khảo


18

Danh mục SKKN đã được xếp loại

19

1.

MỞ ĐẦU
1


1.1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI.
Mở đầu bài “Diễn ca” năm 1942, Bác Hồ từng nói:
“Dân ta phải biết sử ta
Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam.”
Việc dạy cho giới trẻ bây giờ tường tận lịch sử nước nhà và từ đó bồi
dưỡng tình yêu đất nước và niềm tự hào dân tộc, tự tôn sức mạnh toàn dân Việt
không chỉ là nhiệm vụ giáo dục mà cao hơn đó còn là một nhiệm vụ chính trị.
Tuy nhiên hiện nay, vai trò của lịch sử đang ngày càng bị lu mờ, nhất là
đối với thế hệ trẻ, thế hệ mà đáng lẽ cần phải quan tâm nhiều nhất đến lịch sử
dân tộc. Bằng chứng rõ nét nhất của vấn đề này là việc học sinh phổ thông hiện
nay không tha thiết với môn Lịch sử. Theo số liệu của quá trình khảo sát nguyện
vọng các môn thi tốt nghiệp THPT năm học 2013 - 2014, số HS đăng kí thi tốt
nghiệp môn Lịch sử đếm được trên đầu ngón tay. Thậm chí, có những trường có
0% học sinh đăng kí thi môn này. Còn trong kì thi Đại học, Cao đẳng năm 2013,
chất lượng bài thi môn Lịch sử thấp kỉ lục: với hơn 170 trường ĐH - CĐ công
bố điểm thi thì điểm 0 môn Sử đang chiếm phần lớn điểm 0 của các trường
ngành xã hội. Theo thống kê, số lượng bài thi Lịch sử dưới trung bình chiếm từ
80 – 90%, cá biệt có trường điểm cao nhất đạt 5,25 điểm; tại Trường ĐH Văn

hóa Hà Nội, trong 4.474 thí sinh dự thi có đến 220 điểm 0, trong đó điểm 0 môn
Sử chiếm tới 208 bài. [1]
Qua tìm hiểu, khảo sát một số đối tượng học sinh sau nhiều năm giảng
dạy, tôi cũng nhận thấy: Nhiều em không hứng thú với việc học Lịch sử, nắm
kiến thức lịch sử còn mơ hồ, thường chỉ dừng lại ở việc cố học thuộc tên sự
kiện, tên nhân vật và các mốc thời gian theo yêu cầu của giáo viên. Điều này rất
đáng lo ngại và là một câu hỏi lớn cho những người làm công tác giáo dục cũng
là một vấn đề nhức nhối đã và đang được toàn xã hội quan tâm. Vậy làm thế nào
để có thể cuốn hút, lôi cuốn các em học sinh yêu và ham thích các tiết học, các
bài học Lịch sử ? Trong khi, như chúng ta đã biết, bậc học Tiểu học là bậc học
nền tảng, xây dựng nền móng cho cả quá trình giáo dục và dạy học sau này. Nếu
ngay từ Tiểu học, các em có nhận thức đúng về vai trò và tầm quan trọng của
phân môn Lịch sử, không chỉ là dạy học những kiến thức mà còn là giáo dục tư
tưởng, từ đó các em hiểu Lịch sử và yêu thích việc học Lịch sử, chắc chắn ở
những bậc học tiếp theo việc học Lịch sử sẽ có những sự chuyển biến tích cực.
Đó là vấn đề khiến tôi luôn trăn trở, cũng là lí do mà tôi đã nghiên cứu,
tìm tòi, học hỏi và ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học Lịch Sử để giúp
cho giờ học được sinh động và thú vị hơn, làm cho việc học tập của học sinh trở
nên lý thú, gắn bó hơn với thực tiễn, thay đổi thói quen học tập thụ động của học
sinh.
1.2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU.
Nghiên cứu các biện pháp, cách thức để có thể ứng dụng công nghệ thông
tin vào dạy học Lịch sử có hiệu quả nhất, nhằm tạo hứng thú cho tiết học. Qua
đó giúp học sinh yêu thích môn học và chủ động tích cực hơn trong việc nắm bắt
các kiến thức Lịch sử. Bồi dưỡng cho các em học sinh tình yêu đất nước, lòng tự
hào, tự tôn dân tộc.
1.3. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU.
2



- Thực trạng dạy - học phân môn Lịch sử lớp 5.
- Thực trạng ứng dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy và học tập
trong nhà trường.
- Các giải pháp để ứng dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy Lịch sử
lớp 5 một cách hợp lí và có hiệu quả.
1.4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp tài liệu.
- Phương pháp điều tra, thống kê.
- Phương pháp thực nghiệm.
- Phương pháp phân tích, tổng kết kinh nghiệm.
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1 CƠ SỞ LÝ LUẬN.
Như chúng ta đã biết, sự hình thành và phát triển tâm sinh lí của trẻ ở giai
đoạn Tiểu học có nhiều nét đặc trưng ảnh hưởng sâu sắc tới quá trình nhận thức,
tư duy và ghi nhớ của trẻ. Dựa trên cơ sở đó, chúng ta lựa chọn phương pháp,
hình thức và phương tiện dạy học phù hợp để nâng cao hiệu quả của các giờ dạy.
2.1.1 Đặc điểm tâm sinh lí của học sinh tiểu học :
Theo các nhà Tâm lí học, ở lứa tuổi Tiểu học, sự tập trung và độ bền của
chú ý của trẻ chưa cao. Đặc biệt, trẻ chỉ tập trung và duy trì sự chú của mình khi
được trực tiếp tham gia vào một hoạt động yêu thích nào đó. Ngoài ra, chú ý của
trẻ phụ thuộc rất nhiều vào đối tượng chú ý. Những gì mang tính mới mẻ, bất
ngờ, rực rỡ, khác thường dễ dàng lôi cuốn các em mà không cần có sự nỗ lực
của chú ý, nhu cầu, hứng thú, kích thích và duy trì sự chú ý không chủ định của
trẻ. Như vậy, việc cuốn hút học sinh vào những hoạt động học tập được tổ chức
hấp dẫn, sinh động sẽ dễ dàng giúp trẻ tập trung và duy trì sự chú ý học tập tích
cực và ghi nhớ lâu hơn. [2]
Ở học sinh Tiểu học, trí nhớ trực quan rất phát triển. Các em nhớ và lưu
giữ chính xác những sự vật, hiện tượng cụ thể nhanh hơn và tốt hơn những định
nghĩa, những lời giải thích dài dòng. Đặc biệt, các em ghi nhớ nhanh và sâu
những gì mà các em yêu thích. Ngoài ra, những gì gây ấn tượng mạnh mẽ, tác

động đến cảm xúc, tình cảm của các em thì làm các em dễ nhớ và nhớ lâu. Sở dĩ
học sinh ghi nhớ được một tài liệu nào đó là nhờ nguồn thông tin đến với các em
thông qua năm giác quan: thị giác, thính giác, khứu giác, vị giác và xúc giác. [2]
Nhờ ứng dụng công nghệ thông tin, chúng ta có thể dạy học phối hợp đa giác
quan, tác động nhanh, mạnh đến nhận thức, tình cảm của trẻ, từ đó cải thiện trí
nhớ cho trẻ.
Ở lứa tuổi cuối bậc Tiểu học, sự tưởng tượng của trẻ đã phát triển phong
phú hơn. Tưởng tượng tái tạo từng bước được hoàn thiện gắn liền với những
hình tượng được tri giác từ trước hoặc tạo ra những hình tượng phù hợp với
những điều mô tả, sơ đồ, hình ảnh... Đặc biệt, tưởng tượng của các em trong giai
đoạn này bị tri phối mạnh mẽ bởi những xúc cảm, tình cảm - những hình ảnh, sự
việc, hiện tượng gắn liền với các rung động tình cảm của các em. [2] Và như
chúng ta đã biết, khi học Lịch sử thì nhất thiết phải xây dựng bức tranh quá khứ
bằng tưởng tượng. Những hình ảnh chân thực, những thước phim tư liệu, những
3


câu chuyện, bài thơ, bài hát... sẽ là cơ sở để các em tưởng tượng và tái tạo Lịch
sử.
Phát triển tư duy của trẻ là nhiệm vụ quan trọng để dạy học thành công.
Nhờ ảnh hưởng của việc học tập, học sinh Tiểu học dần dần chuyển từ nhận thức
hình thức đến nhận thức được những đặc điểm thuộc tính, tính chất của sự vật
hiện tượng. Tuy nhiên, kĩ năng phân biệt các dấu hiệu và chỉ ra được các thuộc
tính bản chất không dễ dàng thực hiện ngay được. Trẻ thường nhầm lẫn các dấu
hiệu, thuộc tính không bản chất hoặc xếp các dấu hiệu không bản chất cùng với
các dấu hiệu bản chất. Đó là những khó khăn của học sinh trong quá trình lĩnh
hội các khái niệm. Do vậy, người thầy phải biết phát triển tư duy và trí tưởng
tượng của trẻ bằng cách biến các kiến thức khô khan thành những hình ảnh có
cảm xúc, đặt ra cho các em những câu hỏi mở, thu hút các em vào những hoạt
động học tập lí thú, để các em có thể phát triển nhận thức lí tính một cách toàn

diện. [2]
Như vậy, từ việc phân tích những đặc điểm tâm sinh lí của trẻ cho thấy:
Việc thay đổi phương pháp, hình thức tổ chức các hoạt động học tập nhằm tạo
cho học sinh có hứng thú với tiết học, giúp các em yêu thích và tự giác chú ý, tri
giác và ghi nhớ sẽ giúp nâng cao hiệu quả của các giờ dạy.
2.1.2 Vấn đề đổi mới phương pháp dạy học:
Những năm gần đây, khái niệm đổi mới phương pháp dạy học chắc không
còn xa lạ gì đối với giáo viên. Thế nhưng, để đổi mới phương pháp dạy học một
cách có hiệu quả thì vẫn còn là điều lúng túng của rất nhiều người. Theo Luật
Giáo dục năm 2005: Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích
cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh, phù hợp với đặc điểm của từng lớp
học, môn học, bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến
thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú cho học
sinh.
‘‘Trong quá trình dạy học, điểm tập trung là bản thân người học chứ
không phải là người dạy, tức là hoạt động học cần dựa trên nhu cầu, hứng thú,
năng lực của học sinh, giúp các em có được thái độ đúng đắn và nắm được
những kiến thức, kĩ năng, kĩ xảo, phát huy đầy đủ nhất năng lực của mình.’’ [3]
Trong dạy học phát huy tính tích cực, giáo viên không chỉ là người cung cấp
kiến thức mà còn là người tổ chức, hướng dẫn quá trình học tập của học sinh.
Học sinh không còn tiếp nhận thông tin một cách thụ động mà tham gia quá
trình học tập chủ động hơn. Điều đó đòi hỏi người giáo viên phải thay đổi cách
thức truyền tải thông tin cũng như các hình thức trong dạy học. Ngoài mục đích
truyền thụ tri thức cho người học, các tiết lên lớp phải có phương pháp giảng
dạy phù hợp, sinh động. Đây là điều mà bất cứ giáo viên nào cũng hiểu, tuy
nhiên, để tạo nên một không khí sinh động và lôi cuốn học sinh thì không hề
đơn giản. Để làm được điều đó, người giáo viên không chỉ cần làm chủ kiến
thức trong lĩnh vực dạy học của mình mà còn cần phải có hệ thống phương pháp
sư phạm thích hợp để phát huy tính chủ thể của học sinh.
Cũng như các môn học khác, phương pháp dạy học Lịch sử cũng đổi mới

theo định hướng đó. Tuy nhiên đổi mới cần dựa trên những yếu tố đặc trưng của
bộ môn. Mà đặc trưng nổi bật của nhận thức Lịch sử là con người không thể tri
4


giác trực tiếp những gì thuộc về quá khứ. Mặt khác, lịch sử là những việc đã
diễn ra, là hiện thực trong quá khứ, là tồn tại khách quan không thể phán đoán,
suy luận… để biết lịch sử. Vì vậy, nhiệm vụ đầu tiên, tất yếu của việc dạy lịch
sử là tái tạo Lịch sử, tức là cho học sinh tiếp nhận những thông tin sử liệu, tiếp
xúc với những chứng cứ vật chất, những dấu vết của quá khứ, tạo ra ở học sinh
những hình ảnh cụ thể, sinh động, chính xác về các sự kiện, hiện tượng lịch sử.
Những biểu tượng về con người và hành động của họ trong bối cảnh thời gian,
không gian xác định, trong những điều kiện lịch sử cụ thể. Vậy tái tạo lịch sử
bằng những phương thức nào? Làm thế nào để tái hiện lại những sự kiện, những
câu chuyện đã diễn ra một cách chân thực và hấp dẫn nhất. [4]
Tóm lại: Việc ứng dụng công nghệ thông tin, đặc biệt là thông qua các bài
dạy điện tử,… sẽ hỗ trợ đắc lực cho giáo viên trong việc đổi mới phương pháp
dạy học, vai trò định hướng của giáo viên sẽ được phát huy, giảm thiểu việc
giáo viên ‘‘nói thao thao trong giờ dạy’’. Đồng thời, nhờ tiện ích của việc cung
cấp thông tin dưới nhiều hình thức sẽ tác động mạnh lên tổng hòa các giác quan
của học sinh, gây ấn tượng mạnh cho cảm xúc của các em, tạo sự hứng thú và
cuốn hút học sinh vào tiết học. Từ đó, việc tiếp thu kiến thức của học sinh sẽ trở
nên nhẹ nhàng, chủ động, không còn nhàm chán, hiệu quả giờ dạy cũng theo đó
mà được nâng cao.
2.2 THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU.
2.2.1 Thực trạng cơ sở vật chất của nhà trường:
Có thể khẳng định rằng, trường Tiểu học Hợp Thành là một trong những
trường được đầu tư cơ sở vật chất và trang thiết bị tương đối đầy đủ và tốt so với
các trường khác trong huyện. Việc ứng dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy
cũng đã được nhà trường đặc biệt quan tâm từ nhiều năm nay. Từ lâu, nhà

trường đã đầu tư mua sắm 1 bộ đèn chiếu để phục vụ cho công tác giảng dạy của
giáo viên trong nhà trường. Bên cạnh đó, trường cũng là một trong số rất ít
trường Tiểu học trong huyện đã đầu tư được phòng học máy vi tính vào phục vụ
dạy học tin học cho học sinh nhà trường. Hàng tuần, các em học sinh được học 2
tiết tin học với giáo viên Tin học.
Bên cạnh đó, theo điều tra sơ bộ của cá nhân tôi thì trong lớp 5A có
khoảng 12 em ≈ 31.6% số học sinh trong lớp là gia đình các em có máy tính,
laptop hoặc máy tính bảng. 38 em = 100% học sinh của lớp là gia đình các em
có 1 đến 2 cái điện thoại của bố, mẹ có thể lên mạng được.
Đây thực sự là điều kiện tốt để giáo viên có thể ứng dụng công nghệ
thông tin vào giảng dạy đạt hiệu quả.
2.2.2 Thực trạng ứng dụng công nghệ thông tin của giáo viên:
Cuốn theo chủ trương chung của ngành và của nhà trường, những năm
gần đây, giáo viên trường Tiểu học Hợp Thành đã không ngừng học hỏi, trao đổi
kiến thức, kinh nghiệm để ứng dụng công nghệ thông tin vào soạn - giảng. 100%
cán bộ, giáo viên trong nhà trường có các kĩ năng tin học cơ bản tương đối tốt.
Đã và đang thực hiện soạn giáo án vi tính có chất lượng. Thường xuyên có giáo
viên tham gia soạn giáo án điện tử và sử dụng tốt máy chiếu trong giảng dạy.
Bên cạnh đó, giáo viên cũng đã đầu tư thiết bị phục vụ cho việc dạy học như hầu
hết các giáo viên đều có máy tính để bàn, máy tính xách tay.
5


2.2.3 Thực trạng dạy và học Lịch sử:
Qua thực tế nhiều năm giảng dạy tôi nhận thấy: Việc dạy học Lịch sử ở
trong nhà trường còn nhiều điều bất cập, chưa thật sự cuốn hút được sự ham mê
học hỏi của học sinh. Dạy học còn nặng về lý thuyết, giáo viên nêu câu hỏi học
sinh đọc nội dung thông tin hoặc quan sát kênh hình trong Sách giáo khoa để trả
lời, thầy giảng trò nghe. Vì vậy, học sinh tiếp thu bài một cách thụ động, dẫn đến
học sinh chán học. Giáo viên cũng ít đầu tư vào môn học này.

Việc học Lịch sử của học sinh rất gượng ép. Các em hầu như không có
hứng thú với những bài học Lịch sử, tiếp nhận kiến thức một cách thụ động, đối
phó. Bên cạnh đó, không chỉ bản thân các em mà ngay cả gia đình các em cũng
chưa xem trọng việc học Lịch sử, vẫn còn xem đó là môn phụ, thường chỉ chú
trọng việc học Toán và Tiếng Việt. Ngay từ đầu năm học, thông qua việc nói
chuyện với các em học sinh lớp 5A, tôi đã cơ bản nắm bắt được mức độ yêu
thích phân môn Lịch sử của các em. Chỉ có khoảng 6em ≈ 15.8% số học sinh là
yêu thích môn học này. Trong lớp có một số em rất tích cực trong học tập như
các em: Châu Anh, Thúy Hằng, Ngọc Linh, Đăng Tùng. Bên cạnh đó, cá biệt có
một số em gần như là không muốn tham gia học tập, hoàn toàn thụ động trong
quá trình học Lịch sử như các em: Duy Chiến, Anh Kiệt, Hồng Linh.
Trước sự khập khiễng giữa yêu cầu và thực tế giảng dạy đó, tôi đã mạnh
dạn đầu tư suy nghĩ, tìm tòi và quyết định chọn hướng đi mới trong giờ dạy Lịch
sử lớp 5 để nâng cao hiệu quả giảng dạy.
2.3 CÁC GIẢI PHÁP ĐÃ SỬ DỤNG
2.3.1 Thông qua Internet để tìm hiểu thêm về nội dung bài học:
Để dạy phân môn Lịch sử ở trường Tiểu học đạt hiệu quả cao, người giáo
viên phải có kiến thức lịch sử, phải nắm chắc nội dung và phương pháp tổ chức
quá trình dạy học. Đây là một hoạt động nhận thức khoa học, nếu giáo viên nắm
vững và vận dụng tốt vấn đề này sẽ có tác dụng rất tốt vào việc nâng cao chất
lượng dạy học phân môn Lịch sử nói chung và Lịch sử lớp 5 nói riêng.
Như trên đã nói, những kiến thức Lịch sử là một chuỗi những sự kiện kéo
dài qua năm tháng, với rất nhiều những nhân vật Lịch sử. Bản thân giáo viên nếu
chỉ dừng lại ở những nội dung kiến thức trong sách giáo khoa thì sẽ rất khó để
làm cho tiết học trở nên hấp dẫn. Người giáo viên trước khi lên lớp một tiết dạy
Lịch sử, cần hiểu rõ tường tận những sự kiện mà mình sẽ giúp học sinh tìm hiểu.
Đồng thời, nên lựa chọn thêm những tư liệu, những câu chuyện, những nhân vật
nổi bật, lôi cuốn, hấp dẫn để cung cấp thêm cho học sinh. Giúp các em xâu
chuỗi những kiến thức Lịch sử theo dòng thời gian bằng những minh chứng cụ
thể. Trước đây, để có được nguồn thông tin đó, ta cần có không ít sách vở, tài

liệu Lịch sử, nhưng với thời đại của công nghệ thông tin bùng nổ như hiện nay,
việc tìm kiếm thông tin thật sự đã rất thuận tiện. Thông qua Internet để tìm kiếm
thông tin bổ sung cho bài dạy Lịch sử là điều mỗi giáo viên chúng ta hoàn toàn
có thể thực hiện được. Vậy, chúng ta sẽ tìm kiếm những gì?
Từ nhiều nguồn thông tin, tôi đã tìm hiểu các câu chuyện, các nhân vật
lịch sử… có liên quan. Tôi đã đọc khá nhiều các câu chuyện Lịch sử, từ đó lựa
chọn ra các tình tiết hay, hấp dẫn lồng ghép vào các tiết dạy để giới thiệu cho
các em. Ví dụ như:
6


Khi dạy bài ‘‘Cuộc phản công ở kinh thành Huế’’, tôi đã tìm thêm thông
tin về những cuộc khởi nghĩa tiêu biểu của phong trào Cần Vương để giới thiệu
cho học sinh. Thông qua việc liên hệ kiến thức lịch sử địa phương, tôi đã giới
thiệu cho các em về chiến khu Ba Đình. Qua tiết học, học sinh thật sự rất thích
thú khi biết về những nét đặc biệt của căn cứ Ba Đình, khâm phục trước tài thao
lược và mưu trí của nghĩa quân. (Căn cứ Ba Đình cách huyện lỵ Nga Sơn 4 km,
tây bắc giáp huyện Hà Trung, được xây dựng trên địa bàn ba làng Thượng Thọ,
Mậu Thịnh và Mỹ Khê. Vào mùa mưa, căn cứ này trông như một hòn đảo nổi
giữa cánh đồng nước mênh mông, tách biệt với các làng khác. Căn cứ này gọi
là Ba Đình vì mỗi làng có một cái đình, từ làng này có thể nhìn thấy đình của
hai làng kia. Để chuẩn bị chiến đấu lâu dài, Đinh Công Tráng đã cho bao bọc
xung quanh căn cứ là lũy tre dày đặc và một hệ thống hào rộng, cắm đầy chông
tre. Ở trong là một lớp thành đất cao 3m, chân rộng 8 đến 10m. Trên mặt thành,
nghĩa quân đặt các rọ tre chứa đất nhào rơm xếp vững chắc có những khe hở
làm lỗ châu mai sẵn sàng chiến đấu. Thành rộng 400 m, dài 1.200 m. Phía
trong thành có hệ thống giao thông hào dùng để vận chuyển lương thực và vận
động khi chiến đấu. Ở những nơi xung yếu đều có công sự vững chắc. Các hầm
chiến đấu được xây dựng theo hình chữ "chi", nhằm hạn chế thương vong. Ở
mỗi làng, tại vị trí ngôi đình được xây dựng một đồn đóng quân... Có thể nói

rằng căn cứ Ba Đình có vị trí tiêu biểu nhất, là một chiến tuyến phòng ngự quy
mô nhất thời kỳ Cần Vương cuối thế kỷ XIX. [6])
Với bài “Quyết chí ra đi tìm đường cứu nước”, để giúp cho học sinh hiểu
thêm sự quyết tâm vượt mọi khó khăn, gian khổ của Nguyễn Tất Thành trên
hành trình bôn ba đi tìm con đường cứu nước, giáo viên thật sự có rất nhiều điều
để nói với các em, ngoài những gì sách giáo khoa cung cấp. Những câu chuyện
về Người luôn là niềm cảm hứng vô tận. Các em học sinh cũng rất yêu thích
những câu chuyện đó. Người giáo viên nếu khéo léo lồng ghép vào trong quá
trình giảng dạy thì không chỉ làm giờ học của các em hấp dẫn mà còn lồng ghép
giáo dục được cho các em nhiều kĩ năng sống cũng như định hướng giúp học
sinh học tập và làm việc theo tấm gương của Người. Một số câu chuyện tôi đã
tìm kiếm và kể cho các em như: Viên gạch hồng sưởi ấm của Bác khi ở Pháp.
Hoặc những câu chuyện khi Bác ở London, Người đã từng làm nhiều việc từ
quét tuyết, bồi bàn đến phụ bếp…
Những thông tin có thể hỗ trợ thêm cho bài dạy ‘‘Cách mạng mùa Thu”
mà tôi đã tìm hiểu để giới thiệu cho các em đó chính là những thông tin về Cách
mạng tháng Tám ở địa phương Thanh Hóa.
Khi dạy bài ‘‘Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ’’, giáo viên có thể tìm
thêm thông tin về việc làm sao bộ đội ta có thể đặt trái bộc phá khoảng 1 tấn vào
lòng đồi A1 để kể cho các em. Câu chuyện tôi đã kể :“Đào hầm bí mật đặt khối
bộc phá 1 tấn” được học sinh chú ý lắng nghe và rất thích thú. Các em vô cùng
khâm phục sự thông minh, lòng dũng cảm của chiến sĩ ta : (Đất đồi A1 cực kỳ
rắn. Tiểu đội trưởng công binh Lưu Viết Thoảng lựa chọn một tổ khỏe nhất mở
cửa hầm. Cả đêm đầu chỉ khoét được vào vách núi mỗi chiều 90 cm. Quân Pháp
không ngừng bắn súng và ném lựu đạn, 3 người bị thương. Ba đêm mới đào
7


xong cửa hầm. Khi đào sâu vào lòng núi được mười mét, bắt đầu phải khắc
phục thêm khó khăn: thiếu không khí, đèn, đuốc mang vào hầm đều bị tắt, số đất

moi từ lòng núi ra ngày càng nhiều không được để cho quân Pháp phát hiện.
Càng đào vào sâu, công việc càng khó khăn vì vừa thiếu ánh sáng vừa thiếu
không khí, nên bộ đội phải liên tục thay nhau ra ngoài để thở. Đường hầm khi
hoàn thành dài tới 82m và dẫn lên tận đỉnh đồi, nơi đặt khối bộc phá. Phần lớn
lòng đường hầm rất nhỏ hẹp, chỉ đủ cho một người lách trườn lên…Phải mất
thêm nhiều ngày và rất khó khăn để đưa bộc phá đến điểm tập kết. Trong hào đi
phải khom lưng, mỗi người đem từng quả bộc phá nặng khoảng 5 kg xếp hàng
ngay ngắn cho tới khi đủ 1.000 kg [6] )
Bên cạnh câu chuyện này, giáo viên có thể kể những câu chuyện khác
như những chuyện về Đại tướng Võ Nguyên Giáp hoặc hành trình kéo pháo lên
Tây Bắc của quân và dân ta. Sẽ thật là thiếu sót nếu dạy bài này mà không giới
thiệu thêm cho học sinh biết về vị Đại tướng đã gắn liền với chiến công hiển
hách này.
Với bài “Bến Tre Đồng khởi”, tôi đã giới thiệu thêm cho các em về “Đội
quân tóc dài” và nữ tướng Nguyễn Thị Định. Thông qua câu chuyện này chúng
ta không chỉ có thể giúp các em tìm hiểu thêm về “những con người làm nên
Đồng khởi” mà ta còn có thể giáo dục về “Bình đẳng giới” cho các em. Đúng
như câu tục ngữ “Giặc đến nhà đàn bà cũng đánh”, trải qua hàng ngàn năm lịch
sử, đất nước chúng ta có nhiều người anh hùng là nữ giới, và một trong những
con người sống cùng năm tháng ấy là nữ tướng duy nhất của Việt Nam ở thế kỉ
XX, nữ tướng Nguyễn Thị Định. Qua đó giúp các em hiểu vai trò của những
người phụ nữ trong lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc là vô cùng to lớn. Nhận
thức được vị trí của người phụ nữ Việt Nam trong thời đại mới.
Phải khẳng định có rất nhiều những Sử liệu chúng ta có thể cung cấp thêm
cho các em. Tuy nhiên, những thông tin có liên quan đến nội dung bài học khi
giáo viên đưa vào bài giảng cần có sự chọn lựa cũng như sử dụng đúng thời
điểm, tránh việc lạm dụng, làm mất thời gian của tiết học và phân tán sự chú ý
của các em đến nội dung chính của bài học.
2.3.2. Thông qua Internet để tìm kiếm tranh ảnh, bản đồ, lược đồ:
Trước đây, thật khó khăn để có thể tìm vài bức ảnh tư liệu ngoài những đồ

dùng được cấp, hoặc là ảnh những địa danh lịch sử ngày nay để phục vụ việc
liên hệ thực tế. Hiện nay, nhờ sự hỗ trợ của công nghệ hiện đại, với kho tư liệu
ảnh vô tận có thể tìm thấy qua Internet, việc tìm kiếm đã vô cùng dễ dàng. Vấn
đề chỉ là giáo viên sẽ lựa chọn những tranh ảnh nào để cung cấp cho học sinh
giúp việc hỗ trợ học tập đạt kết quả nhất.
Hầu hết các bức ảnh có trong các bài Lịch sử đều có thể tìm thấy trên
mạng, bên cạnh đó còn có nhiều những bức ảnh khác có liên quan đến nội dung
bài. Thường khi soạn giáo án điện tử, tôi đều tải nguyên bản các bức tranh, ảnh,
bản đồ, lược đồ như trong sách giáo khoa theo đúng tiến trình bài học. Thêm vào
đó sẽ cung cấp thêm cho các em một số bức ảnh khác bổ ích.
8


Một phần quan trọng trong khi dạy Lịch sử là phần liên hệ thực tế, nhưng
đây lại là phần mà giáo viên chúng ta thường hay “lơ” đi nhất. Khi liên hệ thực
tế, không nên chỉ dừng lại ở việc tìm những địa danh mang tên các nhân vật
Lịch sử như ta thường làm. Qua các bức ảnh, tôi đã giúp cho học sinh thấy
những địa danh Lịch sử đó ngày hôm nay như thế nào? Đã được thay đổi ra sao,
và để có được sự thay đổi đó là nhờ vào điều gì? Từ đó các em sẽ thấy biết ơn
những thế hệ cha ông đi trước đã không quản ngại hy sinh vì độc lập, tự do cho
dân tộc.
Khi đưa các hình ảnh cho học sinh, nhiều nơi giáo viên vẫn dùng cách quen
thuộc là đi quét tranh, nhưng như vậy thì tốn kém rất nhiều, và không thể thực
hiện thường xuyên được. Số tranh trong thư viện nhà trường cũng không thể đáp
ứng hết nhu cầu sử dụng của giáo viên và cũng không đủ cho từng bài, từng mục
trong bài. Chính vì vậy, tôi đã tận dụng tối đa điều kiện cơ sở vật chất của nhà
trường để dạy học. Khi cung cấp tranh qua phần mềm trình chiếu PowerPoint sẽ
có nhiều thuận tiện cho giáo viên. Chúng ta chỉ cần tạo một slide trắng và tải tranh
lên, nếu cần thiết, giáo viên cho thêm một số lệnh học tập để học sinh khai thác
những tranh đó. Tất cả những tranh chúng ta đã tìm kiếm và tải về có thể dễ dàng

lưu trên máy tính. Cá nhân tôi, để thuận tiện cho việc giảng dạy thì tôi lưu những
tranh ảnh đó theo từng bài sau đó tải lên Gmail của mình để lưu giữ và tiện cho
việc sử dụng. Những tài liệu đó sẽ được lưu giữ và sử dụng lâu dài, chúng ta chỉ
cần thay đổi yêu cầu cho phù hợp với đối tượng học sinh nếu cần thiết.
2.3.3 Thông qua Internet để tìm kiếm các bộ phim tư liệu, các bài hát,
bài thơ có liên quan đến nội dung bài học:
Có thể nói đây là những tài liệu trực quan sinh động nhất và cũng có tác
động mạnh đến hứng thú của học sinh trong giờ học. Có em học sinh đã nói: “Ở
nhà, khi ông em xem những bộ phim này em không thích đâu cô ạ. Em chỉ thích
xem phim hoạt hình thôi, nhưng khi xem ở trên lớp, lại được nghe cô giảng giải
thêm, em thấy những bộ phim này rất hay và xúc động lắm!” Như vậy, khi học
sinh quan sát có chủ đích, lại hiểu rõ vấn đề thì những kiến thức được các em
tiếp nhận một cách rất tự nhiên.
Đây là một số tài liệu mà tôi đã tìm kiếm và tải về để dùng làm tư liệu dạy
học. Các phim tài liệu: Bác Hồ đọc tuyên ngôn đọc lập; Lời kêu gọi Toàn quốc
kháng chiến; Chiến dịch Điện Biên Phủ lịch sử 1954; Hà Nội - Điện Biên Phủ
trên không; Cuộc đọ sức 12 ngày đêm; Người lính và con đường; Có một con
đường; Chiến thắng lịch sử Xuân 1975 …[5]
Vì những videoclip trên mạng được đăng tải từ rất nhiều nguồn khác nhau
nên khi tìm và chọn các bộ phim tư liệu để tham khảo, giáo viên nên lựa chọn
các phim do những hãng phim như hãng phim Quân đội, Đài truyền hình Việt
Nam sản xuất hoặc những phim đã được công chiếu trên truyền hình, để đảm
bảo nguồn tài liệu là chính thống và chính xác. Bên cạnh đó, do những bộ phim
tài liệu này thường dài và có nhiều nội dung không cần thiết cho bài học nên
trước khi dạy, giáo viên cần xem và lựa chọn đoạn nào trong phim sẽ trích giới
9


thiệu cho học sinh xem để khi lên lớp chúng ta có thể căn mở đúng đoạn cần
thiết. Thường thì đoạn tư liệu tôi cho các em xem khoảng 5 phút hoặc ngắn hơn.

Một số bài hát thường được tôi sử dụng trong các tiết dạy như: Thăm bến
Nhà Rồng; Bác Hồ một tình yêu bao la; Đảng đã cho ta một mùa xuân; Hò kéo
pháo; Trường Sơn đông, Trường Sơn tây; Chiếc gậy Trường Sơn; Dáng đứng
Bến Tre; Như có Bác Hồ trong ngày vui đại thắng; Cô gái mở đường; …[5]
Một số bài thơ như: Người đi tìm hình của nước - Chế Lan Viên; Sáng
mồng 2 tháng 9 - Tố Hữu; Hoan hô chiến sĩ Điện Biên - Tố Hữu; Bài thơ chúc
tết Xuân Mậu Thân 1968 - Hồ Chí Minh; Toàn thắng về ta - Tố Hữu;…
Trong giảng dạy, nhiều giáo viên cho rằng phải soạn giáo án điện tử thì
mới sử dụng hình thức trình chiếu, nhưng với tôi, không nhất thiết cứ phải soạn
một giáo án điện tử hoàn chỉnh chúng ta mới có thể đưa thêm các tư liệu, tranh
ảnh, hay các đoạn phim tài liệu, các bài hát vào các slide để lồng ghép vào tiết
học. Trong quá trình dạy học, khi không chuẩn bị được giáo án điện tử đầy đủ
cho tiết dạy mà vẫn muốn đưa thêm tư liệu hoặc tranh ảnh vào thì chúng ta cứ
làm như giới thiệu các phương tiện trực quan bình thường. Ở đây, tôi đã tạo các
slide riêng lẻ để cung cấp dữ liệu cần đưa ra.
Ví dụ: khi dạy bài “Bác Hồ đọc Tuyên ngôn Độc lập”, có nhiều cách để
cung cấp Sử liệu cho học sinh. Sau bước kiểm tra bài cũ, giới thiệu bài, tôi cho
các em xem 1 đoạn ngắn quang cảnh Quảng trường Ba Đình vào thời điểm đó để
các em thực hiện yêu cầu Thảo luận và trả lời câu hỏi 1 - sách giáo khoa: “Em
hãy tả lại không khí tưng bừng của buổi lễ tuyên bố độc lập”. Học sinh dựa vào
nội dung sách giáo khoa kết hợp với những hình ảnh phim tư liệu các em được
xem, các em đã dễ dàng thực hiện yêu cầu. Một số em còn nói được những câu
văn miêu tả rất hay như các em: Châu Anh, Hồng Linh, Tuyết Nhi, Tùng.
Cũng dạy bài này, nếu khi không chuẩn bị được bộ đèn chiếu và máy tính để
hỗ trợ giảng dạy thì giáo viên có thể sử dụng ngay chiếc điện thoại của mình làm
phương tiện dạy học. Chúng ta có thể tải đoạn ghi âm Bác Hồ đọc Tuyên ngôn
Độc lập về điện thoại rồi mở cho học sinh nghe.
Tận dụng tối đa điện thoại cá nhân của giáo viên làm phương tiện dạy học.
Nghe câu này có vẻ hơi vô lí nhưng nếu giáo viên chúng ta chịu khó tìm tòi và
khéo léo sử dụng thì chiếc điện thoại sẽ trở thành phương tiện hỗ trợ đắc lực cho

một số hoạt động dạy học. Như khi dạy bài: “Bác Hồ đọc Tuyên ngôn Độc lập”
tôi đã nói ở trên. Ngoài ra, có rất nhiều bài ta có thể làm tương tự. Ví dụ như:
Khi dạy bài: “Thà hi sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước”, khi
cho học sinh tìm hiểu về lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, tôi đã bật điện thoại
cho các em nghe toàn văn lời kêu gọi của Bác. Tôi khẳng định, giữa việc các em
đọc sách và việc các em được lắng nghe chính những lời Bác đọc, kết hợp đọc
văn bản trong sách giáo khoa nữa thì sẽ có tác dụng rất lớn đối với sự hứng thú
cũng như ghi nhớ của các em. Trước đây khi còn đi học THPT, tôi có một số giáo
viên dạy Văn, Sử, Giáo dục công dân… là những chiến sĩ, thanh niên xung phong
đã từng trải qua chiến tranh, mỗi khi nghe hay xem những đoạn băng, đoạn phim
tư liệu về Bác Hồ, các thầy cô đều khóc. Các thầy cô thường nói: “Chúng tôi khác
các em, vì là những người đã sống với chính những cảm xúc thực đó nên mỗi khi
nhắc đến là xúc cảm dâng trào, không chỉ là nhớ về những niềm vui, những hào
10


hùng mà còn nhớ cả về những mất mát hi sinh, những người thân, bạn bè đã
không thể trở về”. Tôi đã được dạy về Lịch sử như thế, và tôi cũng muốn truyền
tới các em niềm cảm xúc ấy. Khơi gợi trong các em tình yêu, niềm tự hào trước
Lịch sử hào hùng của dân tộc thông qua những đoạn băng tư liệu quý giá.
Giáo viên có thể tải danh sách những bài hát như tôi đã nêu ở trên lưu lại
trong điện thoại của mình để làm tư liệu cho việc dạy học. Khi dạy bài “Quyết chí
ra đi tìm đường cứu nước”, kết bài, tôi đã cho học sinh nghe bài hát “Thăm bến
Nhà Rồng”. Với bài “Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời”, ở hoạt động nối tiếp, sau
khi cho các em nhắc lại ý nghĩa của sự kiện thành lập Đảng, tôi liên hệ và cho học
sinh nghe bài hát “Đảng đã cho ta một mùa xuân”. Bài “Chiến thắng lịch sử Điện
Biên Phủ”, giáo viên có thể cho các em nghe bài “Hò kéo pháo”. Tôi đã thật sự rất
ngạc nhiên khi dạy bài này, lúc cho các em nghe bài hát, đã có khá nhiều em hát
theo được cả bài. Với khí thế hào hùng của bài hát cùng với tâm trạng hứng khởi
của các em đã làm cho không khí lớp học hào hứng lên hẳn. Hoặc khi dạy bài

“Đường Trường Sơn”, có rất nhiều bài hát hay mà giáo viên chúng ta có thể lựa
chọn để giới thiệu cho các em nghe. Thậm chí khi dạy bài này, tôi còn tổ chức cho
các em thi hát hoặc đọc thơ về Trường Sơn. Vì có sự chuẩn bị, các em đã tìm và
học bài hát, bài thơ trước ở nhà nên hoạt động đó diễn ra khá sôi nổi. Tôi đặc biệt
thích bài hát dành cho tiết “Tiến vào Dinh Độc Lập”, đó là bài “Như có Bác Hồ
trong ngày vui đại thắng”. Tôi cho rằng, khi dạy bài này mà giáo viên không cho
cả lớp hát vang được bài hát trên thì có thể coi như chưa đi đến đích của thành
công. Khi dạy xong một bài Lịch sử dài và đầy ý nghĩa, cả cô và trò cùng hát bài
hát đó làm cho tiết học tràn ngập niềm vui. Bài hát cũng giúp cho học sinh khắc
sâu thêm ý nghĩa của bài học.
Như vậy, khi chúng ta ứng dụng công nghệ thông tin một cách hợp lí trong
từng tiết dạy sẽ giúp cho bài học trở nên sinh động và thu hút được sự chú ý của
học sinh. Các em học tập sôi nổi hơn và tích cực hơn.
2.3.4 Ứng dụng phần mềm PowerPoint vào soạn bài và giảng dạy:
Hiện nay việc sử dụng phần mềm PowerPoint để soạn thảo giáo án không
còn quá xa lạ với giáo viên nữa. Bản thân tôi cũng đã cố gắng tìm hiểu và học
hỏi để có thể sử dụng phần mền này soạn giáo án Lịch sử ở một số tiết dạy. Cái
căn bản khi thiết kế giáo án là lựa chọn tạo số slide trình chiếu và nội dung trình
chiếu trong các slide sao cho vừa đủ với thời lượng tiết dạy, chèn các videoclip,
các hình ảnh, biểu bảng, bản đồ, biểu đồ, lược đồ sao cho phù hợp.
Việc soạn giáo án điện tử và dạy học trình chiếu là vấn đề nhiều giáo viên
quan tâm nhưng không phải ai cũng có thể thực hiện tốt. Riêng cá nhân tôi, tôi
nhận thấy các giáo án điện tử phân môn Lịch sử không dễ soạn, việc thực hiện
dạy cũng cần phải rất linh hoạt. Giáo án điện tử sẽ giúp giáo viên cung cấp
thông tin kiến thức rõ ràng và thuận tiện hơn cả về kênh hình và kênh chữ. Các
lệnh học tập cũng được cụ thể hóa vì thế giáo viên sẽ hạn chế được việc nói
nhiều trong khi dạy học. Tuy nhiên, các bài giảng điện tử chỉ trợ giúp cho việc
giảng dạy của giáo viên chứ không phải là phần mềm dạy học thay thế. Do vậy,
hiệu quả giờ dạy đạt được như thế nào vẫn phụ thuộc vào khả năng nhận thức, tư
duy của học sinh cũng như phương pháp tổ chức dạy học của giáo viên. Bên

11


cạnh đó, nếu giáo viên không khéo léo lựa chọn hình ảnh, tư liệu cung cấp mà
quá lạm dụng những tài liệu bên ngoài, rồi lạm dụng những hiệu ứng trên các
slide thì hiệu quả dạy học có khi còn là phản tác dụng. Học sinh chỉ chăm chú
vào những gì vui mắt, vui tai và hấp dẫn mà các em bị lướt qua đi những nội
dung chính của bài học.
Chính vì như thế, qua quá trình tìm hiểu các giáo án của bạn bè đồng
nghiệp và việc soạn giáo án điện tử cũng như thực dạy của bản thân, tôi thấy khi
soạn giáo án điện tử cần lưu ý một số điểm sau:
- Giáo án cần bám sát mục tiêu, nội dung của bài dạy, được thể hiện cụ
thể, rõ ràng và logic, tiến trình bài giảng phù hợp.
- Thể hiện linh hoạt các phương pháp, hình thức dạy học, phát huy được
tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh.
- Nội dung bài giảng bám sát kiến thức cơ bản của chương trình theo quy
định của Chuẩn kiến thức kĩ năng, có tính hệ thống và khoa học.
- Nguồn Sử liệu giáo viên cung cấp phải chính xác, rõ ràng, phù hợp với
nội dung bài dạy và có tính khoa học, tính giáo dục cao. Giáo viên phải có sự
chọn lựa thông tin, hình ảnh, tránh quá ôm đồm, tham cung cấp mang tính trưng
bày mà không làm nổi bật được trọng tâm bài học hoặc trọng tâm kiến thức cần
minh họa.
- Sử dụng và tích hợp các công cụ công nghệ thông tin sáng tạo, hợp lý
nhằm phát huy tối đa chất lượng, tính hấp dẫn trong bài giảng; thu hút và tạo
môi trường tương tác tích cực giữa giáo viên với học sinh và giữa học sinh với
học sinh. Tránh lạm dụng quá nhiều hiệu ứng trên bài giảng gây mất tập trung.
- Hình thức bố trí nội dung bài giảng khoa học, dễ hiểu, thân thiện.
Hầu hết các bài Lịch sử khi đưa vào giáo án điện tử và trình chiếu đều sẽ
trở nên nhẹ nhàng và tường minh hơn giúp cho học sinh dễ tiếp thu và ghi nhớ
hơn.

Từ thực tế dạy học cho thấy, việc sử dụng các bài giảng điện tử sẽ tăng hiệu
quả đáng kể đối với các tiết dạy của giáo viên. Có thể nói đó là sự kết hợp những
ưu điểm của phương pháp dạy học truyền thống và của công nghệ hiện đại. Học
sinh rất hứng thú với những tiết dạy học như vậy.
2.3.5. Ứng dụng phần mềm PowerPoint để thiết kế các trò chơi học tập
Với một môn học vừa mang nặng tính lý thuyết lại cũng rất khô khan như
Lịch sử, làm thế nào để có thể sử dụng phương pháp trò chơi hiệu quả? Với sự
trợ giúp của công nghệ thông tin hiện đại, việc thiết kế và lồng ghép các trò chơi
vui học Lịch sử đã trở nên dễ dàng hơn. Đôi khi, học sinh còn được chơi trò chơi
Lịch sử như một game show trên truyền hình. Một số trò chơi tôi thường hay
cho các em chơi như: Theo dòng Lịch sử; Ô chữ kì diệu, Mảnh ghép bí mật; Đố
vui; Rung chuông vàng....Các em học sinh luôn rất hứng thú với các trò chơi học
tập, không riêng gì trong giờ học Lịch sử, các môn học khác cũng vậy.
2.3.6 Hướng dẫn học sinh ứng dụng công nghệ thông tin vào học tập.
Như trên đã nói, hầu hết các gia đình học sinh đều có những thiết bị có thể
giúp các em lên mạng tìm kiếm thông tin một cách dễ dàng. Đồng thời các em
được học Tin học ở trường nên cũng có những kiến thức, kĩ năng cơ bản về công
nghệ thông tin. Có một điều có lẽ nhiều người trong chúng ta đều biết đó là thế hệ
12


trẻ bây giờ rất thông minh và nhanh nhạy. Các em có khi còn sử dụng những thiết
bị điện tử thành thạo hơn cả bố mẹ mình. Chính vì lẽ đó, nếu chúng ta có những
yêu cầu tìm hiểu thông tin về bài học một cách cụ thể, rõ ràng thì không khó để
cho các em có thể tự tìm hiểu. Tuy nhiên, ở đây tôi cần phải nhấn mạnh chữ cụ
thể, rõ ràng vì ai cũng biết việc tìm kiếm trên mạng dễ “chữ tác đánh ra chữ tộ”.
Khi chúng ta gõ tìm kiếm nội dung này nhưng trang tìm kiếm có thể sẽ hiển thị
rất nhiều những nội dung khác, thậm chí cả những nội dung không lành mạnh, vì
thế khi yêu cầu các em tìm kiếm thông tin gì thì giáo viên cần chú ý nhắc các em
gõ đúng, chính xác từ khóa mà mình cần tìm kiếm.

Thông thường, tôi không thường xuyên yêu cầu các em tự tìm kiếm thông
tin. Đối với học sinh lớp 5, việc tiếp cận internet và các phương tiện tìm kiếm
khác cần phải thật thận trọng. Tôi thường chỉ yêu cầu các em tìm hiểu một số bài
hát, bài thơ như đã nói. Các em có thể nghe, có thể chép lại nội dung và có thể tập
hát các bài hát nếu các em thích thú. Ngoài ra, tôi còn hướng dẫn các em tìm kiếm
thông tin hoặc tranh ảnh về các địa danh liên quan đến các bài học, ví như: Kinh
thành Huế, chiến khu Ba Đình, Bãi Sậy; Bến cảng Nhà Rồng; Quảng trường Ba
Đình; Điện Biên Phủ; Bến Tre; Nhà máy thủy điện Hòa Bình… Hoặc thông tin về
các nhân vật Lịch sử có liên quan đến bài học.
Các em đặc biệt thích thú với việc tìm kiếm các câu chuyện quay quanh các
nhân vật lịch sử. Tôi nhận thấy các em biết nhiều chuyện về Bác Hồ, về các vị
tướng của Việt Nam. Các câu chuyện về các tấm gương chiến sĩ anh hùng cũng
được các em yêu thích… Do thời lượng của một tiết học có hạn, chúng ta không
thế cung cấp hết toàn bộ các thông tin có liên quan đến bài học nên việc cho các
em về nhà tìm hiểu thêm rồi tổ chức cho các em trao đổi với nhau trong khi sinh
hoạt 15’ đầu giờ là việc làm rất tốt. Qua đó có thể định hướng giúp các em tự tìm
tòi, khám phá thêm các kiến thức Lịch sử, khơi gợi trong các em niềm hứng thú
và ham học hỏi.
Một số điểm cần lưu ý khi hướng dẫn các em ứng dụng công nghệ thông tin
hỗ trợ học tập: Như đã nói, đối với học sinh Tiểu học, việc cho các em tiếp cận
với các phương tiện tìm kiếm hiện đại như máy tính, điện thoại… cần phải hết
sức thận trọng. Một phần là do các em còn quá nhỏ, chưa nhận thức hết được
những luồng thông tin mình tiếp nhận là trung thực hay không, có đúng đắn hay
không, nhưng quan trọng hơn là thông tin trên các trang mạng quá tràn lan, khó
kiểm soát, có khi tìm kiếm mục này thì kéo tràn theo rất nhiều những nội dung
khác nên sẽ có ảnh hưởng tới việc tìm kiếm cũng như cả về nhận thức của các em.
Vì vậy, tôi đã rút ra được một số điểm cần lưu ý như sau:
- Cần có sự phối hợp chặt chẽ với gia đình về việc cho các em tiếp cận với
các trang tìm kiếm. Có thông báo trước với phụ huynh ngay từ đầu năm học về
một số yêu cầu hỗ trợ cho tiết học Lịch Sử cũng như các tiết học khác như Khoa

học, Địa lí... Bắt buộc các em phải xin phép và thông báo nội dung cần tìm hiểu
với bố mẹ trước khi tìm kiếm.
- Các yêu cầu tìm kiếm phải ngắn gọn, cụ thể, rõ ràng và nội dung tìm kiếm
phải phổ biến, không quá khó khăn cho việc tìm hiểu của học sinh.
- Cần hồi đáp các thông tin đã yêu cầu học sinh tìm hiểu. Có những nội
dung giáo viên yêu cầu các em tìm hiểu và chuẩn bị trước cho bài học thì đương
13


nhiên trong quá trình dạy học sẽ yêu cầu các em báo cáo, nhưng cũng có một số
nội dung yêu cầu các em tìm hiểu thêm sau khi đã hoàn thành bài học thì sau đó
giáo viên nên cho các em trình bày những điều em đã tìm hiểu được cho cả lớp
nghe. Vì các nội dung yêu cầu học sinh tìm hiểu thường chỉ là những bài hát, bài
thơ hay các câu chuyện về các nhân vật Lịch sử nên thay vì yêu cầu các em trả bài
trong tiết dạy Lịch sử thì tôi cho các em báo cáo vào 15 phút đầu giờ, coi đó như
là một hoạt động ngoài giờ thú vị.
- Không nên xem yêu cầu tìm hiểu Lịch sử là một hoạt động học tập. Đây là
một lưu ý quan trọng và cũng là khó khăn đối với giáo viên. Phải làm thế nào đó
để các em xem yêu cầu của cô giáo chỉ là một hoạt động khám phá, vui chơi trí
tuệ bổ ích. Khi học sinh báo cáo, giáo viên cũng chỉ nên khuyến khích những em
có khả năng và điều kiện tìm kiếm, không nên khiển trách các em không tìm kiếm
được thông tin theo yêu cầu. Tôi thường cho các em trao đổi theo nhóm, sau đó tổ
chức cho các nhóm thi đua với nhau dưới nhiều hình thức như: thi kể chuyện Lịch
sử, thi đọc thơ hoặc thi văn nghệ… Học sinh rất thích các hoạt động này, các em
tham gia rất tích cực và sôi nổi.
2.4 HIỆU QUẢ ĐẠT ĐƯỢC:
Thông qua việc ứng dụng công nghệ thông tin vào trong giảng dạy phân
môn Lịch sử thời gian qua, tôi nhận thấy việc dạy và học Lịch sử đã có những
thay đổi rõ nét, kết quả đạt được rất khả quan.
Về phía học sinh, điều đầu tiên có thể nhận thấy là các em không còn thấy

ngại khi phải học Lịch sử nữa. Nhiều em còn rất có hứng thú với tiết học này. Hầu
hết các em đều mong đợi đến tiết học Lịch sử như chờ đợi một điều thú vị ở phía
trước.
Các em hăng say tìm hiểu và khám phá các kiến thức Lịch sử hơn. Nhiều
buổi sinh hoạt 15 phút đầu giờ của lớp tôi đã trở thành buổi nói chuyện, trao đổi,
kể chuyện Lịch sử. Nhiều tiết học trở thành sân chơi trí tuệ cho các em thi đua.
Phụ huynh học sinh cũng bị cuốn theo những ham thích của các em. Nhiều
gia đình quan tâm hơn đến việc học Lịch sử của con em mình. Thậm chí, có nhiều
bậc cha mẹ còn cảm thấy thích thú và cùng tìm hiểu Lịch sử với con.
Học sinh tự giác, tích cực, chủ động hơn trong các tiết học Lịch sử. Các em
có khả năng tự học, tự giải quyết các vấn đề học tập. Việc ghi nhớ các kiến thức
Lịch sử của các em cũng tốt hơn, sâu hơn. Điều đó thể hiện rất rõ qua kết quả
kiểm tra môn Lịch sử - Địa lí cuối học kì I của lớp 5A vừa qua. Có tới gần 50% số
học sinh của lớp đạt điểm 9, 10. Không có học sinh chưa hoàn thành các yêu cầu
học tập. Cụ thể kết quả đạt được như sau:
KẾT QUẢ
SỐ HS

ĐIỂM 9-10

ĐIỂM 7-8

ĐIỂM 5-6

SL
17

SL
12


SL
9

TL
44.7

TL
31.6

TL
23.7

ĐIỂM DƯỚI 5
SL
0

TL

38

14


Về phía giáo viên trong nhà trường, các thầy cô cũng đã dấy lên phong
trào ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học không chỉ trong phân môn Lịch
sử mà trong cả nhiều môn học khác như: Khoa học, Địa lý, Tự nhiên và Xã
hội,... Trong các đợt thao giảng, có hơn 50% số tiết dạy của giáo viên đã sử dụng
giáo án điện tử. Trong các tiết học thường ngày, giáo viên cũng thường xuyên
tìm tòi, học hỏi để có thể vận dụng các biện pháp dạy học mới có tính sáng tạo
và hiệu quả hơn.

Thiết nghĩ, với một trường học ở vùng nông thôn như trường chúng tôi,
để có thể giúp học sinh tiếp cận và khai thác những tiện ích của công nghệ thông
tin và ứng dụng vào học tập, vào cuộc sống là điều không dễ. Bản thân giáo viên
cũng còn gặp rất nhiều khó khăn cả về cơ sở vật chất lẫn kiến thức, kĩ năng. Vì
thế, để việc dạy học đạt được kết quả như vậy đã là cả một sự nổ lực phấn đấu
không ngừng của giáo viên và học sinh. Việc ứng dụng công nghệ thông tin vào
dạy học trong nhà trường đã như một luồng gió mới làm thay đổi không khí học
tập trong các lớp học.
3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
KẾT LUẬN:
Có thể khẳng định rằng, việc ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học
trong giai đoạn bùng nổ công nghệ thông tin như hiện nay là điều tất yếu của
mỗi nhà trường, mỗi giáo viên. Bản thân người giáo viên phải có nhận thức
đúng về vai trò của công nghệ thông tin trong đời sống xã hội hiện đại. Có ý
thức tự học, tự bồi dưỡng để nâng cao trình độ, năng lực của bản thân. Thay đổi
cách nghĩ về các biện pháp, phương pháp giáo dục, bỏ thói quen thầy giảng trò
nghe, học gạo, học vẹt, thay vào đó là sự phối hợp linh hoạt giữa những phương
pháp dạy học làm sao đó để tạo cho các em có hứng thú với môn học. Bên cạnh
đó ta cũng cần thay đổi tư duy đánh giá học sinh, không nên chỉ chăm chăm
nhìn vào kết quả thi, kiểm tra của các em mà nên nhìn vào quá trình học của các
em. Ta nên xem em đó có thái độ như thế nào với môn học, các em có yêu thích
giờ học không, có tích cực trong học tập không và quan trọng em có khả năng tự
học, tự tìm tòi, khai thác các kiến thức hay không. Việc đánh giá không nên chỉ
là để xem em đó đạt loại gì, có được giấy khen, có được lên lớp hay không mà
quan trọng hơn là để giúp người giáo viên có thể điều chỉnh những định hướng
của mình lên học trò một cách hợp lý. Tìm cách khuyến khích, động viên hoặc
tìm một biện pháp giáo dục nào đó để khích lệ các em tham gia học tập tích cực
và tự giác hơn, đó mới là điều quan trọng. Cũng chính vì thế mà việc đánh giá
thường xuyên trong dạy học nên được xem trọng. Giáo viên nên có sự quan sát
đến các đối tượng học sinh để nhận biết tinh thần, thái độ của các em trong tiết

học.
Đối với một lớp học có sĩ số học sinh đông như lớp 5A, để thu hút sự chú
ý của 38 học sinh và tạo cho tất cả các em sự hứng thú, tích cực, chủ động và tự
giác trong học tập là điều không dễ. Tuy nhiên, thông qua quá trình giảng dạy
vừa qua, tôi nhận thấy kết quả học tập của các em đã có sự tiến bộ rõ ràng. Điều
này được đánh giá không chỉ qua kết quả học tập mà căn bản là qua thái độ học
tập của các em. Tôi đặc biệt xem trọng cách đánh giá này, bởi thái độ học tập sẽ
để lại kết quả lâu dài trong tư tưởng và nhận thức của các em, trong tình cảm của
15


các em với môn học, với thầy cô và nhà trường. Chúng ta thay vì cung cấp cho
các em một loạt kiến thức, bắt các em học thuộc để hoàn thành tốt các bài kiểm
tra thì hãy tạo cho các em niềm đam mê tìm hiểu và khám phá những kiến thức
đó. Từ yêu thích các em sẽ tiếp thu và ghi nhớ tốt hơn.
Ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học sẽ giúp cho người giáo viên
có thể đổi mới phương pháp và hình thức dạy học của mình đạt hiệu quả cao
hơn. Giờ học sẽ linh hoạt hơn, sôi nổi hơn, giúp cho học sinh có thể “học mà
chơi, chơi mà học”.
Đối với một môn học đặc thù như Lịch sử, việc ứng dụng công nghệ
thông tin vào dạy học không chỉ giúp cho giáo viên có thể tái tạo Lịch sử thông
qua các nguồn Sử liệu một cách dễ dàng hơn mà còn giúp cho học sinh có thể tự
học Lịch sử một cách hứng thú hơn.
Với những kết quả đạt được, tôi nhận thấy, giáo viên có thể ứng dụng
công nghệ thông tin vào dạy học trong nhà trường có hiệu quả. Với điều kiện
hiện có của nhà trường, giáo viên hoàn toàn có thể áp dụng những biện pháp dạy
học đã nêu ở trên vào dạy học Lịch sử ở tất cả các lớp học khối 5. Không chỉ có
ở trường Tiểu học Hợp Thành mà ở tất cả các nhà trường, tôi tin rằng nếu giáo
viên sử dụng những biện pháp dạy học như tôi đã nêu trên thì chắc chắn giờ học
Lịch sử sẽ thú vị hơn và được các em yêu thích hơn.

Đặc biệt, không chỉ đối với phân môn Lịch sử, chúng ta có thể ứng dụng
công nghệ thông tin vào dạy học nhiều môn học khác. Điều quan trọng là bản
thân người giáo viên cần phải có sự đầu tư thời gian, chuẩn bị kĩ lưỡng cho từng
tiết học, chọn lựa những nội dung cũng như phương thức truyền đạt tới học sinh
sao cho hiệu quả.
KIẾN NGHỊ:
Về phía giáo viên:
Mỗi giáo viên chúng ta, hãy dạy Lịch sử bằng cái tâm, bằng tình yêu và
niềm tự hào, tự tôn dân tộc sâu sắc để chính bạn có thể sống với những trang sử
hào hùng đó. Hãy thử nghĩ xem, nếu bạn giới thiệu những tấm gương hi sinh anh
dũng hay những tổn thất, mất mát mà quân và dân ta đã phải gánh chịu với một
thái độ bình thản và thậm chí là vui vẻ, bên cạnh đó, học sinh trao đổi với nhau
về các thông tin đó cũng với thái độ tương tự, có khi có em còn đem những câu
chuyện, những hình ảnh, những sự việc đó ra để trêu đùa thì giờ dạy Lịch sử đó
dù hay đến mấy cũng coi như là đã thất bại. Vì chúng ta không chỉ cần dạy cho
các em ghi nhớ Lịch sử mà hơn thế cần phải dạy cho các em có thái độ đúng với
Lịch sử. Nếu giáo viên chúng ta có thể xúc động thật sự và thu hút được các em
bởi sự xúc động đó thì hiệu quả giờ dạy sẽ cao hơn nhiều.
Bản thân giáo viên cần không ngừng học hỏi để nâng cao trình độ chuyên
môn nghiệp vụ. Cần phải chữa dứt điểm bệnh “ì” trong công tác giảng dạy, ngại
thay đổi, ngại làm mới, chỉ rập khuôn một cách dạy quen thuộc. Chúng ta cần
linh hoạt, sáng tạo hơn trong các biện pháp dạy học, không ngại tìm và ứng dụng
những cách thức mới. Có câu “con đường nào cũng dẫn tới thành Rome”,
nhưng với học sinh Tiểu học, ta hãy chọn con đường vui nhất, hào hứng và thân
thiện nhất.
16


Tận dụng tối đa những điều kiện hiện có của bản thân, của nhà trường để
có thể ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học các môn học. Như đã nói, việc

ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học đã trở thành điều tất yếu trong nhà
trường. Tuy thời gian đầu khi mới bắt tay vào công việc sẽ rất vất vả, nhưng sau
đó chúng ta sẽ có cả một kho tư liệu dạy học vô giá.
Về phía Ban giám hiệu nhà trường và các cấp lãnh đạo ngành:
Tôi kính mong các cấp lãnh đạo tạo mọi điều kiện tốt nhất về cơ sở vật
chất để cho giáo viên chúng tôi có thể ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy
học. Với một trường có tới 18 lớp học như trường chúng tôi mà chỉ có 1 bộ đèn
chiếu thì thật sự là quá ít. Nhiều khi giáo viên phải lên lịch để sử dụng đèn
chiếu, nếu có những tiết học trùng nhau mà giáo viên đều có nhu cầu sử dụng thì
phải nhường nhau. Vì vậy, nếu nhà trường được đầu tư thêm các bộ đèn chiếu
thì sẽ thuận lợi hơn cho chúng tôi rất nhiều.
Xây dựng thư viện điện tử cho giáo viên. Đây là điều mong muốn của
không chỉ riêng tôi mà là của rất nhiều giáo viên khác. Với xu thế đưa giáo án
điện tử vào dạy học phổ biến như hiện nay thì những đồ dùng trực quan như
tranh ảnh, bản đồ, lược đồ giấy sẽ ít được sử dụng hơn. Thay vào đó, giáo viên
cần những tài liệu ấy trên máy tính để có thể đưa vào các slide dễ dàng, thuận
tiện hơn…Nói như vậy không có nghĩa là chúng ta bỏ hoàn toàn các đồ dùng
trực quan đã được cấp, nhưng bên cạnh đó, thư viện điện tử cũng sẽ giúp ích
nhiều cho giáo viên.
Tổ chức thêm các chuyên đề về ứng dụng công nghệ thông tin trong các
môn học để cán bộ giáo viên trao đổi học hỏi.
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ:

Thanh Hóa, ngày 25 tháng 3 năm 2017.
Tôi xin cam đoan đây là sáng kiến kinh
nghiệm của mình viết, không sao chép
nội dung của người khác!

Nguyễn Thị Thoa


17


TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Quách Thị Nhung, Gv Trưởng Tiểu học Thúy Lĩnh, Quận Hoàng Mai
Hà Nội - “ Một số biện pháp giúp học sinh hứng thú học tập phân môn Lịch sử
lớp 5”. (Nguồn: )
[2] Dạy học Tự nhiên – Xã hội bằng phương pháp Bàn tay nặn bột. Đỗ
Thị Nga (Chủ biên) - NXB Giáo dục Việt Nam (2015)
[3] Tài liệu Bồi dường thường xuyên cho giáo viên - Chu kì III
(2003-2007) - Nhà xuất bản Giáo dục
[4] Mai Hồng Sương - Gv Trường Tiểu học 1 Sông Đốc, huyện Trần Văn
Thời, tỉnh Cà Mau - “Một số giải pháp dạy học theo hướng tích cực môn Lịch sử
lớp 5”. (Nguồn: />[5] Các phim tư liệu, bài hát… từ nguồn
[6] Tranh ảnh, các tư liệu Lịch sử, bài thơ bài hát, các sáng kiến kinh
nghiệm, giáo án điện tử, các tài liệu khác…từ trang tìm kiếm
www.google.com.vn và từ nguồn:




18


DANH MỤC
CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC
ĐÁNH GIÁ XẾP LOẠI
Họ và tên tác giả: NGUYỄN THỊ THOA
Chức vụ và đơn vị công tác: Giáo viên - Trường Tiểu học Hợp Thành.
TT


1

Tên đề tài SKKN
Một số biện pháp phụ đạo cho học
sinh yếu môn Toán - Lớp 4

Cấp đánh Kết quả
giá xếp đánh giá
loại
xếp loại

Năm học
đánh giá
xếp loại

Phòng
GD&ĐT

C

2007-2008

Phòng
GD&ĐT

C

2009-2010


Phòng
GD&ĐT

B

2012-2013

Phòng
GD&ĐT

C

2013-2014

Một số biện pháp dạy học môn Lịch
2

sử nhằm hướng tới phát huy tính
chủ động, sáng tạo của học sinh.

3

4

Một số biện pháp nhằm giúp học
sinh làm tốt bài văn miêu tả lớp 5.
Một số biện pháp giúp học sinh lớp
1 rèn kĩ năng sống.

19




×