Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

SKKN một số biện pháp chỉ đạo rèn kỹ năng sống cho học sinh tiểu học nhằm nâng cao chất lượng giáo dục

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (603.67 KB, 24 trang )

MỤC LỤC
NỘI DUNG
1. MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài
1.2. Mục đích nghiên cứu
1.3. Đối tượng nghiên cứu
1.4. Phương pháp nghiên cứu
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm
2.2. Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh
nghiệm
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
Giải pháp 1: Làm tốt công tác tuyên truyền tich cực bồi dưỡng để
nâng cao nhận thức, hiểu biết về vai trò của giáo dục kĩ năng sống
cho giáo viên, phụ huynh và học sinh
Giải pháp 2: Nâng cao chất lượng rèn kỹ năng sống cho học sinh
thông qua hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp
Giải pháp 3: Chỉ đạo giáo viên vận dụng linh hoạt và sáng tạo
việc lồng ghép rèn kĩ năng sống qua các môn học chính khóa
Giải pháp 4: Chỉ đạo giáo viên làm tốt công tác phối hợp với gia
đình, cán bộ thư viên và các tổ chức trong nhà trường để rèn kĩ
năng sống cho học sinh
Giải pháp 5: Chỉ đạo giáo viên thực nghiệm một số kỹ năng dạy
kỹ năng sống cho học sinh
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động gia
đình, với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường.
3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận
3.2. Kiến nghị

TRANG


1
1
2
2
2
2
2
4
5
5
8
13
16
17
19
19
19
20


1. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài
Hiện nay, giáo dục kỹ năng sống đang là vấn đề được quan tâm của Bộ
Giáo dục và Đào tạo và chính thức được đưa vào nhà trường.
Nhà trường là nơi đang diễn ra cuộc sống thực của trẻ, do vậy Kỹ năng
sống là sản phẩm bắt buộc phải có của giáo dục nhà trường. Nó không phải là
môn học mới đưa vào nhà trường. Nó bao trùm toàn bộ các môn học và hoạt
động giáo dục.
Thực hiện Quyết định số 2994/QĐ-BGDĐT ngày 20/7/2010 của Bộ Giáo
dục và Đào tạo triển khai giáo dục kĩ năng sống trong một số môn học và hoạt

động giáo dục ở các cấp học, dựa trên cơ sở những định hướng nhằm tăng cường
giáo dục kĩ năng sống trong các môn học cho các cấp học trong hệ thống giáo
dục phổ thông. Đây là một chủ trương hoàn toàn đúng đắn và cần thiết trong
thực tế xã hội hiện nay, nhất là đối với bậc tiểu học, bậc học nền tảng hình thành
nhân cách một con người. Vì vậy, ngoài việc trang bị cho học sinh vốn kiến thức
cơ bản trong học tập, lao động còn phải giáo dục học sinh có kỹ năng sống, kỹ
năng làm người để học sinh có thêm kinh nghiệm thích ứng với môi trường, xã
hội mới. Trong giáo dục tiểu học, kỹ năng sống có thể là một tập hợp những khả
năng được rèn luyện và đáp ứng các nhu cầu cụ thể của cuộc sống hiện đại.
Yêu cầu về nội dung giáo dục tiểu học phải đảm bảo cho học sinh có hiểu
biết đơn giản, cần thiết về tự nhiên, xã hội và con người; có kỹ năng cơ bản về
nghe, nói, đọc, viết và tính toán; có thói quen rèn luyện thân thể, giữ gìn vệ sinh;
có hiểu biết ban đầu về nghệ thuật.
Như chúng ta đã biết đặc điểm lứa tuổi tiểu học, các em rất hiếu động, hay
bắt chước, dễ bị lôi cuốn. Đối với lứa tuổi này, giáo viên và các bậc cha mẹ phải
hết sức lưu tâm, gẫn gũi với các em, phát hiện những biểu hiện lệch lạc, chia sẻ
kịp thời những vướng mắc của các em, dạy cho các em biết phân biệt cái đúng,
cái sai, làm theo cái đúng, ủng hộ cái đúng, đấu tranh với những biểu hiện sai
trái, nhắc nhở các em hành động theo chuẩn mực đạo đức và thói quen đạo đức,
phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của các em phù hợp với từng
nhóm học, tăng cường khả năng làm việc theo nhóm, vận dụng kiến thức vào
thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui hứng thú học tập cho các em.
Giáo dục kĩ năng sống không phải đơn thuần là dạy ở các tiết học Tiếng việt,
Đạo đức, Tự nhiên xã hội mà phải biết lồng ghép rèn kĩ năng sống ở tất cả các
tiết học và các hoạt động khác. Giáo dục kĩ năng sống cho các em là một vấn đề
cần phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa nhà trường, phụ huynh, hoạt động Đội và
các tổ chức đoàn thể trong nhà trường, địa phương. Giáo dục kĩ năng sống là
một chương trình giáo dục hết sức cần thiết trong nhà trường. Vì thế là phó hiệu
trưởng tôi luôn trăn trở với suy nghĩ: làm thế nào để nâng cao hiệu quả việc giáo
dục kĩ năng sống cho học sinh? Tôi đã tìm tòi, nghiên cứu các tài liệu và chọn đề

tài “Một số biện pháp chỉ đạo rèn kĩ năng sống nhằm nâng cao chất lượng
giáo dục cho học sinh trường tiểu học Nga Văn, Nga Sơn” để tích lũy thêm
kinh nghiệm trong quản lý, trong chỉ đạo chuyên môn.

2


1.2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn nhằm nâng cao nhận thức, vốn
hiểu biết cho giáo viên và đưa ra các giải pháp giáo dục kỹ năng sống cho học
sinh tiểu học. Qua đó, giúp học sinh ý thức được giá trị của bản thân trong mối
quan hệ xã hộị, hiểu biết về thể chất, tinh thần của bản thân mình; có hành vi,
thói quen ứng xử có văn hóa, hiểu biết và chấp hành pháp luật,... Trang bị cho
học sinh các kĩ năng cơ bản “học để biết, học để làm, học để tự khẳng định mình
và học để cùng chung sống”. Giúp học sinh có khả năng thích ứng với môi
trường xung quanh, tự chủ, độc lập, tự tin khi giải quyết công việc, đem lại cho
các em kĩ năng cần thiết làm hành trang bước tiếp trong cuộc đời.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
- Nghiên cứu tài liệu liên quan đến việc rèn kĩ năng sống cho học sinh tiểu
học.
- Nghiên cứu thực trạng việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh trường
Tiểu học Nga Văn, Nga Sơn, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu và thử nghiệm, bản thân tôi đã áp dụng các
nhóm phương pháp chính sau đây:
- Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lí thuyết: Trên cơ sở nghiên
cứu các tài liệu liên quan đến rèn kĩ năng sống cho học sinh để rút ra cơ sở khoa
học. Kết hợp với các công văn, hướng dẫn và quan điểm chỉ đạo liên quan đến
đề tài để chỉ đạo việc rèn kĩ năng sống cho học sinh trong nhà trường.
- Phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Thông qua quan sát hoạt động học

tập của học sinh và thông qua dự giờ giáo viên. Quan sát hoạt động vui chơi
(Thích trò chơi nào, thái độ trung thực hay gian lận khi tham gia trò chơi…) nắm
bắt tình hình thực tế việc rèn luyện kĩ năng sống tại nhà trường... Quan sát hoạt
động giao tiếp với mọi người xung quanh (Thái độ khi nói chuyện với bạn bè,
cách xưng hô với thầy cô giáo, với người lớn tuổi, hành vi tốt xấu với mọi
người…). Từ đó, các đồng chí quản lý và giáo viên đưa ra các giải pháp giáo
dục phù hợp nhằm nâng cao chất lượng giáo dục trong nhà trường.
- Phương pháp thực nghiệm: Xây dựng giờ dạy mẫu, chỉ đạo giáo viên
dạy thực hành ở một số tiết dạy ở một số khối lớp. Tổ chức cho giáo viên cùng
dự giờ, cùng tham gia hoạt động với học sinh. Tổ chức sinh hoạt chuyên môn,
tập huấn, chuyên đề trao đổi, đánh giá rút kinh nghiệm, đưa ra những phương
pháp nhằm làm rõ vấn đề liên quan đến rèn kĩ năng sống cho học sinh.
2. NỘI DUNG CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
Kĩ năng là năng lực hay khả năng của chủ thể thực hiện thuần thục một
hay một chuỗi hành động trên cơ sở hiểu biết (kiến thức hoặc kinh nghiệm)
nhằm tạo ra kết quả mong đợi.
Kỹ năng sống là gì?
Kỹ năng sống là những trải nghiệm có hiệu quả nhất, giúp giải quyết
hoặc đáp ứng các nhu cầu cụ thể, trong suốt quá trình tồn tại và phát triển của
con người. Kĩ năng sống bao gồm cả hành vi vận động của cơ thể và tư duy
trong não bộ của con người. Kĩ năng sống có thể hình thành một cách tự nhiên,
3


thông qua giáo dục hoặc rèn luyện của con người [1].
Kĩ năng sống là một tập hợp các kĩ năng mà con người có được thông qua
giáo dục hoặc kinh nghiệm trực tiếp được sử dụng để xử lý một số vấn đề. Kĩ
năng sống là một trong những khái niệm được nhắc đến nhiều trong thời đại
ngày nay. Có nhiều quan niệm về kĩ năng sống. Theo tôi, kĩ năng sống đơn giản

là tất cả những điều cần thiết chúng ta phải biết để có thể thích ứng với những
thay đổi diễn ra hàng ngày trong cuộc sống. Kĩ năng sống được hình thành theo
một quá trình, hình thành một cách tự nhiên qua những va chạm, những trải
nghiệm trong cuộc sống và qua giáo dục mà có.
Kĩ năng sống đóng một vai trò vô cùng quan trọng đối với việc hình
thành, phát triển con người toàn diện phù hợp với sự phát triển của xã hội. Vì
một người có kiến thức chuyên môn nhưng sức khỏe yếu, thiếu tự tin trước đám
đông, tính tình nhút nhát, ít giao lưu với bạn bè, không hòa đồng với mọi người,
hiểu biết xã hội và môi trường xung quanh hạn chế… Những người thuộc nhóm
này chắc chắn trong công việc và trong cuộc sống hàng ngày sẽ gặp rất nhiều
khó khăn, kết quả công việc không cao. Người dù có chuyên môn nhưng khả
năng diễn đạt kém lại có tính ích kỉ không hòa đồng thì cũng không thể lãnh đạo
và giúp đỡ người khác tiến bộ được.
Rèn kĩ năng sống cho học sinh là nhằm giúp các em rèn luyện kĩ năng ứng
xử thân thiện trong mọi tình huống; thói quen và kĩ năng làm việc theo nhóm, kĩ
năng hoạt động xã hội; Giáo dục cho học sinh thói quen rèn luyện sức khỏe, ý
thức tự bảo vệ bản thân, phòng ngừa tai nạn giao thông, đuối nước và các tệ nạn
xã hội... Đối với học sinh tiểu học việc hình thành các kĩ năng cơ bản trong học
tập và sinh hoạt là vô cùng quan trọng, ảnh hưởng đến quá trình hình thành và
phát triển nhân cách con người. kĩ năng sống được chia thành hai nhóm:
Nhóm 1: Nhóm kĩ năng giao tiếp, hòa nhập cuộc sống.
Nhóm 2: Nhóm kĩ năng trong học tập, lao động, vui chơi, giải trí
Vấn đề đạt ra với học sinh tiểu học, kĩ năng nào là quan trọng nhất cần
giáo dục?
Theo tôi, các đồng chí quản lý và các đồng chí giáo viên trực tiếp giảng
dạy ở cấp tiểu học cũng như các bậc cha mẹ học sinh cần thấy rõ tầm quan trọng
của việc rèn kĩ năng sống để rèn cho trẻ các kĩ năng rất cần thiết hình thành ở
lứa tuổi. Chẳng hạn, các kĩ năng công cụ cơ bản như kĩ năng nghe, nói, đọc,
viết, tính toán là ưu tiên số một. Bên cạnh đó cần rèn cho học sinh kĩ năng tư
duy có phê phán, phân tích, ra quyết định trong một số tình huống cụ thể. Kĩ

năng tự tin là người có kiến thức, tin vào kĩ năng cá nhân mình, tin vào những
điều tốt đẹp. Kĩ năng trung thực tức là không nói dối, không làm trí trá, không
đối phó, không làm điều mình không muốn với bạn. Kĩ năng giao tiếp trong gia
đình và ở nhà trường, giao tiếp với ông bà cha mẹ, với anh chị em, với khách,
với thầy cô bạn bè, tôn trọng, quan tâm đến bản thân và người khác. Kĩ năng sử
dụng các vật dụng thông thường trong gia đình (chổi quét nhà, khăn lau, dao,
kéo, nồi cơm điện, ti vi,.... Kĩ năng xử lý những vấn đề nhỏ liên quan đến vật
dụng của mình (như rửa các vết bẩn (vết mực, vết chocolate...), dọn thủy tinh
khi bị vỡ cốc, chén). Kĩ năng xử lý những chấn thương khi bị đứt tay, ngã xước
da, khi đau bụng, nhức đầu, buồn nôn... Các kĩ năng như kĩ năng tiết kiệm thời
4


gian tức là đúng giờ, đúng hẹn, có kế hoạch, có tổ chức; kĩ năng tiết kiệm nước,
tiết kiệm điện, tiết kiệm đồ ăn, giữ gìn vệ sinh chung; kĩ năng đi đúng phần
đường qui định khi tham gia giao thông; kĩ năng thực hiện đúng luật chơi khi
vui chơi; kĩ năng giữ gìn quần áo, đồ dùng, đồ chơi của mình và chia sẻ với bạn;
kĩ năng tự phục vụ (tự ăn, tự mặc quần áo, tự vệ sinh thân thể, tự sắp đồ dùng
học tập, tự giác học bài); kĩ năng kiểm soát tình cảm - kĩ năng kìm chế thói hư
tật xấu sở thích cá nhân có hại cho bản thân và người khác v.v... cũng là kỹ năng
cần thiết hình thành từ cấp học [1].
Các kĩ năng trên muốn có được phải nhờ một nguyên tắc quan trọng: giáo
dục bằng việc làm. Và mỗi việc làm phải có sản phẩm. Có sản phẩm tức là có kỹ
năng sử dụng sản phẩm. Gia đình và nhà trường cần phối hợp với nhau chặt chẽ
để giáo dục trẻ.
2.2. Thực trạng việc giáo dục kĩ năng sống ở trường tiểu học Nga Văn
Từ thực tế trực tiếp chỉ đạo các hoạt động giáo dục trong nhà trường, qua
thăm lớp, dự giờ, qua sinh hoạt chuyên môn cụm, công tác rèn kĩ năng sống cho
học sinh ở trường tiểu học Nga Văn cũng đã có những ưu điểm nhất định.
* Về nhà trường: Thực hiện công văn số: 463/BGDĐT-BDTX V/v:

Hướng dẫn triển khai thực hiện giáo dục kĩ năng sống tại các cơ sở
GDMN,GDPT và GDTX ngày 28/01/2015. Ban giám hiệu trường tiểu học Nga
Văn đã thấy rõ tính cấp thiết giáo dục kĩ năng sống trong nhà trường. Tập trung
chỉ đạo phối hợp với phong trào “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích
cực” với giáo dục ngoài giờ lên lớp và chú trọng chỉ đạo rèn kĩ năng sống lồng
ghép qua các môn học.
* Về phía giáo viên: Đội ngũ cán bộ giáo viên, nhân viên nhà trường đã
hiểu được ý nghĩa và tầm quan trọng tính cấp thiết của việc giáo dục kĩ năng
sống cho học sinh. Giáo viên nhà trường đều thực hiện nghiêm túc việc chỉ đạo
của lãnh đạo nhà trường. Nhiều đồng chí đã có kĩ năng tốt trong tổ chức giáo
dục kĩ năng sống cho học sinh thông qua hoạt động ngoài giờ lên lớp cũng như
lồng ghép giáo dục kĩ năng sống thông qua các môn học chính khóa đạt kết quả
cao.
* Về phía học sinh: Học sinh trường Tiểu học Nga Văn đa phần là con em
nông thôn thuần túy, các em ngoan ngoãn, nghe lời thầy cô giáo. Hầu hết các em
học sinh có kĩ năng lao động tốt, sống chan hòa, yêu lao động, chăm học.
Bên cạnh những ưu điểm, trường tiểu học Nga Văn còn gặp những khó
khăn, tồn tại, hạn chế cần được giải quyết khắc phục:
- Cơ sở vật chất còn thiếu thốn, hệ thống máy chiếu phục giảng dạy còn ít,
nơi vui chơi cho học sinh chưa đáp ứng được nhu cầu giáo dục hiện nay.
- Một số giáo viên chưa hiểu rõ bản chất, vai trò, tầm quan trọng của giáo
dục kĩ năng sống đối với học sinh tiểu học. Khả năng lồng ghép rèn kĩ năng
sống thông qua các môn học han chế, nội dung và hình thức tổ chức hoạt động
ngoài giờ lên lớp chưa phong phú. Một số giáo viên khi dạy chỉ tập trung vào
việc dạy kiến thức, ít chú trọng đến việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh.
Trong các tiết học ngoài giờ lên lớp chưa giúp các em cách học “chơi mà học”
một cách có hiệu quả tốt.
5



- Nhiều học sinh kĩ năng sống của các em còn hạn chế. Các em không có
điền kiện giao lưu, rèn luyện, nhiều em không có thói quen chào hỏi, không dám
giao tiếp trước tập thể, không biết nói lời xin lỗi khi làm sai, còn chơi trò chơi
nguy hiểm …
Một số gia đình chỉ tập trung chú trọng đến việc chăm lo cho con học văn
hóa còn các mặt hoạt động giáo dục khác thì phó mặc cho giáo viên và cho nhà
nhà trường.
Kết quả khảo sát kĩ năng sống của học sinh đầu năm học 2016-2017

Nhóm

Tổng số
học sinh
toàn
trường
245em

Đạt
SL

Chưa đạt
TL

SL

TL

Kĩ năng giao tiếp, hòa nhập
160em 65,3% 85em 34,7%
Kĩ năng trong học tập, lao động,

245em
149em 60,8% 96em 39,2%
vui chơi, giải trí
Qua khảo sát thực tế cho thấy, tỉ lệ học sinh chưa đạt về kĩ năng sống ở
các nhóm còn cao. Một bộ phận giáo viên trong trường chưa hiểu hết tầm quan
trọng, tính cấp thiết của công tác giáo dục kĩ năng sống cho học sinh. Hiệu quả
công tác giáo dục kĩ năng sống trong các nhà rường chưa cao. Nguyên nhân là
do công tác quản lí khâu kiểm tra đánh giá chưa chặt chẽ. Một bộ phân giáo viên
trong trường chưa hiểu hết tầm quan trọng, tính cấp thiết giáo dục kĩ năng sống
cho học sinh. Để đạt mục tiêu giáo dục toàn diện cho học sinh thì gia đình, nhà
trường và cộng đồng phải có sự kết hợp chặt chẽ hỗ trợ lẫn nhau, tìm ra các giải
pháp nâng cao chất lượng kĩ năng sống cho học sinh.
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
Giáo dục kĩ năng sống cần bắt đầu từ nhỏ, từ từng hành vi cá nhân đơn giản
nhất, theo đó hình thành tính cách và nhân cách. Vì vậy, tiểu học được coi là cấp
học nền móng. Theo chương trình giáo dục của Bộ GD&ĐT thì hiện nay tất cả
các trường tiểu học trong cả nước đều tổ chức dạy học 2 buổi/ngày hoặc tăng
buổi. Như vậy, thời gian dành cho trẻ chủ yếu là ở trường. Nhà trường là nơi
diễn ra cuộc sống thực của trẻ. Rèn kĩ năng sống là nhiệm vụ trọng trách của nhà
trường.
Giải pháp 1. Làm tốt công tác tuyên truyền tích cực bồi dưỡng để nâng cao
nhận thức, hiểu biết về vai trò của giáo dục kĩ năng sống cho giáo viên, phụ
huynh và học sinh.
Theo chuyên viên tâm lý Huỳnh Văn Sơn, cố vấn Trung tâm chăm sóc
tinh thần Ý tưởng Việt: “Hiện nay, thuật ngữ kĩ năng sống được sử dụng khá
phổ biến nhưng có phần bị “lạm dụng” khi chính những người huấn luyện hay
tổ chức và các bậc cha mẹ cũng chưa thật hiểu gì về nó”[3]. Thật vậy, để nâng
cao nhận thức, vốn hiểu biết cho giáo viên, phụ huynh và học sinh và tạo được
sự đồng thuận, phối hợp chặt chẽ, tạo sức mạnh tổng hợp làm tốt việc rèn kĩ
năng sống cho học sinh.

Để thực hiện hiệu quả giải pháp này, tôi đã tham mưu với Ban giám hiệu
nhà trường tổ chức chuyên đề Rèn kĩ năng sống cho học sinh Tiểu học. Bản thân
6


tham gia học tập và chỉ đạo giáo viên tự học tự bồi dưỡng theo Module BDTX
theo TT26, các Module TH 37, TH 40, TH42, TH45 về giáo dục kỹ năng sống
cho học sinh Tiểu học. Tổ chức thao giảng, dự giờ (theo khối, lớp). Tổ chức sinh
hoạt chuyên môn rút kinh nghiệm rèn kĩ năng sống cho học sinh theo lứa tuổi
khối lớp ngay trong từng giờ dạy.
Các nội dung cụ thể như sau:
* Làm tốt công tác tuyên truyền
- Trước khi hội nghị phụ huynh đầu năm, tôi đã cùng với đồng chí hiệu
trưởng chuẩn bị nội dung, tài liệu để chỉ đạo giáo viên trao đổi cùng với phụ
huynh công tác giáo dục kĩ năng sống cho học sinh .
- Chỉ đạo giáo viên tổ chức hội nghị phụ huynh đầu năm cần tuyên truyền
để phụ huynh nắm rõ về cách đánh giá học sinh tiểu học theo thông tư 22 để phụ
huynh cùng kết hợp theo dõi đánh giá một số kĩ năng sống cơ bản sau đây:
+ Kĩ năng giao tiếp: Cần giúp các em về cách chào hỏi, nói lời cảm ơn,
xin lỗi, biết quan tâm giúp đỡ, chia sẻ với mọi người…
+ Kĩ năng tự nhận thức: Giúp cho các em đang ở lứa tuổi tiểu học thì nhận
thức việc học tập ở lớp, ở nhà như thế nào? Khi vui chơi nên chơi những trò
chơi có lợi, tránh những trò chơi nguy hiểm…
+ Kĩ năng ứng phó với tình huống căng thẳng: Giúp các em biết một số
tình huống căng thẳng trong cuộc sống. Biết cách ứng phó khi gặp tình huống
căng thẳng…
Chỉ đạo giáo viên trao đổi với phụ huynh kết hợp với các tổ chức giáo
dục khác để rèn kĩ năng phòng tránh tai nạn thương tích, đuối nước cho các em
như: Trong các ngày nghỉ hay trong thời gian nghỉ hè, phụ huynh cho các em
tham gia các câu lạc bộ vui chơi giải trí bổ ích; sinh hoạt tại nhà văn hóa thanh

thiếu nhi của huyện, trại hè; các em đi học các lớp võ thuật rèn luyện sức khỏe,
thể lực, phản xạ nhanh nhạy,… để ứng phó với các tình huống nguy hiểm; tham
gia lớp học bơi để phòng tránh đuối nước; tham gia các lớp năng khiếu … góp
phần nâng cao kĩ năng sống cho học sinh, giúp học sinh phát triển toàn diện.
Nâng cao nhận thức cho giáo viên, phụ huynh và học sinh
Tôi nhận thức rằng, muốn rèn kĩ năng sống cho học sinh có hiệu quả,
người giáo viên phải hiểu và nắm vững vai trò của giáo dục kĩ năng sống với lứa
tuổi tiểu học. Vì vậy, tôi đã tham mưu với đồn chí hiệu trưởng tổ chức chuyên
đề: Rèn kĩ năng sống cho học sinh, nhằm tuyên truyền tới toàn thể giáo viên về
mục đích, yêu cầu, ý nghĩa của việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh trong
nhà trường.
Sau khi triển khai chuyên đề, các đồng chí giáo viên tích cực tham gia học
tập với thái độ nghiêm túc, tích cực tự tìm tòi nghiên cứu tài liệu, tích cực dự
giờ. Hoạt động chuyên môn của nhà trường sôi nổi hẳn lên. Thông qua, dự giờ,
góp ý rút kinh nghiệm, các đồng chí giáo viên nhận thức được hoạt động rèn kĩ
năng sống cho học sinh không phải tự mỗi giáo viên làm được, mà cần phải có
sự phối hợp với phụ huynh. Từ đó, mỗi giáo viên lại là một tuyên truyền viên tới
phụ huynh giúp các bậc phụ huynh hiểu rõ tầm quan trọng của việc giáo dục kĩ
năng sống cho học sinh, giúp các bậc phụ huynh nâng cao được nhận thức để
cùng phối hợp với giáo viên rèn kĩ năng sống cho học sinh đạt kết quả tốt nhất.
7


Trường tiểu học Nga Văn, Nga Sơn tổ chức triển khai chuyên đề: Rèn kĩ
năng sông cho học sinh.
* Lựa chọn hình thức học tập phù hợp cho học sinh
Chỉ đạo giáo viên xây dựng kế hoạch và dạy phân hóa đối tượng ngay
trong từng giờ dạy. Tổ chức nhóm học tập theo từng đối tượng để học sinh có
dịp bộc lộ khả năng hiểu biết, khả năng giao tiếp trước nhóm bạn, lớp, được
đánh giá lẫn nhau. Thông qua đó rèn kĩ năng giao tiếp nói và lắng nghe, tự tin và

mạnh dạn. Giáo viên cần tập trung đánh giá sự tiến bộ của học sinh, coi trọng sự
động viên khuyến khích học sinh để giúp học sinh tích cực và vượt khó trong
học tập, rèn luyện, phát huy những khả năng đảm bảo công bằng, kịp thời và
khách quan.
Từ cách làm trên đã đem lại hiệu quả rõ rệt. Nhà trường nâng cao chất
lượng bồi dưỡng đội ngũ. Các đồng chí giáo viên có năng lực chuyên môn
nghiệp vụ vững vàng. Luôn có tinh thần tự học, tự bồi dưỡng để nâng cao chất
lượng giáo dục kĩ năng sống cho học sinh góp phần nâng cao chất lượng giáo
dục toàn diện. Luôn đổi mới phương pháp dạy học và hình thức tổ chức theo
định hướng mới. Khả năng dạy phân hóa đối tượng ngày được nâng cao.
+ Giáo viên tích cực nghiên cứu và tự rút ra được bài học: rèn kĩ năng
sống cho học sinh thì cần phải kiên trì, tâm huyết, dành nhiều thời gian cho công
việc thì mới có kết quả như mong muốn. Vì, giáo dục kĩ năng sống đóng một vai
trò vô cùng quan trọng đối với việc hình thành phát triển con người toàn diện.
+ Phụ huynh thấy được tầm quan trọng của việc rèn kĩ năng sống cho con
em. Chính sự thay đổi về nhận thức, phụ huynh đã đồng tình ủng hộ, thay đổi
phương pháp giáo dục con cái, quan tâm đến hướng dẫn tập thói quen cho con.
+ Học sinh chuyển biến rõ rệt về nề nếp, vệ sinh cá nhân, ý thức chấp
hành, lễ phép chào hỏi, vui chơi an toàn, thân thiện, tự tin…Học sinh mạnh dạn
thân thiện giao tiếp với thầy cô bạn bè mạnh dạn trong giờ học, trong hoạt
động…
8


Học sinh lớp 5A trường TH Nga Văn, Nga Sơn thảo luận nhóm trong giờ học
Giải pháp 2. Nâng cao chất lượng rèn kỹ năng sống cho học sinh thông qua
hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp.
Hoạt động ngoài giờ lên lớp là một trong những nội dung giáo dục toàn
diện cho học sinh. Với mục đích là tiếp nối hoạt động dạy học trên lớp nhằm
nâng cao chất lượng các môn văn hóa bằng cách tổ chức các hoạt động ngoài

giờ học theo các chủ đề trong năm học. Từ đó, giúp các em trang bị đầy đủ kĩ
năng để có thể hòa nhập xã hội. Vai trò của giáo viên là người trực tiếp chỉ đạo,
giúp các em hoàn thành được các kĩ năng cơ bản như: kĩ năng giao tiếp, kĩ năng
hoạt động, tự nhận thức bản thân, kĩ năng xây dựng quan hệ cá nhân….
Thực hiện có hiệu quả giải pháp này đem lại tác dụng rất cao trong rèn kĩ
năng sống cho học sinh. Bởi vì, tổ chức hoạt động ngoài giờ với nội dung và
hình thức phong phú sẽ thu hút được học sinh tham gia. Gây hứng thú và đáp
ứng nhu cầu từng em, các em có thể chọn nhiều hoạt động nhưng ở các thời
điểm khác nhau. Thông qua hoạt động ngoài giờ lên lớp, các em có cơ hội thể
hiện năng khiếu, khả năng của mình giúp cá nhân hoàn thiện hơn. Cũng chính vì
vậy hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp mang tính cá thể hóa cao.
Nhận thức đươc điều này, tôi đã tham mưu với Ban giám hiệu nhà trường,
chỉ đạo các tổ chức Đoàn, Đội - Hội và giáo viên xây dựng kế hoạch hoạt động
cụ thể theo từng tuần, từng tháng, từng kỳ, năm dựa theo chủ điểm của tháng và
các ngày lễ lớn. Chẳng hạn: Tháng 9, chủ điẻm “Mái trường thân yêu của em”;
Tháng 10, chủ điẻm “Vòng tay bạn bè”; Tháng 9, chủ điẻm “Tôn sư trọng đạo
–Tri ân thầy cô”…
Qua thực tế cho thấy, việc thực hiện hoạt động này còn gặp nhiều khó
khăn, bất cập như về tổ chức, quản lí, chất lượng giáo dục chưa thỏa đáng. một
số đồng chí giáo viên không có năng khiếu, còn lúng túng về phương pháp giảng
9


dạy. Mặc dù, nhà trường cũng đã tập huấn, bồi dưỡng, song kỹ năng tổ chức
hoạt động ngoài giờ lên lớp vẫn còn hạn chế thực hiện chưa hiệu quả. Chỉ đạo
giáo viên lựa chọn nội dung hình thức sinh hoạt phù hợp, gần gũi và có tác dụng
thiết thực đối với học sinh thể tùy theo đặc điểm tình hình của nhà trường.

Học sinh trường tiểu học Nga Văn giao lưu với Anh hùng Trần Lâm
nhân dịp 22/22/2017

Căn cứ vào nội dung của chủ điểm đã xây dựng, chỉ đạo các tổ chức đoàn
thể, giáo viên chủ nhiệm lựa chọn hình thức tổ chức phong phú đa dạng, tránh
gây nhàm chán cho học sinh. Bản thân cùng với ban giám trung chỉ đạo tổ chức
có hiệu quả các hoạt động ngoài giờ lên lớp cụ thể như sau:
Hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao
Trong năm học vừa qua, Trường tiểu học Nga Văn đã tổ chức rất nhiều
các hoạt động văn hóa văn nghệ, thể dục thể thao. Hoạt động văn nghệ được nhà
trường tổ chức vào các đợt: khai giảng năm học mới, ngày nhà giáo Việt Nam
(20/11), ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam (22/12), ngày Quốc tế Phụ
nữ (8/3), ngày thành lập Đoàn (26/3), …. Các đợt sinh hoạt văn nghệ được thể
hiện theo các chủ điểm, các ngày lễ lớn theo kế hoạch đã xây dựng. Các nội
dung phong phú như: múa hát dân ca, múa hát ca ngợi Đảng, ca ngợi Bác Hồ, ca
ngợi cha mẹ, thầy cô,… Song song với các hoạt động văn nghệ, nhà trường đã tổ
chức rất nhiều hoạt động thể dục thể thao như: thành lập các câu lạc bộ cầu lông,
bóng bàn, đá cầu, bóng đá mini,… hay tổ chức chơi trò chơi dân gian. Các hoạt
động này được các em hưởng ứng và tham gia tích cực.
Với cương vị là phó bí thư chi bộ được phân công phụ trách các đoàn thể,
tôi đã chỉ đạo công Đoàn, Đoàn Thanh niên, Đội thiếu niên phối hợp quyết tâm
xây dựng phong trào VHVN - TDTT. Tham mưu với đồng chí hiệu trưởng lựa
chọn các đồng chí giáo viên có năng lực vào Ban văn nghệ, TDTT. Chỉ đạo mỗi
lớp thành lập một Đội văn nghệ. Trước tiên động viên được các đồng chí hiệu
10


trưởng, chủ tịch Công đoàn, bí thư Đoàn Thanh niên, Tổng phụ trách Đội, sau
đó đến giáo viên và học sinh tham gia. Bản thân gương mẫu tham gia các hoạt
động VHVN - TDTT để khuyến khích cán bộ giáo viên và học sinh tham gia.
Ngoài ra, phát động các phong trào thi đua giữa các lớp, các tổ khối. Nhân dịp
các ngày lễ lớn như 20/10, 20/11, 22/12, 26/3,… tổ chức thi VHVN - TDTT
giữa các lớp, giữa các tổ công đoàn. Năm học 2016-2017, công đoàn đã có nhiều

tiết mục văn nghệ đặc sắc đạt giải và tham gia chúc mừng đại hội các tổ chức ở
địa phương như: Đại hội Cựu giáo chức, Đại hội Đoàn thanh niên...

Tiết mục văn nghệ học sinhcủa lớp 4A trường tiểu học Nga Văn, Nga Sơn
nhân dịp kỉ niệm Ngày nhà giáo Việt Nam 20/11
Để hoạt động VHVN – TDTT hiệu quả, tôi thiết nghĩ một lực lượng không
thể thiếu, có thể ủng hộ chúng ta cả về thời gian, tinh thần và vật chất để đi đến
thành công mà không phải trường nào cũng làm được đó là lực lượng phụ
huynh. Tôi đã tuyên truyền và chỉ đạo giáo viên tuyên truyền đến các bậc phụ
huynh để họ hiểu được giá trị của hoạt động này đem lại cho các em phát triển
một cách toàn diện. Vì thế, trong các đợt tổ chức các hoạt động VHVN - TDTT,
nhiều lớp nhận được sự ủng hộ tích cực rất tích cực từ các bậc phụ huynh. Các
bậc phụ huynh đã tạo điều kiện cả về tinh thần lẫn vật chất cho con em tập
luyện, cùng với giáo viên hướng dẫn các em tập văn nghệ rất nhiệt tình, sôi nổi.
Hoạt động vui chơi giải trí
Vui chơi giải trí là một nhu cầu thiết yếu không chỉ với người lớn mà còn
đặc biệt quan trọng với trẻ em, nhất là ở lứa tuổi tiểu học. Đối với học sinh tiểu
học, các em còn nhỏ nên vừa học vừa chơi để đầu óc không bị căng thẳng. Vì
vậy, sau các giờ học căng thẳng, khi ra chơi, các em cần được tham gia hoạt
động vui chơi giải trí. Hoạt động vui chơi giải trí phù hợp giúp trẻ sẽ giảm được
sự căng thẳng, đầu óc được nghỉ ngơi. Điều này rất phù hợp với đặc điểm tâm lí
11


của trẻ em. Thông qua vui chơi trẻ được phát triển về mặt thể chất cũng như tâm
lý, được hiểu hơn về những môi trường xung quanh cuộc sống, có những trải
nghiệm thực tế. Để hoạt động vui chơi của các em có hiệu quả, tôi đã chỉ đạo
giáo viên ngay trong các buổi sinh hoạt, giáo viên nên định hướng những trò
chơi nào phù hợp với lứa tuổi. tăng cường hướng dẫn trò chơi dân gian như:
nhảy bao bố, mèo đuổi chuột, bịt mắt bắt dê, nhảy dây,…


Học sinh trường tiểu học Nga Văn, Nga Sơn tham gia chơi
trò chơi dân gian nhân dịp kỉ niệm ngày 22/12.
* Hoạt động lao động
Đây là một loại hình đặc trưng của hoạt động ngoài giờ lên lớp. Hằng
ngày, khi các em đến trường, giáo viên hướng dẫn cho các em tham gia các công
việc như quét dọn sân trường, lớp học, lau bàn ghế, lau bảng, tưới cây, chăm sóc
vườn cây thuốc nam, làm đẹp bồn hoa, cây cảnh, … làm cho trường, lớp xanh,
sạch, đẹp. Tức là giáo viên đã rèn cho các em khả năng hoàn thiện các kỹ năng
lao động phục vụ cho sinh hoạt, phù hợp với mục tiêu giáo dục hiện này đó là
chú trọng “giáo dục năng lực và phẩm chất”, “Giáo dục kĩ năng sống” tăng
cường hoạt động trải nghiệm trong nhà trường. Thông qua lao động sẽ hình
thành ở các em tình yêu lao động, giúp các em gắn bó với đời sống xã hội.
Ngoài ra, lao động còn góp phần làm cho trẻ hiểu thêm về giá trị lao động, từ đó
giúp trẻ có ý thức lao động lành mạnh. Đây là hoạt động thật sự cần thiết giúp
các em thích nghi với cuộc sống xung quanh, hình thành niềm tin trong tâm hồn
học sinh rằng các em cảm nhận được lao động là vinh quang, là tự hào, là trách
nhiệm của mỗi con người trong cuộc sống. Điều đó sẽ kích thích nhiều hơn nữa
ý chí học tập của các em. Năm học 2016-2017, ban giám hiệu trường tiểu học
12


Nga Văn đã chỉ đạo có hiệu quả hoạt động lao động. Giờ đây hoạt động này đã
trở thành nề nếp vững chắc đối với học sinh nhà trường.

Thầy và trò trường tiểu học Nga Văn, Nga Sơn chăm sóc bồn hoa
Hoạt động xã hội, từ thiện nhân đạo
Bước đầu đưa các em vào hoạt động xã hội giúp các em nâng cao hiểu
biết về con người, đất nước và xã hội. Đây là hoạt động tuy khó nhưng nó mang
một ý nghĩa vô cùng to lớn. thông qua hoạt động này, các em sẽ được bồi dưỡng

thêm về nhân cách, đặc biệt là tình người. Bởi vậy, ban giám hiệu đã làm tốt
công tác tuyên truyền đẩy mạnh hoạt động xã hội, từ thiện nhân đạo. Nhà trường
phát động học sinh quyên góp ủng hộ các bạn có hoàn cảnh khó khăn trong
trường với tinh thần tương thân tương ái lá lành đùm lá rách. Trước khi phát
động ủng hộ, Ban giám hiệu ủng hộ đầu tiên và số tiền cao hơn giáo viên nhằm
động viên khích lệ phong trào đạt kết quả tốt. Mặt khác, nhà trường còn tổ chức
cho các em giao lưu với câu lạc bộ tình thương, trẻ em khuyết tật, mua tăm tre
ủng hộ hội người mù Huyện Nga Sơn. Bước đầu đưa học sinh vào các hoạt động
xã hội để giúp các em nâng cao hiểu biết về con người, đất nước, xã hội. Đây là
một hoạt động tuy khó nhưng nó mang một ý nghĩa vô cùng to lớn. Thông qua
hoạt động, các em sẽ được bồi dưỡng thêm về nhân cách con người.
* Hoạt động tiếp cận khoa học - kĩ thuật
Đây là hoạt động giúp các em tiếp cận được những thành tựu khoa học công nghệ tiên tiến. Điều đó sẽ tạo cho các em sự say mê, tìm tòi, kích thích học
tập tốt hơn. Những hoạt động này có thể là sưu tầm những bài toán vui, tham gia
sinh hoạt Câu lạc bộ khoa học, tìm hiểu các danh nhân, các nhà bác học… Đây
là hoạt động nhằm tạo điều kiện cho các em làm quen với việc nghiên cứu khoa
học và tự khẳng định mình. Có thể nói đây là hoạt động mà một số nhà trường ít
chú trọng tới - ít chú trọng do điều kiện không cho phép. Đó là điều kiện về cơ
chế, về thời gian, về năng lực của đội ngũ giáo viên tổng phụ trách…
Từ cách làm trên, đã đem lại hiệu quả sau:
13


- Phong trào VHVN – TDTT diễn ra sôi nổi ở cả giáo viên và học sinh,
tạo cơ hội phát triển toàn diện nhân cách và các kĩ năng sống cần thiết phù hợp
với lứa tuổi. Nhận được sự đồng tình ủng hộ từ phụ huynh, tạo được cơ hội cho
công tác xã hội hóa giáo dục.
- Hoạt động VHVN – TDTT mang lại cho các em học sinh có một sức
khỏe dẻo dai, bền bỉ. Tham gia hoạt động này giúp các em mạnh dạn, tự tin
trước đám đông, biết sống vì tập thể, sống có kỉ luật và đoàn kết, gần gũi yêu

thương nhau. Cái được lớn nhất mà bản thân tôi, giáo viên và các phụ huynh
nhận thấy được đó là sự tiến bộ về nhiều mặt của các em học sinh như: Các em
nhanh nhẹn, tự tin, tích cực tham gia với thái độ hồn nhiên, vui tươi, các em có ý
thức kỉ luật, có tinh thần làm việc tập thể cao, đoàn kết yêu thương nhau hơn,…
- Thông qua hoạt động vui chơi giải trí sau giờ học giúp các em có một
tinh thần thoải mái nên khi vào lớp các em rất phấn khởi, học tập hăng say.
Ngoài ra, các em có sự đoàn kết, gần gũi, yêu thương nhau hơn. Hoạt động này
làm thỏa mãn về tinh thần cho trẻ em sau những giờ học căng thẳng, góp phần
rèn luyện một số phẩm chất: tính tổ chức, kỉ luật, nâng cao tinh thần trách
nhiệm, tinh thần đoàn kết, lòng nhân ái…
- Thông qua hoạt động nhân đạo đã giúp cho các em biết đồng cảm, biết
chia sẻ, biết thông cảm, yêu thương những người kém may mắn hơn mình và từ
đó giáo dục các em có ý thức vươn lên trong học tập và cuộc sống.
Giải pháp 3. Chỉ đạo giáo viên vận dụng linh hoạt và sáng tạo việc lồng
ghép rèn kĩ năng sống qua các môn học chính khóa
Kĩ năng sống là sản phẩm bắt đầu phải có của giáo dục nhà trường. Nó
không phải là một môn học. Nó bao trùm toàn bộ các môn học và hoạt động
giáo dục. Là phó hiệu trưởng phụ trách chuyên môn, tôi còn đặc biệt quan tâm
đến chỉ đạo giáo viên vận dụng linh hoạt và sáng tạo việc rèn kĩ năng sống cho
học sinh Để giải pháp này đạt hiệu quả, tôi đã chỉ đạo giáo viên thể hiện nội
dung cần rèn kĩ năng sống cho học sinh của từng tiết học ngay trong kế hoạch
bài học. Bản thân trực tiếp dự giờ nắm bắt việc thể hiện việc rèn kĩ năng sống
cho học sinh trong giờ lên lớp. Xây dựng kế hoạch thao giảng, xây dựng giờ dạy
mẫu,tổ chức cho giáo viên dự giờ đồng loạt. Tổ chức sinh hoạt chuyên môn
đánh giá kết quả của thầy và trò về rèn kĩ năng sống ngay trong từng tiết dạy,
thống nhất qui trình, đặc trưng dạy từng phân môn, cách vận dụng linh hoạt và
sáng tạo việc lồng ghép rèn kĩ năng sống qua các môn học chính khóa. Nội dung
cụ thể như sau:
* Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh thông qua môn Tiếng Việt
Là một trong những môn học ở cấp tiểu học có khả năng giáo dục kĩ năng

sống khá cao, hầu hết các bài học đều có thể tích hợp giáo dục kĩ năng sống cho
học sinh ở mức độ nhất định. Trong chương trình môn Tiếng Việt có nhiều bài
học có thể giáo dục kĩ năng sống cho các em, đó là các kĩ năng giao tiếp xã hội,
như: viết thư, điền vào giấy tờ in sẵn, giới thiệu địa phương, kể chuyện được
chứng kiến hoặc tham gia,... được lồng cụ thể qua các tình huống giao tiếp. Dạy
nội dung này giáo viên chỉ gợi mở sau đó cho các em tự nói một cách tự nhiên
hoàn toàn không gò bó áp đặt. Để hình thành những kiến thức và rèn luyện kĩ
năng sống cho học sinh qua môn Tiếng Việt, người giáo viên cần phải vận dụng
nhiều phương pháp dạy phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh.
Ví dụ: - Tập làm văn: Luyện tập giới thiệu địa phương (Tiết 1); (TV4 –
Tuần 20)
* Các kĩ năng cần được giáo dục học sinh là:
+ Thu thập, xử lý thông tin (về địa phương cần giới thiệu).
+ Trình bày ý tưởng (giới thiệu về địa phương)
+ Trao đổi, thảo luận (về bài giới thiệu của minh và của bạn)
+ Lắng nghe, cảm nhận, chia sẻ, bình luận (về bài giởi thiệu của bạn)
* Đồ dùng: Tranh, ảnh về cảnh vật và đời sống của một số địa phương.
14


* Phương pháp tiến hành:
+ Thông thường, giáo viên sẽ dạy bài tập 2 như sau:
- Giáo viên tổ chức cho học sinh thực hiện yêu cầu bài tập theo các bước:
- Bước 1: Xây dựng nội dung bài giới thiệu.
- Bước 2: Thực hành giới thiệu trong nhóm 2 – Trao đổi, rút kinh nghiệm.
- Bước 3: Đóng vai giới thiệu về địa phương trong một tình huống cụ thể
Trao đổi, rút kinh nghiệm trước lớp.
- Học sinh thảo luận theo nhóm 2.
- Các nhóm xung phong lên đóng vai giới thiệu.
- Đại diện các nhóm khác nhận xét bình chọn nhóm đóng vai tốt và

những cá nhân có lời giới thiệu hay nhất [2].
* Với cách dạy lồng ghép giáo dục kĩ năng sống vào bài tập này, học sinh
học thấy phấn khởi hơn, các em biết kiên trì lắng nghe ý của người khác. Thông
qua bài tập, giáo viên đã hình thành cho học sinh kĩ năng mạnh dạn trong giao
tiếp và biết cách ứng xử văn hóa.
* Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh thông qua môn Đạo đức
Đối với bất cứ nội dung bài đạo đức nào cũng hàm chứa những hành vi
đạo đức giáo dục các em hướng tới hành vi chuẩn mực, thói quen của học sinh.
Khi dạy môn đạo đức, tôi đã chỉ đạo giáo viên vận dụng các phương pháp
đặc trưng bộ môn: bày tỏ ý kiến đồng ý hay không đồng ý, tán thành hay không
tán thành, phương pháp sắm vai… Tạo cơ hội cho học sinh tham gia thực hành,
trải nghiệm nhiều kĩ năng sống phù hợp với lứa tuổi cuộc sống của trẻ. Qua bài
học, các em biết cư xử đúng đắn như biết yêu thương, quan tâm chăm sóc ông
bà; kính trọng và lễ phép với người lớn; nghe lời thầy cô, chăm học, chăm làm;
giữ vệ sinh thân thể, vệ sinh chung, ăn ở gọn gàng, ngăn nắp, phân biệt được
những việc nên làm, những việc không nên làm, chia sẻ vui buồn với bạn bè…
Qua môn Đạo đức còn rèn cho học sinh kĩ năng quản lí thời gian để học
tập và sinh hoạt đúng giờ, đảm nhận trách nhiệm đối với việc làm của bản thân,
thông cảm với bạn bè, giao tiếp hợp tác với mọi người,…
Ví dụ: Bài 1: Học tập, sinh hoạt đúng giờ. (Bài tập Đạo đức 2 - trang 2)
* Các kĩ năng cần được giáo dục là:
+ Quản lí thời gian để học tập, sinh hoạt đúng giờ.
+ Lập kế hoạch để học tập sinh hoạt đúng giờ.
+ Tư duy phê phán, đánh giá hành vi sinh hoạt đúng giờ, chưa đúng giờ.
* Đồ dùng: Tranh minh họa (Bài tập 1)
* Phương pháp tiến hành:
- Thông thường khi dạy bài này:
+ Giáo viên giới thiệu và đưa ra các tình huống theo yêu cầu bài tập 1,2.
+ Học sinh quan sát tranh và trả lời các câu hỏi theo tình huống giáo viên
đưa ra.

+ Giáo viên nhận xét, kết luận về những cách học sinh vừa giải quyết. Với
yêu cầu lồng dạy rèn kĩ năng sống, tôi đã chỉ đạo đồng chi Mai Thị Hưng giáo
viên chủ nhiệm lớp 2A thực hiện như sau:
+ Tổ chức cho học sinh thảo luận nhóm (theo yêu cầu Bài tập 1) rồi trao
đổi giữa cá nhóm để hoàn thành nhiệm vụ với yêu cầu: xây dựng thời khóa biểu
và xây dựng kế hoạch học tập.
+ Tổ chức chơi trò chơi để xử lí tình huống (theo yêu cầu Bài tập 2),
nhằm hình thành cho học sinh một thói quen học tập, sinh hoạt đúng giờ [4].
* Như vậy, với cách lồng ghép rèn kĩ năng sống qua bài học giúp học sinh
không chỉ có ý thức hơn trong việc học tập và làm việc đúng yêu cầu mà còn
hình thành cho học sinh một thói quen đi học và sinh hoạt đúng giờ. Năm học
2016-2017, lớp đ/c Hưng đã hạn chế được tình trạng học sinh đi học muộn.
15


Mặt khác, nhờ chỉ đạo chuyên môn sát sao mà giáo viên năm được chương trình
môn Đạo Đức có một số nội dung trùng vời giáo dục kĩ năng sống, tuy nhiên,
mục đích, phương pháp dạy không giống nhau.
* Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh thông qua môn khoa học, TNXH
Chương “Con người và sức khỏe”. Các bài: “Con người cần gì để sống? Vai trò
của các chất dinh dưỡng có trong thức ăn; Phòng một số bệnh do thiếu chất dinh
dưỡng; Phòng bệnh béo phì; Phòng tránh tai nạn đuối nước;...” rèn cho các em
hiểu rằng ăn uống đủ chất và hợp lí giúp cho chúng ta khoẻ mạnh, biết phòng
tránh một số bệnh, biết việc nên làm và không nên làm để phòng tránh tai nạn
đuối nước, có ý thức tự giác làm vệ sinh cá nhân hằng ngày, tự giác thực hiện
nếp sống vệ sinh, khắc phục những hành vi có hại cho sức khoẻ. Biết
tham gia các hoạt động và nghỉ ngơi một cách hợp lí để có sức khoẻ tốt.
Ví dụ: Bài 13: Phòng bệnh béo phì. (Khoa học lớp 4 - trang 25)
* Các kĩ năng cần được giáo dục là:
- Các kĩ năng giao tiếp hiệu quả:

+ Nói những người. Trong gia đình hoặc người khác nguyên nhân và cách
phòng bệnh do ăn thừa chất dinh dưỡng.
+ Ứng xử đối với bạn hoặc người khác bị béo phì.
- Kĩ năng ra quyết định: Thay đổi thói quen ăn uống để phòng tránh bệnh.
- Kĩ năng kiên định: Thực hiện chế độ ăn uống, hoạt động thể lực phù hợp
với lứa tuổi.
* Đồ dùng: Thông tin SGK Khoa học 4 (Bài 13); Phiếu bài tập theo nhóm.
* Phương pháp tiến hành: Vẽ tranh; Làm việc cặp đôi; Đóng vai.
Cách tiến hành: Tìm hiểu về bệnh béo phì.
* Hoạt động 1:
Mục tiêu: Xác định được 3 dấu hiệu của trẻ bị béo phì và 3 điều bất lợi
đối với người bị bệnh béo phì.
Cách tiến hành:
- GV chia lớp thành nhóm bàn, yêu cầu các em trao đổi và vẽ hình ảnh trẻ
em bị bệnh béo phì.
- Các nhóm trưng bày sản phẩm. Yêu cầu đại diện một nhóm mô tả đặc
điểm của trẻ bị béo phì được thể hiện trong hình vẽ; các HS khác bổ sung.
- GV tóm tắt ý kiến của HS và nêu 3 dấu hiệu của trẻ bị béo phì:
+ Có cân nặng hơn trung bình so với chiều cao và tuổi là 20%.
+ Có những lớp mỡ quanh đùi, quanh tay trên, vú và cằm.
+ Bị hụt hơi khi gắng sức.
- Tiếp theo GV yêu cầu HS liệt kê những bất lợi đối với người bị béo phì.
+ Cần làm gì khi bé hoặc bản thân bạn bị béo phì, có nguy cơ bị béo phì.
- GV kết luận: 3 điểm bất lợi đối với người bị béo phì:
+ Mất thoải mái trong cuộc sống.
+ Giảm hiệu xuất lao động và sự lanh lợi trong sinh hoạt.
+ Có nguy cơ bị bệnh tim mạch, huyết áp cao, bệnh tiểu đường, sỏi mật[2]
Qua việc chỉ đạo sát sao của chuyên môn nhà trường, giáo viên sử dụng
các phương pháp và kĩ thuật dạy học tích cực để tổ chức cho học sinh thực hành,
trải nghiệm một số kĩ năng sống cho các em trong quá trình học tập thông qua

tất cả các môn học chính khóa một cách linh hoạt và sáng tạo. Với cách tiếp cận
này, việc rèn kĩ năng sống sẽ không làm nặng nề, quá tải nội dung môn học mà
ngược lại, còn giúp cho học tập các môn học chính khóa của học sinh trở nên
nhẹ nhàng, thoải mái, thiết thực và hiệu quả hơn.
Giải pháp 4. Chỉ đạo giáo viên làm tốt công tác phối hợp với gia đình, cán
bộ thư viên và các tổ chức trong nhà trường để rèn kĩ năng sống cho học
sinh.
16


Chúng ta khẳng định, giáo dục kĩ năng sống cho học sinh chỉ thật sự có
hiệu quả khi người thầy có tâm huyết, sự kiên nhẫn, lòng kiên trì và nhất là cần
phải có thời gian. Giáo dục kĩ năng sống không phải chỉ là công việc của giáo
viên, nhà trường mà cả xã hội, cộng đồng. Như vậy, chỉ đạo giáo viên phối hợp
linh hoạt với gia đình, các giáo viên bộ môn, cán bộ thư viện,... là một trong
những biện pháp rèn kĩ năng sống cho học sinh nhẹ nhàng mà tích cực nhất đem
lại hiệu quả trong giáo dục kĩ năng sống cho học sinh. Tạo được sự đồng thuận
giữa cán bộ giáo viên, phụ huynh và các tổ chức đoàn thể trong nhà trường địa
phương rèn kĩ năng sống cho học sinh. Mặt khác, vai trò của gia đình vô cùng
quan trọng trong định hướng, giáo dục, động viên giúp học sinh tránh xa tệ nạn
xã hội, bố trí thời gian học tập, vui chơi phù hợp. Vì vậy, cần có sự kết hợp chặt
chẽ giữa gia đình, nhà trường, chính quyền địa phương trong quản lý, giáo dục
học sinh trong và ngoài nhà trường. Phải kết hợp cả gia đình, nhà trường và xã
hội mới đào tạo được những học sinh phát triển toàn diên. Nhận thức được điều
đó, tôi đã áp dụng cách làm như sau:
* Công tác phối hợp với gia đình giáo dục kỹ năng sống cho học sinh
Gia đình là một chỗ dựa đầu tiên và vững chắc để trẻ chia sẻ, bày tỏ. Nhà trường
là ngôi nhà thứ hai của học sinh. Một trong những kĩ năng đầu tiên mà gia đình
cùng với giáo viên cần chú tâm là phát triển sự tự tin, lòng tự trọng của trẻ.
Nghĩa là giúp trẻ cảm nhận được mình là ai, cả về cá nhân cũng như trong mối

quan hệ với những người khác. kĩ năng sống này giúp trẻ luôn cảm thấy tự tin
trong mọi tình huống ở mọi nơi. Vì vậy, tôi đã chỉ đạo giáo viên thường xuyên
liên hệ với phụ huynh bằng một số việc làm cụ thể sau:
- Trao đổi với phụ huynh qua các buổi họp phụ huynh lớp để phụ huynh
nắm bắt cách theo dõi cùng giáo viên rèn kĩ năng sống cho các em tại nhà.
- Thông tin với gia đình qua sổ liên lạc, qua mạng Intenet để phụ huynh
biết được kết quả rèn luyện qua một khoảng thời gian nhất định và có biện pháp
rèn luyện trong thời gian tiếp theo.
- Trao đổi qua điện thoại để phụ huynh nắm bắt, điều chỉnh kịp thời các
điểm hạn chế, bàn bạc cách giải quyết những khó khăn mà các em gặp phải.
- Thăm hỏi gia đình, gặp gỡ trực tiếp phụ huynh để nắm bắt hoàn cảnh gia
đình, tâm tư, nguyện vọng của các em để có biện pháp rèn luyện phù hợp.
* Công tác phối hợp với giáo viên bộ môn, cán bộ thư viện giáo dục kỹ
năng sống cho học sinh.
Các giáo viên bộ môn, cán bộ thư viện có vai trò quyết định trong việc
giáo dục kĩ năng hợp tác, kĩ năng thích tò mò, ham học hỏi, khả năng thấu hiểu,
kĩ năng giao tiếp, hòa nhập. Vì vậy, để làn tốt việc rèn kĩ năng sống cho học sinh
thì hàng ngày, hàng tuần, hàng tháng, giáo viên chủ nhiệm phải nắm được những
mặt tiến bộ, hạn chế của các em thông qua các giáo viên bộ môn.
Tôi đã tham mưu với Hiệu trưởng và cán bộ thư viện thành lập tổ mạng
lưới thư viện gồm: đại diện Ban giám hiệu, đại diện Ban chấp hành công đoàn,
Bí thư chi đoàn, Tổng phụ trách đội, tổ trưởng chuyên môn và đại diện Ban Chỉ
huy Liên đội. Ban giám hiệu thực hiện công tác xây dựng kế hoạch và theo dõi
chỉ đạo. Tổ chức tốt hoạt động thư viên. Phát động phong trào “Góp một cuốn
sách để đọc nhiều cuốn sách hay và thú vị hơn”. Mở cửa thư viện, cung ứng
sách thường xuyên cho các em đọc. Xây dựng tủ sách tại lớp. Tôi đã chỉ đạo
giáo viên tham mưu với hội phụ huynh lớp trang bị các loại sách trang trí đẹp
theo chủ đề về: Bác Hồ; Lịch sử, câu đố vui, những con vật đáng yêu, hoa trái
bốn mùa,.. thiết kế phân chia nhiều ngăn để sách, truyện nhiều kích cỡ, vừa tầm
các em.

Áp dụng cách làm trên đem lại hiệu quả rõ rệt. Đó là, tạo cho các em có kỹ
năng giao tiếp thân thiện, phát triển mối quan hệ thân ái, cởi mở, tích cực giữa
thủ thư với giáo viên, thủ thư với học sinh, giáo viên với giáo viên, giáo viên với
17


học sinh, học sinh với học sinh. Giáo dục cho các em kỹ năng giao tiếp, đức tính
lễ phép thật thà, yêu thích các môn học, học đều các môn học.
Tham gia hoạt động thư viện giúp các em rèn kỹ năng đọc. Tạo cơ hội cho
các em tiếp cận với thông tin, xây dựng thói quen đọc sách, tích cực tham gia
hoạt động thư viện cũng như các hoạt động khác. Cái được ở đây là giúp các em
rèn được kỹ năng sắp xếp ngăn nắp gọn gàng, ý thức tham gia hoạt động tập thể
một cách tự giác, có kế hoạch v.v…
Giải pháp 5. Chỉ đạo giáo viên thực nghiệm một số kĩ năng rèn kĩ năng sống
cho học sinh.
Ở giải pháp bốn, chúng ta thấy rằng để giáo dục kĩ năng sống cho học
sinh có hiệu quả đòi hỏi phải phối hợp chặt chẽ giữa gia đình, nhà trường và cả
cộng đồng. Nhưng đối với cấp tiểu học, vai trò của người thầy vô cùng quan
trọng. Để nâng cao chất lượng giáo dục trong nhà trường thông qua việc rèn kĩ
năng sống cho học sinh thì các nhà quản lý phải quan tâm đến công tác bồi
dưỡng đội ngũ. Bồi dưỡng để có đội ngũ là những người thầy có tâm huyết, sự
kiên nhẫn, lòng kiên trì. Bồi dưỡng cho giáo viên có kỹ năng rèn kĩ năng sống
cho học sinh.
Nhờ làm tốt công tác bồi dưỡng, các đồng chí giáo viên đã thấu hiểu rèn
kĩ năng sống cho học sinh không chỉ dừng lại ở học sinh biết nghe, nói, đọc,
viết, hay tính toán. Rèn kĩ năng sống cho học sinh không phải chỉ thông qua các
môn học chính khóa hay thông qua hoạt động ngoài giờ lên lớp theo một cách
nói chung chung mà đòi hỏi phải kiên trì, cụ thể, tỉ mỉ. Để giúp học sinh có kĩ
năng sống tốt, bất cứ hoạt động nào chúng ta cũng phải quan tâm, đề cập đến
việc rèn kĩ năng sống cho các em.

Chẳng hạn: Đối với học sinh lớp 1 lứa tuổi đầu cấp, các em vừa chuyển
từ giai đoạn vui chơi sang giai đoạn học tập. Do vậy, khẳ năng “ngồi yên và lắng
nghe” của các em còn hạn chế. Rèn kĩ năng sống cho các em đòi hỏi kịp thời.
Hiểu điều này, ngay từ đầu năm học, tôi đã chỉ đạo giáo viên giáo dục kĩ năng
sống cho học sinh rất sát sao.
Ví dụ: Rèn kĩ năng “Ngồi yên và lắng nghe” cho học sinh lớp 1.
Cô giáo Hoàng Thị Bích giáo viên chủ nhiệm lớp 1A đã làm như sau:
- Mục đích: Luyện khả năng ngồi nghe; Luyện khả năng nghe người khác
nói.
- Chuẩn bị: Đồng hồ treo tường; Một chiếc đài phát thanh.
- Cách làm:
a) Ngồi yên
Giáo viên đạt vấn đề: Cô tổ chức trò chơi “Ngồi yên”
GV: Trước tiên, chúng ta tập ngồi yên 15 giây (¼ vòng tròn, chỉ đồng hồ)
HS: Ngồi yên lặng. Quan sát đồng hồ cho đủ thời gian (Lần 1)
Qui trình như vậy, lần hai với ba mươi giây; Lần ba với một phút; tiếp tục
cho đến ngồi yên năm phút.
GV: Sau 5 phút, khen những em không ngọ ngoạy, không nói tự do, ngồi
đẹp.
b) Lắng nghe kiên nhẫn
GV: Bây giờ chúng ta học cách nói cho người khác nghe. Sử dụng đồng
hồ đếm thời gian.
Lúc đầu, mỗi người sẽ nói cái mình thích trong vòng ba mươi giấy, người
khác lắng nghe. Sau đó tăng thời gian lên thành một phút, rồi hai phút.
HS: Thực hiên trò chơi cùng các bạn và cô, lắng nghe chăm chú lời bạn
hoặc cô nói. Khi đến lượt mình mới phát biểu ý kiến.
GV: Sau khoảng thời gian luyện tập, dừng lại học sinh nhận xét, khen
những bạn lắng nghe kiên nhẫn, không ngắt lời người khác, không nói tự do.
18



Cách làm này, đã đem lại hiệu quả rõ nét. Đó là, giáo dục kĩ năng sống
cho học sinh không chỉ dừng lại ở biết nghe, nói, đọc, viết, tính toán thông qua
dạy các môn học đạo đức, tiếng việt, TNXH... kĩ năng sống không chỉ dừng ở
một con số nhất định. Giáo dục kĩ năng sống là giáo dục những gì? Giáo dục
như thế nào? Đòi hỏi sự sáng tạo và cách thức tổ chức để các em có điều kiện,
có cơ hội trải nghiệm [1].
Chẳng hạn: Bước vào lớp 1, chúng ta rèn cho các em tư thế ngồi, kĩ năng
cầm bút, thước, thao tác với đồ dùng học tập sao cho hiệu quả, sắp xếp cất đồ
dùng đúng thời điểm; Dạy môn thủ công, dạy cho các em kĩ năng cầm kéo,…
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
Sau khi nghiên cứu và áp dụng một số biện pháp chỉ đạo rèn kĩ năng sống
nhằm nâng cao chất lượng giáo dục cho học sinh vào công tác chỉ đạo của
trường Tiểu học Nga Văn, Nga Sơn đã đem lại những thành cong nhất định.
Nhận thức về công tác giáo dục kĩ năng sống cho học sinh của giáo viên, phu
huynh, công động được nâng cao. Các hoạt động của nhà trường diễn ra sôi nổi,
có kế hoach và khoa học. Học sinh học tập, rèn luyện, giao tiếp tự tin, có kĩ năng
sống tốt. Cuối năm học 2016 - 2017, kết quả khảo sát chất lượng về kĩ năng
sống của học sinh thu được như sau:
Tổng
Đạt
Chưa đạt
Nhóm
số HS
SL
TL
SL
TL
Kĩ năng giao tiếp, hòa nhập


245

245

100

0

0

Kĩ năng trong học tập, lao động, vui
245
45
100
0
0
chơi, giải trí
Nhìn vào bảng số liệu trên chứng tỏ rằng việc rèn kĩ năng sống cho học
sinh đã có sự chuyển biến rõ nét so với đầu năm. Điều đó cho thấy việc áp dụng
biện pháp rèn kĩ năng sống cho học sinh như đã nêu trên thực sự thành công,
góp phần nâng cao chất lượng giáo dục trong nhà trường.
* Đối với nhà trường: Thông qua việc giáo dục kĩ năng sống, nền nếp
học sinh tốt hơn. Giáo viên tích cực đổi mới phương pháp dạy học. Chất lượng
giáo dục toàn diện trong nhà trường được nâng cao. Trường lớp xanh, sạch, đẹp,
học sinh tự tin hơn và luôn có ý thức bảo vệ trường lớp. Hiệu quả lớn nhất là
nhà trường đã huy động được sự tham gia của cha mẹ các em, của các tổ chức
đoàn thể, các lực lượng xã hội trong việc giáo dục văn hóa, truyền thống cho học
sinh, đồng thời đây là những cơ hội để dạy trẻ kĩ năng sống phát triển toàn diện.
* Đối với giáo viên: Giáo viên luôn gần gũi chuyện trò với học sinh, trả
lời những câu hỏi vụn vặt của các em, không la mắng, giải quyết hợp lý, công

bằng với mọi tình huống xảy ra giữa các em học sinh trong lớp. Trong giảng
dạy, giáo viên chú ý đến hoạt động cá nhân, hoạt động nhóm nhiều hơn. Ngoài
ra, giáo viên mạnh dạn góp ý với phụ huynh để phụ huynh không áp lực với các
em. Thường xuyên phối hợp chặt chẽ, trao đổi với cha mẹ các em.
* Đối với học sinh: Học sinh được tạo điều kiện khuyến khích khơi dậy
tính tò mò, phát triển trí tưởng tượng, năng động, mạnh dạn, tự tin, sẵn sàng học
tập. Nhà trường tổ chức sân chơi: rung chuông vàng, giao lưu VHVN-TDTT, trò
chơi dân gian… các em đều tự giác tham gia với số lượng đông và đạt hiệu quả
ngày càng cao. Các em đã có thói quen lao động tự phục vụ, được rèn luyện kĩ
năng tự lập, kĩ năng nhận thức, kĩ năng vận động nhỏ, vận động tinh thông qua
19


hoạt động hàng ngày, được rèn kĩ năng tự kiểm soát bản thân và phát triển óc
sáng tạo, tính tự tin thông qua các hoạt động năng khiếu vẽ, thể dục,… Mặt
khác, các em được rèn luyện kĩ năng xã hội, kĩ năng về cảm xúc, giao tiếp,
chung sống hòa bình, tuyệt đối không xảy ra bạo hành trẻ em ở trường, gia đình.
* Đối với phụ huynh: Hiệu quả lớn nhất là nâng cao được nhận thức cho
phụ huynh về tầm quan trọng giáo dục kĩ năng sống cho học sinh, tạo nên mối
quan hệ mật thiết giữa phụ huynh và giáo viên cùng giáo dục các em đạt kết quả
tốt nhất.
3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận
Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh trong giai đoạn hiện nay là một yêu
cầu cấp thiết. Nó góp phần không nhỏ vào sự thành công trong học tập, quá trình
công tác của mỗi con người. Đối với học sinh tiểu học, nó giúp học sinh có khả
năng giao tiếp tốt, hình thành ý thức tự phục vụ tự quản, tích cực trong mọi hoạt
động, có tinh thần đoàn kết, tương thân tương ái, kiên trì trong học tập, lao động
tạo tiền đề phát triển toàn diện. Tùy vào hoàn cảnh thực tế của từng địa phương,
nhà trường mà tổ chức sao cho sáng tạo và hiệu quả. Tôi nhận thấy, để nâng cao

hiệu quả giáo dục kĩ năng sống trong nhà trường cần phải quan tâm tới nội dung,
phương pháp học. Nội dung phải hệ thống, hiện đại thì mới tạo ra được tư duy
logic, cụ thể hóa việc làm của người học thì mới có được kĩ năng chắc chắn.
* Bài học kinh nghiệm
- Nâng cao nhận thức, hiểu biết về vai trò của giáo dục kĩ năng sống cho
giáo viên, phụ huynh và học sinh.
- Chỉ đạo có hiệu quả hoạt động giáo dục Ngoài giờ lên lớp. phát huy vai
trò của tổ chức Đoàn, Đội, Hội, Sao nhi đồng. Đẩy mạnh việc đưa trò chơi dân
gian, hát dân ca và các loại hình sinh hoạt văn hóa dân gian vào nhà trường.
- Chỉ đạo quyết liệt việc vận dụng linh hoạt phương pháp và hình thức tổ
chức dạy học lồng ghép giáo dục kĩ năng sống thông qua các môn học chính
khóa.
- Làm tốt công tác phối hợp các đoàn thể trong nhà trường, địa phương và
các bậc phụ huynh thì công tác giáo dục kĩ năng sống mang lại hiệu quả tốt nhất.
Trên đây là một số biện pháp chỉ đạo rèn kĩ năng sống nhằm nâng cao chất
lượng giáo dục cho học sinh trường tiểu học Nga Văn, Nga Sơn mà bản thân tôi
đã áp dụng chỉ đạo. Tôi rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các cấp
lãnh đạo và đồng nghiệp.
3.2. Kiến nghị
- Các cấp lãnh đạo cần quan tâm hơn nữa đến công tác giáo dục kĩ năng
sống cho học sinh.
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG
ĐƠN VỊ

Nga Văn, ngày 10 tháng 4 năm 2017
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung
của người khác.

20



Bùi Thị Lan

TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Ngô Thị Tuyên. Cẩm nang Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh tiểu học.
(Dành cho giáo viên tiểu học) Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam, năm 2010.
[2]. Hoàng Hà Bình – Lê Minh Châu – Phan Thanh Hà – Bùi Phương Nga – Trần
Thị Tố Oanh – Phan Thị Thu Phương – Đào Vân Vi. Giáo dục kĩ năng sống trong
các môn học ở tiểu học. Tài liệu dành cho giáo viên – Lớp 4 Nhà xuất bản giáo
dục Việt Nam, năm 2010.
[3]. Bài tập thực hành kĩ năng sống lớp 2 (Nhà xuất bản Đại học sư phạm).
[4]. Tìm hiểu qua Internet
[5]. Tài liệu bồi dưỡng thường xuyên theo Công văn số Số: 32/2011/TT-BGDĐT
Hà Nội, ngày 08 tháng 8 năm 2011 với các Modun sau:
- Modun TH37: Những vấn đề chung về tổ chức hoạt động GDNGLL ở trường
tiểu học.
- Modun TH40: Thực hành GDKNS trong một số môn học ở Tiểu học.
- Modun TH42: Thực hành giáo dục kỹ năng sống trong một số hoạt động
ngoại khóa ở Tiểu học.
- Modun TH45: Xây dựng cộng đồng thân thiện vì trẻ em.

21


DANH MỤC
CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG
ĐÁNH GIÁ XẾP LOẠI CẤP PHÒNG GD & ĐT,CẤP SỞ GD & ĐT VÀ
CÁC CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
Họ và tên tác giả: Bùi Thị Lan

Chức vụ và đơn vị công tác: Phó hiệu trưởng trường tiểu học Nga Văn, Nga Sơn
Kết quả
Cấp đánh
đánh giá Năm học
giá xếp
TT
xếp
đánh giá
Tên đề tài SKKN
loại( A,B,
loại( A,B xếp loại)
hoặc C)
hoặc C)
Dạy học sinh tự học, tự kiểm tra đánh
Phòng
1
A
1998-1999
GD&ĐT
giá.
2

Dạy học sinh tự học, tự kiểm tra đánh
giá.

Sở
GD&ĐT

C


1998-1999

3

Hướng dẫn học sinh Tiểu học đọc diễn
cảm.

Phòng
GD&ĐT

A

2000-2001

4

Hướng dẫn học sinh Tiểu học đọc diễn
cảm.

Sở
GD&ĐT

C

2000-2001

5

Nâng cao chất lượng dạy môn Tập
làm văn lớp 5 qua việc hướng dẫn học

sinh quan sát tìm ý.

Phòng
GD&ĐT

A

2001-2002

Sở

C

2001-2002

6

Nâng cao chất lượng dạy môn Tập
làm văn lớp 5 qua việc hướng dẫn học

22


sinh quan sát tìm ý.

GD&ĐT

7

Phương pháp sử dụng phương tiện

trực quan trong dạy học toán ở Tiểu
học.

Phòng
GD&ĐT

A

20052006

8

Phương pháp sử dụng phương tiện
trực quan trong dạy học toán ở Tiểu
học.

Sở
GD&ĐT

C

20052006

9

Các biện pháp chỉ đạo giáo viên phụ
đạo học sinh yếu ở trường Tiểu học.

Phòng
GD&ĐT


A

20082009

10

Các biện pháp chỉ đạo giáo viên phụ
đạo học sinh yếu ở trường Tiểu học.

Sở
GD&ĐT

C

20082009

11

Một số biện pháp chỉ đạo Hoạt động
giáo dục ngoài giờ lên lớp.

Phòng
GD&ĐT

A

20112012

12


Một số biện pháp chỉ đạo Hoạt động
giáo dục ngoài giờ lên lớp.

Sở
GD&ĐT

C

20112012

13

Một số giải pháp chỉ đạo nâng cao
chất lượng dạy phân môn tập đọc lớp
2, lớp 3 thông qua tranh minh họa ở
trường Tiểu học Thị Trấn Nga Sơn.

Phòng
GD&ĐT

A

20132014

14

Một số giải pháp chỉ đạo nâng cao
chất lượng dạy phân môn tập đọc lớp
2, lớp 3 thông qua tranh minh họa ở

trường Tiểu học Thị Trấn Nga Sơn.

Sở
GD&ĐT

B

20132014

23


SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ
PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGA SƠN

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

MỘT SỐ BIỆN PHÁP CHỈ ĐẠO
RÈN KỸ NĂNG SỐNG NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
GIÁO DỤC CHO HỌC SINH TRƯỜNG TIỂU HỌC
NGA VĂN NGA SƠN, THANH HÓA

Người thực hiện: Bùi Thị Lan
Chức vụ: Phó Hiệu trưởng
Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Nga Văn
SKKN thuộc lĩnh vực (môn): Quản lý

THANH HOÁ, NĂM 2017

24




×