Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

SKKN các biện pháp làm giàu vốn từ cho học sinh lớp 3 qua phân môn luyện từ và câua

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.68 MB, 24 trang )

MỤC LỤC

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ
PHÒNG GD&ĐT THÀNH PHỐ THANH HÓA

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

CÁC BIỆN PHÁP LÀM GIÀU VỐN TỪ CHO
HỌC SINH LỚP 3 QUA PHÂN MÔN LUYỆN TỪ VÀ CÂU

Người thực hiện: Nguyễn Thị Hồng
Chức vụ:
Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Điện Biên 1
SKKN thuộc lĩnh vực: Tiếng Việt

THANH HÓA NĂM 2018

1


MỤC LỤC
Mục
1
1.1
1.2
1.3
1.4
2
2.1
2.2


2.3
2.3.1
2.3.2
2.3.3
2.3.4

2.4

3

Nội dung
PHẦN MỞ ĐẦU
Lý do chọn đề tài
Mục đích nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu
NỘI DUNG
Cơ sở lý luận của việc dạy học làm giàu vốn từ cho
học sinh lớp 3
Thực trạng của việc dạy học làm giàu vốn từ cho học
sinh lớp 3 trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.
Các giải pháp đã sử dụng để làm giàu vốn từ cho học
sinh lớp 3
Giải pháp
1…………………………………………………..
Giải pháp
2………………………………………………….
Giải pháp
3………………………………………………….
Giải pháp

4………………………………………………….
Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt
động giáo dục, với bản thân, đồng nghiệp và nhà
trường.
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

Trang
2
2
3
3
3
3
3
4
6
6
8
13
15

16

20

1. PHẦN MỞ ĐẦU
2


1.1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI.

Xuất phát từ yêu cầu đổi mới của đất nước, trong những năm qua Đảng,
Nhà nước ta đã đặc biệt quan tâm đến phát triển giáo dục. Một trong những
nhiệm vụ cơ bản của giáo dục đào tạo hiện nay là: hình thành và phát triển nhân
cách cho học sinh một cách toàn diện theo mục tiêu phát triển nguồn nhân lực
phục vụ công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước.
Mục tiêu quan trọng của chương trình Tiếng Việt ở bậc Tiểu học là dạy
cho học sinh một công cụ để giao tiếp và học tập. Nhưng để sử dụng Tiếng Việt
như một công cụ giao tiếp và học tập thì trước hết học sinh phải nắm được vốn
từ Tiếng Việt. Từ là đơn vị cơ bản của hệ thống ngôn ngữ, nếu không làm chủ
được vốn từ của một ngôn ngữ thì không thể sử dụng được ngôn ngữ đó để học
tập cũng như trong giao tiếp. Ngoài ra vốn từ ngữ của một người càng giàu bao
nhiêu thì khả năng diễn đạt của người đó càng chính xác và tinh tế bấy nhiêu. Vì
vậy, làm giàu vốn từ cho học sinh là việc làm quan trọng và cần thiết.
Thật vậy, trong quá trình dạy học việc rèn luyện tư duy thích hợp được chú
trọng ở tất cả các môn học. Môn Tiếng Việt ở bậc Tiểu học xác định là môn học
công cụ bởi mục tiêu quan trọng của nó. Phân môn Luyện từ và câu lớp 3 có
nhiệm vụ cung cấp cho học sinh vốn từ. Học sinh được lĩnh hội kiến thức thông
qua một hệ thống bài tập. Như vậy sách giáo khoa tạo điều kiện để giáo viên và
học sinh thực hiện phương pháp tích cực hóa hoạt động của người học, trong đó
giáo viên đóng vai trò là người tổ chức hoạt động của học sinh, mỗi học sinh đều
được hoạt động, mỗi học sinh đều được bộc lộ mình và được phát triển.
Mặt khác, với học sinh tiểu học, vốn từ mà các em có được chủ yếu dựa
trên kinh nghiệm sống và cách hiểu tự nhiên còn nhiều hạn chế. Đa số các em
chỉ mới hiểu được một số nét nghĩa của từ hoặc chỉ nắm nghĩa một cách chung
chung chứ chưa đầy đủ và chính xác. Đặc biệt, khả năng vận dụng các từ đã học
vào giao tiếp và học tập còn nhiều hạn chế, học sinh còn gặp khó khăn và bị
lúng túng trong việc tìm từ và sử dụng từ; làm giàu vốn từ vẫn chưa phải là công
việc hứng thú của học sinh và các em chưa có ý thức làm giàu vốn từ cho chính
bản thân mình. Làm giàu vốn từ cho học sinh ngoài việc cung cấp thêm các từ
mới, giúp học sinh hiểu nghĩa của từ còn tạo tính thường trực của từ nhằm nâng

cao khả năng lựa chọn và sử dụng từ của học sinh.
Vai trò của việc làm giàu vốn từ, từ thực tế học tập của học sinh và từ
những khó khăn về các biện pháp làm giàu vốn từ, tôi nhận thấy cần phải có một
số biện pháp làm giàu vốn từ cho học sinh để giúp giáo viên thuận lợi hơn trong
quá trình làm giàu vốn từ, giúp học sinh nắm từ tốt hơn, sâu sắc hơn, hệ thống
hơn, vận dụng vào giao tiếp hiệu quả và văn hóa hơn. Góp phần nâng cao chất
lượng dạy Luyện từ và câu nói riêng và tác dụng của phân môn Luyện từ và câu
nói chung.
Xuất phát từ những yêu cầu thực tế và tầm quan trọng của việc làm giàu
vốn từ cho học sinh tôi chọn, nghiên cứu và viết sáng kiến kinh nghiệm “Các
biện pháp làm giàu vốn từ cho học sinh lớp 3 qua phân môn Luyện từ và
câu”.
1. 2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
3


Nghiên cứu nội dung dạy Luyện từ và câu giúp mở rộng, hệ thống vốn
từ của học sinh lớp 3, cung cấp cho học sinh những hiểu biết sơ giản, rèn cho
học sinh kỹ năng dùng từ đặt câu một cách tốt nhất. Luyện từ và câu có vai
trò hướng dẫn học sinh trong việc nghe, nói, đọc, viết, phát triển ngôn ngữ và
trí tuệ của các em. Trong Tiếng Việt, phân môn Luyện từ và câu làm giàu vốn
từ cho học sinh và phát triển năng lực dùng từ đặt câu của các em.
1. 3. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
Các giải pháp làm giàu vốn từ qua phân môn Luyện từ và câu cho học
sinh lớp 3.
1. 4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1.4.1. Phương pháp nghiên cứu tài liệu, lí luận.
1.4.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn.
1.4.3. Phương pháp điều tra, khảo sát, thống kê chất lượng.
1.4.4. Phương pháp luyện tập, thực hành, trò chơi.


2. NỘI DUNG
2.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC DẠY HỌC LÀM GIÀU VỐN TỪ CHO
HỌC SINH LỚP 3.
Đất nước ngày càng phát triển cần phải có những con người năng động,
sáng tạo, tự lực, tự cường. Nhu cầu này đòi hỏi phải có sự điều chỉnh mục tiêu,
nội dung Chương trình bậc Tiểu học một cách phù hợp.
Mục tiêu của giáo dục Tiểu học đặt ra là: “Giúp học sinh hình thành
những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ,
phẩm chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản để học sinh tiếp tục học trung học cơ
sở”.
Ngôn ngữ nói chung, Tiếng Việt nói riêng có mối quan hệ mật thiết với
phương pháp dạy học Tiếng Việt. Ngôn ngữ bao gồm một hệ thống, bao gồm các
bộ phận ngữ âm, từ vựng và ngữ pháp. Mỗi bộ phận của ngôn ngữ là một hệ
thống nhỏ, có cơ cấu tổ chức riêng, có quan hệ chặt chẽ với nhau trong hệ thống
ngôn ngữ.
Với mục tiêu chung của môn Tiếng Việt thì mục tiêu của phân môn Luyện
từ và câu là một bộ phận nhỏ của môn Tiếng Việt hết sức cần thiết để giúp học
sinh mở rộng và phát triển vốn từ làm cho vốn từ ngôn ngữ của các em ngày
càng phong phú, việc giúp học sinh nắm ý nghĩa của từ, tích cực hóa vốn từ để
bồi dưỡng cho các em thói quen dùng từ chính xác, nói – viết thành câu, có ý
thức sử dụng Tiếng Việt có văn hóa trong học tập và giao tiếp.
Thông qua mục tiêu chương trình cũng như cụ thể hóa được vai trò của
nhân tố ngôn ngữ trong việc sử dụng Tiếng Việt. Bên cạnh đó, phân môn Luyện
từ và câu ở lớp 3 còn góp phần quan trọng giúp học sinh mở rộng và phát triển
từ. Từ đó, học sinh sẽ có một vốn từ nhất định để hình thành thói quen dùng từ,
nói và viết thành câu; có ý thức sử dụng Tiếng Việt văn hóa trong học tập, giao
tiếp và thích học Tiếng Việt.

4



Việc rèn luyện kĩ năng sử dụng Tiếng Việt thông qua tất cả các phân môn
Tập đọc, Chính tả, Tập làm văn, Luyện từ và câu. Qua phân môn Luyện từ và
câu học sinh được mở rộng, hệ thống hoá vốn từ, được trang bị kiến thức sơ giản
về từ, câu, kĩ năng dùng từ đặt câu, sử dụng dấu câu. Nhiều học sinh thích vận
dụng từ ngữ hay để nói, viết...Thế nhưng tư duy các em phát triển chưa hoàn
thiện, các em chưa hiểu nghĩa từ, chưa nắm chắc kiến thức ngữ pháp tiếng Việt.
Vì vậy, việc giúp các em hình thành và phát triển kĩ năng sử dụng Tiếng Việt là
rất quan trọng. Các em nắm được nghĩa của từ, dùng từ đặt câu, viết đoạn văn và
vận dụng để học tốt các phân môn Tiếng Việt và các môn học khác, là cơ sở. nền
tảng cho việc học tập các bậc học trên.
Sử dụng từ, câu tiếng việt giúp học sinh phát triển trí tưởng tượng, năng
lực tư duy: Thông qua các bài Tập đọc, Kể chuyện, Tập làm văn, Luyện từ và
câu...học sinh được rèn luyện và phát triển trí tưởng tượng ngay từ các bài thơ,
bài văn...Các em hiểu tác dụng của cách dùng từ, đặt câu, sử dụng dấu câu để
nói, viết đúng, viết hay. Từ đó, các em có thể trau dồi kĩ năng vận dụng từ ngữ
đưa vào ngữ cảnh phù hợp, sinh động, có thói quen dùng từ đúng, nói viết thành
câu, có ý thức sử dụng tiếng Việt văn hoá trong giao tiếp và thích học Tiếng
Việt.
Giúp học sinh ý thức và thói quen sử dụng Tiếng Việt, văn hóa trong giao
tiếp để trẻ tích luỹ những hiểu biết cần thiết về Tiếng Việt: Quá trình học "Luyện
từ và câu" giúp các em biết sử dụng từ ngữ phù hợp trong giao tiếp hàng ngày
với bạn bè, bố mẹ và mọi người xung quanh. Bồi dưỡng cho các em biết thưởng
thức cái đẹp, biết thể hiện những buồn, vui, yêu, ghét của con người. Từ đó, học
sinh biết phân biệt đẹp, xấu, thiện, ác để hoàn thiện nhân cách cho bản thân.
Theo quan điểm của giáo dục học, tự học là quá trình tự mình hoạt động
lĩnh hội tri thức khoa học và rèn luyện kỹ năng thực hành không có sự hướng
dẫn trực tiếp của cơ sở giáo dục. Tự học có thể bằng cách đọc tài liệu, sách giáo
khoa, nghe đài, đọc báo, xem truyền hình, thăm bảo tàng, triển lãm… Tự học

gắn liền với tự ý thức và tự giáo dục. Ở học sinh Tiểu học, tự ý thức và tự giáo
dục của các em đang hình thành và phát triển. Do vậy, tự học của học sinh Tiểu
học khác với tự học của học sinh các cấp trên về yêu cầu, mức độ, phạm vi… Tự
học của học sinh Tiểu học chỉ giới hạn ở việc trẻ tự giác hoàn thành các nhiệm
vụ học tập được giao (làm các bài tập được giao, chuẩn bị để học bài mới…).
Dù trực tiếp hay gián tiếp, hoạt động tự học của học sinh tiểu học đều có sự
hướng dẫn của giáo viên. Tự học của học sinh tiểu học không những diễn ra ở
nhà mà còn diễn ra ngay trong lớp học với hình thức dạy học cá nhân trên lớp. Ở
hình thức dạy học này, học sinh thực hiện theo nội dung, cách thức và tiến độ
khác nhau tùy thuộc vào năng lực cá nhân, dưới sự hướng dẫn của giáo viên.
2.2. THỰC TRẠNG CỦA VIỆC DẠY HỌC LÀM GIÀU VỐN TỪ CHO
HỌC SINH LỚP 3 TRƯỚC KHI ÁP DỤNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM.
2. 2.1. Thực trạng dạy của giáo viên:
Qua quá trình giảng dạy lớp 3, trong các tiết mở rộng vốn từ cũng như tiết
kiểm tra, cùng với việc dự giờ đồng nghiệp tôi nhận thấy:

5


- Giáo viên chưa chú ý đúng mức đến dạy học mở rộng vốn từ cho học
sinh. Trong quá trình dạy học, giáo viên ít tạo điều kiện cho học sinh được hoạt
động nhiều với từ nên khả năng tìm từ ở học sinh và sử dụng khi cần thiết chưa
cao. Có bài tập cần phải sử dụng hoạt động thảo luận nhóm, thì giáo viên lại tổ
chức học sinh làm việc chung cả lớp, có bài tập tập cần có sự thi đua, tạo không
khí sôi nổi trong lớp thì giáo viên lại tổ chức cho học sinh làm việc cá nhân.
Thời gian bố trí cho từng hoạt động chưa phù hợp, hệ thống câu hỏi và hình thức
thực hành bài tập chưa đảm bảo yêu cầu, chưa tạo hứng thú học tập thực sự cho
học sinh, chưa phân loại đối tượng học sinh để áp dụng phương pháp dạy học
cho phù hợp với từng đối tượng học sinh trong lớp nhằm góp phần nâng chất
lượng dạy và học.

- Giáo viên ít sử dụng các phương pháp dạy học tích cực trong quá trình
dạy học làm giàu vốn từ, đặc biệt là trong nhiệm vụ mở rộng vốn từ cho học
sinh. Trong bài dạy, giáo viên chủ yếu sử dụng phương pháp cá nhân làm việc
độc lập, phương pháp vấn đáp để dạy các bài tập mở rộng vốn từ, giáo viên ít
vận dụng các phương pháp dạy học tích cực vào trong giờ học, không tạo được
điều kiện để học sinh có thể hoạt động nhiều hơn với từ, lặp đi lặp lại các thao
tác với từ để có thể nhớ từ một cách bền vững.
2. 2. 2. Thực trạng học của học sinh:
- Vốn từ của học sinh còn nghèo nàn, số lượng từ ngữ học sinh nắm được
trong giờ học chưa cao và không bền vững. Khi huy động vốn từ theo chủ đề,
mỗi học sinh chỉ huy động được khoảng 1-2 từ, nhiều nhất là 4-5 từ. Thậm chí
có học sinh không huy động được một từ ngữ nào.
- Hơn nữa, khả năng giao tiếp của học sinh còn yếu, học sinh diễn đạt
chưa rõ ràng, mạch lạc.
- Nhiều học sinh tìm từ bị lạc chủ đề.
Ví dụ: Em hãy tìm các từ ngữ chỉ trẻ em. Có học sinh đã tìm các từ như:
bạn bè, sinh viên, đoàn kết….
Ví dụ: Em hãy tìm các từ ngữ chỉ người trong cộng đồng. Có học sinh đã
tìm các từ như: bệnh viện, bưu điện, nhi đồng….
Ví dụ: Em hãy tìm các sự vật thường thấy ở nông thôn. Có học sinh đã
tìm các từ như: tốt bụng, hiền lành, thật thà,…
- Vốn từ của học sinh còn nghèo nàn nên dẫn đến việc viết câu, đoạn văn
của học sinh chưa sinh động, chưa hay….
Ví dụ: Hôm qua mẹ cho em về quê chơi, em thấy làng quê có rất nhiều
cây cối rất đẹp, nhưng em thích nhất là những chú trâu đang gặm cỏ. Chị ra
đồng hái rau.
- Nhiều học sinh chưa tích cực trong giờ học mở rộng vốn từ.
Từ thực trạng trên tôi thấy nếu không có biện pháp mở rộng vốn từ cho
học sinh thì vốn từ của học sinh không phong phú, việc dùng từ đặt câu không
đa dạng, thiếu hình ảnh dẫn đến chất lượng dạy học Tiếng Việt sẽ không cao.

2.3. CÁC GIẢI PHÁP ĐÃ SỬ DỤNG ĐỂ LÀM GIÀU VỐN TỪ CHO
HỌC SINH LỚP 3.

6


2.3.1 Vận dụng khéo léo, linh hoạt phương pháp thảo luận nhóm để
mở rộng vốn từ và tạo môi trường giao tiếp cho học sinh luyện tập sử dụng
từ.
Phương pháp thảo luận nhóm là phương pháp dạy học dưới sự hướng dẫn
của giáo viên mà các thành viên trong nhóm thực hiện việc trao đổi, thảo luận,
chất vấn và chia sẻ lẫn nhau.
Trong quá trình dạy học tôi đã vận dụng linh hoạt phương pháp thảo luận
nhóm để mở rộng vốn từ và tạo môi trường giao tiếp cho học sinh trong quá
trình luyện tập sử dụng từ.
Cách thực hiện:
Để vận dụng phương pháp thảo luận nhóm vào giảng dạy đạt hiệu quả,
giáo viên cần thực hiện các bước sau:
Bước 1: Chuẩn bị bài trước khi lên lớp.
- Giáo viên chuẩn bị kỹ bài dạy, nghiên cứu kỹ nhiệm vụ của bài dạy. Xác
định bài tập sẽ sử dụng phương pháp thảo luận nhóm.
- Giáo viên thiết kế phiếu bài tập để giao việc cho các nhóm học sinh. Khi
thiết kế phiếu bài tập, giáo viên lưu ý xây dựng thêm các bài tập xây dựng nghĩa
của từ đối với những học sinh chưa hiểu nghĩa. Tùy thuộc vào trình độ nhận
thức của lớp mình, giáo viên thiết kế thêm các bài tập bổ sung để cụ thể hóa yêu
cầu của bài tập tạo điều kiện cho tất cả học sinh đều được hoạt động hết khả
năng của mình.
- Chuẩn bị các phương tiện dạy học như: phiếu bài tập, bảng để học sinh
ghi kết quả theo thảo luận nhóm…
Bước 2: Vận dụng linh hoạt phương pháp thảo luận nhóm trong dạy học.

- Giáo viên chia các nhóm học sinh.
Tùy theo đặc điểm của bài tập, giáo viên có thể chia nhóm cho học sinh
thảo luận theo những cách khác nhau như: Chia nhóm theo vị trí chỗ ngồi, chia
nhóm theo hình thức ngẫu nhiên, chia nhóm theo trình độ nhận thức và mức độ
nắm vốn từ của học sinh…Mỗi học sinh được chia nhóm đều có ưu, nhược điểm
nhất định, khi lựa chọn giáo viên phải linh hoạt, thường xuyên thay đổi hình
thức để tránh nhàm chán cho học sinh.
- Giao nhiệm vụ thảo luận cho học sinh.
Nhiệm vụ thảo luận nhóm được cụ thể hóa trong phiếu bài tập (hoặc phiếu
giao việc) cho cả nhóm.
Ví dụ 1: Khi hướng dẫn học sinh thực hiện bài 1, mở rộng vốn từ: Thiếu
nhi (TV3- Tập 1- trang 16), ta có thể sử dụng phiếu học tập sau:
PHIẾU THẢO LUẬN
Thảo luận nhóm 4, tìm các từ:
a. Chỉ trẻ em:
…………………………………………………………………………………

7


b. Chỉ tính nết của trẻ em:
…………………………………………………………………………………
c. Chỉ tình cảm hoặc sự chăm sóc của người lớn đối với trẻ em:
………………………………………………………………………………

Ví dụ 2: Đối với bài tập 1, mở rộng vốn từ: Gia đình, Tuần 4 (TV3-Tập 1 –
Trang 33) ta có thể sử dụng phiếu thảo luận sau:
PHIẾU THẢO LUẬN
Thảo luận nhóm 4, tìm các từ chỉ gộp những người thân trong gia đình:
…………………………………………………………………………………

…………………………………………………………………………………

Ví dụ 3: Khi dạy bài 1, Tuần 15 (TV3-Tập 1- trang 126), mở rộng vốn từ:
các dân tộc, GV sử dụng phiếu thảo luận:
PHIẾU THẢO LUẬN
Thảo luận nhóm 4, nói cho bạn nghe và nghe bạn nói tên một số dân tộc
thiểu số ở nước ta mà em biết. Sau đó ghi lại vào chỗ chấm dưới đây:
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………

Ví dụ 4: Ở bài tập 1, 2 mở rộng vốn từ: Thành thị - Nông thôn, tuần 16
(TV3- Tập 1- trang 135), ta có thể hướng dẫn học sinh thảo luận nhóm theo
phiếu học tập sau:
PHIẾU THẢO LUẬN
Thảo luận nhóm 4, tìm các từ:
a. Tìm từ thường thấy ở nông thôn:…………………………………….
b. Tìm từ thường thấy ở thành thị:………………………………………
c. Chỉ các công việc thường thấy ở nông thôn:…………….……………
d. Chỉ các công việc thường thấy ở thành thị……………..……………...

- Học sinh thảo luận nhóm:

8


Trong bước này, học sinh thực hiện các yêu cầu của phiếu bài tập, giáo
viên quan sát hướng dẫn và giúp đỡ các nhóm khi cần thiết, đảm bảo mọi nhóm
đều thảo luận sôi nổi, hiệu quả.
- Các nhóm báo cáo kết quả:
Trong thời gian các nhóm báo cáo kết quả, giáo viên tạo điều kiện cho các

nhóm khác nhận xét, bổ sung để đi đến kết quả thảo luận cuối cùng của lớp.
- Giáo viên tổng kết, chốt lại kiến thức cần ghi nhớ sau khi thảo luận
nhóm và tuyên dương những nhóm, cá nhân tiêu biểu, nhắc nhở những nhóm,
những cá nhân chưa tích cực để lần sau các em cố gắng hoạt động hiệu quả hơn.
Phương pháp thảo luận nhóm nhằm hình thành năng lực giao tiếp, kỹ
năng hợp tác, khả năng suy nghĩ độc lập. Với phương pháp này, học sinh còn
được học từ bạn và tất cả học sinh đều được tham gia hoạt động giao tiếp. Tôi đã
vận dụng những ưu điểm của phương pháp dạy học này như một biện pháp làm
giàu vốn từ nhằm mục đích nâng cao hiệu quả mở rộng vốn từ và tạo môi trường
giao tiếp cho học sinh luyện tập sử dụng từ.
2.3.2 Sử dụng trò chơi học tập giúp học sinh mở rộng vốn từ một cách
chủ động, tích cực, hiệu quả.
Trò chơi là một hoạt động của con người nhằm mục đích đầu tiên và chủ
yếu là vui chơi, giải trí và thư giãn sau những giờ làm việc căng thẳng. Nhưng
qua trò chơi, người chơi có thể rèn luyện các giác quan, tạo cơ hội giao lưu với
mọi người cùng hợp tác với đồng đội trong nhóm, tổ.
Ở bậc Tiểu học, sử dụng trò chơi trong quá trình học tập làm cho việc tiếp
thu trí thức, rèn luyện kỹ năng, củng cố tri thức bớt đi sự khô khan, có thêm sự
sinh động, hấp dẫn. Từ đó hiệu quả học tập của học sinh tăng lên.
Trong giờ mở rộng vốn từ, học sinh phải thực hiện các nhiệm vụ để làm
giàu vốn từ cho mình. Nếu giáo viên chỉ sử dụng một phương pháp cho cả tiết
học thì hiệu quả giờ học không cao, học sinh thụ động, lười suy nghĩ. Sử dụng
trò chơi học tập là phương pháp dạy học tích cực. Từ đó làm thay đổi không khí
trong lớp học, tạo sự thi đua sôi nổi, hào hứng của các đội chơi và sự cổ vũ nhiệt
tình của các bạn trong lớp. Nhờ có trò chơi học tập, học sinh hứng thú hơn với
việc học từ ngữ trong các bài tập mở rộng vốn từ, làm giảm bớt sự khô khan của
bài học, học sinh tiếp thu từ và nghĩa của từ nhanh, phân loại, quản lý vốn từ
đúng, sử dụng từ chính xác, linh hoạt, hợp lý.
Trong quá trình giảng dạy tôi thường sử dụng trò chơi như sau:
a. Sử dụng phương pháp trò chơi trong học tập đối với các bài tập phân

loại, quản lý vốn từ và bài tập sử dụng từ:
Đối với nhiệm vụ phân loại, quản lý vốn từ, tôi thấy đa số các bài tập đều
cho trước một số lượng từ nhất định, nhiệm vụ của học sinh là dựa vào một tiêu
chí nào đó để xếp từ vào các nhóm như bài tập ở ví dụ sau đây:
Ví dụ 1: Dưới đây là một số từ có tiếng cộng hoặc tiếng đồng và nghĩa
của chúng. Em có thể xếp những từ nào vào mỗi ô trống trong bảng phân loại
sau?

9


- Cộng đồng: Những người cùng sống trong một tập thể hoặc một khu
vực, gắn bó với nhau.
- Cộng tác: Cùng làm chung một việc.
- Đồng bào: người cùng một nòi giống.
- Đồng tâm: Cùng một lòng.
- Đồng hương: Người cùng quê.
Những người trong cộng đồng
Thái độ, hoạt động trong cộng đồng
………………………………………. ………………………………………...
……………………………………… ………………………………………...
(Tiếng Việt 3, tập 1, trang 65)

Ví dụ 2: Xếp những từ ngữ sau vào hai nhóm: cây đa, gắn bó, dòng sông,
con đò, nhớ thương, yêu quý, mái đình, thương yêu, ngọn núi, phố phường, tự
hào.
(Tiếng Việt 3, tập 1, trang 89)

Từ chỉ sự vật ở quê hương


Từ chỉ tình cảm đối với quê hương

Nhiệm vụ của bài tập ở ví dụ này làm nổi bật đặc điểm chung của các từ
ngữ trong hệ thống, từ đó làm cơ sở, làm điểm tựa cho hoạt động ghi nhớ, sắp
xếp từ thành hệ thống trong trí nhớ của học sinh.
Đối đối với loại bài tập này, tôi thường sử dụng trò chơi học tập để khắc
sâu kiến thức cho học sinh, đó là trò chơi: “Trò chơi tiếp sức”
+ Tác dụng của trò chơi :
- Giúp học sinh phân loại, quản lý vốn từ, phát huy óc liên tưởng, so sánh.
- Rèn luyện tác phong nhanh nhẹn, luyện trí thông minh và cách ứng xử
nhanh.
+ Chuẩn bị:
- Bảng phụ hoặc kẻ bảng chính của lớp, trong bảng đó ghi đề bài và các
tiêu chí phân loại từ.
Ví dụ 3: Xếp các từ vào hai nhóm thích hợp.
Nhóm 1:
Từ chỉ sự vật ở quê hương
Từ chỉ tình cảm đối với quê hương

Nhóm 2:

10


Từ chỉ sự vật ở quê hương

Từ chỉ tình cảm đối với quê hương

- Các băng giấy ghi sẵn các từ cần xếp loại.
Ví dụ: cây đa, gắn bó, dòng sông, con đò, nhớ thương, yêu quý, mái đình,

thương yêu, ngọn núi, phố phường, tự hào.
- Nam châm hoặc băng dính.
+ Cách tiến hành:
- Học sinh được chia làm hai đội, mỗi đội 3, 4 học sinh.
- Khi giáo viên có hiệu lệnh “Bắt đầu” lần lượt mỗi em của hai đội
chạy lên dán từ vào đúng nhóm theo tiêu chí phân loại. Khi dán xong, học sinh
chạy xuống chạm tay vào học sinh thứ hai thì học sinh thứ hai mới được chạy
lên dán từ tiếp theo vào bảng. Cứ tiếp tục như vậy cho đến khi hai đội dán xong
các từ, trò chơi kết thúc. Đội nào dán đúng và nhanh đội đó sẽ giành chiến
thắng.
Ưu điểm của trò chơi đối với loại bài tập phân loại quản lý vốn từ là kết
quả làm việc của học sinh sẽ tạo ra biểu tượng cụ thể (trên bảng lớp) cho học
sinh so sánh và ghi nhớ.
Ví dụ 4:
Từ chỉ sự vật ở quê hương
Từ chỉ tình cảm đối với quê hương
Cây đa
gắn bó
Dòng sông
nhớ thương
Con đò
yêu quý
Mái đình
thương yêu
Ngọn núi
bùi ngùi
Phố phường
tự hào
Các từ theo một dấu hiệu được xếp thành một cột trên bảng để học sinh
ghi nhớ từ thuận lợi trong trí nhớ của mình. Khi sử dụng, học sinh có thể liên

tưởng nhanh đến từ trong trò chơi đã được chơi.
Khi học sinh chơi xong, giáo viên có thể kết hợp với các bài tập để học
sinh tìm hiểu nghĩa của từ, phân biệt sắc thái nghĩa của các từ cùng hệ thống để
khi học sinh sử dụng từ chính xác và tinh tế hơn.
Trò chơi học tập để học sinh tìm ra tri thức mới đa dạng. Giáo viên có thể
sử dụng thêm các trò chơi khác để phù hợp và thay đổi không khí lớp học làm
cho học sinh hứng thú hơn với việc làm giàu vốn từ của mình.
b. Sử dụng trò chơi học tập để củng cố kiến thức và mở rộng vốn từ.
Khi thực hiện xong các nhiệm vụ của bài học, vào cuối tiết học, giáo viên
sẽ củng cố lại nội dung đã học cho học sinh. Hiện nay, ở trường tiểu học ít chú ý
đến khâu này trong bài dạy, điều này cũng ảnh hưởng đến chất lượng vốn từ của
học sinh.

11


Khi dạy mở rộng vốn từ cho học sinh, muốn từ ngữ vừa được cung cấp
tồn tại sâu sắc, bền vững trong trí nhớ của học sinh, giáo viên phải tìm cách để
học sinh được thao tác nhiều với từ, tạo điều kiện cho học sinh nghe, nói, đọc,
viết nhiều với từ, đặc biệt là từ mới. Để củng cố bài học cho học sinh, tôi sử
dụng trò chơi “Ai đúng, ai nhanh”.
+ Mục đích: Giúp học sinh củng cố lại những từ vừa học trong bài mở
rộng vốn từ.
+ Cách tiến hành:
- Tổ chức trò chơi vào cuối tiết học.
- Một số học sinh đứng tại vị trí của mình, lần lượt nêu các từ đã học
trong bài. Giáo viên và các học sinh khác sẽ là trọng tài, khi học sinh nêu đúng
một từ, cả lớp đồng thanh nói “đúng” và học sinh được nêu tiếp từ khác. Nếu
học sinh nói chưa đúng thì cả lớp nói “sai” và học sinh đó không được chơi nữa,
nhường quyền chơi lại cho các bạn khác trong lớp. Học sinh nào nêu đúng và

nhiều từ sẽ thắng cuộc…
Sau trò chơi, giáo viên và học sinh sẽ tuyên dương những học sinh nêu
được nhiều từ đúng.
Ưu điểm là loại trò chơi này là tạo điều kiện cho học sinh nói từ. Nói cách
khác, giúp học sinh hoạt động với nhiều từ hơn để ghi nhớ từ hiệu quả hơn.
Những trò chơi này khá đơn giản, giáo viên không phải chuẩn bị nhiều, ít
gây ồn ào nhưng lại có tác động tích cực đến việc ghi nhớ từ ngữ của học sinh.
Nếu giáo viên tổ chức tốt hai trò chơi thì ngoài tác dụng củng cố tốt kiến thức
của bài học, Trò chơi còn có tác dụng trở lại với bài học mới để ghi nhớ kiến
thức của bài học. Học sinh phải cố gắng để khi chơi tìm được nhiều từ nhất. Từ
đó, hiệu quả của giờ học được nâng cao, số lượng từ và chất lượng từ sau mỗi
bài học sẽ được chuyển biến rõ rệt.
Để học sinh mở rộng được nhiều từ ngữ trong một chủ điểm tôi sử dụng
trò chơi: “Truyền điện”
+ Mục đích: Mở rộng vốn từ cho học sinh khi học chủ điểm: “NGÔI NHÀ
CHUNG”
+ Cách tiến hành:
- Giáo viên giới thiệu trò chơi.
- Trò chơi được thực hiện với 2, 3, 4 đội tùy vào điều kiện lớp học (mỗi đội
3, 4, 5 học sinh… hay nhiều hơn đều thực hiện được.)
- Giáo viên nêu yêu cầu: Kể tên các nước trên thế giới mà em biết
Một đội được chỉ định nêu trước, sau khi nêu đúng tên 1 nước đội đó có quyền
truyền điện cho đội bạn (chạm tay vào 1 bạn của đội khác), đội nào được truyền
điện sẽ phải nêu tên 1 nước khác, cứ tiếp tục như vậy cho đến khi đội nào không
nêu được tên nước nữa đội đó sẽ thua cuộc.
Trò chơi này có thể thực hiện ở nhiều chủ điểm khác nhau, tạo hứng thú
và luôn đạt kết quả cao ngoài mong đợi.
Trò chơi học tập phần lớn được xem là một thủ thuật, biện pháp củng cố
kiến thức mà học sinh vừa học. Đồng thời giúp học sinh tìm hiểu những từ ngữ
12



liên quan đến chủ điểm vừa học qua phần gợi ý giúp học sinh mở rộng thêm
được vốn từ cho mình. Tôi sử dụng trò chơi: “Ô chữ kì diệu”
+ Mục đích: Củng cố, hệ thống vốn từ cho học sinh sau khi học chủ điểm
“MĂNG NON”
+ Cách tiến hành:
- Giáo viên giới thiệu trò chơi, giới thiệu ô chữ.
- Trò chơi với 2, 3 đội (tuỳ vào việc bố trí chỗ ngồi của từng lớp), mỗi đội
có thể là 1 tổ học sinh hay 1 dãy bàn.
- Sau khi xuất hiện gợi ý cho mỗi từ hàng ngang, các đội sẽ giơ tay dành
quyền trả lời.
- Trả lời đúng mỗi từ hàng ngang sẽ được thưởng 3 ngôi sao may mắn
(hoặc 3 bông hoa chăm học…)
- Đội nào dành được nhiều ngôi sao nhất đội đó sẽ chiến thắng.
+ Nội dung ô chữ như sau:
Dựa vào hàng dọc trong ô chữ hãy tìm các từ hàng ngang, mỗi hàng ngang là
là một từ chỉ đức tính tốt của trẻ em.
Gợi ý:
- Từ hàng ngang số 1: Gồm 8 chữ cái, một đức tính tốt của trẻ em được ghi
trong “5 điều Bác Hồ dạy”.
- Từ hàng ngang số 2: Gồm 7 chữ cái, từ cùng nghĩa với “cần cù”
- Từ hàng ngang số 3: Gồm 9 chữ cái, từ trái nghĩa với “lười nhác”
- Từ hàng ngang số 4: Gồm 7 chữ cái, một đức tính được ghi trong “5 điều
Bác Hồ dạy”
- Từ hàng ngang số 5: Gồm 5 chữ cái, người ta thường nói: “……bù khả
năng”
- Từ hàng ngang số 6: Gồm 7 chữ cái, có đức tính này mỗi tập thể sẽ tạo
nên sức mạnh.
- Từ hàng ngang số 7: Gồm 10 chữ cái, đức tính tốt, dễ bảo, biết nghe lời

người lớn của trẻ em.
1
2
3
4
5
6
7

M
Ă
N
G
N
O
N

Đáp án: Các từ hàng ngang lần lượt là: khiêm tốn, chăm chỉ, siêng năng,
dũng cảm, cần cù, đoàn kết, ngoan ngoãn

13


Tương tự cách tổ chức như trên với chủ điểm : “LỄ HỘI” tôi sử dụng ô
chữ: “HỘI VUI”
Dựa vào các gợi ý và các chữ cái đã có ở hàng dọc, em hãy tìm tên một số
hội thường được tổ chức trong những lễ hội hoặc những ngày hội lớn.
1. Hội có sự trổ tài những chiếc diều đủ loại.
2. Hội có sự tham gia của các đô vật.
3. Hội được tổ chức trên sông.

4. Hội được tổ chức ở Tây Nguyên.
5. Hội có sự góp công của các chú ngựa.
6. Hội là dịp để các liền anh, liền chị đua tài.
1
2
3
4
5
6

H

I
V
U
I

Đáp án: Các hội được nhắc đến trong ô chữ lần lượt là: thả diều, hội vật,
bơi trải, đua voi, đua ngựa, hội lim.
Ưu điểm là loại trò chơi này là tạo điều kiện cho học sinh nói từ. Nói cách
khác, giúp học sinh hoạt động với nhiều từ hơn để ghi nhớ từ hiệu quả hơn nhằm
phát huy tính tích cực, độc lập, sáng tạo của học sinh.
Trò chơi rất hấp dẫn đối với học sinh. Tuy nhiên, giáo viên không nên lạm
dụng trò chơi học tập, biến cả tiết học thành tiết chơi gây nhàm chán đối với học
sinh. Giáo viên cần chuẩn bị chu đáo, chặt chẽ về điều kiện vật chất và cách thức
thể lệ chơi. Trong lúc chơi, giáo viên cần hướng dẫn, động viên học sinh hoàn
thành tốt bài tập tạo sự hưng phấn, thích thú trong tiết học. Tổ chức trò chơi
trong giờ mở rộng vốn từ chịu sự chi phối của nhiều yếu tố: thời gian ngắn, nội
dung kiến thức thay đổi theo từng bài học…Vì vậy, tổ chức trò chơi phải linh
hoạt, khéo léo, không làm ảnh hưởng đến thời gian và đảm bảo chất lượng dạy

học.
2.3.3 Hình thành và bồi dưỡng ý thức tự làm giàu vốn từ cho học
sinh.
- Tự học và làm giàu vốn từ có thể hiểu là quá trình học sinh tự mình lĩnh
hội vốn từ, tự mình tìm hiểu nghĩa từ, phân loại quản lý vốn từ và vận dụng từ
vào trong hoàn cảnh giao tiếp.
- Đối với học sinh lớp 3, tự làm giàu vốn từ có thể bao gồm các công việc
sau: Học sinh tự giác hoàn thành các bài tập trong giờ mở rộng vốn từ, hoàn
thành các nhiệm vụ được giáo viên giao về nhà, có thắc mắc có ham muốn tìm
hiểu những từ mình chưa rõ nghĩa, chưa biết sử dụng, thường xuyên đọc và tra
từ điển để tăng thêm vốn từ và hiểu nghĩa từ….

14


- Để bồi dưỡng năng lực tự học cho học sinh tôi đã thực hiện sau:
* Hướng dẫn cho học sinh phương pháp tự làm giàu vốn từ: Giáo viên
giao nhiệm vụ cho học sinh. Khi giao nhiệm vụ, giáo viên phải đảm bảo tất cả
các học sinh đều nhớ và hiểu rõ nhiệm vụ được giao, bao gồm: ôn lại các từ và
nghĩa vừa học của bài trước, làm các bài tập trong sách giáo khoa, chuẩn bị quan
sát, tìm từ để học bài mới,….Giao thêm cho học sinh có năng khiếu các nhiệm
vụ học tập khó hơn, đòi hỏi các em phải có sự cố gắng nhiều hơn.
* Hướng dẫn học sinh cách đọc bài, làm bài và sử dụng thời gian tự học.
Khi học bài: Trước khi học bài, học sinh phải nhớ lại bài giáo viên đã
giảng trên lớp (bài học chủ đề gì? Những từ đã học là từ gì? Nghĩa của từ đó là
gì? Sử dụng từ đó như thế nào?...). Tập trung suy nghĩ để hiểu bài, nhớ lâu từ và
nghĩa của từ trong bài. Tập vận dụng những từ vừa học dưới hình thức: Tìm
thêm ví dụ, liên hệ đối chiếu với các từ trong nhóm và với các từ khác, đặt câu
có từ đó, đưa từ vào trong hoàn cảnh giao tiếp cụ thể trong cuộc sống của mình.
Ví dụ:

Khi học chủ điểm “Thành thị - Nông thôn”, sau khi mở rộng vốn từ theo
chủ điểm, học sinh cần vận dụng các từ đã học vào đặt câu nói về thành thị nơi
mình đang sống. Đồng thời tìm thêm nhiều từ mới nói về sự vật, công việc ở
thành thị cũng như nông thôn mà trên lớp giáo viên chưa đặt ra. Sau đó tập đặt
câu hỏi với các từ đó.
Khi làm bài: Đọc kỹ đề bài, làm bài ra vở nháp, sửa chữa cho chính xác
rồi mới viết bài vào vở. Nếu gặp phải những từ chưa hiểu rõ nghĩa học sinh phải
tự tra từ điển hoặc hỏi người lớn để hiểu nghĩa.
Trong khi học bài, làm bài, học sinh phải tập thói quen cẩn thận, chắc
chắn, thực hiện đến nơi đến chốn các nhiệm vụ được giao mà bố trí thời gian tự
học hợp lý. Trong buổi tự học, cần giành thời gian để vừa ôn bài vừa học, làm
các bài tập, chuẩn bị cho bài ngày hôm sau.
* Tập cho học sinh thói quen dựa vào sức mình là chính.
Trong bất kỳ hình thức hoạt động nào, dù hoạt động độc lập hay thảo luận
nhóm, học sinh cũng đều phải có ý thức dựa vào bản thân mình là chính. Học
sinh phải tích cực suy nghĩ để tìm từ theo chủ đề, tìm ra dấu hiệu chung của các
từ để thực hiện nhiệm vụ phân loại và quản lý vốn từ…. Giáo viên chấn chỉnh
ngay những học sinh có thói quen ỉ lại, dựa dẫm vào các bạn khác trong lớp,
không tích cực học tập, suy nghĩ, thụ động đón nhận tri thức có sẵn.
* Đa dạng hóa các hình thức làm giàu vốn từ.
Hoạt động tự học làm giàu vốn từ của học sinh được tiến hành dưới nhiều
hình thức khác nhau như tự học cá nhân, tự học theo nhóm, tự học trên lớp, tự
học ở nhà…. Đối với đặc điểm tâm lý của học sinh lớp 3, khả năng ý thức của
các em đã dần dần được hình thành cho nên trong quá trình giảng dạy, tôi đã áp
dụng tất cả các hình thức tự học nêu trên. Ngoài ra tôi còn hướng dẫn cho từng
cặp học sinh tự học theo hình thức nhóm đôi. Xây dựng “Đôi bạn cùng tiến” thi
đua giúp đỡ nhau học tập trên lớp và ở nhà. Nhờ hình thức này, học sinh trao đổi

15



với nhau về các vấn đề liên quan đến từ và vốn từ. Qua quá trình thực hiện tôi
thấy hình thức này đã mang lại hiệu quả tích cực.
* Tăng cường kiểm tra, đánh giá việc thực hiện nhiệm vụ của học sinh.
Khi giao bất kỳ nhiệm vụ gì cho học sinh, giáo đều phải kiểm tra, đánh
giá xem xét học sinh có thực hiện không? Kết quả thực hiện như thế nào? Nếu
giao nhiệm vụ tự học, giáo viên không kiểm tra, đánh giá học sinh dễ dàng bỏ
qua nhiệm vụ được giao.
Có thể kiểm tra, đánh giá việc thực hiện nhiệm vụ tự học của học sinh
thông qua các hình thức kiểm tra bài cũ, kiểm tra vở bài tập hoặc nêu ngay câu
hỏi để học sinh trả lời ngay đối với học sinh đang học trên lớp.
Ngoài ra, để hoạt động tự học của học sinh đạt hiệu quả cao phải có sự
phối hợp của phụ huynh học sinh trong việc nhắc nhở học sinh làm bài tập,
chuẩn bị các phương tiện cần thiết cho việc làm giàu vốn từ như từ điển Tiếng
việt, bố trí thời gian tự học cho hợp lý.
Tóm lại, tăng cường tự học, tự làm giàu vốn từ là một trong những con
đường để nâng cao chất lượng thực hiện nhiệm vụ học tập nói chung và làm giàu
vốn từ nói riêng cho từng học sinh. Đồng thời cũng hình thành và phát triển
bước đầu cho học sinh năng lực tự học.
Như vậy, trong quá trình dạy học mở rộng vốn từ tôi đã áp dụng bốn biện
pháp để làm giàu vốn từ cho học sinh. Các biện pháp này có mối quan hệ chặt
chẽ với nhau. Để tìm được các từ theo chủ điểm, phát huy khả năng giao tiếp và
vốn sống của học sinh, tôi dùng biện pháp thảo luận nhóm. Để học sinh hứng
thú hơn trong việc học, tôi dùng hình thức thi đua, khen thưởng. Để thay đổi
hình thức dạy học, tôi dùng trò chơi trong giờ học. Đồng thời, không phải khi
nào giáo viên cũng tổ chức thảo luận nhóm hoặc trò chơi học tập, sẽ có thời gian
học sinh phải độc lập làm bài tập cá nhân nên giáo viên luôn phải nhắc nhở học
sinh ý thức tự học và hướng dẫn học sinh phương pháp tự làm giàu vốn từ.
2.3.4 Vận dụng hợp lý các hình thức đánh giá, thi đua, khen thưởng
nhằm khuyến khích học sinh mạnh dạn, chủ động, sáng tạo trong giờ học.

Thi đua gắn với khen thưởng là một động lực không thể thiếu được trong
quá trình dạy học và đánh giá học sinh. Thi đua, khen thưởng rất phù hợp với
đặc điểm tâm sinh lý của học sinh tiểu học. Các em cố gắng phấn đấu vì động cơ
rất đơn giản: Cố gắng để được nhận xét là bài làm tốt, cố gắng để được cô giáo
khen, cố gắng để làm vui lòng ông bà, cha mẹ…Trong giờ mở rộng vốn từ, nhờ
không khí thi đua, học sinh sôi nổi hơn, hăng say hơn, khen thưởng giờ mở rộng
vốn từ là sự công nhận kết quả mà học sinh đạt được (học sinh tìm ra từ mới,
phát hiện ra nghĩa mới câu, từ, đặt được câu hỏi, đoạn văn hay…). Nếu được
khen đúng lúc, học sinh sẽ cảm thấy tự tin và phấn đấu hơn.
- Trong quá trình dạy mở rộng vốn từ, tôi đã vận dụng phương pháp thi
đua khen thưởng như sau:
+ Trước khi vào bài học hay trước khi tổ chức một trò chơi học tập, giáo
viên nêu tiêu chí thi đua rõ ràng, cụ thể để tạo tâm thế thi đua cho học sinh.
Ví dụ:

16


* Thi đua xem bạn nào tìm được nhiều từ mới sẽ được cộng nhiều lời
khen vào sổ liên lạc điện tử
* Thi đua xem nhóm nào thảo luận sôi nổi, hoàn thành bài tập đúng và
nhanh sẽ được cộng nhiều bông hoa (bài làm tốt) cho cả nhóm.
* Thi đua giữa các tổ về mọi mặt: nề nếp, ý thức, hiệu quả thảo luận….
- Hình thức khen thưởng đưa ra phải mang tính cụ thể, chủ yếu về mặt
tinh thần để khuyến khích học: ghi nhiều lời khen, ghi nhiều sao thành tích, hoa
thi đua hay một tràng vỗ tay…
- Trong mỗi tiết dạy, giáo viên cần đánh giá kịp thời bằng cách khen
những cá nhân tiêu biểu xuất sắc và những cá nhân có tiến bộ vượt bậc trong tiết
học. Từ đó học sinh cả lớp có thể noi gương để phấn đấu, phấn đấu để được cô
giáo khen và phấn đấu để không bị kém bạn bè.

- Tuy nhiên, trong một tiết học, không phải mọi học sinh đều có tinh thần
thi đua để học tốt, vẫn có một số học sinh không chú ý vào bài học. Vì vậy, bên
cạnh việc sử dụng biện pháp khen thưởng, giáo viên vẫn phải sử dụng biện pháp
nhắc nhở đối với học sinh không chú ý xây dựng bài. Việc nhắc nhở phải
nghiêm khắc và công minh để các em nhận ra khuyết điểm và quyết tâm sửa
chữa để cùng tiến bộ với các bạn.
Trong giờ mở rộng vốn từ nói riêng và tất cả các giờ học khác nói chung
giáo viên phải luôn tạo được không khí thi đua sôi nổi, hào hứng trong giờ học,
luôn đánh giá học sinh đúng lúc, đúng chỗ, đặc biệt đảm bảo khách quan, công
bằng, tạo điều kiện cho học sinh tự đánh giá và đánh giá lẫn nhau, tôn trọng kết
quả đánh giá của học sinh. Bên cạnh đó cũng cần bổ sung, đính chính khi học
sinh đánh giá chưa chính xác. Khi học sinh đạt thành tích, giáo viên cần khen
thưởng kịp thời để khuyến khích động viên các em. Tuy nhiên, trong quá trình
sử dụng, giáo viên không được lạm dụng quá nhiều gây nhàm chán đối với học
sinh.
2.4. HIỆU QUẢ CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐỐI VỚI HOẠT
ĐỘNG GIÁO DỤC, BẢN THÂN, ĐỒNG NGHIỆP VÀ NHÀ TRƯỜNG.

Qua thực tế giảng dạy ở trường Tiểu học tôi nhận thấy việc sử dụng các
biÖn ph¸p ë trªn hết sức cần thiết và mang lại hiệu quả cao. Sau quá trình
thực hiện thường xuyên các biện pháp nêu trên, tôi thấy học sinh thích làm bài
tập hơn, hào hứng với trò chơi học tập, thảo luận nhóm sôi nổi, tự mình khám
phá ra từ mới, nắm nghĩa từ, sử dụng từ. Vốn từ của học sinh trong lớp ngày
càng phong phú và bền vững, học sinh sử dụng từ ngữ chính xác hơn, phong phú
hơn, việc dùng từ, câu văn trôi chảy, mạch lạc. Đặc biệt khi học sinh vận dụng từ
ngữ để đặt câu, viết đoạn văn theo từng chủ điểm đã đem lại hiệu quả khả quan.
Học sinh có thể huy động nhanh từ theo chủ đề khi giáo viên yêu cầu. Khi giao
tiếp học sinh không còn rụt rè, né tránh mà các con đã mạnh dạn hơn, chủ động
hơn, trao đổi tích cực. Khi làm bài kiểm tra học sinh đã chủ động tự vận dụng để
thực hiện tốt các yêu cầu của đề bài.


17


Học sinh tích cực trao đổi khi thảo luận nhóm

Lớp học luôn sôi nổi
Trong tiết sinh hoạt tập thể, học sinh trong lớp luôn được luân phiên làm
tổ trưởng mạnh dạn báo cáo trước cô giáo và cả lớp về kết quả học tập rèn luyện
của các thành viên trong tổ mình. Học sinh chủ động tham gia các hoạt động
theo chủ điểm như: thi kể chuyện, thuyết trình, hùng biện về 1 vấn đề đơn giản,
đóng kịch, sắm vai. Trong các buổi sinh hoạt ngoại khoá, hoạt động trải nghiệm
học sinh đã chủ động trao đổi, tự khám phá, thông qua những câu chuyện, bài
hát, vở kịch… minh hoạ cho từng chủ điểm.

18


Học sinh lớp 3C Trường Tiểu học Điện Biên 1 tự tin, chủ động khi tham gia
hoạt động trải nghiệm tại quê Bác

19


Học sinh lớp 3C Trường Tiểu học Điện Biên 1 tham gia làm hoa và tự
tin thuyết trình sản phẩm hoa giấy của mình trong buổi sinh hoạt ngoại
khóa chủ điểm: Vui đón xuân.

20



Học sinh tự tin dẫn chương trình trong hoạt động ngoại
khóa
Từ đó cũng thấy được vốn từ, vốn hiểu biết của học sinh được mở rộng và
nâng cao hơn. Vận dụng các giải pháp làm giàu vốn từ đã đề xuất làm cho lớp
học sôi nổi hơn nhiều, góp phần nâng cao chất lượng dạy học phân môn Luyện
từ và câu nói riêng và chất lượng dạy học môn Tiếng Việt nói chung.

3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ.
3.1. Kết luận:
Việc thường xuyên nghiên cứu, tìm tòi những giải pháp cần thiết cho một
nội dung dạy học để nâng cao chất lượng nội dung dạy học đó là việc làm hết
sức cần thiết. Từ đó giúp học sinh học tập tiến bộ hơn, hiệu quả hơn, góp phần
nâng cao chất lượng giảng dạy.
Qua nghiên cứu việc dạy học mở rộng vốn từ cho học từ cho học sinh
lớp 3, tôi nhận thấy để làm giàu vốn từ cho học sinh lớp 3, nâng cao hiệu quả
dạy học người giáo viên cần:
Tìm hiểu nguyên nhân học sinh thường gặp khó khăn trong việc mở rộng
vốn từ, làm phong phú vốn từ.
Xây dựng các biện pháp dạy học phù hợp nhằm khắc phục khó khăn,
nâng cao chất lượng dạy học:
- Một là: Vận dụng khéo léo, linh hoạt phương pháp thảo luận nhóm để
mở rộng vốn từ và tạo môi trường giao tiếp cho học sinh luyện tập sử dụng từ.
- Hai là: Sử dụng trò chơi học tập giúp học sinh mở rộng vốn từ một cách
chủ động, tích cực, hiệu quả.
- Bốn là: Hình thành và bồi dưỡng ý thức tự làm giàu vốn từ cho học
sinh.
21



- Ba là: Vận dụng hợp lý các hình thức thi đua, khen thưởng nhằm khuyến
khích học sinh mạnh dạn, chủ động, sáng tạo trong giờ học.
Bản thân tôi cũng nhận thấy việc làm giàu vốn từ cho học sinh lớp 3 sẽ
giúp các em có kỹ năng sử dụng từ để giao tiếp. Ngoài ra các em lựa chọn trong
vốn từ của mình những từ ngữ gợi tả, gợi cảm để viết những câu văn, đoạn văn
sinh động, giàu hình ảnh.
Với giáo viên, đa số đã đồng tình và cùng vận dụng những giải pháp mà
tôi trao đổi, chia sẻ không những thế nhiều giáo viên còn vận dụng vào dạy học
ở các khối lớp khác, môn khác.
Với sáng kiến này chúng tôi mong góp một phần nhỏ bé vào kinh nghiệm
giảng dạy phân môn Luyện từ và câu trong môn Tiếng Việt lớp 3.
3. 2. Kiến nghị:
* Với giáo viên: Mỗi giáo viên chúng ta cần vận dụng phối hợp các
phương pháp dạy học tích cực để nâng cao hiệu quả dạy học làm giàu vốn từ cho
học sinh như: thảo luận nhóm, trò chơi học tập và biện pháp thi đua khen
thưởng.
Cần chú ý tự trau dồi vốn từ cho bản thân mình. Đọc, nghiên cứu tài liệu
để có những hiểu biết sâu sắc về các nhiệm vụ làm giàu vốn từ cho học sinh ở
tiểu học.
Chú ý hình thành và bồi dưỡng ý thức tự làm giàu vốn từ cho học sinh. Sử
dụng nhiều biện pháp làm giàu vốn từ sẽ góp phần nâng cao chất lượng dạy học
vốn từ nói riêng và dạy học Tiếng Việt nói chung.
Để nâng cao hiệu quả các giờ học Luyện từ và câu lớp 3 đặc biệt là với
các dạng bài “Làm giàu vốn từ”, giáo viên cần có trách nhiệm cao trong công tác
giảng dạy, nắm vững nội dung chương trình môn Tiếng Việt lớp 3, Chuẩn bị kỹ
bài dạy và xác định đúng trọng tâm của bài, vận dụng linh hoạt, khéo léo các
phương pháp và hình thức dạy học tích cực, động viên khen thưởng kịp thời để
gây hứng thú học tập cho học sinh, tìm ra những biện pháp thích hợp, tác động
đến từng đối tượng học sinh để các em phát huy năng lực của bản thân mình.
Qua đó các em sẽ tự hình thành cách học tập khoa học và một thái độ học tập

đúng đắn.
* Với cấp trên:
- Thường xuyên tổ chức các buổi hội thảo, chuyên đề về đổi mới phương
pháp dạy học; vận dụng phương pháp dạy học tích cực… để giáo viên có cơ hội
trau dồi đổi mới phương pháp dạy học nhiều hơn.
Trong quá trình nghiên cứu, viết sáng kiến sẽ không tránh khỏi những
thiếu sót. Tôi rất mong nhận được sự góp ý của đồng nghiệp và các cấp lãnh
đạo.

22


XÁC NHẬN CỦA NHÀ TRƯỜNG

Thanh Hóa, ngày 20 tháng 3 năm 2018
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình
viết, không sao chép nội dung của người khác

Nguyễn Thị Hồng

23


Tài liệu tham khảo
1. Ngô Trần Ái (2004), Phương pháp dạy môn Tiếng Việt Tiểu học, NXB
Giáo dục Việt Nam.
2. Lê Phương Nga (2006), Bồi dưỡng học sinh giỏi Tiếng Việt ở tiểu học Phương pháp dạy học Tiếng Việt, NXB Giáo dục.
3. Trần Mạnh Hưởng - Lê Hữu Tỉnh (2005), Bồi dưỡng học sinh giỏi Tiếng
Việt 3, NXB Giáo dục Việt Nam.
4. Lê Phương Nga (chủ biên) (2006), Tiếng Việt 3 nâng cao, NXB Giáo

dục.
5. Trần Đức Niềm, Lê Thị Quyên (2006), Em học giỏi- Luyện từ và câu lớp
3, NXB Giáo dục.

24



×