Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

SKKN nâng cao chất lượng dạy học dạng bài văn tả cảnh cho học sinh lớp 5

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (157.37 KB, 20 trang )

MỤC LỤC
Mục lục...............................................................................................................01
I. MỞ ĐẦU……………………………………….……………………………02
1. Lí do chọn đề tài…………..………………………….…………………….02
2. Mục đích nghiên cứu…...………………………...…………….…………..02
3. Đối tượng nghiên cứu……………………………..…………………… ….02
4. Phương pháp nghiên cứu ………………………….………………............02
II. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU…..…………………….………………….....04
1. Cơ sở lí luận của vấn đề nghiên cứu………………….……………..... .....04
2. Thực trạng của việc dạy - học Tập làm văn lớp 5 ở trường Tiểu học Hà
Lĩnh 1.……………………………………………………………………..…...04
3. Các giải pháp tổ chức thực hiện…………………….……………………..05
3.1. Giải pháp 1:………………………………………………………………..05
3.2. Giải pháp 2:………………………………………………………………..06
3.3. Giải pháp 3:………………………………………………………………..07
3.4. Giải pháp 4:………………………………………………………………..07
3.5. Giải pháp 5:………………………………………………………………..07
3.6. Giải pháp 6:………………………………………………………………..08
3.7. Giải pháp 7:………………………………………………………………..09
3.8. Giải pháp 8:………………………………………………………………..10
3.9. Giải pháp 9:………………………………………………………………..12
3.10. Giải pháp 10: …..………………….……………………………………..13
3.11. Giải pháp 11:……………………………………………………………..13
3.12. Giải pháp 12:……………………………………………………………..14
3.13. Giải pháp 13:…………………………………………………………… 15
4. Kết quả thực hiện:………………………………………………….………16
III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ………….………………………………...18
1. Kết luận chung…………………………………………………………..….18
2. Kiến nghị và đề xuất…………………………………………………..……18
Tài liệu tham khảo………………………………………………………...…...20


1


I. M U
1. Lớ do chn ti.
Trong chng trỡnh Tiu hc, Ting Vit l mt mụn hc cú tm quan
trng c bit. Mụn Ting Vit giỳp hc sinh lm ch mt cụng c s dng
trong hc tp v giao tip. c bit lp 5 l lp cui cp Tiu hc, cn hon
thnh mc tiờu t ra cho mụn Ting Vit ton cp. Trong mụn Ting Vit cú
nhiu phõn mụn, mi phõn mụn mang mt kin thc nht nh, chỳng b tr cho
nhau giỳp ngi hc cú th hc tt mụn Ting Vit. Phõn mụn Tp lm vn
mang tớnh cht thc hnh, tng hp, rốn c 4 k nng nghe, núi, c, vit. Hc
sinh lp 5 c hc c 4 k nng k chuyn, miờu t ngi, cnh vt. phân
môn Tập làm văn các kiểu bài miêu t (tả cnh) đợc học nhiều
nhất, nó giúp cho học sinh tái hiện lại cuộc sống con ngời,
phong cảnh thiên nhiên.[ 2 ]
Từ thực tiễn dạy học ở Tiểu học những năm qua, tôi nhận
thấy: Học sinh lớp 5 khi thực hiện bài văn miêu tả còn gặp rất
nhiều khó khăn, chất lợng bài làm cha cao. Nguyên nhân chủ
yếu là do vốn sống, vốn hiểu biết của các em cha phong phú,
vốn từ của các em còn nghèo nàn thiếu cảm xúc, lại cha biết
cht lọc, việc sử dụng ngụn ng, các biện pháp tu từ còn cha cao.
Bờn cnh ú, nhiu em cũn cha nm vng cỏch lm cỏc kiu bi vn miờu t,
cũn yu trong k nng xõy dng b cc, chn ý v sp xp ý trong dựng t din
t. T ú cỏc bi vit thng ri vo tỡnh trng lit kờ, khụ cng, thiu hỡnh
nh, thiu cm xỳc v gng ộp. Mt khỏc cỏc ti liu hng dn ging dy ch
mang tớnh cht chung chung, cha cú nhng gii phỏp c th giỳp giỏo viờn
v hc sinh vn dng trong quỏ trỡnh dy hc Tp lm vn núi chung, dng vn
t cnh núi riờng.
Giỳp hc sinh hc tt mụn Tp lm vn dng vn t cnh l mt vic lm

cú ý ngha thit thc nhm gúp phn thc hin tt mc tiờu mụn Ting Vit núi
chung v phõn mụn Tp lm vn núi riờng. L mt giỏo viờn lp 5, tụi luụn trn
tr vn l lm th no nõng cao hiu qu dy v hc phõn mụn Tp lm vn
ca lp mỡnh ph trỏch. Do ú tụi ó hc hi ng nghip, nghiờn cu, tỡm tũi
vn dng i mi phng phỏp dy hc v mnh dn xut: Mt s gii
phỏp nõng cao cht lng dy - hc dng bi vn t cnh cho hc sinh lp
5 nhm gúp phn nõng cao cht lng lm vn miờu t cho hc sinh lp 5.
2. Mc ớch nghiờn cu.
Tỡm ra mt s gii phỏp nhm nõng cao cht lng dy hc dng bi vn
t cnh cho hc sinh lp 5.
3. i tng nghiờn cu.
Gii phỏp nõng cao cht lng dy - hc dng bi vn t cnh cho hc
sinh lp 5A trng Tiu hc H Lnh 1.
4. Phng phỏp nghiờn cu.
4.1 Phng phỏp nghiờn cu lớ lun:

2


Sử dụng phương pháp này khi nghiên cứu tài liệu, sách giáo khoa, nghiên
cứu cơ sở lí luận của đề tài và các tài liệu khác có liên quan.
4.2. Phương pháp điều tra, thu thập thông tin:
Được sử dụng khi nghiên cứu thực trạng của đề tài, thu thập, sử lí thông
tin liên quan đến đề tài nghiên cứu.
4.3. Phương pháp quan sát, thống kê, sử lí số liệu:
Phương pháp này được sử dụng khi dự giờ đồng nghiệp, quan sát việc dạy
và học của giáo viên và học sinh, thống kê các nội dung liên quan đến đề tài, sử
lí số liệu của các bài kiểm tra…
4.4. Phương pháp khảo sát, thực nghiệm:
Được sử dụng khi khảo sát các giải pháp đưa ra, khi tổ chức dạy thực

nghiệm, kiểm tra thực nghiệm…

II. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
1. Cơ sở lí luận của vấn đề nghiên cứu.
Miêu tả là “Dùng ngôn ngữ hay một phương tiện nghệ thuật nào đó làm
cho người khác có thể hình dung được cụ thể sự vật, sự việc hoặc thế giới nội
tâm của con người” [1]. Văn miêu tả dùng lời văn có hình ảnh, làm hiện ra trước
mắt người đọc bức tranh cụ thể về một cảnh làm ta chú ý và có cảm xúc sâu sắc.
Tả phải nắm được cảnh vật mình định tả có những gì nổi bật, đặc sắc và được
diễn tả bằng từ ngữ giàu sức gợi cảm, giúp người đọc hình dung một cách cụ thể
về hình khối, kích thước, màu sắc, âm thanh, hương vị,… và những cảm giác vui
buồn, ngạc nhiên, thích thú,… của cảnh vật thông qua những nhận xét tinh tế,
rung động sâu sắc thể hiện cảm xúc thẩm mỹ của người viết. [2]
Ở lớp 5, các loại bài Tập làm văn đều gắn với các chủ điểm, văn miêu tả
cũng nằm trong cấu trúc đó. Quá trình thực hiện các kỹ năng phân tích đề, quan
sát, tìm ý, viết đoạn là những cơ hội để huy động vốn từ, tích cực hoá vốn từ để
vẽ lại được cảnh vật, đồng thời giúp trẻ hiểu biết được về cuộc sống theo các
chủ điểm đã học. Việc phân tích đề, lập dàn ý, chia đoạn văn miêu tả góp phần
phát triển kĩ năng phân loại, phân tích, tổng hợp của học sinh. Tư duy hình
tượng của học sinh cũng được rèn luyện nhờ vận dụng các biện pháp nghệ thuật
như so sánh, nhân hóa …trong khi miêu tả.
Học sinh được học văn miêu tả ngay từ tuần 1 thông qua hai loại hình bài
học: loại bài hình thành kiến thức và loại bài luyện tập thực hành. Gồm có các
nội dung sau:
- Phân tích cấu tạo của bài văn tả cảnh.
- Nhận xét bài văn theo yêu cầu.
- Lập dàn ý.
- Xây dựng đoạn văn trong bài văn tả cảnh.
- Viết bài văn tả cảnh.
- Trả bài kiểm tra viết.

Như vậy về việc rèn luyện kỹ năng làm văn cho học sinh, theo chương
trình sách giáo khoa hiện hành thì ngoài việc rèn luyện kỹ năng nhận xét qua
3


vn bn cũn phi chỳ ý n cỏc k nng quan sỏt, lp dn ý v vit on vn
l c s u tiờn v quan trng giỳp hc sinh vit bi y , chớnh xỏc.
2. Thc trng ca vic dy - hc Tp lm vn lp 5 Trng Tiu hc H
Lnh 1.
Vic dy hc Ting vit núi chung v dy hc phõn mụn Tp lm vn
lp 5 núi riờng t hiu qu cha cao. Giỏo viờn dy hc nhit tỡnh, t m, chun
b chu ỏo. Vic thc hin ni dung chng trỡnh luụn bỏm sỏt theo ch o
chung ca cp trờn, bỏm sỏt mc tiờu chng trỡnh bi hc theo chun kin thc
k nng ng thi thc hin tt cỏc ni dung tớch hp giỏo dc k nng sng,
lng ghộp giỏo dc bo v mụi trng ...
Vic thc hin ni dung chng trỡnh mụn Ting Vit l 8 tit/tun, trong
ú Tp lm vn lp 5 c hc 2 tit/tun. Nội dung các bài học trong
phân môn Tập làm văn lớp 5 là sự tiếp nối và nâng cao, mở
rộng so với các lớp 2, 3, 4. Lên lớp 5 học sinh học tiếp về vn miêu
tả. Trong đó tả cảnh chiếm 18 tiết. Nh vy trong phõn mụn tp lm
vn lp 5 thỡ vn t cnh chim thi lng nhiu nht. Nm bt c tm quan
trng ú ngay t u nm hc tụi ó tin hnh kho sỏt cht lng ca lp 5A do
tụi c phõn cụng ging dy trong nm hc ny.
bi: Em hóy t ngụi trng thõn yờu ó gn bú vi em trong nhiu nm qua.
Kt qu thu c nh sau:
Hon thnh tt

Hon thnh

Cha hon thnh


Lp

S s

SL

%

SL

%

SL

%

5A

25

1

4

14

56

10


40

c bit qua bi vit ca cỏc em tụi cũn nhn thy:
*) V ni dung bi Tp lm vn
- 10- 15% hc sinh vit vn cú b cc rừ rng, bi vit cụ ng xỳc tớch.
- 50% hc sinh thc hin c yờu cu ca nhng din t ý cũn cha rừ
rng, lụgic.
- 10% hc sinh cũn ụi ch dựng t, t cõu, liờn kt cõu, on cha t. Vn
vit gũ bú thiu t nhiờn, ớt sỏng to.
- 25% hc sinh thỡ sao chộp nguyờn bn bi ca bn hoc vn mu. Thm chớ cú
em bi vit cũn khụ khan, ri rc, lng cng, vay mn.
*) V k nng: - Trong bi vn ca cỏc em gn nh c bi nhiu em khụng cú
mt du chm cõu.
- Bi vit sai li chớnh t, c bit l li chớnh t thụng thng, bờn cnh nhng
li chớnh t vn cú ca a phng . Din t vng, lun qun, ti ngha .
4


Tuy nhiên, trước những yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước, so với nhiệm vụ chung của ngành giáo dục, việc dạy và học phân
môn Tập làm văn còn nhiều hạn chế, bất cập. Tôi cho rằng cần phải nhìn thẳng
vào sự thật để phân tích một cách thấu đáo điều này. Bởi lẽ, nó có ý nghĩa về
nhiều phương diện, nhất là xác định những biện pháp cụ thể để nâng cao chất
lượng dạy và học. Về giáo viên, thông qua các tiết dự giờ tôi nhận thấy đã có
nhiều tiết giáo viên còn chưa có ý thức về đổi mới phương pháp dạy. Qua việc
dự giờ, tôi nhận thấy rằng, việc giảng dạy và học tập phân môn Tập làm văn còn
có những vấn đề sau:
- Các tiết học thường kéo dài quá thời gian qui định.
- Nhiều HS còn mơ hồ về loại văn miêu tả.

- Kĩ năng làm văn của các em còn hạn chế như: chưa biết quan sát, miêu tả
còn chung chung chưa thể hiện được đặc điểm nổi bật của từng chủ đề mình
định tả; chưa biết sử dụng những từ gợi tả và các thủ pháp nghệ thuật trong bài
văn; chưa biết thể hiện cảm xúc của mình khi miêu tả.
- Vốn từ ngữ của các em còn nghèo…
Từ thực trạng việc dạy học phân môn Tập làm văn nói chung và việc dạy
học dạng văn tả cảnh lớp 5 nói riêng, cùng với những nghiên cứu, tìm tòi của
bản thân tôi nhận thấy cần thiết phải có một số giải pháp nâng cao chất lượng
dạy - học dạng bài văn tả cảnh cho học sinh lớp 5.
3. Các giải pháp tổ chức thực hiện.
3.1. Giải pháp 1: Khơi dậy và bồi dưỡng hứng thú học tập Tiếng Việt, nhất là
phân môn Tập làm văn cho học sinh Tiểu học.
Đại văn hào M.Gorki đã có câu nói nổi tiếng: “Thiên tài nảy nở từ tình
yêu đối với công việc”. Tình yêu, niềm hứng thú là động lực, là điều kiện cũng
chính là chìa khóa mở cánh cửa thành công cho bất kì công việc nào, kể cả việc
học tập. Tôi ví việc dạy học môn Tiếng Việt cũng giống như một con đường dài
vậy. Con đường ấy bắt nguồn từ việc phát hiện những học sinh có hứng thú và
năng khiếu Tiếng Việt tạo điều kiện cho các em phát triển năng lực cá
nhân. Trong cả hành trình, người giáo viên phải biết nuôi lớn hứng thú cho học
sinh. Một câu chuyện mở đầu, một câu hỏi dạng như “Các con có biết nếu như
mình viết được một bài văn hay sẽ giúp chính các con điều gì không?” Hãy khôn
khéo để dẫn dắt các con đến với lợi ích của việc học. Tôi nghiệm ra rằng không
có con đường nào khác làm nảy sinh, duy trì hứng thú của học sinh với Tiếng
Việt với miêu tả ngoài cách giúp các em thấy được sự thú vị, vẻ đẹp và sự kì
diệu của miêu tả trong văn chương Việt. Từng giờ, từng phút, người giáo viên
phải hướng học sinh đến cái đẹp, cái hay, cái độc đáo của môn học. Đó có thể là
lời vào bài hấp dẫn, có thể là những ngữ liệu thú vị, là những thông tin bổ ích
bên lề bài học.[5]
Hứng thú học tập trước hết được tạo ra bằng cách làm cho học sinh ý thức
được lợi ích của việc học để tạo ra động cơ học tập. Ngay từ những ngày đầu

của năm học, giáo viên cần làm cho các em nhận thức về lợi ích của việc học
một cách tích cực và thiết thực với các em.
5


Hứng thú của học sinh cũng được khơi dậy từ việc chỉ ra vẻ đẹp của một
từ, cái hay của một tình tiết truyện, chẳng hạn: Tiếng hót của chim chiền chiện
không phải là “ríu rít”, “thánh thót” mà “ngọt ngào”, “long lanh”, “chan chứa”,
thì mới gây ấn tượng. Hoa sầu riêng nở “tím ngát”, chứ không phải “tím ngắt”
hay “ngan ngát”. Như thế thì mới có cả màu hoa, hương hoa chỉ trong một từ.
Hứng thú học Tiếng Việt, học Tập làm văn còn được tạo ra bằng cách kể
cho các em nghe về cuộc đời của các nhà văn nhỏ tuổi như nhà thơ Trần Đăng
Khoa, … và khuyến khích các em đọc thêm các bài văn tham khảo, bài văn hay
và những bài văn đạt giải,..
3.2. Giải pháp 2: Dạy học phát huy tính tích cực của học sinh.
Chúng ta đều biết rằng quá trình dạy học gồm hai hoạt động có quan hệ
hữu cơ : hoạt động dạy của giáo viên và hoạt động học của học sinh. Cả hai hoạt
động này đều được tiến hành nhằm thực hiện mục đích giáo dục.
Hoạt động học tập của học sinh chính là hoạt động nhận thức. Hoạt động
chỉ hiệu quả khi học sinh học tập một cách tích cực, chủ động tự giác, với một
động cơ nhận thức đúng đắn.
Kết quả học tập của học sinh là thước đo kết quả hoạt động của giáo viên
và học sinh. Trong quá trình dạy học, điểm tập trung là bản thân người học, chứ
không phải là người dạy, tức là hoạt động dạy học cần dựa trên nhu cầu, hứng
thú, thói quen và năng lực của người học ở các lứa tuổi khác nhau.
Trong quá trình dạy học, người giáo viên cũng cần lưu ý rằng :
- Chương trình và kế hoạch dạy học phải căn cứ vào nhu cầu, hứng thú,
năng lực của học sinh, giúp các em có được thái độ đúng và nắm được những
kiến thức, kĩ năng, kĩ xảo, phát huy đầy đủ nhất năng lực của mình.[2]
- Trong khi dạy học, cần tạo điều kiện cho học sinh chủ động tiếp thu các

kiến thức, kĩ năng,.. biến những kiến thức, kĩ năng đó thành kiến thức, kĩ năng
của mình. Nói cách khác là biết biến điều được học thành cái “vốn”, cái “tài
sản” của bản thân. Học tập như vậy giúp sự hiểu biết của các em được vững
chắc hơn, hứng thú học tập của các em được tăng cường hơn.
- Khi dạy học, hoạt động tư duy của học sinh được khơi dậy, phát triển và
coi trọng. Đó chính là dạy học phát huy tính tích cực của học sinh.
Quá trình dạy học trên lớp, thể hiện mối quan hệ giữa cá nhân với tập thể.
Cổ nhân ta đã có câu “Học thầy không tày học bạn”. Chính vì thế, học sinh có
thể chia sẻ kết quả học tập với các bạn khác, như :
- Trao đổi với bạn để kiểm tra xem sự hiểu biết của mình (đúng/sai, đầy
đủ/thiếu sót, …)
- Đặt câu hỏi với bạn để xem những suy nghĩ của mình, những hiểu biết
của mình có giống bạn không.
- Điều chỉnh, chỉnh sửa những điều mình hiểu sai thông qua trao đổi, thảo
luận.
3.3. Giải pháp 3: Hình thức tổ chức dạy học phù hợp, linh hoạt.
Tổ chức dạy học dưới nhiều hình thức đảm bảo phù hợp và linh hoạt
mang tính chất quyết định đến chất lượng dạy và học.
6


Sự phối kết hợp các hình thức tổ chức lớp học khác nhau tạo nên sự mềm
dẻo, linh hoạt và sinh động cho quá trình dạy học. Quan trọng hơn, nó tạo điều
kiện cho giáo viên cá thể hóa việc dạy học, tạo cơ hội cho mọi học sinh đều
được tham gia vào hoạt động học tập, cách phối hợp với bạn bè trong công việc,
cách chủ động tự tin trình bày ý kiến cá nhân. Đối với việc dạy học Tiếng Việt,
phối hợp các hình thức tổ chức lớp học tạo môi trường thuận lợi cho việc giao
tiếp, cho việc rèn luyện 4 kĩ năng sử dụng Tiếng Việt. [1]
Bên cạnh đó việc thiết lập được mối quan hệ hợp tác tích cực, tốt đẹp giữa
thầy và trò, giữa các trò với nhau cũng sẽ tạo hứng thú cho học sinh. Hình thức

tổ chức dạy học hấp dẫn cùng với một bầu không khí thân ái hữu nghị trong giờ
học sẽ tạo ra sự hứng thú cho cả thầy và trò. Giáo viên Tiểu học phải có một
phẩm chất đặc biệt, biết cách cư xử đặc biệt với học sinh. Đó là thái độ nâng đỡ,
khích lệ, thông cảm, chú trọng vào mặt thành công của các em. Đó là khả năng
biết tự kiềm chế, khả năng đồng cảm với học sinh, khả năng làm việc kiên trì, tỉ
mỉ. Đó là khả năng biết tổ chức quá trình dạy học một cách nhẹ nhàng tự nhiên
không gây căng thẳng cho cho học sinh. Chúng ta phải thực sự hiểu học sinh của
mình, hình dung hết những khó khăn mà các em gặp phải trong học tập để có
cách giải quyết tốt nhất trước những sai sót của các em và có biện pháp phòng
ngừa.
Chú trọng vào mặt thành công, đề cao và tôn trọng sức sáng tạo của học
sinh. Việc chú trọng vào mặt thành công của học sinh, đòi hỏi chúng ta phải xây
dựng các nhiệm vụ dạy học sao cho đảm bảo để các em có những thành công
chắc chắn đầu tiên.
3.4. Giải pháp 4 : Hướng dẫn học sinh nhận diện đặc điểm loại văn tả cảnh.
Ở các bài hình thành kiến thức làm văn, tôi thường tiến hành hướng dẫn
học sinh nhận diện đặc điểm loại văn thông qua gợi ý nhận xét trong sách giáo
khoa. Các thao tác cần được thực hiện theo trình tự sau :
- Yêu cầu học sinh đọc mục nhận xét trong sách giáo khoa, khảo sát văn
bản để trả lời từng câu hỏi gợi ý.
- Hướng dẫn học sinh trao đổi, thảo luận nhằm rút ra những nhận xét về
đặc điểm loại văn tả cảnh (kiến thức cần ghi nhớ).
3.5. Giải pháp 5 : Giúp học sinh biết cách quan sát đối tượng miêu tả.
Muốn tả được trước hết các em phải biết quan sát được đối tượng miêu tả.
Do đó với mỗi bài tôi thường hướng dẫn học sinh cần quan sát tỉ mỉ (từng bộ
phận), theo trình tự hợp lí (từ ngoài vào trong, từ bộ phận chủ yếu đến các bộ
phận thứ yếu,... ), hoặc sự thay đổi của cảnh theo thời gian (sáng, trưa, chiều,
tối). Hướng dẫn các em quan sát bằng nhiều cách khác nhau (mắt nhìn, tai
nghe, ...). Chú ý phát hiện những đặc điểm riêng phân biệt đối tượng được tả với
những đối tượng khác cùng loại.

Khi làm bài văn tả cảnh phải có yếu tố tưởng tượng, nhưng bất kỳ một sự
tưởng tượng nào cũng đều bắt đầu từ thực tế nên hình ảnh được miêu tả phải có
tính chân thực, bắt đầu bằng sự quan sát, không tô đẹp quá, không bóp méo và
quá hư cấu. Muốn quan sát đạt kết quả thì giáo viên phải hướng cho học sinh khi
7


quan sát luôn biết cách chọn một điểm nhìn, một góc nhìn hợp lí. Từ đó sẽ đem
đến những sản phẩm quan sát với những hình ảnh khác nhau.
Cách nhìn, góc nhìn của học sinh khác với người lớn, của trẻ nông thôn
khác với trẻ thành phố. Góc nhìn, cách nhìn còn là quan điểm, thái độ của riêng
mỗi chủ thể, song cần phải hướng dẫn học sinh thể hiện nó bằng cách nhìn thẩm
mĩ, kết hợp nhiều giác quan.
Ví dụ : Dựa vào kết quả quan sát của mình, em hãy lập dàn ý bài văn
miêu tả một cảnh sông nước (một vùng biển, một dòng sông, một con suối hay
một hồ nước).
Đối với đề bài này, giáo viên hướng dẫn học sinh quan sát bằng các giác
quan :
- Quan sát bằng thị giác :
+ Ánh nắng ban mai, sương sớm, mặt nước, bãi ngô, bãi dâu, bãi mía, lũy tre
xanh rì, người đi thăm bãi ... (Nếu học sinh quan sát vào buổi sáng sớm).
+ Ánh nắng lúc hoàng hôn, mặt nước, con người, con vật trên sông như : Mấy
đứa trẻ thả trâu bò tắm mát ; bãi ngô, bãi dâu, bãi mía, lũy tre xanh rì, ... (Nếu
học sinh quan sát vào buổi chiều lúc hoàng hôn).
- Tri giác bằng thính giác : Tiếng chim hót trên rặng tre, cây gạo, tiếng
người nói chuyện khi đi làm bãi, tiếng gió thổi, ...
- Tri giác bằng khứu giác : Mùi của đất phù xa bãi bồi trên sông, mùi ngọt
của những bãi mía, bãi ngô, ...
Giáo viên hướng dẫn các em học cách quan sát của các nhà văn, từ những
hình ảnh thân quen hằng ngày, cách quan sát từ bên ngoài và từ bên trong để

đoạn văn miêu tả thêm sinh động, gợi cảm và gây được sự chú ý, cuốn hút người
nghe.
Quan sát phải gắn liền với so sánh và liên tưởng : Tìm ra những nét đồng
nhất, độc đáo của các sự vật gắn liền với tình yêu thái độ.
Đặc biệt quan trọng là quan sát là phải có sự lựa chọn, không nên thấy cái
gì tả cái đó mà phải biết chọn lọc chi tiết, tìm ra nét đặc biệt, nét chủ yếu của sự
vật, hiện tượng, tránh liệt kê, kể lể khô khan, vô hồn.
3.6. Giải pháp 6 : Hướng dẫn học sinh sử dụng dấu câu trong đoạn văn.
Hiện nay, hiện tượng học sinh không sử dụng hoặc ít sử dụng dấu câu
trong bài viết xảy ra không ít. Hiện tượng này chứng tỏ học sinh chỉ quan tâm
đến nội dung bài viết mà không nhận thức rõ tầm quan trọng của dấu câu, khiến
việc không dùng dấu câu khi tạo lập đoạn văn, bài văn đã trở thành thói quen ở
các em.
* Sử dụng dấu câu tùy tiện, nhiều sai sót : Hiện tượng học sinh thiếu ý
thức trong việc sử dụng dấu câu dẫn đến sai sót về dấu câu trong bài viết cũng
khá phổ biến. Đó là những trường hợp bài viết của các em sử dụng thiếu hoặc
thừa dấu câu. Nhiều bài làm của học sinh chỉ sử dụng dấu câu để kết thúc mà
không sử dụng loại dấu câu khác trong câu, khiến cho các ý diễn đạt kém mạch
lạc. Ngược lại, có những trường hợp, đã sử dụng từ ngữ liên kết các thành phần
câu nhưng các em vẫn đánh dấu câu trước hoặc sau các từ nối đó. Đặc biệt,
8


trong các bài viết của các em còn có hiện tượng sử dụng dấu câu mang tính chất
ngẫu hứng, không theo quy tắc nào và không đúng với chức năng của chúng.
Đoạn văn dưới đây của học sinh là một ví dụ :
Các bác nông dân lại bận rộn với việc ra đồng, nào là, cắt lúa, bó lúa, ôm
lúa. Đến trưa, thì xe lúa trở về nhà. Mấy cu cậu, được ngồi trên xe, thì ngất
ngưỡng thổi sáo, vui tươi ,... [6]
Các hiện tượng sử dụng dấu câu có nhiều sai sót nêu trên cho thấy học sinh

đã có ý thức phải sử dụng dấu câu khi viết xong các em chưa hiểu đúng vai trò,
chức năng, tác dụng của dấu câu nên đã mắc các lỗi đáng tiếc.
* Sử dụng dấu câu đơn diệu : Hiện tượng bài viết của học sinh chỉ sử
dụng hai loại dấu câu (dấu chấm, dấu phẩy) rất phổ biến. Thực tế cho thấy loại
dấu học sinh hay dùng sai là dấu phẩy và dấu chấm.
Các lỗi học sinh thường mắc phải khi sử dụng dấu phẩy là :
- Không sử dấu phẩy để tách trạng ngữ với nòng cốt câu.
Ví dụ : Sáng nay trên cánh đồng các bác nông dân đang nhanh tay gặt lúa.
- Không dùng dấu phẩy để tách các vế câu, các bộ phận đẳng lập hay đồng
chức với nhau.
- Sử dụng dấu phẩy thay cho dấu chấm (với chức năng của dấu chấm).
- Dấu phẩy đặt lung tung không theo nguyên tắc nào.
Các loại lỗi học sinh thường mắc phải khi sử dụng dấu chấm là :
- Không biết chấm câu khi kết thúc câu.
- Sử dụng dấu chấm thay cho dấu chấm hỏi hoặc dấu chấm than.
Ví dụ : Bác Điền ơi. Lúa vụ này được mùa không ạ.
- Đặt dấu chấm tùy tiện.
Bên cạnh các loại lỗi về dấu câu nói trên, học sinh lớp tôi còn mắc một
hạn chế nữa trong việc sử dụng dấu câu, đó là : chưa phát huy thế mạnh của dấu
câu trong văn viết. Khi tạo lập bài văn học sinh chủ yếu tập trung tìm ý, diễn đạt
ý bằng lời văn mà chưa có ý thức phát huy tác dụng của dấu câu trong việc nâng
cao hiệu quả biểu đạt của văn viết.
Như vậy dấu câu có chức năng rất quan trọng trong việc tạo câu và biểu
hiện ý nghĩa , ngữ điệu của câu. Chính vì thế mà người giáo viên cần hướng dẫn
để học sinh hiểu và biết sử dụng dấu câu cho đúng, cho thành thạo để câu văn,
đoạn văn liên kết với nhau một cách chặt chẽ, lô gic. Bài văn sẽ mượt mà và hay
hơn.
3.7. Giải pháp 7 : Giúp học sinh viết thêm thành phần phụ (trạng ngữ) cho
câu.
Hiện nay không ít học sinh khi viết văn không sử dụng hoặc ít sử dụng

đến trạng ngữ, như vậy câu văn sẽ không hay, tạo cảm giác khô cứng và hơn nữa
nhất là thể loại văn tả cảnh lại cần đến trạng ngữ rất nhiều. Do vậy mà trong quá
trình dạy, người giáo viên cần giúp học sinh hiểu rõ trạng ngữ và biết sử dụng
trạng ngữ trong câu cho đúng, hợp lí.
Trong câu, trạng ngữ có khi đứng đầu câu, có khi đứng ở cuối, cũng có
khi xen vào giữa chủ ngữ và vị ngữ.
9


Ví dụ 1 : Sáng nay, bác Dung đánh trâu ra đồng thật sớm. (trạng ngữ ở đầu
câu)
Ví dụ 2 : Mặt trời mọc ở đằng đông. ( trạng ngữ ở cuối câu)
Ví dụ 3 : Làng tôi năm nay được mùa to. (trạng ngữ ở giữa câu)
3.8. Giải pháp 8 : Hướng dẫn học sinh sử dụng từ ngữ và phép tu từ so sánh,
nhân hóa trong bài văn miêu tả cảnh.
- Như chúng ta đã biết vốn từ ngữ của các em còn nghèo nàn nên việc
cung cấp cũng như hướng dẫn các em cách sử dụng từ ngữ để miêu tả là rất quan
trọng. Bởi vậy giáo viên cần giúp học sinh tích lũy vốn từ từ nhiều nguồn: trong
giao tiếp hàng ngày ; qua đọc sách, báo ; qua xem ti vi, nghe đài ; trao đổi với
bạn bè ; thầy cô giáo cung cấp…
Những từ ngữ sẽ được các em tích lũy và ghi lại mỗi ngày một ít, (có thể
là một từ, hai từ/ngày) ngay trong góc Tiếng việt được trình bày và trang trí rất
đẹp ở cuối lớp.
Ví dụ : + Các từ dùng để miêu tả cây cối: xanh mướt, xanh rì, xanh mơn mởn,
xanh non, xanh lá mạ, xanh biếc, xanh lục, …. rung rinh, um tùm, sum suê,
khẳng khiu, rực rỡ, mỡ màng, vàng úa, xơ xác, trơ trụi, lác đác, xào xạc,…
+ Các từ ngữ dùng để miêu tả âm thanh: vi vu, ầm ầm, đì đùng, xoèn
xoẹt, lách cách, cót két, phành phạch, râm ran, ríu rít, rào rào, tí tách , lách tách,
lẹt đẹt, đồm độp, loong boong, loảng xoảng,…
Ví dụ : Mưa đến rồi, lẹt đẹt…lẹt đẹt .. mưa giáo đầu. Những giọt nước lăn

xuống mái phên nứa : mưa thực rồi. Mưa ù xuống khiến cho mọi người không
tưởng được là mưa lại kéo đến chóng thế. Lúc nãy là mấy giọt lách tách, bây
giờ bao nhiêu nước tuôn rào rào. Nước xiên xuống, lao xuống, lao vào trong bụi
cây. Lá đào, lá na, lá sói vẫy tai run rẩy. Con gà trống ướt lướt thướt ngật
ngưỡng tìm chỗ trú. Mưa xuống sầm sập, giọt ngã, giọt bay, bụi nước tỏa trắng
xóa…Mưa đồm độp trên phên nứa, đập bùng bùng vào lòng lá chuối. Tiếng giọt
tranh đổ ồ ồ … [3]
(Tiếng việt 5, tập 1, trang 31)
+ Các từ dùng để tả mùi vị: thơm thoang thoảng, ngòn ngọt, chan chát,
nồng nồng, cay xè, ngai ngái, hăng hắc, dìu dịu, ngào ngạt, sực nức, ngọt mát,…
- Cách vận dụng linh hoạt, phù hợp với các biện pháp tu từ như : so sánh,
nhân hóa, ẩn dụ, hoán dụ, ... khi viết văn miêu tả góp phần tạo nên sự hòa đồng ,
vừa dễ nhận thấy vừa giàu cảm xúc gợi cảm, vừa gần gũi, vừa gợi tả.
Chẳng hạn, khi tả trăng ta có thể so sánh với những sự vật như con
thuyền, cánh diều, quả bóng, cái đĩa, … Tả chiếc lá bàng ta có thể so sánh với
cái quạt, chiếc bánh đa, … Hay khi tả những chùm hoa phượng ta có thể so sánh
với những đốm lửa hồng bập bùng ; tả những quả bàng xanh tại sao ta lại không
so sánh với những chú rùa con bé xíu … Hay trong bài “Sắc màu em yêu ” (tác
giả Phạm Đình Ân) sử dụng so sánh rất hay :
“Em yêu màu vàng : Lúa đồng chín rộ - Hoa cúc mùa thu - Nắng trời rực rỡ.
Em yêu màu trắng : Trang giấy tuổi thơ, Đóa hoa hồng bạch, Mái tóc của
bà”…
10


Trong bài văn miêu tả cảnh cần hướng dẫn học sinh sử dụng linh hoạt
phép tu từ nhân nhân hóa thì bài văn sẽ hay và vô cùng độc đáo.[5]
Ví dụ : Con gà nào cất lên một tiếng gáy. Và ở góc vườn, tiếng cục tác
làm nắng trưa thêm oi ả, ngột ngạt. Không một tiếng chim, không một sợi gió.
Cây chuối cũng ngủ, tàu lá lặng đi như thiếp vào trong nắng. Đường làng vắng

ngắt. Bóng tre, bóng duối cũng lặng im.[3]
(Theo Băng Sơn - Tiếng Việt 5, tập 1, trang 13)
Sử dụng ngôn ngữ giàu tính văn chương trên cơ sở biết sử dụng các lớp
từ : Tính từ, từ láy, từ tượng thanh, từ tượng hình, ... Từ một màu xanh, màu đỏ,
màu vàng ...đều có thể thể hiện bằng hàng trăm cách khác nhau để tạo nên các
gam màu có cung bậc khác nhau giúp hình ảnh miêu tả thêm phong phú, giàu
chất văn.
Ví dụ : Thảo quả chín dần. Dưới đáy rừng, tựa như đột ngột, bỗng rực
lên những chùm thảo quả đỏ chon chót, bóng bẩy như chứa lửa, chứa nắng ...
[3]
(theo Ma Văn Kháng – Tiếng Việt 5, tập 1, trang 114)
Ngoài ra, còn có những “bí quyết” khác dùng để viết văn tả cảnh hay nữa
đó là sử dụng từ đồng nghĩa để tả. Nó giúp ta miêu tả chính xác, cụ thể biểu hiện
muôn màu, muôn vẻ của sự vật, hiện tượng. Trong bài “Quang cảnh ngày mùa”
(SGK TV5 tập 1 trang 10) của nhà văn Tô Hoài đã sử dụng từ đồng nghĩa vô
cùng đặc sắc và hấp dẫn.
Dưới ngòi bút tài hoa của nhà văn, các sự vật, hiện tượng trở nên sinh
động. Tác giả miêu tả một cảnh vật rất quen thuộc với mọi người; quang cảnh
làng mạc ngày mùa. Nhưng người đọc không hề thấy khô khan, tẻ nhạt. Vì sao
vậy? Đó là bởi tài quan sát và nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ, đặc biệt là sử dụng
từ đồng nghĩa chỉ màu sắc để tả. Trong bài văn, chỉ riêng về màu vàng thôi đã
có hơn mười sắc độ khác nhau dành cho từng sự vật.
Lúa chín :
vàng xuộm
Nắng nhạt :
vàng hoe
Quả xoan :
vàng lịm
Lá mít :
vàng ối

Tàu đu đủ , lá sắn héo : vàng tươi
Buồng chuối :
chín vàng
Tàu lá chuối :
vàng ối
Bụi mía :
vàng xọng
Rơm và thóc :
vàng giòn
Con gà , con chó :
vàng mượt
Màu rơm :
vàng mới.
Như vậy, nhờ sử dụng từ đồng nghĩa để miêu tả mà không cần nhiều câu
chữ, nhà văn Tô Hoài đã vẽ lên trước mắt người đọc một bức tranh phong cảnh
thật đẹp, toàn màu vàng - màu đặc trưng của mùa gặt.

11


Một mẹo nữa của làm văn tả cảnh đó là chuyển kể thành tả : Làm văn
miêu tả là phải quan sát như đã nói. Nhưng khi làm bài, các em thường kể lại
chứ không phải là tả, làm cho bài văn khô khan, nhạt nhẽo.
Ví dụ: - Quanh thân cây có rất nhiều quả.
- Trên cánh đồng, em trông thấy rất nhiều người đang gặt lúa.
- Buổi sáng, em nghe thấy tiếng chích chòe trong vắt. v.v..[6]
Những câu văn như trên nặng về kể. Vậy chúng ta có thể diễn đạt lại như
sau:
- Quanh thân cây, chi chít những quả là quả.
- Trên cánh đồng, các bác nông dân cắt lúa nhanh thoăn thoắt.

- Buổi sáng, tiếng chích chòe trong vắt.
Đây mới chính là những câu văn miêu tả.
Như vậy, khi viết các em chỉ cần bỏ bớt những cụm từ như: nó có, em
trông thấy, nghe thấy, ngửi thấy, sờ thấy, nghĩ rằng, .v.v.. rồi thêm vào những từ
láy, tính từ gợi tả, câu văn sẽ nhẹ nhàng, sinh động; đối tượng được miêu tả sẽ
trực tiếp hiện ra.
Tóm lại cách dùng từ, chọn biện pháp tu từ để diễn đạt cũng phải theo cách
nghĩ, cách nhìn của chính các em. mỗi em đều có cuộc sống riêng, hoàn cảnh
riêng, cách cảm nhận và thể hiện riêng, tránh gò ép, khuôn mẫu.
3.9. Giải pháp 9 : Giúp học sinh biết kết hợp tưởng tượng và liên tưởng.
Tưởng tượng trong văn miêu tả nói chung, văn tả cảnh nói riêng đóng vai
trò đặc biệt quan trọng. Có tưởng tượng mới có hình ảnh hoàn chỉnh về đối
tượng miêu tả. Nhờ tưởng tượng mà những hình ảnh, màu sắc âm thanh đều có
thể hiện lên trước mắt một cách sống động. Nhờ tưởng tượng mà học sinh sẽ
cảm nhận được đối tượng miêu tả bằng tình cảm, tình yêu của chính mình đối
với cảnh sẽ tả. Tưởng tượng làm cho đối tượng được miêu tả hoàn thiện hơn,
đẹp hơn, sống động hơn và gần gũi với con người hơn. Vậy tưởng tượng thế
nào?
- Không trực tiếp quan sát mà tập trung tất cả các giác quan vào đối tượng.
- Nhắm mắt, hình dung về đối tượng : hình ảnh, hoạt động của đối tượng, những
ảnh hưởng tác động của đối tượng đến sự vật xung quanh.[2]
Muốn phát triển được trí tưởng tượng, liên tưởng cho học sinh, giáo viên
cần phải hướng cho học sinh nắm được thực tế, có nội tâm phong phú, có trí tuệ
tốt. Biết thể hiện cá tính và cách nhìn riêng của mình.
Yêu cầu đối với học sinh lớp 5 là hơi khó khăn vì đây là tư duy hoạt động
ở mức độ cao cho nên để phát huy được kĩ này ở học sinh, giáo viên cần giúp
học sinh tiếp cận dần dần, thực hiện từng bước.
Giáo viên cần lấy nhiều ví dụ ở các bài văn, bài tập đọc (ngay trong
chương trình đã học) để học sinh thấy rõ và hiểu thấu đáo về cách tưởng tượng.
Ví dụ : Khi miêu tả một cái cây, một dòng sông mà ai cũng miêu tả giống nhau

thì không ai thích đọc. Vì vậy ngay trong quan sát để miêu tả người viết phải tìm
ra cái mới, cái riêng. Nhìn một bầu trời đầy sao, Huy-gô thấy nó giống như một
cánh đồng lúa chín, ở đó người gặt đã bỏ quên lại một cái liềm con là vành trăng
12


non. Mai-a-cốp-xki thì lại thấy những ngôi sao kia như những giọt nước mắt của
người da đen. Còn với Ga-ga-rin thì những vì sao là những hạt giống mới mà
loài người vừa gieo vào vũ trụ. Ba hình ảnh cánh đồng lúa chín, những giọt nước
mắt, những hạt thóc giống mới rất khác nhau, nhưng đều đúng và đều hay. Và
rất riêng, rất mới.
Học sinh học theo cách tưởng tượng để biến thành của mình, viết thành
đoạn văn theo yêu cầu nhất định của giáo viên. Giáo viên giúp đỡ học sinh,
hướng dẫn học sinh thực hành cho quen và vận dụng có hiệu quả.
3.10. Giải pháp 10: Giúp học sinh biết cách thể hiện tình cảm, cảm xúc.
Khi làm bài văn miêu tả, người viết cần bộc lộ tình cảm, cảm xúc, có như
vậy, bài văn mới có hồn. Nhờ có cái hồn nên hình ảnh miêu tả trở nên sống
động, đi sâu vào tâm hồn người đọc. Tuy nhiên, tình cảm, cảm xúc phải chân
thành, không sáo rỗng, gượng ép thì mới lay động và chiếm được cảm tình của
người đọc.
Ví dụ : Gió tây lướt thướt bay qua rừng, quyến hương thảo quả đi, rải
theo triền núi, đưa hương thảo quả ngọt lựng, thơm nồng vào những thôn xóm
Chin San. Gió thơm. Cây cỏ thơm. Đất trời thơm. Người đi rừng thảo quả về,
hương thơm đậm ủ ấp trong từng nếp áo, nếp khăn.[3]
3.11. Giải pháp 11 : Lựa chọn và sắp xếp ý để miêu tả, trình bày một bài văn
hoàn chỉnh.
a. Lựa chọn và sắp xếp ý để miêu tả :
Chọn được những nét nổi bật của đối tượng để miêu tả rõ ràng, đầy đủ.
Sắp xếp ý một cách hợp lí theo ba phần của của bài văn miêu tả.
- Mở bài: Giới thiệu bao quát về cảnh sẽ tả. (cảnh vật đó ở đâu? Em tả nó vào

lúc nào? Nét nổi bật nhất của cảnh vật đó là gì?)
- Thân bài: Tả từng phần của cảnh hoặc sự thay đổi của cảnh theo thời gian.
Lưu ý : Có thể tả nhiều bộ phận (đồ vật, cây cối, con vật,..) nhưng không coi đó
là chủ yếu mà cần làm nổi bật cảnh cần tả do đề bài yêu cầu. (Ví dụ : cảnh vườn
cây hoặc công viên, cánh đồng, ngôi nhà, đường phố, …)
- Kết bài : Nêu nhận xét hoặc cảm nghĩ (ấn tượng) về đối tượng miêu tả theo
cách mở rộng hoặc không mở rộng .[4]
Ví dụ : Quan sát trường em. Từ những điều đã quan sát được, lập dàn ý
cho bài văn miêu tả ngôi trường.
- Mở bài : Giới thiệu bao quát:
+ Trường nằm trên một khoảng đất rộng.
+ Ngôi trường nổi bật với mái tôn đỏ, tường vôi trắng, những hàng cây
xanh bao quanh.
- Thân bài : Tả từng phần của cảnh trường :
1. Sân trường :
+ Sân xi măng rộng ; giữa sân là cột cờ ; trên sân có một số cây bàng,
phượng, cây bàng tỏa bóng mát.
+ Hoạt động vào giờ chào cờ, giờ chơi.
2. Lớp học :
13


+ Tòa nhà hai tầng khanh trang, thoáng mát, dựa lưng vào đồi cây.
+ Các lớp học thoáng mát, có quạt trần, đèn điện, tủ đựng đồ dùng của
giáo viên và học sinh. Lớp học được trang trí tranh, ảnh màu do học sinh tự vẽ,
sưu tầm.
3. Phòng Đội, phòng thư viện nằm ở dày nhà đối diện văn phòng : Là nơi
lưu giữ hàng ngàn tri thức dành cho chúng em …
4. Vườn trường :
+ Cây trong vườn, trong bồn hoa của từng vị trí lớp được phân công.

+ Hoạt động chăm sóc vườn trường.
- Kết bài:
+ Trường học của em mỗi ngày một đẹp hơn nhờ sự quan tâm của các
thầy cô và chính quyền địa phương.
+ Em rất yêu quý và tự hào về trường em.
b. Dựng đoạn và viết bài văn miêu tả :
- Mỗi đoạn văn miêu tả có một nội dung nhất định (giới thiệu hay tả bao
quát về đối tượng, tả từng bộ phận hay từng mặt của đối tượng, bộc lộ tình cảm,
thái độ của người viết về đối tượng miêu tả, ...).
- Khi viết, hết mỗi đoạn văn cần xuống dòng. Bài văn phải đầy đủ 3
phần : Mở bài, Thân bài, Kết bài. Lời văn miêu tả cần chân thực, giàu hình ảnh
và cảm xúc (thường dùng nhiều từ ngữ gợi tả, gợi cảm và sử dụng các biện pháp
liên tưởng, so sánh thích hợp).
Lưu ý về diễn đạt : Thường dùng nhiều từ ngữ gợi tả hình dạng, đặc điểm;
có thể so sánh, nhân hóa làm cho cảnh vật được miêu tả thêm sinh động ; cần
bộc lộ cảm xúc trước sự vật được miêu tả.
3.12. Giải pháp 12 : Thực hiện nghiêm túc, có chất lượng tiết trả bài tập làm
văn.
Tiết trả bài tập làm văn giúp các em sửa chữa lỗi, rút kinh nghiệm cho bài
viết lần sau và học tập các bạn những cách viết hay để vận dụng vào các bài văn.
Để tiết trả bài văn đạt hiệu quả cao, giáo viên cần lưu ý những điểm sau :
Một là: Giáo viên giúp học sinh xác định lại yêu cầu của đề bài để tự đối
chiếu với kết quả bài viết xem đã thực hiện được đến đâu:
- Nêu rõ ưu điểm, khuyết điểm trong bài làm của học sinh (dẫn chứng cụ
thể) kết hợp nhận xét về chữ viết, cách trình bày bài, công bố kết quả điểm số và
biểu dương những học sinh có bài làm tốt, bài làm có tiến bộ, …
Lưu ý : Nếu cần minh họa bằng các câu, đoạn, bài của học sinh, giáo viên
chỉ nói tên học sinh đáng biểu dương, không nêu tên học sinh có bài viết chưa
đạt yêu cầu.
Hai là: Hướng dẫn học sinh chữa bài: Căn cứ vào kết quả bài làm của học

sinh, giáo viên hướng dẫn học sinh chữa bài theo cách sau :
- Nhận xét cụ thể về bố cục bài làm của học sinh theo ba phần : Mở bài,
Thân bài, Kết bài.

14


- Hướng dẫn chữa lỗi về : Mở bài - Kết bài (theo cách đã học), về Thân
bài (sắp xếp ý theo một trình tự hợp lí) ; lựa chọn một vài lỗi phổ biến về dùng
từ, đặt câu, chính tả để chữa chung ở lớp.
- Trả bài làm cho học sinh, yêu cầu học sinh đọc tầm lại toàn bộ bài làm,
lời nhận xét chung và những chỗ giáo viên đã đánh dấu ; sau đó tổ chức cho học
sinh tiến hành tự chữa lỗi cá nhân và trao đổi bài với bạn để cùng kiểm tra, chia
sẻ linh nghiệm , ...
Lưu ý : Giáo viên cần căn cứ vào thực tế bài làm của học sinh để lựa chọn
nội dung chữa lỗi chung trước lớp, tập chung chữa những lỗi nhiều học sinh
thường mắc, đồng thời chú ý sửa cách diễn đạt cho học sinh, tránh chữa lỗi một
cách máy móc, phiến diện.
Bai là : Hướng dẫn học sinh học tập cách viết văn hay :
- Đọc cho học sinh nghe đoạn văn, bài văn hay của học sinh trong lớp
(hoặc lớp khác, năm học trước, ...do giáo viên sưu tầm được).
- Gợi ý học sinh nhận xét, trao đổi để học tập những thành công trong bài
làm của bạn (về bố cục, sắp xếp ý diễn đạt, dùng từ, đặt câu, sử dụng biện pháp
liên tưởng, so sánh hay nhân hóa, ...)
Bốn là : Hướng dẫn học sinh chọn viết lại một đoạn văn trong bài làm cho
tốt hơn :
Tùy vào thời gian cho phép, giáo viên có thể hướng dẫn học sinh thực
hiện yêu cầu này tại lớp hoặc luyện tập thêm vào buổi chiều để nâng cao kĩ năng
viết văn. Đoạn văn học sinh chọn viết lại có thể là : Đoạn văn còn mắc nhiều lỗi
(lỗi chính tả, lỗi dùng từ, đặt câu, ...), đoạn viết chưa hay, đoạn văn có thể viết

viết theo cách khác. (Ví dụ : mở bài trực tiếp trở thành mở bài gián tiếp, chuyển
từ cách tả riêng rẽ : từ hoạt động sang cách tả kết hợp đan xen, ...). Sau khi học
sinh viết lại, giáo viên hướng dẫn các em so sánh để thấy được sự tiến bộ và tự
rút kinh nghiệm về cách làm bài.
So với các tiết dạy khác, tiết trả bài văn cần được giáo viên chuẩn bị công
phu từ khi chấm bài. (thống kê các loại lỗi để tìm ra lỗi phổ biến, ghi chép tư
liệu phục vụ cho việc nhận xét và hướng dẫn chữa lỗi, ...) Đến khâu soạn giáo án
(căn cứ vào thực tế bài làm của học sinh để chọn nội dung, cách tiến hành trả
bài), cuối cùng là tổ chức các hoạt động dạy học trên lớp. Giáo viên chấm bài
cẩn thận, hướng dẫn học sinh chữa lỗi, học tập cách viết văn hay sẽ giúp trẻ phát
triển các kĩ năng làm văn, đồng thời góp phần hình thành cho các em ý thức
trách nhiệm, lòng tự trọng đối với sản phẩm tinh thần do mình làm ra.
3.13. Giải pháp 13 : Vận dụng đánh giá bài làm của học sinh theo Thông tư
số 22/2016/TT – BGD& ĐT ( Đánh giá vì sự tiến bộ của học sinh ; coi trọng
việc động viên, khuyến khích sự cố gắng trong học tập và rèn luyện của học
sinh, giúp học sinh phát huy tất cả các khả năng viết văn của mình.)
Trong mỗi tiết học tôi thường quan tâm , uốn nắn , quan sát, theo dõi,
kiểm tra quá trình học tập của học sinh trên lớp để nhận xét học sinh bằng lời
nói trực tiếp hoặc viết nhận xét vào phiếu, vở của học sinh về những kết quả đã
làm được hoặc chưa làm được để động viên, khích lệ, giúp học sinh khắc phục
15


khó khăn,phát huy ưu điểm và các năng lực riêng, điều chỉnh hoạt động dần dần
tiến bộ. Với cách làm trên các em rất hăng say phát biểu ý kiến, tự trao đổi và
góp ý cho nhau để cùng nhau học tốt hơn. Nhiều em rất hứng thú học môn Tập
làm văn, kết quả làm bài của các em được nâng lên rõ rệt. Khi nhận xét bài làm
của các em tôi đặc biệt quan tâm động viên, khích lệ, biểu dương, khen ngợi kịp
thời những em làm tốt, tiến bộ, vì thế các em rất tự tin vươn lên, học tập ngày
càng tiến bộ.

Ví dụ : - Những em có bài viết tốt tôi nhận xét vào vở của em ấy như
sau : « Bài làm tốt, bố cục, nội dung đầy đủ, câu văn hay, giàu hình ảnh. Cô
khen em. »...
- Những em bài làm chỉ đạt ở mức chưa hoàn thành tôi có thể nhận xét
như sau : « Em trình bày bài chưa khoa học, nội dung còn sơ sài,... Em cần cố
gắng hơn nữa. »
4. Kết quả thực hiện:
Qua thực tế giảng dạy ở trường Tiểu học tôi nhận thấy việc sử dụng các
biÖn ph¸p ë trªn hết sức cần thiết và mang lại hiệu quả cao. Sau quá trình
thực hiện việc sử dụng Phương pháp trên trong dạy học Tập làm văn ở lớp 5 kết
quả học tập của học sinh cũng nâng cao rõ rệt. Tôi tiến hành cho học sinh làm
bài kiểm tra thực nghiệm.
Đề bài: Em hãy tả con đường quen thuộc từ nhà em đến trường.
Trong tiết kiểm tra học sinh làm bài rất nghiêm túc, không trao đổi bàn luận,
không sử dụng tài liệu và đạt được kết quả cụ thể như sau:
Hoàn thành tốt

Hoàn thành

Chưa hoàn thành

Lớp

Sĩ số

SL

%

SL


%

SL

%

5A

25

7

28

18

72

0

0

- 100 % học sinh biết trình bày bài văn có bố cục rõ ràng; đúng yêu cầu đề bài.
- 100% học sinh hoàn thành bài viết, không có bài chưa đạt yêu cầu.
- Các em đã biết phối hợp miêu tả vừa đảm bảo tính chân thực, vừa mang tính
nghệ thuật. Bài viết của các em sinh động hơn và giàu hình ảnh hơn.
- Nhiều em đã tiến bộ rõ rệt, các em đã biết viết văn tả cảnh giàu hình ảnh, giàu
cảm xúc, đặc biệt nhiều em đã biết sử dụng các biện pháp nghệ thuật như: Nhân
hóa, so sánh, dùng điệp từ, điệp ngữ…bài làm sinh động, cảm xúc chân thật.

Đọc bài viết của các em, người đọc đã hình dung được một cảnh vật cụ thể, có
đường nét, màu sắc. Mỗi bài văn tả cảnh của các em đã thể hiện được một bức
tranh sinh động với cảm xúc riêng của mỗi mình. Chẳng hạn như một số bài văn
của các em sau:
Bài làm số 1:
“Quê hương” hai tiếng ấy nghe mà gần gũi thân thương làm sao? Tuổi thơ ai
cũng có những kỉ niệm đẹp để mà nhớ, mà yêu quê hương. Tuổi thơ của em gắn
16


bó với cánh đồng thẳng cánh cò bay, dòng sông nước chảy hiền hào,…nhưng
gắn bó với em nhất vẫn là con đường từ nhà đến trường. Với em, con đường này
có biết bao kỉ niệm.
Đó là một con đường nhỏ được đổ bê tông thẳng tắp. Hai bên đường là hai
hàng cây xanh mát. Buổi sáng con đường rộn rã hẳn lên. Hình như tất cả bọn trẻ
trong xóm em đều có mặt trên đường. Chúng chia thành những nhóm nhỏ tung
tăng đến trường. Tiếng nói chuyện ríu rít xen lẫn tiếng cười vui vẻ làm con
đường rộn rã, tươi vui. Buổi trưa đường lạnh lùng ít được hỏi han. Lúc ấy, con
đường yên lặng như chìm trong giấc ngủ. Hai hàng cây đứng quạt cho con
đường càng thêm yên giấc. Trên cành, mấy chú chim sâu đang truyền cành và
bắt sâu phá hoại cây để hàng cây thêm xanh tốt. Những tia nắng li ti rải xuống
mặt đường trông như dát bạc. Những mái nhà nằm thấp thoáng dưới bóng cây
thưa. Từ mái nhà nào vọng ra tiếng ru em trầm bỗng. Tiếng võng đưa kẽo kẹt
giữa buổi trưa hè làm cho con đường làng càng thêm vẻ yên tĩnh lạ lùng.Chẳng
có ngày nào lũ trẻ chúng em không đặt bàn chân nhỏ bé của mình trên con
đường quen thuộc ấy . Bởi vậy mà con đường trở thành một người bạn thân thiết
với em.
Con đường tới trường đã khắc sâu vào trong tâm trí em. Mỗi buổi đến
trường,con đường đã để lại trong em bao kỉ niệm đẹp đẽ của tuổi học trò. Sau
này lớn lên dù đi đâu xa, em sẽ không thể quên hình ảnh con đường thân yêu đã

gắn bó với em suốt quãng đời học sinh.[6]
( Lưu Thị Tuyết Lan- Lớp 5A)
Bài làm số 2:
Quê hương em có rất nhiều cảnh đẹp nhưng cảnh đẹp gắn bó với em nhất vẫn
là con đường quen thuộc đã in dấu chân em mỗi buổi đến trường.
Ra khỏi ngõ nhà em là gặp ngay con đường làng quen thuộc. Con đường
xuyên qua làng được lát gạch phẳng lì, bao năm nay đã quen bước chân em tới
trường. Sáng sáng, khi ông mặt trời từ từ nhô lên khỏi rặng tre, con đường lại
sáng bừng lên và nhộn nhịp bước chân. Hình như tất cả bọn trẻ trong xóm em
đều đổ ra đường để đi học. Chúng em đi thành từng nhóm, tiếng nói cười vui vẻ
làm con đường trở nên nhộn nhịp. Hai bên đường những hành cây nối đuôi nhau
san sát, tỏa bóng mát rợp cả con đường. Những ngôi nhà mái ngói đỏ tươi, lấp ló
sau những hàng cây xanh tốt. Đi hết con đường là đến con đường liên thôn của
xã. Con đường này chạy xuyên qua cánh đồng lúa quê em. Mỗi buổi sáng đi trên
con đường này, em lại được tận hưởng mùi hương lúa ngọt ngào cùng với làn
gió mát rượi từ cánh đồng đưa lên. Xa xa phía cuối con đường, em đãtrông thấy
ngôi trường lợp mái ngói đỏ tươi, lấp ló sau tán lá xanh của cây phượng vĩ.
Tiếng trống trường đã vang lên. Em vội vã rảo bước nhanh cho kịp giờ học,
trong lòng cảm thấy vui vui.
Em rất yêu con đường. Hằng ngày, em đi trên con đường này. Có lẽ vì vậy
mà em và nó trở thành đôi bạn thân thiết. Sau này lớn lên, dù có đi xa, được đi
17


trên con đường đẹp hơn nhưng hình ảnh con đường làng quê vẫn in đậm mãi
mãi trong kí ức của em, bởi vì nó đã nâng từng bước đi lẫm chẫm đầu tin của
đời em. [6]
( Hoàng Thị Bích Ngọc – Lớp 5A )

III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

1. Kết luận chung:
Từ thực tiễn dạy học phân môn Tập làm văn lớp 5, từ việc nghiên cứu để
đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy - học dạng bài văn tả
cảnh cho học sinh lớp 5, tôi nhận thấy:
Văn miêu tả là thể loại dùng lời nói có hình ảnh và có cảm xúc làm cho
người nghe, người đọc hình dung một cách rõ nét, cụ thể về người, vật, cảnh vật,
sự việc như vốn có trong đời sống. Vì vậy để giúp học sinh làm tốt kiểu bài này
đòi hỏi giáo viên phải nắm vững đặc trưng các kiểu bài để hướng dẫn gợi ý dẫn
dắt cho học sinh hiểu chắc các kiểu bài ấy tự tìm tòi, khám phá, biết sử dụng
biện pháp tu từ, biết liên tưởng để nói, viết những điều các em quan sát, hiểu và
cảm nhận được. Từ đó uốn nắn định hướng cho các em phát huy sáng tạo những
suy nghĩ độc đáo của mình và khắc phục nhược điểm còn vướng mắc phải để
chất lượng làm bài của các em ngày được nâng cao hơn, để bài văn viết sinh
động lôi cuốn người đọc hơn.
Tóm lại phương pháp giảng dạy của giáo viên có tác động và ảnh hưởng
rất lớn đến chất lượng bài văn nói chung và văn miêu tả nói riêng của học sinh.
Bởi vậy, đổi mới phương pháp dạy học nói chung hiện nay và phân môn Tập
làm văn cho học sinh lớp 5 nói riêng là một yêu cầu rất cần thiết.
2. Kiến nghị, đề xuất:
2. 1. Đối với các cấp lãnh đạo:
- Thường xuyên tổ chức các buổi sinh hoạt chuyên đề, bồi dưỡng nâng
cao trình độ cho giáo viên.
- Tổ chức sinh hoạt chuyên môn và đổi mới phương pháp dạy học để tập
thể giáo viên nêu ra những ý kiến đóng góp cho phù hợp với nội dung và
phương pháp học.
- Tạo điều kiện thuận lợi về cơ sở vật chất, phương tiện dạy học để góp
phần nâng cao về chất lượng giảng dạy.
2. 2. Đối với giáo viên:
- Không ngừng học hỏi nâng cao trình độ chuyên môn cho bản thân.
- Soạn bài một cách chu đáo, kỹ lưỡng, chuẩn bị nội dung các câu hỏi sao

cho lôgíc và có hệ thống nhằm dẫn dắt phù hợp đúng trình tự của bài dạy.
- Cần biết phối hợp một cách linh hoạt các hình thức phương pháp dạy
học nhằm gây hứng thú cho học sinh.
- Giáo viên phải xác định yêu cầu dạy học phù hợp đối tượng, phù hợp
với tâm sinh lí của học sinh tiểu học. Dạy Tập làm văn cần chú trọng nhiệm vụ,
rèn luyện kĩ năng viết câu văn sinh động, giàu hình ảnh. Tổ chức các hoạt động
học tập tích cực. Trong quá trình giảng dạy cần đa dạng hóa các hoạt động học
18


tp gõy s hng thỳ trong hc tp ca mi hc sinh. Mun vy, ngi giỏo
viờn phi cú s chun b chu ỏo trc khi lờn lp; phi nỗ lc sỏng to trong
sut quỏ trỡnh dy hc. Ch cú nghiờn cu v sỏng to mi cho giỏo viờn c
nhng gi dy vn t cnh mi m, sõu sc, sinh ng em li hiu qu cao.
Trờn õy l mt s kinh nghim c tụi rỳt ra t thc tin ca quỏ trỡnh
dy hc trong nhng nm qua, kt qu thu c tng i kh quan. Tụi rt
mong nhn c s úng gúp ý kin v b sung thờm ca cỏc ng nghip, của
hội đồng khoa học các cấp để sỏng kin kinh nghim trờn c hon
thin hn.
XC NHN CA PGD & T:

Xin chõn thnh cm n!
Thanh Húa, ngy 02 thỏng 06 nm 2017
TễI XIN CAM KT KHễNG COPY.

Ngi vit SKKN:

Lờ Th Thỳy.

19



TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hoàng Phê (chủ biên). Từ điển Tiếng Việt. NXB Từ điển bách khoa.
2. Lê Phương Nga và Đặng Kim Nga. Phương pháp dạy học Tiếng Việt ở
Tiểu học. NXB Đại học Sư phạm.
3. Nguyễn Minh Thuyết (chủ biên). 2011. Tiếng Việt 5 Tập 1, 2. NXB Giáo
dục Việt Nam.
4. Phạm Thị Thu Hà. Thiết kế bài giảng Tiếng Việt 5 Tập 1. NXB Hà Nội.
5. Trần Hòa Bình và Lê Hữu Tỉnh (Tuyển chọn và viết lời bình). 2000.
Những đoạn văn hay của học sinh Tiều học. NXB Giáo dục.
6. Vở viết TLV của các em HS lớp 5A.

20



×