Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

SKKN một số biện pháp tạo hứng thú học tập cho học sinh khi dạy kiểu bài tả cảnh trong phân môn tập làm văn lớp 5

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (167.92 KB, 22 trang )

1. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài
Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp quan trọng nhất của con người. Ngôn
ngữ là hiện thực trực tiếp của tư tưởng, là phương diện biểu hiện tâm trạng, tình
cảm. Chính vì vậy, Tiếng Việt giữ vai trò đặc biệt giữa các môn học trong nhà
trường. Mục tiêu của môn Tiếng Việt cấp Tiểu học là:
- Hình thành và phát triển ở HS các kĩ năng sử dụng tiếng Việt (đọc, viết,
nghe, nói) để học tập và giao tiếp trong các môi trường hoạt động của lứa tuổi.
Thông qua việc dạy và học tiếng Việt, góp phần rèn luyện các thao tác tư duy.
- Cung cấp cho học sinh những kiến thức sơ giản về tiếng Việt, về tự
nhiên, xã hội và con người; về văn hóa, văn học của Việt Nam và nước ngoài.
- Bồi dưỡng tình yêu Tiếng Việt và hình thành thói quen giữ gìn sự trong
sáng, giàu đẹp của tiếng Việt, góp phần hình thành nhân cách con người Việt
Nam xã hội chủ nghĩa cho học sinh.
Tập làm văn là sự nối tiếp một cách tự nhiên các bài học trong môn Tiếng
Việt, vừa mang tính chất thực hành toàn diện, tổng hợp và sáng tạo, vừa nhằm
giúp học sinh có một năng lực tạo lập văn bản. Nếu như các môn học và phân
môn khác của môn Tiếng việt cung cấp cho các em một hệ thống các kiến thức
kỹ năng thì phân môn Tập làm văn tạo điều kiện cho các em thể hiện các kiến
thức, các kỹ năng đã học một cách rõ ràng, linh hoạt, thực tế và có hệ thống hơn.
Việc dạy Tập làm văn ở bậc Tiểu học có một vị trí rất quan trọng.
Nội dung dạy học Tập làm văn ở tiểu học là trang bị kiến thức và rèn
luyện kĩ năng làm văn đồng thời mở rộng vốn sống, rèn luyện tư duy, bồi dưỡng
tâm hồn, cảm xúc thẩm mĩ, hình thành nhân cách cho học sinh. Nó tạo điều kiện
cho các em giao tiếp trong cuộc sống hàng ngày và học tập tốt các môn học
khác.. Chính những văn bản nói, viết các em có được theo các nghi thức lời nói,
thuyết trình ... đã thể hiện những hiểu biết thực tế, những kỹ năng sử dụng Tiếng
Việt mà các em đã được học ở phân môn Tập làm văn.
Văn tả cảnh là loại văn dùng lời với những hình ảnh, cảm xúc làm cho
người đọc, người nghe có thể hình dung được rõ nét và cụ thể về một cảnh
vật nào đó xung quanh ta.


Như vậy văn tả cảnh có thể xem là một văn bản nghệ thuật có sử
dụng ngôn ngữ văn chương để miêu tả sự vật hiện tượng một cách cụ thể sinh
động. Bất kì hiện tượng nào trong thực tế đời sống cũng có thể miêu tả được, tuy
nhiên bằng những cảm xúc khác nhau của mỗi người, mỗi hiện tượng lại
được miêu tả với cách thể hiện riêng qua việc quan sát, sử dụng từ ngữ và cách
diễn đạt khác nhau.
Đối tượng của bài văn tả cảnh là những cảnh vật quen thuộc xung
quanh ta như dòng sông, cánh đồng, hàng cây... Khi viết bài văn tả cảnh cần đặc
biệt tập trung vào những nét tiêu biểu của cảnh vật đó. Để bài văn được sinh
1


động và hấp dẫn hơn với người đọc ta có thể lồng vào đó việc tả người, tả vật
với những cung bậc cảm xúc khác nhau.
Ngôn ngữ trong văn miêu tả cần chính xác, cụ thể, giàu hình ảnh và có
nét riêng biệt. Chính vì thể để có bài văn hay đòi hỏi người viết phải có hiểu biết
về phương pháp làm văn, phải biết dùng từ ngữ, biết vận dụng linh hoạt các biện
pháp nghệ thuật tu từ được học.
Các kiểu bài miêu tả được học nhiều nhất trong chương trình Tập làm văn
lớp 5, giúp cho học sinh tái hiện lại cuộc sống con người, phong cảnh thiên
nhiên như một bức tranh nhiều màu sắc. Nó giúp các em có tâm hồn văn học, có
tình yêu quê hương đất nước và cuộc sống con người. Các em biết mô tả cuộc
sống một cách sinh động, hấp dẫn, tự nhiên dưới góc nhìn trẻ thơ. Qua cách
miêu tả đó không những giúp chúng ta có thể hiểu suy nghĩ của các em mà còn
giúp giáo viên có những định hướng đúng đắn hơn trong quá trình giảng dạy.
Trong học tập phân môn Tập làm văn thì viết bài văn là yêu cầu cốt lõi. Nhờ viết
bài mà học sinh hiểu sâu sắc hơn bản chất của các tri thức được học, từ đó có
khả năng vận dụng chúng linh hoạt trong nhiều tình huống cũng như trong phát
triển tư duy. Sản phẩm của quá trình viết, bài văn, chính là nơi phản ánh rõ nét
sự hình thành các kĩ năng sử dụng tiếng Việt của học sinh.

Tuy nhiên phải thừa nhận một điều rằng, thực tế hiện nay, việc dạy môn
Tiếng Việt nói chung và phân môn Tập làm văn nói riêng còn có rất nhiều hạn
chế và chưa đạt kết quả như mong muốn.
Với kinh nghiệm của một giáo viên nhiều năm trực tiếp giảng dạy lớp 5,
tôi nhận thấy cần phải tìm ra một số giải pháp giúp các em yêu thích phân môn
Tập làm văn và rèn cho các em kĩ năng làm văn tả cảnh là vấn đề hết sức cần
thiết. Điều đó đòi hỏi ở người thầy cái tâm, cái tài để truyền cho các em niềm
say mê, để động viên bồi dưỡng các em trở thành học sinh có năng khiếu, những
nhân tài có tâm hồn văn học. Chính vì những lý do trên tôi quyết định chọn
nghiên cứu đề tài: "Một số biện pháp tạo hứng thú học tập cho học sinh khi
dạy học kiểu bài Tả cảnh trong phân môn Tập làm văn lớp 5".
1.2. Mục đích nghiên cứu
Với những suy nghĩ nêu trên, là một giáo viên tiểu học trực tiếp giảng dạy
lớp 5, tôi không khỏi băn khoăn suy nghĩ về vấn đề này. Làm thế nào để bản
thân và đồng nghiệp có được phương pháp dạy kiểu bài Tả cảnh trong phân môn
Tập làm văn một cách tối ưu? Làm thế nào để sự tiếp thu kiến thức của các em
có hiệu quả? Vì vậy, tôi tiến hành nghiên cứu đề tài này nhằm mục đích đưa ra
một số kinh nghiệm để các bạn đồng nghiệp cùng tham khảo, góp ý và vận dụng
những kinh nghiệm dạy học này trong quá trình giảng dạy, giúp cho HS rèn
luyện kĩ năng viết văn tả cảnh, biết cách quan sát, sử dụng từ ngữ, hình ảnh khi
miêu tả, có hứng thú khi làm văn, đồng thời giúp cho các em yêu thích phân
môn Tập làm văn, yêu thích môn Tiếng Việt một cách tốt nhất. Từ đó giúp các
em biết áp dụng những điều đã học vào cuộc sống.
1.3. Đối tượng nghiên cứu:
2


Tôi đã tiến hành nghiên cứu về phương pháp, hình thức tổ chức dạy học
của giáo viên và cách học của học sinh tiểu học, đặc biệt là giáo viên dạy lớp 5,
học sinh lớp 5 Trường Tiểu học Thị Trấn Hậu Lộc. Qua nghiên cứu, tìm hiểu,

bản thân đã rút kinh nghiệm, tìm ra những ưu điềm và hạn chế trong cách dạy
của đồng nghiệp và cách học của học sinh từ đó lựa chọn những biện pháp có
hiệu quả hơn trong cách dạy của mình, giúp các em hứng thú, hiệu quả hơn
trong học Tập làm văn, đặc biệt là kiểu bài văn Tả cảnh. Tôi đã tiến hành dạy
thử nghiệm tại lớp 5A, Trường Tiểu học Thị Trấn Hậu Lộc.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
Trong sáng kiến này tôi đã sử dụng một số phương pháp sau:
- Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lí thuyết: Đọc sách báo, tạp
chí, sách giáo viên, sách tham khảo, xem video những tiết dạy mẫu,…
- Phương pháp điều tra khảo sát thực tế: Khảo sát thực tế thực trạng kết
quả của học sinh lớp 5, phân tích, đánh giá, tổng kết kinh nghiệm.
- Trao đổi, thảo luận với đồng nghiệp.
2. NỘI DUNG CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
Trong giáo dục phổ thông, môn Tiếng Việt là môn quan trọng, chiếm một
vị trí chủ yếu trong chương trình. Tiếng Việt có vai trò quan trọng trong việc
hình thành nhân cách, phẩm chất của con người bởi ngôn ngữ là công cụ giao
tiếp đặc trưng của loài người, là công cụ để tư duy, để thể hiện tư tưởng tình
cảm. Bất kỳ một lĩnh vực hoạt động nào trong xã hội đều đòi hỏi con người một
sự hiểu biết sâu sắc về ngôn ngữ.
Môn Tiếng Việt ở trường Tiểu học có hai chức năng. Chức năng thứ nhất
là: Cung cấp cho học sinh những tri thức ngôn ngữ học. Chức năng này cung
cấp cho học sinh những tri thức về âm thanh, cấu tạo từ, ngữ pháp, quy tắc hoạt
động ngôn ngữ… đồng thời môn Tiếng Việt còn phải hình thành cho học sinh
những kỹ năng giao tiếp: nghe, đọc, nói, viết. Còn chức năng thứ hai là: Chức
năng thẩm mỹ. Chức năng này giúp người học thấy được cái hay, cái đẹp của
ngôn ngữ, hiểu được phần nào về cuộc sống xung quanh.
Đặc biệt môn Tiếng Việt còn bồi dưỡng cho học sinh những tình cảm chân
chính, lành mạnh như: tình cảm gia đình, tình thầy trò, tình bạn, tình yêu quê
hương, đất nước, con người, đồng thời hình thành và phát triển ở các em những

phẩm chất tốt đẹp của con người mới xã hội chủ nghĩa.
Trong môn Tiếng Việt cùng với các phân môn Tập đọc, Kể chuyện,
Luyện từ và câu, … Phân môn Tập làm văn có vị trí đặc biệt trong việc dạy và
học tiếng Việt xét trên hai phương diện:
- Phân môn Tập làm văn tận dụng các hiểu biết và kĩ năng về tiếng Việt
do các phân môn khác rèn luyện hoặc cung cấp đồng thời góp phần hoàn thiện
chúng. Để làm được một bài làm văn nói hoặc viết, người làm phải hoàn thiện
cả bốn kĩ năng: nghe, nói, đọc, viết, phải vận dụng các kiến thức về tiếng Việt.
Trong quá trình vận dụng này, các kĩ năng và kiến thức đó được hoàn thiện và
nâng cao dần .
3


- Phân môn Tập làm văn rèn luyện cho học sinh các kĩ năng sản sinh văn
bản (nói, viết). Nhờ vậy tiếng Việt không chỉ là một hệ thống cấu trúc được xem
xét từng phần, từng mặt qua từng phân môn mà trở thành một công cụ sinh động
trong quá trình giao tiếp, tư duy, học tập. Nói cách khác. Phân môn Tập làm văn
đã góp phần hiện thực hóa mục tiêu quan trọng bật nhất của việc dạy và học
tiếng Việt là dạy học sinh sử dụng tiếng Việt trong đời sống sinh hoạt, trong quá
trình lĩnh hội các tri thức khoa học …
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
Qua quá trình giảng dạy, dự giờ đồng nghiệp, tôi thấy bên cạnh những mặt
thành công vẫn còn một số những hạn chế trong việc viết văn của các em học
sinh lớp 5 và một số hạn chế của giáo viên. Điều này là do nhiều nguyên nhân
trong đó một số giáo viên chưa đào sâu, nghiên cứu về phương pháp giảng dạy
cũng như trình tự tiến hành dạy một bài tập làm văn như thế nào cho phù hợp
với mục đích và nội dung của bài học đặt ra.
Mặt khác học sinh Tiểu học là đối tượng mà năng lực tư duy chưa cao. Kỹ
năng sử dụng ngôn ngữ của các em còn hạn chế. Đặc biệt trình độ học sinh ở các
địa phương cũng chưa đồng đều hơn nữa học sinh rất ngại học Tiếng Việt. Trong

một tiết học thời gian có 40 phút là tối đa mà kiến thức phải cung cấp quá nhiều
nên giáo viên chỉ hay quan tâm đến đối tượng học sinh hoàn thành tốt (khá giỏi)
để tiết dạy thành công. Ngoài ra do việc thay đổi nội dung chương trình SGK
lượng kiến thức nhiều lại trình bày không liền mạch mà thời gian lại ít.
Bên cạnh đó, xã hội ngày càng phát triển, khoa học công nghệ ngày càng
hiện đại dẫn đến học sinh thường ỷ lại, không chịu nghiên cứu, sáng tạo, nếu
gặp nội dung khó hoặc vướng mắc thì các em lại tìm kiếm trên mạng internet,..
từ đó dẫn đến kết quả học tập môn Tập làm văn chưa cao. Cụ thể như sau:
+ Về phía học sinh: Trong chương trình tiểu học hiện nay, các bài tập làm
văn đều gắn với từng chủ điểm. Vì vậy quá trình thực hiện các kỹ năng phân tích
đề, quan sát, tìm ý, viết câu, viết đoạn văn là những cơ hội giúp học sinh mở
rộng hiểu biết trong cuộc sống. Việc phân tích dàn bài, lập dàn ý, chia đoạn văn
miêu tả... góp phần phát triển khả năng phân tích của học sinh. Tư duy hình
tượng của học sinh cũng được rèn luyện nhờ vận dụng biện pháp so sánh, nhân
hóa khi miêu tả. Học Tập làm văn học sinh cũng có điều kiện tiếp cập vẻ đẹp
của con người, thiên nhiên qua các bài văn, đoạn văn điển hình.
Khi phân tích đề tập làm văn, học sinh sẽ có những cơ hội gắn bó, yêu
mến với thiên nhiên, đồng thời cũng lôi cuốn học sinh yêu thích làm văn. Hơn
nữa đối tượng miêu tả của bài văn tả cảnh là những cảnh vật quen thuộc gần gũi
với các em: một dòng sông, một đêm trăng, một cánh đồng ... vì vậy các em dễ
quan sát hơn.
Song, học sinh tiểu học lần đầu tiên đến trường, thời gian tiếp xúc với môi
trường rộng lớn bên ngoài ít nên vốn từ của học sinh còn nghèo; kĩ năng sử dụng
ngôn ngữ trong giao tiếp còn nhiều hạn chế. Mặt khác, đối với học sinh lứa tuổi
tiểu học, lứa tuổi mà tư duy trực quan cảm tính chiếm ưu thế, mà những từ ngữ
thuộc chủ đề trong các bài học trong sách giáo khoa phần lớn mang tính trừu
4


tượng, các nội dung trình bày chưa liên kết khiến các em thấy khó hiểu, khó

nhớ. Một số em chưa nắm được kĩ năng quan sát, tìm ý, viết câu, viết đoạn. Vì
vậy khả năng sử dụng từ ngữ, hình ảnh, cách sắp xếp ý, sắp xếp bố cục trong
miêu tả còn chưa cao. Việc sử dụng các biện pháp nghệ thuật so sánh, nhân hóa,
… trong miêu tả chưa tốt nên bài viết chưa sinh động, chưa gợi cảm, gợi tả. Các
em còn viết sai chính tả do phương ngữ hoặc chưa biết cách trình bày một đoạn
văn, bài văn … Vì đa số các em là con các gia đình nông nghiệp nên các em ít
được đi chơi xa, ít được ngắm những danh lam thắng cảnh của mọi miền đát
nước, chưa được trải nghiệm thực tế… chỉ có một số ít con cán bộ và gia đình
có điều kiện mới làm được việc này. Nhưng các em cũng có những thuận lợi đó
là sống ở vùng nông thôn gần gũi với cảnh vật thiên nhiên, đồng ruộng, vườn
cây, dòng sông, đêm trăng nên khi tả những cảnh này các em dễ quan sát …
- Phần lớn học sinh không thích học phân môn Tập làm văn vì môn này
khó, nó đòi hỏi sự sáng tạo và năng khiếu của các em.
- Vốn từ ngữ của các em còn hạn chế nên khi viết văn thường bị lặp lại
từ, lời văn chưa lưu loát, diễn đạt chưa trôi chảy, thiếu hình ảnh, cảm xúc.
- Nhiều em không nắm được cấu trúc ngữ pháp nên sử dụng dấu câu tùy
tiện.
- Một số học sinh làm theo văn mẫu hoặc chỉ viết theo dàn bài mà
giáo viên đã hướng dẫn lập. Chưa biết tích hợp các phân môn khác như: Tập
đọc, Luyện từ và câu, Chính tả, Khoa học, Lịch sử và Địa lý vào Tập làm văn.
Chưa sáng tạo trong khi dùng từ đặt câu.
- Học sinh không quan sát trực tiếp đối tượng nên các em vô cùng lúng
túng khi miêu tả.
- Khi quan sát thì các em chưa được hướng dẫn cụ thể về kĩ năng quan
sát: quan sát những gì, quan sát từ đâu? Làm thế nào phát hiện được nét tiêu
biểu của đối tượng cần miêu tả.
- Học sinh tiểu học vốn sống, vốn kiến thức và những rung cảm trước
cái đẹp còn hạn chế nên chưa thổi được vào cảnh cái hồn để cảnh miêu tả trở
nên sinh động, ấn tượng hơn. Đặc biệt kĩ năng vận dụng các từ ngữ gợi hình, gợi
tả và các biện pháp nghệ thuật tu từ còn lúng túng. Học sinh thường không có

thói quen lập dàn ý mà viết ngay vào bài làm, nhớ đâu viết đó, viết rồi gạch bỏ,
viết lại...
- Một số học sinh khi làm bài còn vay mượn ý của người khác, các
em thường sao chép những bài văn mẫu thành bài văn của mình không kể đầu
bài quy định như thế nào. Với cách làm ấy các em không cần biết đối tượng
cần miêu tả gì, không chú ý tới đặc điểm nổi bật tạo nên nét riêng của cảnh,
cũng như không có cảm xúc về nó.
+ Về phía giáo viên: Trong những năm gần đây, việc đổi mới phương
pháp dạy học đã đem lại kết quả đáng khích lệ trong dạy phân môn Tập làm văn.
Song bên cạnh những kết quả đạt được vẫn còn những tồn tại. Đó là: Khi dạy
kiểu bài Tả cảnh trong phân môn Tập làm văn giáo viên chưa biết tổng hợp
thành các dạng bài, chưa xác định được mạch kiến thức cơ bản cần truyền thụ;
5


thông thường giáo viên chỉ có con đường duy nhất là hình thành các hiểu biết về
lý thuyết, các kỹ năng làm bài qua phân tích các bài mẫu ở sách giáo khoa.
Chính vì vậy chưa gây được hứng thú cho học sinh khi học kiểu bài văn tả cảnh.
Trong quá trình giảng dạy, giáo viên chưa chú trọng việc rèn cho học sinh
kĩ năng quan sát và dùng ngôn ngữ diễn đạt lại những gì mình đã quan sát
được. Chưa tổ chức được nhiều hoạt động nhằm phát triển tư duy ngôn ngữ ở
học sinh.
Phân môn Tập làm văn là một môn học mang tính tổng hợp và sáng
tạo, nhưng lâu nay người giáo viên (nhất là giáo viên lớp 4, lớp 5) chưa có cách
phát huy tối đa năng lực học tập và cảm thụ văn học của học sinh; chưa bồi
dưỡng được cho các em lòng yêu quý Tiếng Việt, ham thích học Tiếng Việt để từ
đó các em nhận ra rằng đã là người Việt Nam thì phải đọc thông viết thạo
Tiếng Việt và phát huy hết ưu điểm của tiếng mẹ đẻ.
Bên cạnh đó, việc sử dụng vốn từ ngữ khi miêu tả cảnh của giáo viên
còn hạn chế, chưa có những câu văn mượt mà nhưng vẫn chân thực, gần gũi,…

Đặc biệt, khi học sinh đưa ra một câu văn dùng từ chưa chuẩn hay thiếu hình
ảnh, chưa hợp lí,… giáo viên chưa chỉnh sửa kịp thời và không làm bật được cái
hạn chế và thay thế ngay bằng câu văn có nghĩa, đúng ngữ pháp, giàu hình ảnh
để học sinh có thể ‘‘mê’’ nên chưa thể thổi hồn, làm cầu nối nâng tình yêu văn
học cho các em.
Việc kết hợp sử dụng các phương pháp dạy học thiếu linh hoạt hoặc đôi
khi quá rập khuôn. Đa số giáo viên chỉ chú ý đến việc học ở lớp mà chưa chú ý
đến việc luyện tập ở nhà, chưa hướng cho các em tìm hiểu thêm sách, báo, thực
tế, ... Đôi khi để đối phó với việc học của học sinh chưa hoàn thành, để đảm bảo
chất lượng kiểm tra ... một số giáo viên còn cho học sinh chép bài mẫu. Vì vậy
dẫn đến tình trạng cả thầy và trò đôi khi bị lệ thuộc vào "mẫu", không thoát khỏi
"mẫu". Trong quá trình giảng dạy giáo viên còn áp đặt, mới chỉ hướng dẫn học
sinh theo yêu cầu của sách mà chưa chú ý đến việc thâm nhập và khám phá cái
hay, cái đẹp của bài văn. Một bộ phận giáo viên vốn từ ngữ chưa phong phú,
chưa có những phương pháp tối ưu khi hướng dẫn học sinh làm các dạng bài tập
dẫn đến hiệu quả giảng dạy phân môn Tập làm văn chưa cao.
Qua khảo sát chất lượng học sinh lớp 5A, 5B đầu năm học 2017 - 2018
kết quả khảo sát phần Tập làm văn học sinh còn mắc phải một số lỗi như sau:
Lỗi sai
Lớp


số

5A
30
(Thực nghiệm)

Sử dụng
Về bố

biện pháp
cục
nghệ thuật

Về diễn
đạt ý

Về đặt
câu

Về dùng
từ

Về chính
tả

SL

%

SL

%

SL

%

SL


%

SL

%

SL

%

4

13,2

3

10

6

20

6

20

5

16,8


9

30

6


5C
(Đối chứng)

25

3

12

2

12

5

20

6

24

4


16

7

28

Từ những thực trạng trên, để khắc phục những tồn tại, nâng cao kết quả
trong dạy học sinh kiểu bài văn Tả cảnh, tôi đưa ra một số giải pháp sau:
2.3. Các biện pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
2.3.1: Yêu cầu học sinh chuẩn bị bài trước khi học bài mới:
Việc ôn lại kiến thức, kỹ năng đã học có liên quan đến bài mới, làm cơ sở
cho bài mới hoặc chuẩn bị cho bài mới là một việc làm hết sức cần thiết đối với
học sinh trước khi đến lớp như:
- Nhớ lại cấu tạo của bài văn tả cảnh.
- Xác định đối tượng cần miêu tả.
- Tìm hiểu trước nội dung của bài học: Đề bài yêu cầu tả cảnh gì? Cảnh đó
ở đâu?
- Quan sát kĩ cảnh cần phải tả trong những thời điểm cụ thể, chọn vị trí
quan sát thuận tiện nhất để nắm bắt được những chi tiết, đặc điểm quan trọng
của cảnh. Quan sát bằng nhiều giác quan, lưu ý đến các yếu tố màu sắc, âm
thanh, hình ảnh xem có hài hòa không...
- Ghi chép những điều đã quan sát được về cảnh vật.
- Lựa chọn từ ngữ, hình ảnh để diễn đạt.
- Sắp xếp các ý theo một trình tự cụ thể.
2.3.2: Làm giàu vốn từ ngữ đối với HS, tích lũy các hình ảnh văn học:
Trước khi học văn tả cảnh, thông qua các phân môn khác như Tập đọc,
Luyện từ và câu,... giáo viên cho học sinh tìm các từ chỉ màu sắc của cảnh vật
như: đỏ ối, xanh biếc, rực rỡ, ....; Tìm các từ ghép, từ láy miêu tả đặc điểm, màu
sắc của cảnh vật, tìm các từ gợi tả về hình ảnh, âm thanh,... Các từ ngữ chỉ màu
vàng như: vàng xuộm, vàng hoe, vàng lịm, vàng ối, vàng tươi, vàng xọng, vàng

giòn, vàng mượt, vàng mới, màu vàng trù phú, đầm ấm,.. (Quang cảnh làng mạc
ngày mùa); úa vàng, sắc vàng động đậy, con mang vàng, chân vàng, lá vàng,
sắc nắng cũng vàng rực, giang sơn vàng rợi,.. (Kì diệu rừng xanh)...
Cho học sinh luyện viết câu văn hay, tập diễn đạt bằng những câu văn
giàu hình ảnh. Đối với học sinh tiểu học, câu là đơn vị để tạo nên đoạn văn, bài
văn hay. Vì vậy, trong các tiết Luyện từ và câu nên cho học sinh đặt câu với các
từ cho trước bằng cách thêm các bộ phận vào chủ ngữ và vị ngữ, sử dụng các
biện pháp nghệ thuật nhân hóa, so sánh, đối lập, điệp từ,... khi viết câu để giúp
các em có một vốn từ ngữ phong phú, đa dạng.
Khi học sinh học những bài tập đọc, hay khi đọc những đoạn văn, đoạn
thơ nên cho học sinh tìm những câu văn, câu thơ hay hoặc những từ ngữ hính
ảnh đẹp mà mình yêu thích để chép lại vào sổ tay để làm tư liệu tham khảo khi
làm Tập làm văn.
Ví dụ: Khi học bài tập đọc: “Quang cảnh làng mạc ngày mùa” có thể cho
học sinh nêu những hình ảnh mà mình thích. Chẳng hạn: “Trong vườn, lắc lư
những chùm quả xoan vàng lịm không trông thấy cuống, như những chuỗi tràng
7


hạt bồ đề treo lơ lửng” hoặc “Những tàu lá chuối vàng ối xõa xuống như những
vạt áo nắng, đuôi áo nắng, vẫy vẫy.”...; Trong bài: “Kì diệu rừng xanh” có các
hình ảnh: “ Những chiếc nấm to bằng cái ấm tích, màu sặc sỡ rực lên. Mỗi chiếc
nấm là một lâu đài kiến trúc tân kì...... Những con vượn bạc má ôm con gọn ghẽ
chuyền nhanh như tia chớp. Những con chồn sóc với chùm lông đuôi to đẹp vút
qua không kịp đưa mắt nhìn theo... Chỉ có mấy vạt cỏ xanh biếc là rực lên giữa
cái giang sơn vàng rợi”..., hoặc những hình ảnh trong bài thơ “Trước cổng trời”:
“Con thác réo ngân nga / Đàn dê soi đáy suối / Ráng chiều như hơi khói”...;
2.3.3. Nâng cao năng lực cảm thụ cho học sinh, giúp các em thấy vẻ
đẹp của văn chương:
Cảm thụ văn học là vấn đề thuộc phạm trù văn học. Ở bậc tiểu học dạy

cảm thụ cho học sinh chủ yếu là giáo dục cho các em rung cảm trước cái đẹp của
thiên nhiên, cuộc sống nhằm nâng cao năng lực cảm nhận và diễn tả. Đây là
nhiệm vụ của mỗi học sinh. Các em phải biết cảm nhận cái hay, cái đẹp về nội
dung, về nghệ thuật, câu từ, những giá trị nổi bật, những điều sâu sắc, tế nhị và
đẹp đẽ của văn học thể hiện trong bài văn, trong đoạn văn, thậm chí trong một
câu, một từ, một hình ảnh... Khi đọc hoặc nghe một bài văn, thơ, một câu
chuyện ta không những hiểu mà còn phải xúc cảm, tưởng tượng, thậm chí còn
phải “nhập thân” với những gì đã đọc và rung động thật sự mới giúp ta cảm thụ
tốt. Để có được năng lực cảm thụ sâu sắc và tinh tế các em cần có sự say mê,
hứng thú khi tiếp xúc với văn thơ; chịu khó tích lũy vốn hiểu biết về thực tế
cuộc sống và văn học, nắm vững kiến thức cơ bản về tiếng Việt, kiên trì rèn
luyện kĩ năng viết đoạn văn. Có như vậy thì các em mới viết văn tốt được.
Ngoài cách viết câu, dùng từ, ngữ nêu trên; trong giảng dạy giáo viên cần
hướng dẫn học sinh chú ý đến các đặc điểm cấu tạo của từ Tiếng Việt là đa dạng
về kiểu loại (từ đơn, từ ghép, từ láy), phong phú về ý nghĩa (từ một nghĩa, từ
nhiều nghĩa, từ đồng nghĩa, từ trái nghĩa, từ đồng âm khác nghĩa,…), linh hoạt
về cách sử dụng (từ dùng trong sinh hoạt, trong sách vở khoa học, từ địa
phương, từ nghề nghiệp,…).
Không có con đường nào tốt hơn để làm nảy sinh và duy trì hứng thú của
học sinh với tiếng Việt và văn học ngoài cách giúp các em thấy được sự thú vị,
vẻ đẹp và khả năng kì diệu của chính đối tượng học tập - tiếng Việt, văn chương.
Từng giờ, từng phút trong giờ tiếng Việt, người giáo viên đều hướng đến
hình thành và duy trì hứng thú cho HS. Đó có thể là một lời vào bài hấp dẫn cho
giờ Tập đọc: Đây là một con chim sẻ rất nhỏ bé. Thế nhưng nhà văn Tuốc-ghênhép đã kính cẩn nghiêng mình thán phục trước nó, vì sao vậy? Chúng ta hãy
cùng nhau đọc bài Con sẻ để trả lời câu hỏi này. Hứng thú của HS cũng được
khơi dậy từ việc chỉ ra vẻ đẹp của một từ, cái hay của một tình tiết truyện, chẳng
hạn: Tiếng hót của chim chiền chiện không phải “ríu rít”, “thánh thót” mà “ngọt
ngào”, “long lanh”, “chan chứa” thì mới gây ấn tượng. Hoa sầu riêng nở “tím
ngát” chứ không phải chỉ “tím ngắt” hay “ngan ngát”. Như thế thì mới có cả
8



màu hoa, hương hoa chỉ trong một từ. Tình tiết người mẹ cho hồ nước đôi mắt
của mình để tìm đường đến chỗ Thần Chết đòi trả lại con trong chuyện Người
mẹ của An-đéc-xen đến nay còn lay động tâm can biết bao người...
2.3.4. Bồi dưỡng kỹ năng quan sát thẩm mĩ; Xây dựng "không gian
sáng tạo" làm giàu trí tưởng tượng cho học sinh.
Bên cạnh việc tác động vào nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức dạy
học, việc thiết lập "không gian sáng tạo" cho các em cũng hết sức quan trọng.
Lớp học phải được thiết kế tạo ra sự thoải mái nhất cho các em. Ở đó học
sinh không bị gò bó bởi vị trí ngồi học, không đơn điệu với phấn trắng, bảng đen
và đặc biệt phải ở trong một mối quan hệ hợp tác tích cực tốt đẹp giữa thầy và
trò, giữa bạn với bạn trong những giờ học "mở".
Hình thức tổ chức dạy học hấp dẫn cùng với một bầu không khí thân ái
hữu nghị trong giờ học sẽ tạo ra sự hứng thú cho cả thầy và trò. Bởi vì, học là
niềm vui không chỉ vì những lợi ích mà nó mang lại, mà niềm vui ấy còn nằm
ngay trong chính sự học.
Một giờ học mở không thể là giờ học mà quan hệ thầy - trò chỉ là quan hệ
một chiều theo kiểu người thầy độc quyền thuyết giảng kiến thức, còn học sinh
thì lắng nghe và tiếp thu một cách thụ động. Trái lại, một giờ học mở phải là giờ
học lấy học sinh làm trung tâm. Học sinh có quyền trao đổi, thậm chí có thể có ý
kiến phản biện lại những điều thầy giáo trình bày. Theo đó, mỗi giờ học mở là
một diễn đàn học thuật để thầy và trò cùng nhau thảo luận, bàn bạc, tranh luận
một cách cởi mở, thẳng thắn cho đến khi tìm ra chân lý.
Mặt khác tưởng tượng trong văn miêu tả nói chung; văn tả cảnh nói riêng
là rất quan trọng. Có tưởng tượng mới có hình ảnh hoàn chỉnh về đối tượng
miêu tả. Tưởng tượng giúp ta thấy được nét đặc sắc của đối tượng, thấy được
điểm tương đồng với đối tượng khác. Từ tưởng tượng học sinh sẽ cảm nhận
được đối tượng miêu tả bằng tình cảm, tình yêu của chính mình đối với cảnh sẽ
tả. Tưởng tượng làm cho đối tượng được miêu tả hoàn thiện hơn, đẹp hơn, sống

động hơn và gần gũi với con người hơn. Vậy tưởng tượng thế nào?
+ Không trực tiếp quan sát mà tập trung tất cả các giác quan vào đối
tượng.
+ Nhắm mắt, hình dung về đối tượng: hình ảnh, hoạt động của đối
tượng, những ảnh hưởng tác động của đối tượng đến sự vật xung quanh.
+ So sánh đối tượng được miêu tả với các đối tượng khác tương đồng.
Đây là một trong những “bí quyết” để viết văn miêu tả nói chung, tả cảnh
nói riêng được hay hơn. Chẳng hạn, khi tả trăng ta có thể so sánh với những sự
vật như con thuyền, cánh diều, quả bóng, cái đĩa, … Tả chiếc lá bàng ta có thể
so sánh với cái quạt, chiếc bánh đa, … Hay khi tả những chùm hoa phượng ta
9


có thể so sánh với những đốm lửa hồng bập bùng; tả những quả bàng xanh tại
sao ta lại không so sánh với những chú rùa con bé xíu; tả cây cột đèn tín hiệu
giao thông sao lại không tưởng tượng nó với cây kẹo mút khổng lồ…?
+ Phân tích đánh giá cái hay, cái đẹp có ở đối tượng.
+ Nhân hóa hay tự nhiên hóa một vài hình ảnh đặc sắc ở đối tượng.
Ví dụ: “Máy tuốt to lù lù đứng giữa sân kho, kêu tành tạch. Người ta nhét
những ôm lúa vào miệng nó. Nó nhằn nhằn một thoáng rồi phì rơm ra”. (Tả một
ngày mùa).
Để bồi dưỡng kỹ năng quan sát thẩm mĩ nên cho học sinh quan sát cảnh
vật, đưa những câu gợi ý để giúp học sinh cảm nhận được cảnh vật ở các khía
cạnh khác nhau với các vẻ đẹp khác nhau. Quan sát trực tiếp và tỉ mỉ cảnh vật,
bằng nhiều giác quan thì mới có những hiểu biết đầy đủ, phong phú và chính
xác. Quan sát đi đôi với việc tìm ý và tìm từ ngữ để diễn tả đúng và sinh động
điều đã quan sát được.
Ví dụ: + Cùng tả về bầu trời mùa thu nhưng học sinh có thể tả theo nhiều
cách khác nhau tùy theo cách nhìn nhận, đánh giá và cảm xúc, tâm trạng của
mỗi học sinh. Chẳng hạn học sinh có thể tả:

- Bầu trời xanh như mặt nước mệt mỏi trong ao.
- Bầu trời được rửa mặt sau cơn mưa.
- Bầu trời xanh biếc.
- Bầu trời dịu dàng.
- Bầu trời buồn bã.
- Bầu trời trầm ngâm...
+ Hoặc cùng tả về dòng sông chảy qua cánh đồng nhưng các em có thể
tả như sau:
- Con sông nằm uốn khúc giữa cánh đồng xanh mượt lúa khoai. (Vẻ đẹp
thuần túy).
- Con sông khoan thai nằm phơi mình trên cánh đồng xanh mướt lúa
khoai. (Vẻ đẹp khỏe khoắn).
- Con sông hiền hòa chảy qua cánh đồng xanh mượt lúa khoai. (Vẻ đẹp
hiền hòa).
- Con sông mềm mại như một dải lụa vắt ngang qua cánh đồng xanh
mượt lúa khoai. (Vẻ đẹp thơ mộng)...
Như vậy ý của câu văn hoàn toàn phụ thuộc vào ý của người viết. Với mỗi
cách diễn đạt khác nhau lại cho một giá trị biểu cảm khác nhau.
Một mẹo nữa của làm văn tả cảnh đó là chuyển kể thành tả.
Làm văn miêu tả là phải quan sát như đã nói. Nhưng khi làm bài, các em thường
kể lại chứ không phải là tả, làm cho bài văn khô khan, nhạt nhẽo.
Ví dụ: Các em thường viết:
+ Quanh thân cây có rất nhiều quả.
+ Trên cánh đồng, em trông thấy rất nhiều người đang gặt lúa.
+ Buổi sáng, em nghe thấy tiếng chích chòe trong vắt. v.v..
10


Những câu văn như trên nặng về kể. Vậy chúng ta có thể diễn đạt lại như
sau:

+ Quanh thân cây, chi chít những quả là quả.
+ Trên cánh đồng, các bác xã viên cắt lúa nhanh thoăn thoắt, tiếng liềm
xoèn xoẹt nghe thật vui tai.
+ Buổi sáng, tiếng chích chòe trong vắt, lảnh lót trong vòm cây. vv….
Đây mới chính là những câu văn miêu tả.
2.3.5. Tạo ra hệ thống bài tập luyện viết câu sinh động, giàu xúc cảm.
Nội dung dạy học Tập làm văn được chia ra rất nhiều cấp độ. Để giúp học
sinh viết tốt, giáo viên phải giúp các em nắm vững các mạch kiến thức - kĩ năng,
cụ thể hóa đến nhóm, kiểu, dạng bài tập và cho đến tận từng bài tập cụ thể. Ví
dụ: Từ cách dẫn dắt, gợi mở của giáo viên và từ một ý cho trước hay từ một câu
đơn (chỉ có một cụm chủ ngữ, vị ngữ), giáo viên hướng dẫn học sinh tập mở
rộng câu bằng cách thêm các thành phần phụ cho câu như: trạng ngữ, bổ ngữ,
động từ, tính từ, từ láy, từ tượng hình, từ tượng thanh,…Sử dụng các hình ảnh,
chi tiết sinh động biểu cảm; các biện pháp nghệ thuật như: nhân hoá, so sánh,
điệp từ, điệp ngữ, hoán dụ, phóng đại,…làm cho cách diễn đạt câu văn, đoạn
văn, thêm cụ thể, sống động giúp người đọc như cùng cảm nhận với mình.
Bài tập luyện viết câu sẽ giúp học sinh có ý thức viết văn ngày càng chặt
chẽ về ý tứ, sinh động, giàu xúc cảm,…từ đó giúp các em thêm hứng thú học tập
môn Tiếng Việt nói chung và phân môn Tập làm văn nói riêng. Sau đây là một
số ví dụ (bài tập) về cách dùng từ, viết câu văn sinh động:
*Bài tập 1: Từ những câu văn đã cho, viết lại cho sinh động, gợi cảm xúc
bằng cách thêm biện pháp nghệ thuật:
a- Các em HS quần áo đủ màu sắc sặc sỡ đang nô đùa trên sân trường.
- Các em học sinh quần áo đủ màu sắc sặc sỡ đang nô đùa trên sân
trường tựa như một đàn bướm xinh tung tăng bay lượn. (Biện pháp so sánh).
b- Ông Hét đến cửa nhà tôi.
- Ông Hét, người đàn ông đáng sợ nhất mà tôi từng gặp, đã đến cửa nhà
tôi. (Giải thích)
c- Bông hoa hồng xinh đẹp.
- Bông hoa hồng xinh đẹp đang tươi cười và thì thầm toả hương

thơm. (Biện pháp nhân hoá).

11


d- Tôi yêu những người dân đi biển làng tôi, mặt biển trong xanh dậy sóng
và những con thuyền rẽ sóng ra khơi.
- Tôi yêu những người dân đi biển làng tôi, yêu mặt biển trong xanh dậy
sóng và yêu những con thuyền rẽ sóng ra khơi. (Biện pháp điệp từ).
e- Xa xa, những cánh buồm nhấp nhô trên sông, mấy người dân chài thấp
thoáng, vài cách chim chiều tản mạn bay về tổ.
- Xa xa, nhấp nhô những cánh buồm trên sông, thấp thoáng mấy người dân
chài, tản mạn vài cánh chim chiều bay về tổ. (Biện pháp đảo ngữ).
*Bài tập 2: Điền thêm từ thích hợp vào chỗ dấu chấm chấm để tạo thành
những câu văn gợi tả, gợi cảm:
a- Cổng trường…chúng em vào lớp.
- Cổng trường đang giang rộng vòng tay đón chúng em vào lớp. (Biện
pháp nhân hoá).
b- Màn đêm đen sẫm…
- Màn đêm đen sẫm như một tấm màn nhung huyền bí (Biện pháp so sánh).
c- Tôi lớn lên bằng…
- Tôi lớn lên bằng tình thương của mẹ, tình thương của cha và sự chở che
của bà con làng xóm. (Biện pháp điệp ngữ).
*Bài tập 3: Diễn đạt lại những câu văn sau đây bằng cách thêm các từ ngữ,
các biện pháp nghệ thuật cho sinh động, gợi cảm.
a- Mùa xuân vừa đến.
- Mùa xuân vừa đến mang theo trong gió mùi thoang thoảng của đất, mùi
của những lá cỏ non mới mọc và cả mùi ngai ngái của những đống rơm khô
thấm đẫm mưa xuân.


b- Hoa cam trắng muốt
- Hoa cam kết lại thành chùm, bông hoa trắng muốt, bung tỏa năm cánh
sao nhũ bạc duyên dáng.
12


c- Hương cam ngan ngát, dịu nhẹ.
- Mùa hoa nở, hương cam ngan ngát, dịu nhẹ dâng lên khiến không khí
vườn quê thật thanh mát, trong lành, dễ chịu.
d- Khi mùa thu đến, quả bàng vàng óng.
- Khi mùa thu bắt đầu thêu lên vòm lá xanh dịu dàng những chiếc lá
vàng, lá đỏ thì quả bàng cũng chuyển màu vàng óng.
e - Dòng sông vắt qua cánh đồng.
- Dòng sông mền như một dải lụa đào vắt qua cánh đồng xanh mướt lúa
khoai.
g - Ánh nắng trải khắp cánh đồng.
- Ánh nắng vàng như mật ong đang nhảy nhót dạo chơi khắp cánh
đồng.
h - Mùa xuân, cây cối đâm chồi nảy lộc.
- Xuân về, những chồi non như những ngọn nến xanh choàng tỉnh giấc,
ngỡ ngàng nhìn khung trời mới lạ sau giấc ngủ đông dài.
*Bài tập 4: Thay những từ gạch chân bằng những từ ngữ gợi tả hơn cho
câu văn thêm sinh động:
a- Cây chanh trong vườn đang nở hoa rất trắng.
- Cây chanh trong vườn đang nở hoa trắng muốt và tỏa ngát hương thơm.
b- Các loài hoa trong vườn đang đua nhau nở.
- Các loài hoa trong vườn đang đua nhau nở nụ cười tươi khoe sắc thắm.
c - Tiếng chim kêu sau nhà khiến Lan giật mình thức dậy.
- Tiếng chim lảnh lót sau nhà khiến Lan giật mình choàng tỉnh giấc.
d - Những đám mây đang khẽ trôi.

- Những đám mây đang bồng bềnh trôi.
e - Những cơn gió khẽ thổi trên mặt hồ.
- Những cơn gió nhẹ nhàng lướt đi trên mặt hồ.
g - Gió thổi mạnh, lá cây rơi nhiều, từng đàn cò bay nhanh theo mây.
- Gió thổi ào ào, lá cây rơi lả tả từng đàn cò bay vun vút (loang loáng)
theo mây.
h - Dòng sông chảy nhanh, nước réo to, sóng vỗ hai bên bờ mạnh.
- Dòng sông chảy cuồn cuộn, nước réo ầm ầm, sóng vỗ hai bên bờ ào ạt.
i- Mưa xuống rất mau, giọt ngã, giọt bay, bụi mước toả trắng xoá. Con gà
ướt hết đang đi tìm chỗ trú.
- Mưa xuống sầm sập, giọt ngã, giọt bay, bụi mước toả trắng xoá. Con gà
ướt lướt thướt quáng quàng tìm chỗ trú.
2.3.6. Tập viết đoạn văn có đề tài nhỏ:
Ví dụ: Tìm một số từ ngữ miêu tả cảnh đẹp của đêm trăng sau đó viết
thành một đoạn văn ngắn tả cảnh đẹp của quê hương em.
13


Đoạn văn là một bộ phận của bài văn, gồm nhiều câu văn liên kết chặt chẽ
về nội dung và hình thức (ý và lời). Vì vậy, khi viết đoạn chúng ta cần đảm bảo
sự liên kết chặt chẽ đó. Liên kết về ý thể hiện ở nội dung, các câu trong đoạn
phải cùng nói về một đối tượng. Sự liên kết về lời thể hiện ở các phép liên kết
câu: Phép lặp, phép thế, phép nối, phép liên tưởng... Để viết được một đoạn văn
hay, các em cần chú ý một số điểm sau:
+ Về cách dùng từ: Phải dùng từ cho chính xác, lựa chọn những từ ngữ
hay nhất, phù hợp nhất làm cho câu văn có hồn. Ví dụ khi tả bông hoa ta có thể
tả như sau : “Nụ hoa chúm chím nở như hớp từng giọt sương. Những cánh hoa
nhỏ xíu, mịn màng đung đưa trongg làn gió sớm”.
Muốn dùng từ được hay, các em phải luôn luôn có sự liên tưởng các sự
vật với nhau. So sánh sự vật, hiện tượng này với sự vật, hiện tượng khác để lựa

chọn được những từ ngữ, hình ảnh gợi tả, gợi cảm. Các em nên sử dụng nhiều từ
láy, từ tượng hình, từ tượng thanh và các từ ghép.
+ Về cách đặt câu: Khi viết câu cần linh hoạt, không nhất thiết phải viết
câu theo một công thức đơn điệu mà có thể thay đổi cách diễn đạt (dùng biện
pháp đảo ngữ,..), ... Ví dụ: Từ câu văn “Hai bên đường, hoa cúc vàng rực.” ta có
thể đổi lại “Vàng rực hai bên đường là những thảm hoa cúc”. Muốn viết câu văn
hay ta còn phải biết sử dụng các biện pháp so sánh, nhân hóa, điệp từ,... Ví dụ:
“Nhìn từ xa, cánh đồng như một tấm thảm xanh khổng lồ” hoặc; “Những bông
hoa ngả nghiêng cười đùa, hớn hở cùng những chị bướm xinh tươi.”...
Khi viết đoạn văn cần hết sức tránh sự cẩu thả về chữ viết, cách trình bày,
tránh các sai sót về lỗi chính tả. Muốn thế, trong khi viết, chúng ta phải hết sức
chú ý suy nghĩ và vận dụng đúng, trình bày cho sáng sủa; nếu viết xong, phải
dành thời gian để đọc lại và sửa chữa những sai sót nếu có thể.
2.3.7. Tập viết bài văn có bố cục chặt chẽ, sắp xếp ý phù hợp với yêu
cầu của đề bài:
Để học sinh viết được bài văn hay, bố cục chặt chẽ cần hướng dẫn học
sinh làm các việc sau:
- Tìm hiểu bài.
- Lập dàn ý.
- Trình bày miệng.
- Viết thành bài văn hoàn chỉnh.
Tả cảnh là dùng lời văn có hình ảnh làm hiện ra trước mắt người đọc bức
tranh cụ thể về một cảnh vật đã làm ta chú ý và cảm xúc sâu sắc. Người tả phải
nắm vững cảnh vật mình định tả có những nết gì nổi bật, đặc sắc và diễn tả lại
bằng những từ ngữ giàu sức gợi cảm, cho thấy rõ hình khối, kích thước, màu
sắc, âm thanh, hương vị,... và những cảm xúc vui, buồn, ngạc nhiên, thích thú,...
khi nhìn cảnh vật. Tả là phải cụ thể, phải làm cho người đọc, người nghe như
trông thấy trước mắt cảnh vật đó. Bài tả phải gợi hình, gợi cảm, phải đạt được
yêu cầu sau:
14



- Tả giống với thực tế nhưng phải tinh tế, sinh động.
- Tả cụ thể và có thứ tự.
- Biết lồng cảm xúc vào các nét tả tự nhiên, đậm đà.
Học sinh phải căn cứ vào nội dung đã lựa chọn để sắp xếp từng ý (theo
thứ tự nào đó: từ ngoài vào trong, từ trước ra sau, từ gần đến xa, … )
Sắp xếp các ý theo đoạn với thứ tự đã chọn cho phù hợp.
Cách làm này giúp các em không tả dài dòng mà các em nắm bắt được cái thần,
cái hồn, cái dáng vẻ đặc biệt của cảnh; bằng ngôn ngữ làm thể hiện lên trước
mắt người đọc một khung cảnh rất thực, sống động. Nói ít gợi nhiều không có
nghĩa là các em chỉ viết vài câu rồi chấm hết một bài văn mà khi tả cảnh không
nên lan man, cái nào cũng tả. Cần phải biết chọn lọc những đặc điểm nổi bật của
cảnh. Khi tả cảnh các em cần chú ý:
+ Tả bao quát toàn cảnh, nêu khung cảnh chung của cảnh vật và nêu
cảm tưởng, cảm nhận chung của em về cảnh vật.
+ Tả từng bộ phận của cảnh theo một trình tự nào đó. Chú ý đặc điểm
của cảnh vật về đường nét, màu sắc, âm thanh, quy mô, chỉ ra những nét riêng,
vẻ riêng của cảnh.
Ví dụ: Quan sát một ngày mùa ở làng quê, nhà văn Tô Hoài đã ghi lại:
“Có lẽ bắt đầu từ những đêm sương sa thì bóng tối đã hơi cứng lại và sáng ngày
ra thì trông thấy màu trời có hơi vàng hơn thường khi. Màu lúa chín dưới đồng
vàng xuộm lại. Nắng nhạt màu vàng hoe….”. Đó chính là vẻ đẹp của một làng
quê khi vào mùa; một quang cảnh rất trù phú, được mùa của bà con nông dân.
Hay cũng một ngày mùa, nhà văn Nguyễn Thị Ngọc Tú đã ghi lại: “Nắng
lên, nắng chan mỡ gà trên những cánh đồng lúa chín. Rất đều, rất gọn nhẹ các
xã viên cúi lưng xuống, Một tay nắm khóm lúa, một tay cắt giật. Một nắm,
hai nắm,…xoèn xoẹt … xoèn xoẹt … lúa chất dồn thành từng đống. … ”. …
Ở những nét nổi bật, tiêu biểu của cảnh người đọc dễ dàng nhận thấy
một không khí làm việc hăng say; một cảnh ngày mùa bội thu và cũng đầy vất

vả của bà con nông dân.
Nhìn chung mỗi giáo viên có một phương pháp giảng dạy, có những biện
pháp đối với học sinh khác nhau song để tiết học đạt kết quả cao thì mỗi học
sinh cũng phải làm tốt các công việc mà giáo viên giao cho.
2.3.8. Đổi mới cách ra đề tập làm văn
Với Tập làm văn, để kích thích hứng thú của học sinh, ta có thể thay đổi
cách ra đề. Bàn về vấn đề này, GS Lê Phương Nga cho rằng thay vì những đề
văn cộc lốc như tả lại khu vườn nhà em, tả lại cánh đồng làng em, tả cô giáo - bố
- mẹ… em, cần có những đề văn khuyến khích và tạo điều kiện để học sinh viết
sáng tạo.
Ví dụ: Thay vì yêu cầu học sinh tả một loài hoa yêu thích, giáo viên có
thể ra đề như sau:
15


"Để lại sắc vàng trong nắng
Cúc vẫy tay chào mùa thu
Để lại hương nồng trong gió
Ngọc lan khẽ bước qua mùa…
Từ ý thơ trên, em hãy tả một loài hoa mà em yêu thích."
- Hay, thay vì yêu cầu học sinh tả dòng sông quê em, giáo viên có thể ra
đề: "Buổi sáng, khi ông mặt trời thức giấc, dòng sông quê em vàng rực rỡ với
những hạt nắng vàng nhảy nhót trên sóng. Buổi trưa, sông lại hiền hòa yên ả
với con đò êm êm khua nước, với những rặng cây xanh mướt nghiêng soi, xanh
mầu xanh thăm thẳm của trời. Em hãy tả lại sự thay đổi của dòng sông quê em
trong ngày để mọi người cùng biết."
- Một ví dụ khác mà Giáo sư Lê Phương Nga sử dụng trong bài giảng
của mình: "Một con sẻ non mép hãy còn vàng óng, trên đầu chỉ có một nhúm
lông tơ rơi từ trên tổ xuống đất. Con chó săn tiến lại gần. Bỗng sẻ mẹ từ một
ngọn cây gần đó lao xuống, lấy thân mình phủ kín sẻ con… Con chó săn bối rối,

đứng dừng lại rồi quay đầu bỏ chạy…
Em hãy đặt mình trong vai sẻ con để kể lại câu chuyện trên và nói lên
cảm nghĩ của mình khi được bảo vệ bằng đôi cánh yêu thương, bằng lòng dũng
cảm của mẹ.
Những đề Tập làm văn kiểu này giúp học sinh có được định hướng rõ
ràng khi viết, không mơ hồ khi bắt tay vào việc làm bài.
2.3.9. Phối hợp các phương pháp và các hình thức dạy học linh hoạt.
Ngoài việc khai thác sự lí thú trong chính nội dung dạy học, hứng thú của
học sinh còn được hình thành và phát triển nhờ các phương pháp, thủ pháp, hình
thức tổ chức dạy học phù hợp với sở thích của các em. Đó chính là cách tổ chức
dạy học dưới dạng các trò thi đố, các trò chơi, tổ chức hoạt động sắm vai, tổ
chức hoạt động học theo nhóm, tổ chức dạy học dự án, tổ chức dạy học ngoài
không gian lớp học...
Đối với môn Tập làm văn, để tạo ra hứng thú cho học sinh, chúng ta có
thể tham khảo một số cách làm sau đây:
- Cho phép HS sáng tạo những nhân vật giả tưởng thú vị và hợp lí.

16


Công việc này giúp học sinh phát huy tối đa trí sáng tạo của mình cộng
với khả năng quan sát thực tế. Mỗi nhóm học sinh có thể cùng nhau xây dựng
một nhân vật giả tưởng với đầy đủ những chi tiết cụ thể về hình dáng, tính cách,
khả năng đặc biệt của nhân vật đó. Thực hiện công việc này, chúng ta có thể cho
học sinh làm việc theo nhóm với những yêu cầu riêng cho từng nhóm như xây
dựng một nhân vật siêu anh hùng có thể giúp Trái Đất thoát khỏi thảm họa diệt
vong do bị thiên thạch va phải; xây dựng hình ảnh bà phù thủy độc ác có những
khả năng đặc biệt khiến mọi người lo lắng; … hoặc đơn giản hơn là xây dựng,
mô tả một bạn bị thất lạc theo cách sau: Đặt một cái ghế vào chỗ trống trong lớp,
giả vờ là chỗ đó của Bin thường ngồi (phải đảm bảo rằng tên người thất lạc bạn

chọn không trùng với tên bạn nào trong lớp). Hãy chỉ vào cái ghế trống đó và
hỏi cả lớp xem Bin ở đâu. Nói cho học sinh biết Bin vẫn thường ngồi ở vị trí của
bạn ấy (chỉ vào cái ghế trống) và hôm qua bạn ấy vẫn ngồi chỗ đó nhưng hôm
nay không có ở đó. Hi vọng là ai đó trong lớp sẽ nghĩ ra lí do tại sao Bin không
có ở lớp hôm nay. Tạo ra tranh luận bằng cách nói rằng bạn đã nghe thấy một lí
do khác. Hỏi xem có ai biết gì khác về chuyện Bin vắng mặt không? Ai là người
cuối cùng nhìn thấy Bin. Tiếp tục giải thích như vậy để học sinh đưa ra các dự
đoán Bin đang ở đâu, vì sao? Cuối cùng, nói rằng vì Bin thất lạc nên chúng ta
phải làm một tờ thông báo tìm người thất lạc, giải thích Bin là ai, mô tả nhận
dạng, tính cách, thói quen của Bin (có thể kèm theo một hình vẽ để mọi người
dễ nhận ra Bin), thông báo là đã nhìn thấy Bin lần cuối cùng ở đâu, có thể liên
lạc với ai nếu các bạn nhìn thấy Bin,… Khi làm xong tờ thông báo hãy dán nó ở
nơi có nhiều bạn trong trường tập trung nhất.
- Tạo ra sự mới mẻ khi giải thích những sự việc hiển nhiên trong thực tế.
Ví dụ: Yêu cầu học sinh sáng tác truyện để giải thích tại sao con Voi có
cái vòi dài, tại sao con Báo có những đốm màu, Tại sao cổ con Hươu lại cao….
sau khi học sinh đọc những câu chuyện như "Trí khôn của ta đây" (giải thích
màu vằn vện trên lưng Hổ và vì sao Trâu không có hàm răng trên) hay Quạ và
Công (giải thích tại sao Công có bộ lông đẹp mà Quạ thì đen thui, xấu xí) …
- Miêu tả một con vật mới lạ:
Yêu cầu HS miêu tả một con vật do các em tự sáng tạo ra. Nó trông như
thế nào? Giống cái gì? Nó sống ở đâu? Nó ăn gì? Nó làm được điều gì?...Sau đó
cho học sinh trao đổi, thảo luận và hoàn thiện bài viết của mình trong nhóm,
trong lớp.
- Tập làm thám tử:
Ví dụ: Giáo viên lấy một số đồ vật của một người nào đó, cho học sinh
quan sát kĩ các đồ vật đó để đoán đặc điểm, tính cách, lứa tuổi, sở thích, ước mơ
17



… của người sở hữa các vật đó. Việc làm này giúp học sinh phát triển khả năng
quan sát, suy đoán vừa loogic, vừa sáng tạo.
- Người nổi tiếng:
Học sinh sẽ thử tưởng tượng mình là một nhân vật nổi tiếng nào đó, Tống
thống Mỹ hay Chủ tịch Triểu Tiên chẳng hạn. Trình bày các công việc mà em
định làm nếu em là nhân vật đó. Dạng yêu cầu này giúp học sinh phát triển khả
năng hùng biện và có hiệu quả rất lớn khi trình bày ý tưởng của mình.
- Viết vòng tròn:
Đây là một hoạt động viết trong đó học sinh cùng nhau sáng tạo nên một
câu chuyện. Hãy cho học sinh một câu mở đầu, ví dụ " Bầu trời xám xịt, những
đám mây nặng nề trĩu xuống, gió thổi ào ào như chuẩn bị có bão. Nam đang hối
hả bước trên đường…" và yêu cầu từng em trong nhóm viết tiếp trong ba phút.
Các em trong nhóm sẽ luân phiên chuyển bài viết của mình đến bạn khác trong
nhóm. Từng em sẽ đọc câu chuyện và tiếp tục viết trong ba phút. Thực hiện việc
này trong ba đến bốn vòng và nhóm cuối cùng sẽ phải kết thúc câu chuyện, đọc
nó lên để mọi người biết câu chuyện đã diễn ra thế nào? …
Ngoài ra, việc cho học sinh được tiếp cận, được đọc những tác phẩm nổi
tiếng phù hợp với lứa tuổi cũng được xem là phương pháp tốt để khơi lên hứng
thú của các em. Việc đọc có vai trò rất hữu ích đối với việc phát triển khả năng
viết cho học sinh, đặc biệt là khi học sinh được đọc những tác phẩm làm say mê
hàng triệu người. Không có cách gì tạo ra hứng thú với tiếng mẹ đẻ và văn
chương ngoài con đường cho trẻ tiếp xúc trực tiếp, càng nhiều càng tốt với
những tác phẩm văn chương, những mẫu hình sử dụng ngôn ngữ mẫu mực vì:
Không làm thân với văn thơ thì không nghe thấy được tiếng lòng chân thật của
nó (Lê Trí Viễn). Có thể kể một số tác phẩm có tính kinh điển trong và ngoài
nước như Đất rừng Phương nam; Dế Mèn phiêu lưu kí; Tuổi thơ dữ dội; Chú bé
có tài mở khóa; Cái tết của mèo con... Không gia đình; Hai vạn dặm dưới đáy
biển; Những cuộc phiêu lưu của TomSoyer; Đảo giấu vàng...
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục,
với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường.

Qua thực tế giảng dạy, thời gian đầu tôi còn gặp một số khó khăn. Song
với lòng nhiệt tình, tâm huyết với nghề tôi đã nghiên cứu và áp dụng các giải
pháp như đã nêu trên trong quá trình giảng dạy kiểu bài Tả cảnh trong phân môn
Tập làm văn ở lớp 5A, tôi nhận thấy kết quả học tập của học sinh có chuyển
biến rõ rệt, các em không còn ngại học Tập làm văn, một số em đã có kỹ năng
quan sát tốt, viết văn có hình ảnh, dung từ chính xác, bố cục rõ ràng, bài viết
sáng tạo hơn. Giáo viên không còn lệ thuộc vào sách giáo viên hoặc sách tham
18


khảo mà đã chủ động hơn trong quá trình giảng dạy, nên qua một năm học tôi đã
thu được kết quả đáng kể.
Qua các bài Tập làm văn, vốn từ của học sinh được mở rộng, tăng cường,
kĩ năng dùng từ, diễn đạt câu trong hoạt động giao tiếp của học sinh được hình
thành và phát triển. Học sinh có ý thức hơn về từ ngữ, về cách dùng từ trong
thực tiễn nói - viết, trong học tập và trong giao tiếp.
Kết quả đạt được qua lần khảo sát chất lượng giữa kì 2 năm học 2017 2018 ở 2 lớp 5A và 5B của Trường Tiểu học Thị Trấn Hậu Lộc như sau:
Lỗi sai

số

Lớp

Sử dụng
Về bố
biện pháp
cục
nghệ thuật

Về diễn

đạt ý

Về đặt
câu

Về dùng
từ

Về chính
tả

SL

SL

SL

SL

SL

%

SL

%

5A
30
(Thực nghiệm)

5C
(Đối chứng)

25

1

4

1

4

%

%

%

%

1

3,3

1

3,3

1


3,3

1

3,3

3

12

4

16

4

16

5

20

Đạt được kết quả trên là nhờ sự nỗ lực của bản thân người giáo viên, sự
cố gắng chăm chỉ học tập của học sinh. Mặt khác, một phần là do sự quan tâm,
chỉ đạo đúng đắn của Ban giám hiệu và chuyên môn nhà trường; một phần
không nhỏ là do bản thân đã xác định đúng vai trò, vị trí của môn Tiếng Việt đặc
biệt là phân môn Tập làm văn. Tôi mạnh dạn đưa ra một số biện pháp về việc
dạy kiểu bài Tả cảnh.
Qua thực tế trong nhiều năm giảng dạy Tập làm văn cùng với việc nghiên

cứu tài liệu, tìm hiểu phương pháp dạy học Tiếng Việt để trao đổi với bạn bè
đồng nghiệp. Tôi hy vọng rằng kinh nghiệm nhỏ bé của mình sẽ phần nào giúp
các đồng chí giáo viên Tiểu học đặc biệt là các giáo viên trực tiếp giảng dạy lớp
5 áp dụng trong quá trình dạy kiểu bài Tả cảnh trong phân môn Tập làm văn của
lớp mình, đơn vị mình góp phần nâng cao hiệu quả dạy học nói chung để thực
hiện tốt mục tiêu giáo dục của cấp học, bậc học.
3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận:
Thầy cô giáo cũng như nghệ sĩ, ngoài việc giảng dạy tri thức, họ còn
mang thiên chức bồi dưỡng tâm hồn, tình cảm, cảm xúc và những rung động
thẩm mĩ cho học sinh. Để khơi gợi sự sáng tạo ở học sinh, không thể bị sự bó
buộc trong những khuôn khổ, những quy định quá chặt chẽ, giáo điều. Thầy cô
nào chỉ chăm chăm vào những điều được ghi trong sách giáo khoa và sách giáo
viên, học thuộc lòng để rồi lên lớp và "diễn" lại theo một quy trình định sẵn,
không sai một bước, thì bất quá cũng chỉ là "thợ dạy" chứ không thể là thầy cô
19


giáo - nghệ sĩ thực thụ được và học sinh của họ sẽ chỉ mãi mãi quanh quẩn với
những bài viết nhàm chán, đồng loạt, không cảm xúc và đặc biệt là thiếu đi sự
sáng tạo của các em.
Qua việc thực hiện đề tài: "Một số biện pháp tạo hứng thú học tập cho
học sinh khi dạy kiểu bài Tả cảnh trong phân môn Tập làm văn lớp 5”, tôi
thấy đây là một hình thức dạy học nhằm tích cực hóa hoạt động của học sinh,
các em hoàn toàn chủ động trong quá trình nhận thức. Đây là một trong những
nguyên tắc giáo dục có hiệu quả. Cụ thể tôi thấy khi vận dụng phương pháp dạy
học này - các tiết học tập làm văn diễn ra tự nhiên, nhẹ nhàng và hiệu quả hơn.
Tất cả các em đều được thực hành luyện tập nhiều. Khắc sâu nội dung kiến thức
từng bài học. Biết vận dụng lý thuyết vào thực tế một cách linh hoạt, sáng tạo.
Đối với đa số học sinh các em đã xác định đúng yêu cầu đề, biết viết câu

văn đúng ngữ pháp, viết đoạn văn, bài văn tương đối hình ảnh. Với học sinh có
năng khiếu, các em đã biết quan sát thực tế một cách chi tiết, biết sử dụng tốt
các biện pháp nghệ thuật trong khi làm bài. Vì vậy bài viết của các em đã có
nhiều sáng tạo và chuyển biến rõ rệt so với đầu năm. Tuy nhiên kết quả không
phải ngày một ngày hai mà có được, nó là cả một quá trình rèn luyện của cả thầy
và trò. Chính vì thế mà khi dạy văn tả cảnh cho học sinh Tiểu học không thể dạy
theo cách dạy cho người lớn mà phải có tính mức độ và đặc biệt phải có một
phương pháp riêng, đặc thù trong quá trình dạy. Giáo viên phải có biện pháp tích
cực, áp dụng thường xuyên, liên tục, có như vậy mới bồi dưỡng được khả năng
viết văn cho học sinh. Cần quan tâm đến mọi đối tượng học sinh trong giờ học.
Tóm lại: Để dạy học tốt môn Tiếng Việt, đặc biệt là kiểu bài “Tả cảnh”
trong phân môn Tập làm văn, bản thân tôi nhận thấy mỗi giáo viên Tiểu học cần:
- Trong mỗi giờ lên lớp các thầy cô giáo không ngừng tự học tập và

nghiên cứu để tìm ra những giải pháp nhằm gây hứng thú cho học sinh để các
học sinh yêu thích, say mê môn Tập làm văn.
- Cần giúp học sinh tích lũy vốn từ ngữ, hình ảnh bằng cách ghi chép lại
các từ ngữ, hình ảnh đẹp, có giá trị từ các mẩu chuyện về ngôn ngữ, từ các bài
tập đọc, các tác phẩm văn thơ, sưu tầm các thành ngữ, tục ngữ... để sinh động
hoá các bài dạy giúp các em hứng thú khi học Tập làm văn.
- Khi dạy các vấn đề lý thuyết về từ ngữ, ngữ pháp giáo viên nên sử dụng
phương pháp nêu vấn đề để kích thích hứng thú, tìm hiểu, khám phá những khái
niệm có phần khô khan, trừu tượng.
- Coi trọng việc sử dụng phương pháp trò chơi học tập trong giờ học cũng
là biện pháp tạo hứng thú học Tập làm văn. Phương pháp này phù hợp với đặc
điểm tâm sinh lý lứa tuổi học sinh Tiểu học nên có khả năng tạo hứng thú, kích
thích sự say mê học tập của học sinh không chỉ trong phân môn Tập làm văn mà
ở cả các môn học khác.
- Giành nhiều thời gian, tâm huyết cho việc chuẩn bị giờ dạy, lập kế
hoạch bài học, chuẩn bị đồ dùng dạy học chu đáo trước khi đến lớp .

20


- Thường xuyên tìm hiểu sách báo tham khảo, nghiên cứu nội dung
chương trình Tiểu học hiện nay. Không ngừng tự bồi dưỡng, tích luỹ vốn tri
thức, kinh nghiệm giảng dạy từ bạn bè đồng nghiệp; học hỏi những giáo án hay
trên sách báo, trên Tạp chí, chuyên san Giáo dục hay Thế giới trong ta…
- Kết hợp giữa dạy luyện từ, luyện câu và tập làm văn một cách nhịp
nhàng trong mỗi tiết học, bài học.
- Tìm hiểu kỹ và chú ý tới tất cả các đối tượng học sinh …
3.2. Kiến nghị
Qua việc thực hiện đề tài: "Một số biện pháp tạo hứng thú học tập cho
học sinh khi dạy kiểu bài Tả cảnh trong phân môn Tập làm văn lớp 5", tôi
nhận thấy rằng thành công có được là cả một quá trình rèn luyện lâu dài của cả
thầy và trò. Thông qua đây, tôi xin được đề xuất:
3.2.1. Đối với học sinh:
Nắm vững các kiến thức về kiểu bài văn tả cảnh, đồng thời mở rộng thêm
hiểu biết thông qua quan sát hàng ngày, sách báo, phim ảnh, internet.... Luôn tìm
tòi, trau dồi khả năng quan sát, tưởng tượng, so sánh, liên tưởng… làm cho bài
văn của các em thêm sinh động hấp dẫn.
3.2.2. Đối với giáo viên:
- Không ngừng học hỏi, tìm tòi để nâng cao hiểu biết cũng như tìm ra
cách truyền đạt kiến thức tốt nhất đến học sinh. Tạo cơ hội cho học sinh mở
rộng hiểu biết về các cảnh vật ở mọi giờ học: trong giờ hoạt động ngoại khóa
bằng cách thông qua hệ thống câu đố về cảnh, trong giờ địa lí, lịch sử địa
phương, trong giờ khoa học, trong giờ tập đọc... Bài văn tả cảnh còn là kết quả
của các bài văn tả: cây cối, đồ vật, con vật, con người,.. cùng những hoạt động
của nó. Chính vì vậy không nên tách rời văn tả cảnh với các dạng văn miêu tả đã
học.
- Trong quá trình dạy học phải tạo thói quen cho học sinh ghi chép

những điều mình quan sát được cũng như những tình cảm, cảm xúc tức thời
trước một đối tượng miêu tả. Bên cạnh việc tạo cho học sinh thói quen tốt, giáo
viên phải là người sát sao trong việc duy trì thói quen đó.
3.2.3. Đối với nhà trường:
- Trang bị máy vi tính, máy chiếu cho các lớp để giáo viên có thể
trình chiếu hình ảnh về cảnh như vậy sẽ giúp các em cụ thể hóa và không mơ hồ
về đối tượng miêu tả.
- Cần bổ sung thêm nhiều sách tham khảo, báo, truyện, các tác phẩm văn
học, thơ ca bổ ích, tạo điều kiện cho học sinh được tìm hiểu nhằm nâng cao vốn
từ ngữ, đồng thời có thêm kinh nghiệm để học tốt các nội dung khác, các môn
học khác.
- Tạo điều kiện cho học sinh được tham gia nhiều các buổi học ngoại khóa,
các hoạt động thực tế, thăm quan, dã ngoại tìm hiểu về cảnh,… nhằm tăng thêm
vốn sống, từ đó giúp các em có vốn từ ngữ phong phú hơn, rèn luyện óc quan
sát, kĩ năng quan sát tốt hơn. Điều đó sẽ rất tốt cho các em khi viết văn.
3.2.4. Đối với các cấp, ngành:
21


- Cần tổ chức thêm các chuyên đề về dạy Tập làm văn cho Giáo viên Tiểu
học vì đây là một phân môn khó.
- Nên đổi mới cách cấu trúc các bài học Tập làm văn trong sách giáo khoa
để có sự liên kết về cấu tạo bài văn, không nên dạy theo từng phần, từng đoạn
như hiện nay.
Trên đây là một số kết quả mà bản thân tôi đã đạt được. Mặc dù rất cố
gắng trong quá trình nghiên cứu song với khả năng có hạn, thời gian nghiên cứu
còn hạn chế, các ý kiến của tôi còn mang tính chất chủ quan nên chắc chắn
không tránh khỏi những thiếu sót. Kính mong được sự góp ý chân thành của tất
cả các đồng chí, đồng nghiệp.
Xin chân thành cám ơn !

XÁC NHẬN CỦA
THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Hậu Lộc, ngày 18 tháng 3 năm 2018
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết,
không sao chép nội dung của người khác.
NGƯỜI VIẾT

Hoàng Thị Năm

22



×