Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

SKKN một số giải pháp rèn kĩ năng làm tốt văn miêu tả cho học sinh lớp 4a trường TH thiết ống 1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.09 MB, 31 trang )

MỤC LỤC
ĐỀ MỤC
1. Mở đầu
1.1. Lí do chọn đề tài
1.2. Mục đích nghiên cứu
1.3. Đối tượng nghiên cứu
1.4. Phương pháp nghiên cứu
2. Nội dung
2.1. Cơ sở lí luận
2.2. Thực trạng học sinh của lớp viết bài văn miêu tả khi chưa

TRANG
1
1
2
2
2
2
2
3

áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
2.3. Một số giải pháp rèn kĩ năng cho học sinh lớp 4 làm tốt

6

bài văn miêu tả
2.3.1. Đối với giáo viên đứng lớp
2.3.2. Đối với học sinh
2.4. Hiệu quả việc áp dụng các biện pháp vào dạy học
3. Kết luận và kiến nghị


3.1. Kết luận
3.2. Kiến nghị

6
6
17
18
18
19

1. MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài:
Dạy học tiếng Việt trong trường Tiểu học nói chung, và dạy phân môn
Tập làm văn nói riêng là một vấn đề vô cùng quan trọng. Nhất là Tập làm văn,
môn tổng hợp cao nhất của tất cả các phân môn Tiếng Việt khác ở bậc Tiểu học.
Như chúng ta đã biết phân môn Tập làm văn ở bậc học Tiểu học là nơi để học
sinh thể hiện những kỹ năng sử dụng Tiếng Việt cũng như vốn sống, vốn văn
học, năng lực cảm thụ văn học một cách tổng hợp. Cũng như các thể loại văn
1


nói chung, văn miêu tả có vị trí quan trọng trong chương trình Tiếng Việt nói
chung, Tập làm văn ở Tiểu học nói riêng. Việc dạy học sinh làm tốt bài văn
miêu tả là một vấn đề được đặt ra từ nhiều năm nay. Trong thực tế ai cũng nhận
ra những điều mình đã thấy nhưng làm thế nào để nói hoặc viết lại những điều
đó cho mọi người cùng hiểu thì chúng ta phải miêu tả. Vì vậy, dạy học văn
miêu tả là một vấn đề thiết yếu.
Văn miêu tả ở bậc Tiểu học nói chung và ở lớp 4 nói riêng mang tính
thông báo thẩm mỹ chứa đựng tình cảm của người viết. Mặt khác, thể hiện tính
sinh động và tạo hình. Bài văn miêu tả giúp các em thể hiện tình cảm và tổng

hợp các kiến thức đã học ở các phân môn như: Tập đọc, Chính tả, Luyện từ và
câu, Kể chuyện, … đồng thời tạo cơ sở để các em học tốt các thể loại văn khác
như văn kể chuyện, tường thuật, tả cảnh sinh hoạt, … góp phần cùng các môn
học khác giúp phát triển ngôn ngữ, mở rộng vốn sống, rèn luyện tư duy cho học
sinh. Các em có thể “vẽ” lại sự vật, hiện tượng trong thực tế một cách sinh
động thông qua ngôn ngữ của mình giúp người nghe, người đọc hình dung
được các sự vật, hiện tượng ấy. Từ nhận thức trên cho thấy các em làm tốt bài
văn miêu tả cũng có nghĩa là đã hoàn thành tương đối tốt các phân môn khác.
Bằng cách miêu tả các em trau dồi ngôn ngữ nói và viết cho mình. Từ đó mà
phát triển tư duy, bồi dưỡng tâm hồn, cảm xúc thẩm mĩ, hình thành nhân cách
cho học sinh.
Nhiều năm giảng dạy học sinh lớp 4 tại trường Tiểu học Thiết Ống 1, tôi
thấy phần đa các em ngại học Tiếng Việt nhất là Tập làm văn, gây ảnh hưởng
không nhỏ đến hoạt động giáo dục và chất lượng giáo dục. Mà hiện tại giáo
viên trong tổ nói riêng và nhà trường nói chung vẫn chưa tìm ra giải pháp hữu
hiệu để nâng cao chất lượng viết văn miêu tả cho học sinh. Hơn nữa, cũng
chưa có tài liệu nghiên cứu nào hướng dẫn sâu sát giải pháp khắc phục khó
khăn và dạy viết văn miêu tả hiệu quả cho học sinh.
Vấn đề này khiến tôi suy nghĩ, trăn trở suốt trong nhiều năm qua, làm sao
để nâng cao chất lượng giảng dạy Tập làm văn, nhằm tháo gỡ những khó khăn
của thầy và trò khi dạy và học mảng kiến thức về viết văn miêu tả. Với mong
muốn nâng cao hiệu quả chất lượng dạy và học, trao đổi những kinh nghiệm
trong việc dạy Tiếng Việt ở Tiểu học đặc biệt là phân môn Tập làm văn phần
viết văn miêu tả, tôi mạnh dạn chọn đề tài nghiên cứu: “Một số giải pháp rèn
kĩ năng làm tốt văn miêu tả cho học sinh lớp 4A ở Trường Tiểu học Thiết
Ống 1.”
Để hoàn thành SKKN này tôi đã áp dụng những kinh nghiệm tích luỹ
được trên chính đối tượng học sinh lớp mình phụ trách – lớp 4A trường Tiểu
học Thiết Ống 1. Tổng số học sinh: 30 em.
1.2. Mục đích nghiên cứu:

Giúp học sinh hình thành các kỹ năng quan sát, phân tích, đưa ra nhận
xét, chứng kiến của bản thân; biết truyền những rung cảm của mình vào đối
tượng miêu tả; biết sử dụng những từ ngữ có giá trị biểu cảm, những câu văn
sáng rõ về nội dung. Các em biết sử dụng, vận dụng các hình ảnh so sánh, nhân
2


hóa để bài văn miêu tả được phong phú và sinh động, nâng cao chất lượng khi
làm bài. Qua đó, bồi dưỡng cho các em tình yêu quê hương đất nước, vốn sống,
vốn ngôn ngữ và khả năng giao tiếp. Để từ đó học sinh lớp 4A viết bài văn
miêu tả đạt kết quả tốt, viết những bài văn miêu tả có nội dung phong phú,
mang tính nghệ thuật cao và giàu cảm xúc.
1.3. Đối tượng nghiên cứu:
* Đối tượng nghiên cứu:
Một số giải pháp rèn kĩ năng làm tốt văn miêu tả cho học sinh lớp 4A ở
Trường Tiểu học Thiết Ống 1.
* Phạm vi nghiên cứu:
Do điều kiện chủ quan nên đề tài chỉ tập trung vào một số giải pháp dạy
học sinh lớp 4 viết bài văn miêu tả qua hai dạng bài “ Tả cây cối ” và “ Tả con
vật ” ở lớp 4A trường tiểu học Thiết Ống 1.
1.4. Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp nghiên cứu lí luận.
- Phương pháp nghiên cứu thực tiễn.
- Phương pháp đàm thoại vấn đáp.
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm.
- Phương pháp xử lý thông tin.
- Phương pháp khảo sát, điều tra, thực nghiệm.
2. NỘI DUNG.
2.1. Cơ sở lý luận:
Giáo dục là nền tảng của xã hội, là cơ sở tiền đề để quyết định sự phồn

vinh của đất nước. Giáo dục cung cấp những hiểu biết về kho tàng tri thức của
nhân loại cho biết bao thế hệ, giúp cho các em những hiểu biết cơ bản, cần thiết
về khoa học và cuộc sống. Mặt khác, giáo dục còn góp phần hình thành và bồi
dưỡng nhân cách tốt đẹp cho học sinh, đặc biệt là giáo dục Tiểu học, đây là bậc
học mang tính chất nền móng để các em tiếp tục học tiếp các bậc học cao hơn.
Ở Tiểu học, Tiếng việt là môn học giữ vị trí quan trọng, bởi nó là công cụ để
giao tiếp và tư duy. Không một quốc gia nào không chăm lo đến việc dạy tiếng
mẹ đẻ trong nhà trường Tiểu học. Đó là môn học góp phần hình thành và phát
triển ở học sinh 4 kỹ năng: nghe – nói – đọc – viết. Trong môn Tiếng Việt thì
phân môn Tập làm văn lại chiếm 1 vị trí khá quan trọng.
Chương trình Tập làm văn lớp 4 có 3 dạng bài được thiết kế tổng cộng 62
tiết/năm. Cụ thể như sau:
- Dạng văn Kể chuyện : 19 tiết.
- Dạng văn miêu tả : 30 tiết.
- Các loại văn bản khác: 13 tiết .
Như vậy chiếm phần lớn trong phân môn Tập làm văn ở lớp 4 là văn
miêu tả. Trong đó dạng bài văn tả cây cối thuộc thể loại văn miêu tả gồm 11 tiết
chiếm 37% tổng số tiết trong văn miêu tả và chiếm 18,6 % trong tổng số tiết
TLV của chương trình.

3


Ta thấy sự phân bố các tiết trong văn miêu tả cây cối được trình bày rất
lô gich, mỗi tiết được luyện tập một nội dung từ đơn giản đến phức tạp. Số
lượng văn tả cây cối chiếm nhiều tiết so với tổng số tiết văn miêu tả nên việc
rèn kĩ năng viết văn miêu tả nói chung, văn tả cây cối nói riêng là rất quan
trọng.
2.2. Thực trạng học sinh của lớp 4A làm bài văn miêu tả khi chưa áp dụng
sáng kiến kinh nghiệm:

2.2.1. Thuận lợi:
Trường Tiểu học Thiết Ống 1, có đủ điều kiện về CSVC đáp ứng được
yêu cầu dạy và học; đội ngũ CBGV đủ về cơ cấu, số lượng, trình độ đào tạo
chuẩn trở lên 100%; được cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương quan tâm, ủng
hộ; phụ huynh đồng thuận. Trong những năm qua, nhà trường luôn hoàn thành
tốt và xuất sắc nhiệm vụ năm học, được tặng nhiều danh hiệu và hình thức khen
thưởng cấp huyện, cấp tỉnh. Đây là những điều kiện thuận lợi cho việc thực
hiện nhiệm vụ của nhà trường trong năm học.
2.2.2. Khó khăn:
Bên cạnh thuận lợi, nhà trường cũng có những khó khăn ảnh hưởng đến
việc thực hiện nhiệm vụ dạy và học trong nhà trường.
Đó là: điều kiện kinh tế xã hội của địa phương còn khó khăn, học sinh
chủ yếu là người dân tộc; trình độ dân trí và điều kiện kinh tế giữa các thôn,
phố trong xã không đồng đều; nhiều phụ huynh chưa quan tâm đến việc học tập
của con cái, còn giao phó cho nhà trường; một số học sinh chưa thật sự chăm
chỉ, thành tích học tập chưa tốt, đặc biệt là phân môn Tập làm văn nói riêng và
môn Tiếng Việt nói chung.
2.2.3. Thực trạng:
*Đối với giáo viên:
Qua dự giờ thăm lớp của đồng nghiệp ở trường Tiểu học Thiết Ống 1, tôi
nhận thấy: Giáo viên đã đổi mới phương pháp dạy học, bám sát nội dung trong
sách giáo khoa, biết vận dụng một số hình thức dạy học để học sinh chiếm lĩnh
kiến thức. Song việc vận dụng phương pháp, hình thức dạy lại chưa linh hoạt,
giáo viên chưa chủ động trong việc tổ chức các hoạt động, các hình thức tổ
chức dạy học. Giáo viên chỉ chú trọng lí thuyết, coi nhẹ rèn luyện kĩ năng, chỉ
hướng dẫn chung chung để học sinh tự mày mò...Một số giáo viên chưa quan
tâm để nắm vững chương trình phân môn Tập làm văn của cấp học; chưa tham
khảo thêm các tài liệu.
*Đối với học sinh:
- Do đặc điểm tâm lý lứa tuổi của học sinh tiểu học ham chơi, khả năng tập

trung chú ý nhận thức các sự vật chưa đầy đủ, năng lực sử dụng ngôn ngữ chưa
thật phát triển. Tài liệu tham khảo cho phân môn Tập làm văn lại quá ít, các em
chưa hiểu được bản chất các khái niệm, chưa nắm vững được nội dung, yêu cầu
của các kiểu bài miêu tả trong chương trình nên khi làm bài các em miêu tả
chung chung, không có sắc thái riêng biệt của đối tượng cần tả.

4


- Hầu hết các em được sinh ra và lớn lên ở vùng nông thôn, kinh tế xã hội ở địa
phương phát triển chậm, các thông tin báo chí, tài liệu tham khảo rất ít. Chính
vì thế bài văn của các em còn nghèo nàn về ý, về cách thể hiện để bài văn sinh
động hấp dẫn. Đa số bài viết của các em mang tính kể lể, liệt kê các chi tiết, đối
tượng được miêu tả.
- Các em thực sự lúng túng khi viết bài văn miêu tả, hệ thống từ ngữ gợi tả, gợi
cảm trong bài ít được sử dụng. Bài văn khô khan, nhiều em viết còn quá ngắn,
dùng từ viết câu chưa phù hợp, chưa biết bộc lộ cảm xúc và sử dụng biện pháp
so sánh, nhân hóa khi viết văn miêu tả.
- Các em không thích học Tiếng Việt nói chung, Tập làm văn nói riêng bằng
môn Toán và các môn học khác.
Trong nhiều năm giảng dạy, bản thân tôi cũng đã học hỏi, chia sẻ với
đồng nghiệp, nghiên cứu nhiều tài liệu nhưng vẫn chưa thấy tài liệu nào có
cách hướng dẫn học sinh viết được bài văn miêu tả hay, sinh động. Từ thực tế
đó tôi đã suy nghĩ, trăn trở phải làm thế nào để các em có hứng thú, say mê học
Tiếng Việt nói chung, Tập làm văn nói riêng; giúp các em viết được bài văn
sinh động, hay. Tôi đã thưc hiện như sau:
Khi nhận lớp được một thời gian, tôi tiến hành khảo sát lại, trước mắt
ôn lại các bài văn đã làm ở tiết trước. Qua xem xét các bài làm của học sinh ở
tất cả các thể loại văn, tôi nhận thấy điểm yếu nhất của học sinh lớp tôi là bài
viết tập làm văn miêu tả. Vì vậy mà tôi mạnh dạn đưa ra một vài cách kiểm tra

để tìm nguyên nhân, hướng giải quyết.
- Kiểm tra lại kiến thức kĩ năng của các em ngay tại lớp qua kiểu bài văn
miêu tả đồ vật mà các em đã được học.
Đề bài : Em hãy tả lại cái cặp của em (hoặc bạn em) mà em thích nhất.
Với đề bài này tôi đã tiến hành kiểm tra khả năng làm bài văn miêu tả
của học sinh lớp 4A tôi dạy và lớp 4B lớp đối chứng. Kết quả đạt được như
sau:
Lớp
4A
4B

Số học
Hoàn thành tốt
sinh được
kiểm tra Số bài
%
30 em
3
10
30 em
3
10

Hoàn thành
Số bài
18
17

%
60

56,7

Chưa hoàn
thành
Số bài
%
9
30
10
33,3

Với kết quả bài làm của học sinh ở trên thì tỉ lệ học sinh chưa hoàn thành
khá cao vì vậy tôi đã tiến hành khảo sát để xem học sinh nắm kiến thức lí
thuyết như thế nào qua một số câu hỏi sau:
- Để làm tốt bài văn miêu tả khi quan sát ta phải chú ý điều gì?
- Bài văn miêu tả gồm mấy phần? Đó là những phần nào?
- Nêu cấu tạo của bài văn miêu tả?
- Để viết được bài văn miêu tả hay, sinh động ta thường dùng những giải
pháp nghệ thuật nào?
5


Với các câu hỏi khảo sát như trên đa số học sinh được kiểm tra trả lời
một cách trôi chảy. Từ thực trạng trên tôi đã tiến hành tìm hiểu nguyên nhân
những điểm còn yếu trong bài làm của học sinh để tìm giải pháp khắc phục.
Nguyên nhân:
Phân môn Tập làm văn là phân môn khó dạy so với các môn học khác,
giáo viên dạy còn thiếu linh hoạt trong vận dụng các phương pháp và chưa sáng
tạo trong việc tổ chức các hoạt động học tập của học sinh. Việc cung cấp vốn
sống, vốn hiểu biết cho các em qua các phân môn của Tiếng Việt và các môn

học khác chưa được chú trọng. Mặt khác, do đặc điểm tâm lý lứa tuổi của học
sinh tiểu học còn ham chơi, khả năng tập trung chú ý nhận thức các sự vật còn
hạn chế, năng lực sử dụng ngôn ngữ chưa thật phát triển, nên việc học tập ở
phân môn Tập làm văn gặp những khó khăn như: thiếu vốn sống, vốn hiểu biết
về đối tượng cần miêu tả, kể chuyện, ... hoặc không biết cách diễn đạt về đối
tượng cần kể, cần tả.
- Học sinh đến trường nhưng chưa có động cơ học tập đúng đắn.
- Các em chưa có thói quen đọc sách, đọc truyện để tích lũy vốn từ; ít nghiên
cứu bài trước khi đến lớp, không thực hiện đầy đủ yêu cầu của GV.
- Trong giờ học, các em ít tập trung, không động não để phát biểu xây dựng bài
mà chỉ đợi giáo viên gợi ý.
- Chưa biết tự khám phá ra kiến thức mới vì vậy không hình thành được kỹ
năng, kỹ xảo.
- Các em chưa có kỹ năng luyện tập, thực hành, không có hứng thú học tập.
- Tuy đã nắm vững lý thuyết nhưng học sinh chưa biết vận dụng vào thực tế bài
làm vì vậy bài làm của các em vẫn còn tồn tại những điểm yếu. Cụ thể là :
+ Những bài đạt ở mức Hoàn thành tốt: Tuy học sinh đã nắm vững yêu
cầu và nội dung miêu tả, biết lồng cảm xúc của mình khi miêu tả nhưng sử
dụng biện pháp nghệ thuật đặc trưng như so sánh, nhân hoá còn rất hạn chế.
+ Những bài đạt ở mức Hoàn thành: Các em chưa sử dụng biện pháp
nghệ thuật đặc trưng, chưa lồng được cảm xúc của mình vào bài văn miêu tả,
hệ thống từ gợi tả, gợi cảm còn ít dẫn đến bài văn thiếu sinh động.
+ Những bài văn đạt ở mức chưa hoàn thành: Các em chưa nắm được
phương pháp quan sát, tìm ý, bố cục chưa rõ ràng, chưa sử dụng biện pháp
nghệ, so sánh, nhân hóa khi miêu tả; dùng từ viết câu chưa hợp lý; chưa biết
xác định nội dung bài văn miêu tả; chưa bộc lộ được cảm xúc trong bài văn
miêu tả; nội dung sơ sài, ,…. mang tính kể lể, liệt kê dẫn đến bài văn ngắn, khô
khan thiếu cảm xúc, không sinh động.
Tóm lại: Luyện kỹ năng viết bài văn miêu tả cho học sinh là rất cần thiết và
cấp bách.

2.3. Một số giải pháp rèn kĩ năng cho học sinh lớp 4A làm tốt bài văn miêu
tả:
2.3.1. Đối với giáo viên đứng lớp:
Cần tìm hiểu và nắm vững chương trình sách giáo khoa toàn cấp học để
giúp các em củng cố lại kiến thức đã học về văn miêu tả ở lớp 2, lớp 3. Qua
6


từng tiết học đối với từng bài cụ thể để từ đó các em khai thác kiến thức này và
vận dụng vào bài văn.
Mặt khác, giáo viên cần tham khảo thêm tài liệu, sách hướng dẫn giảng
dạy, tạp chí giáo dục của Bộ Giáo dục, tạp chí Giáo dục Thanh Hoá để chọn ra
phương pháp thích hợp với đối tượng học sinh của lớp mình.
Để vận dụng vào bài dạy ở lớp 4 khi làm bài văn miêu tả thường trải qua
các khâu cơ bản là: Quan sát, tìm ý cho bài văn miêu tả, lập dàn ý chi tiết, trao
đổi ý lời văn qua tiết luyện tập xây dựng đoạn, làm bài viết rồi được học tập rút
kinh nghiệm qua tiết trả bài.
2.3.2. Đối với học sinh:
Các em cần có thói quen chuẩn bị bài ở nhà, rèn tính tích cực xây dựng
bài, rèn tính độc lập, tự giác, sáng tạo trong các giờ học.
Tổ chức học nhóm để cùng trao đổi những điểm vướng mắc.
Tham khảo một số bài văn miêu tả ở các tài liệu. Sưu tầm các đoạn văn,
bài văn miêu tả hay để cùng nhau tham khảo.
Bồi dưỡng cho mình tình yêu văn học bằng thói quen đọc sách và đọc có
chọn lọc. Hiểu được nội dung văn bản và biện pháp nghệ thuật của bài thơ, bài
văn đó; biết ghi chép những chi tiết, những hình ảnh, những đoạn thơ, đoạn văn
đặc sắc; biết lắng nghe và chắt lọc những ý của thầy cô. Biết tổng hợp kiến
thức để bổ sung thêm cho vốn kiến thức của mình.
Đồng thời với việc giảng dạy theo quy trình chung của chương trình sách
giáo khoa như trên, để học sinh đạt được hiệu quả cao khi viết bài văn miêu tả,

trong các tiết học tôi đã vận dụng một số giải pháp rèn kĩ năng làm tốt văn
miêu tả cho học sinh, cụ thể là:
*Giải pháp 1: Dạy học sinh quan sát, tìm ý cho bài văn miêu tả:
a. Quan sát:
Quan sát là sử dụng các giác quan để xem xét, nhận biết sự vật hiện
tượng. Trong văn miêu tả, khi quan sát đồ vật, cây cối hay con vật thì học sinh
được rèn luyện cách quan sát đối tượng trong quan hệ gần gũi giữa người và
vật, giữa người và thiên nhiên từ đó làm cho tình cảm yêu mến, gắn bó với
thiên nhiên, với người và vật xung quanh của trẻ được nảy nở, tâm hồn, tình
cảm của trẻ thêm phong phú.
Chính vì thế quan sát có vai trò quan trọng trong bài văn miêu tả, muốn
miêu tả tốt thì phải biết quan sát tốt, đây là điều kiện cơ bản để làm tốt bài văn
miêu tả. Một số học sinh do chưa nắm được phương pháp quan sát dẫn đến bài
văn có nội dung sơ sài, chưa làm nổi bật được đối tượng miêu tả. Đối với
những học sinh này cần hình thành phương pháp và kỹ năng quan sát. Kỹ năng
quan sát chủ yếu được hình thành trên cơ sở luyện tập. Thường trước khi học
tiết quan sát tìm ý, các em học sinh đã sử dụng khả năng này nhiều lần và
thường không tự giác, thường là sơ lược, đơn giản, …Chính vì vậy trước mỗi
giờ dạy tôi thường hướng dẫn học sinh ra sân trường quan sát thực tế từng loại
cây và hướng dẫn học sinh cách quan sát. Đó là khi quan sát, các em cần chọn
cho mình một vị trí quan sát thích hợp và không nhất thiết phải là một vị trí cố
7


định. Có thể là từ xa rồi đến gần, có khi là từ trên nhìn xuống hay từ dưới nhìn
lên, … tôi hướng dẫn các em hãy dùng mắt mà quan sát vóc dáng, kích thước,
màu sắc. Tay xoa trên thân cây, trên mặt lá, tai nghe tiếng gió, tiếng chim, tiếng
lá thầm thì, mũi xác định hương thơm của hoa và miệng để rõ vị ngọt của quả,
… Hay đối với con vật, khi quan sát các em phải nhìn nó lúc bình thường, theo
dõi nó trong sinh hoạt, nhiều khi phải tìm hiểu thêm bằng cách hỏi những

người am hiểu. Ví dụ: Có con vật ta vỗ về nó, cho nó ăn; có con ta có thể ôm
ấp, vuốt ve và với gà trống, với chim ta dùng tai để nghe nó gáy, nó hót, …
b. Tìm ý:
Việc tìm ý đi liền với việc quan sát. Vừa quan sát vừa tìm ý và tìm được
ý nào, tôi hướng dẫn các em phải ghi luôn vào vở nháp. Ý đi liền với từ để diễn
đạt. Bước này chưa yêu cầu các em diễn đạt thành lời nói hoặc câu viết nhưng
các em đã phải có ý thức lựa chọn từ ngữ thích hợp để diễn đạt ý. Kết quả cuối
cùng của việc quan sát là học sinh tìm được các ý chi tiết cần thiết chuẩn bị
cho bài văn miêu tả. Để học sinh có được đầy đủ các chi tiết chuẩn bị cho bài
văn miêu tả tôi thường trực tiếp hướng dẫn học sinh quan sát đối tượng sẽ miêu
tả.
Ví dụ: tả con mèo, tôi yêu cầu học sinh quan sát kĩ con mèo. Có thể
quan sát theo một trình tự nhất định:
- Nhìn bao quát con mèo.
- Quan sát từng bộ phận của con mèo: Quan sát mình, đầu, đuôi, chân;
từng bộ phận theo cấu tạo của con mèo.
- Kết hợp quan sát bằng nhiều giác quan như: Mắt, tay, tai, … và quan
trọng nhất là phải cố gắng tìm ra những đặc điểm riêng biệt của con mèo mà
em định tả.
Qua hệ thống câu hỏi gợi mở để học sinh nêu cho được các đặc điểm nổi
bật của con mèo:
- Về hình dáng: thon dài giống ... gì?...
- Về bộ lông: Có màu gì? Mượt ra sao?
- Về đầu: tròn to bằng quả gì? Mắt, mũi, tai như thế nào?...
Hay như tả cây bàng tôi hướng dẫn học sinh trực tiếp quan sát cây bàng
ở sân trường. Để học sinh quan sát có hiệu quả tôi đặt một số câu hỏi gợi ý.
Loại câu hỏi này là chỗ dựa để học sinh quan sát, không dùng những câu hỏi
mang tính áp đặt các nhận xét do giáo viên chuẩn bị.
Khi quan sát, tôi cho học sinh tự do chọn vị trí quan sát. Có thể là quan
sát từ xa đến gần, có khi là từ trên nhìn xuống hay từ dưới nhìn lên. Các em

cũng có thể trao đổi nhỏ với nhau, có thể nhìn, sờ, ngắm, … rồi ghi chép lại.
Đối với những học sinh còn bỡ ngỡ lúng túng trong việc quan sát tôi
hướng dẫn quan sát cụ thể, tỉ mỉ, hướng dẫn các em tập vận dụng từng giác
quan như: Dùng mắt để quan sát hình dáng, các bộ phận (thân, cành, lá, …) của
cây bàng. Dùng tay để sờ vào thân cây, dùng tai để lắng nghe tiếng chuyển
động của lá khi có gió thổi, … gợi ý cho học sinh từ ngữ cần dùng để ghi chép
các nhận xét.
8


Đối với những học sinh khá, giỏi cần đi vào trọng tâm của đối tượng
được miêu tả nhằm rèn luyện sự tinh tế trong quan sát đó là: phát hiện ra những
điểm đặc sắc ít người thấy.
Ví dụ: Nhìn chiếc lá bàng rơi có học sinh nhận ra cái dáng "lìa cành
chênh chếch bay nghiêng".
Qua những tiết học như thế học sinh có ý thức quan sát tốt. Dẫn đến hình
thành phương pháp và kỹ năng quan sát ở học sinh. Học sinh không những có
đủ tư liệu để làm bài văn đó mà còn biết quan sát tốt những đối tượng miêu tả
khác.
Hay khi miêu tả con mèo tôi hướng dẫn các em quan sát trực tiếp con
mèo của nhà mình (nếu có) hoặc con mèo nhà hàng xóm. Khi quan sát tôi
hướng dẫn các em tập trung vào hai mặt:
- Hình dáng của con mèo với những đặc điểm bao quát và những chi tiết
cụ thể của từng bộ phận ( đầu, thân, chân, đuôi, ….).
- Những hoạt động hàng ngày của nó như ăn, uống, nằm phơi nắng, đùa
nghịch, săn bắt chuột, …
Sau khi quan sát và tìm ý xong, tôi yêu cầu các em phải biết sắp xếp các
ý theo một thứ tự thích hợp để chuẩn bị cho việc diễn đạt bằng lời nói hay câu
viết. Ta gọi đấy là công việc lập dàn bài.
Ví dụ: Dàn ý bài văn tả cái bút.

Mở bài: Chủ nhật vừa qua mẹ mua cho em một cái bút dạ kim để viết
bài.
Thân bài:
Tả bao quát: Cái bút dài bằng một gang tay em, tròn như ngón tay út,
bằng nhựa, màu sắc trang nhã.
Tả từng bộ phận:
- Nắp bút màu tím, đầu tròn màu trắng phần cài cũng màu trắng.
- Thân bút màu trắng, in hình hai con ong và dòng chữ bee bee nhiều
màu, dưới có dòng chữ nhỏ màu đen: Bút dạ kim PL – 04, dòng ghi hiệu bút
Thiên Long và mã vạch.
- Đầu bút thon dài, có khấc tròn để giữ bút cho chặt.
- Phần cuối bút thon tròn, màu tím.
- Ruột bút nhô ra một hình chóp nón màu tím, đầu nhọn, ngòi viết bằng
dạ kim nhỏ xíu nối liền với bầu mực nằm dài trong thân bút.
Kết bài: Ích lợi của cái bút, ý thức giữ gìn bút và tình cảm của em đối với
cái bút.
Sau khi vận dụng giải pháp này các em đã biết cách quan sát, tìm ý, sắp
xếp các ý theo một thứ tự thích hợp để làm bài.
* Giải pháp 2: Dạy học sinh xây dựng nội dung bài văn miêu tả:
Từ những tư liệu thu thập được qua quá trình quan sát học sinh cần phải
lựa chọn ý, sắp xếp ý để xây dựng bài văn miêu tả. Nội dung đủ và phong phú
là yêu cầu không thể thiếu được của một bài văn miêu tả tốt.

9


Giải quyết vấn đề này ta cần trải qua các khâu như (quan sát, tìm ý, lập
dàn bài chi tiết).
Mỗi bài văn miêu tả của học sinh cần có đủ ba phần ( mở bài, thân bài,
kết luận) đủ ý, đúng yêu cầu và diễn đạt phong phú.

Khi làm bài văn miêu tả yêu cầu đầu tiên của tôi là học sinh phải tìm
hiểu đề. Khi phân tích đề, học sinh có dịp hướng tới cái chân, cái thiện, cái mĩ
được định hướng trong đề bài. Vì vậy, tôi cho học sinh đọc kỹ đề bài nhiều lần
rồi trả lời các câu hỏi về vấn đề chính trong đề.
Ví dụ: Bài văn thuộc thể loại gì? Đối tượng miêu tả? Thời điểm miêu
tả ? Gợi cảm xúc như thế nào? ...
Bám sát yêu cầu của đề bài, huy động vốn thực tế mà học sinh đã chuẩn
bị ở phần quan sát tìm ý, xây dựng dàn bài riêng của từng kiểu bài dựa vào dàn
bài chung của bài văn miêu tả.
Ở phần chính của bài văn, tôi yêu cầu các em phát triển chung bằng
nhiều ý khác nhau.
Ví dụ với đề bài:. Em hãy tả một câybóng mát mà em thích nhất.
Tôi hỏi : Phần thân bài gồm những ý gì?
Học sinh trả lời: Gồm có những ý:
- Tả bao quát cây có bóng mát.
- Tả từng bộ phận của cây.
- Tả cảnh vật có liên quan đến cây.
Khi học sinh nêu được các ý chính này tôi cho học sinh phát triển nội
dung trong mỗi ý.
Tôi hỏi: Tả bao quát hình dáng cây có bóng mát hoặc cây hoa như thế
nào?
Học sinh nêu ý rất đa dạng, tôi cho các em phát biểu tự nhiên, gợi ý để
các em nhận xét, bổ sung cho nhau rồi chốt lại các ý.
- Nhìn từ xa: Tầm cao, ngọn và lá.
- Đến gần: Mặt đất dưới gốc, gốc cây, cành to, rễ phụ, …
Sau khi xây dựng xong ý tả bao quát tôi hướng dẫn các em tả chi tiết
từng bộ phận của cây. Chú ý đến sự liên kết giữa các bộ phận được miêu tả.
Giáo viên hỏi: Em sẽ tả những bộ phận nào của cây?
Học sinh nêu ý, hỗ trợ bổ sung ý kiến cho nhau.
Sau đó tôi chốt lại:

- Chọn một số bộ phận và tả chi tiết các bộ phận đó như: Gốc, thân, lá,
hoa, quả,...
- Hoặc đối với học sinh khá giỏi chỉ cần tả lướt qua các bộ phận, mỗi bộ
phận chỉ điểm một hai chi tiết đặc sắc.
Bên cạnh nội dung trên tôi còn lưu ý học sinh tả khung cảnh thiên nhiên
nơi cây mọc, hoạt động của người hay vật có liên quan đến cây.
Các chi tiết liên quan đến sự vật : mưa xuân, nắng mùa hạ, gió mùa thu,
chim chóc, ong bướm, âm thanh của tiếng chim,…Đặc biệt là con người cùng
những tình cảm gắn bó với cây, sự chăm sóc, bảo vệ cây,...
10


- Cây có ích lợi gì ? (cho bóng mát, cho ta quả, bảo vệ bầu không khí
tronglành.)
Như vậy mỗi em mỗi ý, mỗi vẻ khác nhau nhưng vẫn đảm bảo đủ ý chính.
Tuy nhiên, nếu chỉ đủ ý chính thì bài văn chưa đạt, một bài văn hay cần phải
phong phú về nội dung. Do đó tôi cho các em tuỳ chọn nội dung viết theo yêu
cầu của đề bài.
Và cuối tiết học tôi lại dặn học sinh về nhà lập một dàn ý tả một cây xung
quanh gia đình em.
Với việc làm như trên thì học sinh đã lập được dàn ý một cách dễ dàng và
học sinh có kĩ năng lập dàn ý tốt.
Ví dụ với đề bài: “Ở vườn hoa (hoặc công viên) các luống hoa (chậu hoa)
nở bông rất đẹp. Hãy tả một cây hoa mà em thích nhất”. Có học sinh chọn tả
cây hoa Hồng, có học sinh chọn tả cây hoa Cúc, có học sinh chọn tả cây hoa
Mẫu đơn, … Như vậy, nội dung bài của học sinh vừa đủ ý, vừa phong phú về
nội dung và đảm bảo đúng trọng tâm.
Sau khi hướng dẫn học sinh thực hiện theo giải pháp này, các em đã chủ
động, sáng tạo xây dựng, lựa chọn được nội dung phù hợp với từng yêu cầu của
đề bài và làm bài rất tiến bộ.

*Giải pháp 3: Dạy học sinh cách diễn đạt bài văn miêu tả có nghệ thuật:
a. Hướng dẫn cách thu nhận các nhận xét do quan sát mang lại:
Xây dựng nội dung bài văn miêu tả ở trên mới là “Một sườn bài” đủ ý.
Để bài văn sinh động có nghệ thuật các em phải trau dồi qua tiết làm văn luyện
tập xây dựng đoạn.
Khi học sinh trình bày kết quả quan sát, nên hướng dẫn các em trả lời
bằng nhiều chi tiết cụ thể và sử dụng ngôn ngữ chính xác, gợi hình ảnh. Hướng
dẫn các em quan sát bức tranh cùng vui chơi và trả lời câu hỏi “Hai bạn học
sinh chơi cầu như thế nào?” (bạn này làm gì? bạn kia làm gì?). Nếu các em nói
“Hai bạn đang chơi đá cầu” thì đây là nhận xét sơ lược, kết quả của sự quan sát
hời hợt hoặc thiếu phương pháp. Giáo viên không bằng lòng với câu trả lời này
mà cần gợi ý thêm “Các em quan sát kỹ xem mỗi bạn đang làm gì?”. Nếu học
sinh trả lời “Hai bạn đang đá cầu. Một bạn đá cầu đi, bạn kia chuẩn bị đón quả
cầu”. Câu trả lời chi tiết hơn nhưng chưa cụ thể. Giáo viên gợi ý thêm “Em
quan sát và nhận xét rõ hơn động tác từng bạn”. Để học sinh có thể trả lời cụ
thể hơn “Hai bạn đang đá cầu. Bạn bên trái hơi khom người đá mạnh chân về
phía trước. Quả cầu bay lên vạch đường đi trong không khí. Bạn bên kia hơi
ưỡn người đưa chân về phía sau chuẩn bị tung ra đón quả cầu khi nó bay tới”.
Ở mức độ cao hơn giáo viên hướng dẫn học sinh đi vào trọng tâm của
cảnh vật, con người…
b. Hướng dẫn học sinh diễn đạt câu văn sinh động, có hình ảnh:
Ngoài việc hướng dẫn học sinh sử dụng ngôn ngữ miêu tả như dạng các
động từ, tính từ, hệ thống các từ láy, từ tượng thanh, từ tượng hình, … như nêu
ở câu trên. Để diễn đạt câu văn sinh động, có hình ảnh tôi hướng dẫn các em
lựa chọn chi tiết, diễn đạt có hình ảnh và sử dụng một số biện pháp tu từ như so
11


sánh, nhân hoá, … trong khi làm văn miêu tả. Nhờ vận dụng những biện pháp
này mà tư duy, trí tưởng tượng của trẻ cũng được rèn luyện.

Trong các tiết dạy tôi hướng dẫn học sinh thông qua việc trả lời câu hỏi
nhằm mục đích: Học sinh phát hiện những câu văn miêu tả có sử dụng các biện
pháp nghệ thuât.
Ví dụ: Trong bài văn “ Đàn ngan mới nở” của tác giả Tô Hoài, tôi hướng
dẫn để học sinh phát hiện những câu văn có sử dụng biện pháp so sánh:
- Chúng có bộ lông vàng óng. Một màu vàng đáng yêu như màu của
những con tơ nõn mới guồng.
- Đôi mắt chỉ bằng hột cườm, đen nhánh hạt huyền, lúc nào cũng long
lanh đưa đi đưa lại như có nước, làm hoạt động hai con ngươi bóng mỡ.
Hoặc phát hiện biện pháp nhân hoá trong đoạn văn miêu tả như trong bài
“Cỏ non” của tác giả Hồ Phương.
“ Cu Tũm dở hơi chốc chốc lại chạy lại ăn tranh mảng cỏ của mẹ. Chị
Vàng lại dịu dàng nhường cho nó và đi kiếm một bụi khác, …”.
Từ đó hướng dẫn học sinh vận dụng các biện pháp nghệ thuật vào khi
làm bài văn miêu tả.
Chẳng hạn: khi " Tả cái trống trường em" tôi hỏi về hình dáng, mặt
trống, thân trống thì học sinh đã biết vận dụng những biện pháp so sánh, nhân
hoá để tả như:
- Mình anh bằng gỗ, tròn trùng trục như một cái chum sơn đỏ choé,
ngang lưng quấn hai vòng đai bằng con rắn cạp nong, nom rất hùng dũng.
- Mặt trống nhìn tựa như bề mặt nồi tráng bánh cuốn.
Hay như khi “Tả con mèo của em” tôi hỏi: Hình dáng (đầu, mình, chân,
…), tính nết của con mèo có thể tả bằng những câu văn có sử dụng biện pháp
so sánh (hoặc nhân hóa) như:
- Mình chú to gần bằng cái phích.
- Chú khoác trên mình chiếc áo màu xám.
- Đầu chú tròn và to như quả cam.
- Mắt chú long lanh như ngọc và tròn xoe như hai viên bi.
- Bình thường cô nhõng nhẽo như một cô nàng tiểu thư.
- Khi thấy chuột cô rón rén đến chạn bát, nhanh như một tia chớp, cô lao

tới chộp gọn lấy cổ con chuột nhắt.
Những câu hỏi gợi ý cách diễn đạt tôi thường xem trong khi học sinh làm
miệng, nếu học sinh chưa sử dụng được biện pháp nghệ thuật thì tôi gợi ý để
học sinh khác bổ sung, sửa cho bạn.
Ví dụ: Một học sinh nêu “Dù tối mèo vẫn nhìn rõ mọi vật nhờ cặp mắt
xanh lè ở giữa hai khe hẹp và nhỏ”.
Tôi hướng dẫn học sinh khác sửa lại: “Dù tối như bưng, chú mèo vẫn
nhìn rõ mọi vật bằng cặp mắt xanh lè, ở giữa có một khe nhỏ và hẹp”.
Trong bài văn tả cây cối có em nêu: “Cây bàng này thật chẳng có gì đặc
biệt. Vỏ nó xù xì, lung bung và dày. Tán xoè rộng che mát cả một sân trường”.

12


Tôi gợi ý: Nội dung được, câu văn ngắn gọn, rõ ý nhưng để sinh động hơn ta có
thể trình bày như thế nào?
Học sinh khác trả lời: Có thể sửa là: “Cây bàng này thật chẳng có gì đặc
biệt. Vỏ nó xù xì, lung bung và dày như bánh đa nướng. Tán bàng xoè rộng như
một cái ô che mát cả một góc sân trường”.
Hoặc khi tả rễ cây bàng có em viết: “Qua một trận mưa to đất ở chỗ cây
bàng trôi hết để lại bộ rễ ngoằn ngoèo trên mặt đất”.
Để có câu văn hay hơn tôi hỏi các em:
- Bộ rễ bò ngoằn ngoèo trên mặt đất gợi cho ta đến hình ảnh gì?
Học sinh trả lời: “Trận mưa hôm trước đã làm cho đất ở gốc cây trôi hết
để lộ bộ rễ ngoằn ngoèo trên mặt đất trông như những con rắn hổ mang”.
Với cách dạy như vậy, tôi thấy hầu như các đều biết sử dụng biện pháp
so sánh, biện pháp nhân hóa, cách diễn đạt của các em khi viết văn ngày càng
tiến bộ, hay hơn, sinh động và phong phú hơn.
* Giải pháp 4: Hình thành kỹ năng bộc lộ cảm xúc trong bài văn miêu tả:
Bài văn miêu tả hay, không thể thiếu cảm xúc. Nếu thiếu cảm xúc bài

văn sẽ trở nên khô khan thiếu sinh động, cảm xúc không chỉ bộc lộ ở phần kết
luận mà còn thể hiện trong từng câu văn, từng đoạn của bài văn.
Điều này tôi thường gợi ý cho các em một cách cụ thể trong từng bài
văn.
Ví dụ: "Hãy nêu cảm nghĩ của em khi phải rời xa trống trường?".
Học sinh trả lời: Trống trường thực sự là bạn đồng hành của đời học sinh
chúng em. Mai đây chúng em sẽ lớn lên, có thể đi đến bất cứ nơi nào trên Tổ
quốc, song mãi mãi tiếng trống trường vẫn bập bùng trong kỉ niệm, …
Hay “ Đứng dưới gốc bàng em có cảm nghĩ gì ?”.
Học sinh trả lời: Thấy yêu sao cây bàng đã tô thêm vẻ đẹp của ngôi
trường, góp phần cho Tổ quốc thêm xanh, …
Khi sống với chú mèo em có cảm giác gì?: “Mèo đã trở thành người
bạn thân của em từ lúc nào không rõ. Em thường để dành cho nó những con
tôm, con cá câu được ở sông, …”.
Tương tự như vậy tôi yêu cầu học sinh đưa ra những suy nghĩ, cảm xúc,
nhận xét trước một sự vật, đối tượng miêu tả. Bài văn miêu tả của học sinh
tránh được những điểm khô khan, liệt kê các bộ phận miêu tả. Thấm đượm cảm
xúc của người viết.
Kết hợp các yếu tố: Tìm ý cho bài văn, xây dựng nội dung miêu tả, diễn
đạt bài văn miêu tả có nghệ thuật và bộc lộ cảm xúc sẽ làm cho bài văn miêu tả
của học sinh trở nên sinh động, đạt kết quả cao. Tạo tiền đề để các em học tốt
các thể loại văn khác như kể chuyện, tường thuật, tả cảnh sinh hoạt, …
Tất cả những điều tôi đã trình bày trên đây là những vấn đề khái quát bao
trùm cả quá trình dạy học sinh lớp 4 viết bài văn miêu tả. Để thực hiện vấn đề
đó phải phát huy vai trò chủ đạo của thầy và chủ động của trò trong quá trình
dạy học. Cụ thể là:

13



- Đối với giáo viên: Khâu chuẩn bị đầu tiên là soạn bài hợp với 3 đối
tượng học sinh, để học sinh cả lớp được làm việc, chiếm lĩnh kiến thức của bài.
- Quá trình lên lớp: Đây là quá trình làm việc sinh động của thầy và trò
trên lớp. Thầy với vai trò chỉ đạo, học sinh với vai trò chủ động, giáo viên nắm
vững năng lực, trình độ của học sinh để thực hiện phương pháp “Lấy học sinh
làm trung tâm”. Tạo hứng thú cho học sinh trong các tiết học qua những buổi
tham quan, quan sát, thực tế để tìm tư liệu cho bài viết. Hướng dẫn các em sử
dụng sách giáo khoa và vở bài tập một cách khoa học. Luôn trân trọng ý kiến
học sinh, quan tâm hơn đến những học sinh Chưa hoàn thành với những câu
hỏi gợi mở xem các em vướng mắc ở chỗ nào để hướng dẫn, sửa chữa kịp thời,
với những học sinh Hoàn thành và Hoàn thành tốt thì cần khuyến khích những
nét sáng tạo trong bài làm của em.
Tôi luôn kiểm tra, đánh giá và khen ngợi kịp thời sự tiến bộ của học sinh
qua từng tiết học, từng bài viết để uốn nắn bổ sung những điểm còn yếu, phát
huy những nét sáng tạo tiến bộ của học sinh.
Từ thực tế trình độ học sinh của lớp mình, tôi vừa chú ý rèn chung cho
cả lớp vừa quan tâm đến chất lượng mũi nhọn để có đội tuyển dự thi giao lưu
câu lạc bộ Tiếng Việt do huyện tổ chức vào tháng 4. Song song với việc bồi
dưỡng cho câu lạc bộ tôi chăm lo đến trình độ chung của học sinh để nâng dần
chất lượng của bài văn miêu tả nói riêng và phân môn tập làm văn nói chung.
Mặt khác trong khi dạy các môn học khác tôi luôn nhắc nhở các em tích
lũy vốn kiến thức để viết bài văn miêu tả.
Với cách làm này khi viết bài văn các em đã bộc lộ được cảm xúc của
mình rất rõ rệt khi viết bài văn miêu tả làm cho bài văn của các em sinh động,
rất giàu cảm xúc.
*Giải pháp 5: Hình thành kỹ năng tích lũy vốn từ ngữ thông qua các phân
môn khác:
Như chúng ta đã biết mỗi môn học đều có mục tiêu riêng. Song ngoài
mục tiêu chính đó ra, nếu người giáo viên biết khai thác để mở rộng kiến thức
cho học sinh thì ta thấy tất cả các môn học đều bổ sung cho nhau, hỗ trợ lẫn

nhau. Nhất là trong môn Tiếng Việt thì phân môn Tập làm văn lại là sự “tích
hợp” kiến thức của tất cả phân môn còn lại. Các em học tốt các phân môn như:
Tập đọc, Luyện từ và câu, Chính tả, … thì các em sẽ học tốt phân môn Tập làm
văn. Vì thế thông qua từng phân môn của môn Tiếng Việt tôi đều chú ý giúp
các em khai thác tốt nội dung này.
a. Thông qua phân môn Tập đọc:
Trong văn miêu tả thì vốn từ ngữ miêu tả rất quan trọng. Việc giúp học
sinh tích lũy vốn từ ngữ miêu tả và sử dụng vốn từ ngữ đó một cách chính xác,
hợp lý là vấn đề quan trọng của mọi giáo viên. Trong các bài tập đọc thuộc thể
loại văn miêu tả thì số lượng từ miêu tả rất phong phú, cách sử dụng rất sáng
tạo. Tài liệu hướng dẫn học Tiếng việt 4 thì các loại bài tập đọc lại được biên
soạn theo tuần, theo chủ điểm. Thường thì ứng với mỗi chủ điểm là các dạng
Tập làm văn mà các em đang học. Vì vậy thông qua các bài tập đọc tôi giúp các
14


em chỉ ra các từ ngữ miêu tả hay, đã được chọn lọc, gọt giũa. Cách sử dụng
nghệ thuật của tác giả chọn một vài trường hợp đặc sắc để phân tích kỹ giúp
học sinh thấy được sự sáng tạo của các nhà văn khi dùng chúng.
Ví dụ 1: Khi dạy bài “ Sầu riêng, trong lúc phân tích đoạn 1, tôi giúp các
em hiểu rằng để tả hương vị đặc biệt của quả sầu riêng tác giả đã sử dụng các
điệp từ: “ thơm mùi thơm”, “béo cái béo”, “ ngọt cái vị ngọt”. Đến lúc phân
tích đoạn 3 tôi giúp các em nhận thấy tác giả sử dụng hàng loạt các từ ngữ đã
được chọn lọc, nghệ thuật so sánh:“ Thân nó khẳng khiu, cao vút, cành ngang
thẳng đuột – Lá nhỏ xanh vàng, hơi khép lại tưởng như lá héo.”; ...[5]
Qua đó, tôi giúp học sinh hiểu rằng người ta có thể mượn hình ảnh này để ca
ngợi một hình ảnh khác ( mượn cái không đẹp của cây sầu riêng để tăng thêm
hương vị của trái sầu riêng).
Ví dụ 2: Khi dạy đến bài “Hoa học trò” , trong phần tìm hiểu bài tôi giúp
các em cảm nhận được cái hay, cái độc đáo qua cách dùng từ của Xuân Diệu.

Để giúp người đọc cảm nhận được số lượng hoa phượng ra nhiều và rất đẹp.
Tác giả đã sử dụng một loạt các điệp từ, điệp ngữ để diễn tả điều
đó:“Phượng không phải là một đóa, không phải vài cành. Phượng đây là cả
một loạt, cả một vùng, cả một góc trời đỏ rực. Mỗi hoa chỉ là một phần tử của
cái xã hội thắm tươi, người ta quên đóa hoa, chỉ nghĩ đến cây, đến hàng, đến
những tán hoa lớn xòe ra như muôn ngàn con bướm thắm đậu khít nhau”[5].
Để giúp học sinh hiểu khi quan sát cây cối người ta cần phải phối hợp
nhiều giác quan. Tả lá phượng tác giả viết: “Lá xanh um, mát rượi, ngon lành
như lá me non.” Chỉ bằng một câu nhưng tác giả đã sử dụng tới ba giác quan:
mắt (xanh um), xúc giác ( mát rượi), vị giác ( ngon lành). Như vậy các từ ngữ
miêu tả trong các bài tập đọc rất đa dạng và phong phú, chúng được sử dụng rất
hay, sinh động, gây ấn tượng. Cách sử dụng các biện pháp nghệ thuật trong các
bài Tập đọc cũng rất là sáng tạo. Bằng cách này tôi đã giúp học sinh tích lũy
thêm vốn từ và học cách sử dụng chúng, đồng thời thông qua các bài tập đọc
tôi cũng giúp các em hiểu thêm rằng để một bài băn miêu tả hay thì cần phải sử
dụng các biện pháp nghệ thuật hợp lý.
b. Thông qua phân môn Luyện từ và câu:
Mục tiêu chính của luyện từ và câu là giúp học sinh mở rộng vốn từ;
cách sử dụng từ chính xác, cách viết câu đủ ý. Khi dạy về các nội dung mở
rộng vốn từ theo từng chủ điểm, tôi giúp học sinh hiểu rõ nghĩa các từ ngữ, các
thành ngữ, các tục ngữ thuộc chủ điểm đó. Từ đó sẽ giúp các em sử dụng các từ
ngữ đó chính xác, hợp lý. Để tích lũy vốn từ cho học sinh tôi cho học sinh tìm
thêm các từ đồng nghĩa, từ gần nghĩa, từ trái nghĩa.
Ví dụ: Bên cạnh tính từ “ đỏ” dùng để miêu tả hoa hồng (hoa phượng)
còn có nhiều từ ngữ khác như: đỏ rực, đỏ tươi, đỏ thẫm, đỏ chót, đỏ như son,
đỏ như lửa, … tùy từng sự vật mà học sinh có thể lựa chọn nên dùng từ ngữ
nào cho phù hợp.
Trong các tiết Luyện từ và câu có nội dung về ngữ pháp, ngoài việc dạy
các em cách viết câu đúng, tôi luôn tìm cách dạy các em cách viết câu văn có
15



hình ảnh. Trong tất cả các bài tập dùng từ đặt câu, tôi luôn đặt một câu văn đủ ý
bên cạnh một câu văn khác đủ ý nhưng có hình ảnh để các em so sánh.
Ví dụ: Tả hình dáng của một cây bàng cổ thụ, tôi đưa ra hai câu:
- Câu 1: Cây bàng cao lớn.
- Câu 2: Nhìn từ xa, cây bàng cao lớn như một chiếc ô xanh khổng lồ.
Tôi cho học sinh nhận xét xem câu nào hay hơn (100% học sinh trả lời là
câu 2 hay hơn vì nó tạo cho người đọc hình ảnh rất cụ thể nó cao lớn đến chừng
nào. Với giải pháp này, tôi đã rèn cho học sinh kỹ năng viết câu văn có hình
ảnh, đủ ý.
c. Thông qua phân môn Chính tả:
Như ở phần thực trạng tôi đã trình bày, bài văn của các em bị sai lỗi
chính tả rất nhiều, điều đó gây khó chịu cho người đọc. Vì vậy trong tất cả các
tiết chính tả, tôi luôn chú ý rèn cho các em có ý thức viết đúng chính tả (đây
cũng là mục tiêu của phân môn Chính tả). Ngoài ra thông qua giờ chính tả, tôi
cũng giúp các em tích lũy thêm vốn từ ngữ miêu tả và cách sử dụng chúng.
Ví dụ: Khi dạy đến bài chính tả tuần 21,trong phần bài tập có bài: “
Chọn những tiếng thích hợp trong ngoặc đơn để hoàn chỉnh bài văn sau”. Sau
khi cho học sinh thực hiện theo yêu cầu của bài. Tôi gọi học sinh đọc lại bài
văn. Sau đó tôi đưa ra một số câu hỏi mở rộng nhằm mục đích có thể vận dụng
nó vào việc học phân môn Tập làm văn.
- Bài văn thuộc thể loại văn gì? Kiểu bài gì? ( Văn miêu tả, kiểu bài tả
cây cối).
- Tác giả đã quan sát cây theo trình tự nào? (Từng bộ phận của cây).
- Trong bài văn này tác giả đã sử dụng giải pháp nghệ thuật nào? Lấy
ví dụ minh họa ( nghệ thuật so sánh, ví dụ như: thân thẳng như thân
trúc. Năm cánh dài đỏ tía như ức gà chọi, trái kết màu chín đậm, óng
ánh như những hạt cườm, …).
- Em học tập được gì khi học bài văn này? (học được cách miêu tả,

cách
dùng từ, sử dụng các giải pháp nghệ thuật).
Qua tất cả các phân môn này, người giáo viên có thể khéo léo khai thác
để làm giàu vốn từ ngữ cho học sinh (từ ngữ miêu tả) và giúp học sinh biết
cách sử dụng chúng một cách hợp lý. Song do đặc trưng của môn học, mỗi giờ
học chỉ thiên về một mặt nào đó. Nó chỉ hỗ trợ để học sinh học tốt hơn phân
môn Tập làm văn. Vì thế người giáo viên không thể lạm dụng để biến nó thành
một giờ dạy Tập làm văn chính.
* Giải pháp 6: Hình thành kỹ năng tự kiểm tra đánh giá khả năng của
mình và của bạn:
Đặc điểm nhận thức của học sinh tiểu học là tư duy trực quan cụ thể. Do
đó trong giảng dạy, giáo viên cần đưa ra những ví dụ cụ thể để học sinh hình
dung, hiểu rõ cách làm. Vì vậy trong các giờ trả bài viết, sau khi nhận xét và
hướng dẫn học sinh chữa lỗi, tôi chọn những bài văn hay, đạt điểm cao của học

16


sinh trong lớp để biểu dương, sau đó đọc cho cả lớp cùng nghe. Đọc xong, tôi
đặt ra một số câu hỏi để các em trả lời.
Ví dụ:
- Các em có nhận xét gì về bài làm của bạn?
- Bài làm của bạn hay ở chỗ nào? Sáng tạo ở chỗ nào?
- Em học tập được những gì từ bài làm của bạn?
Trả lời đúng các câu hỏi của giáo viên đặt ra là học sinh đã học tập được
chính bạn của mình. Ngoài ra trong quá trình dạy học, tôi tích lũy được nhiều
bài văn hay của học sinh trong các năm học trước, tôi cho lần lật các em đọc
cho cả lớp nghe rồi cùng các em phân tích cái hay, cái cần học tập trong từng
bài văn. Ngoài các giải pháp trên, tôi khuyến khích các em lập sổ tay văn học
và hướng dẫn các em cách sử dụng. Sổ tay văn học để ghi những từ ngữ miêu

tả, những câu văn hay, giàu hình ảnh, các câu văn sử dụng các biện pháp nghệ
thuật đặc sắc, … mà các em đọc được trong sách báo, sách tham khảo, trong
cuộc sống hàng ngày và trên các phương tiện thông tin đại chúng. Mỗi ngày,
các em tích lũy một từ hay một câu, … cứ như vậy vốn từ ngữ của các em sẽ
ngày
càng
giàulên.
Như vậy việc giúp các em tự đánh giá các bài văn của mình của bạn và
không ngừng tích lũy vốn từ sẽ giúp các em học tốt hơn phân môn Tập làm văn
nói chung và kiểu bài miêu tả cây cối, miêu tả con vật nói riêng.
*Giải pháp 7: Tổ chức tốt phong trào thi đua “ Rèn kỹ năng làm tốt văn
miêu tả” cho học sinh:
- Đối với ở lớp:
Trong gần cả năm học, tôi duy trì tốt phong trào “Làm văn hay”. Cứ hai
tuần tôi hướng dẫn cho hội đồng tự quản tổ chức cho cả lớp thi “Làm văn hay”
một lần.
Những học sinh làm hay, làm tốt, những học sinh có sự tiến bộ tôi kịp thời
động viên, khen ngợi, tuyên dương trước lớp và được giữ cờ thi đua của lớp để
gây thêm sự hứng thú học tập cho các em, giúp các em có ý thức vươn lên
trong học tập và luyện viết văn. Có như vậy, các em mới thực sự đạt được kỹ
năng làm bài văn tốt.
Kết quả làm văn của từng em sẽ được lưu lại ở góc học Tiếng Việt.
Qua phong trào thi đua “Làm văn hay” của lớp, tôi thấy rằng học sinh cả
lớp đều có ý thức học tập nói chung và việc luyện viết văn nói riêng ngày một
tiến bộ hơn. Đặc biệt các em có tinh thần thi đua rất tốt, cho nên chất lượng làm
văn miêu tả của các em được nâng lên rõ rệt. Nhiều em viết bài văn rất tốt, có
nhiều hình ảnh hay, sinh động và giàu cảm xúc.
- Đối với nhà trường:
Phong trào thi đua “Làm văn hay” được nhà trường thường xuyên tổ
chức. Trong năm học này, nhà trường tổ chức nhiều lần thông qua “Giao lưu

Câu lạc bộ Tiếng Việt trong tổ khối”.
Nhà trường kết hợp với Đoàn đội tổ chức thi qua buổi “Giao lưu Câu lạc
bộ Tiếng Việt”. Qua mỗi đợt thi, nhà trường đều tuyên dương, khen thưởng
17


những lớp, những học sinh có phong trào học tập tốt. Lần nào, lớp tôi cũng là
một trong những lớp dẫn đầu về phong trào này.
Qua phong trào này, tôi thấy rằng đây cũng là một động lực không nhỏ thúc
đẩy tinh thần học tập của các em nhất là viết bài văn miêu tả.
-“Câu lạc bộ bạn yêu văn học”:
Giáo viên tổ chức cho cả lớp thi đua làm văn hoặc sưu tầm các bài văn
hay.
Cứ hai tuần, giáo viên lại tổ chức cho học sinh thi làm văn hay. Các em
đọc vào tiết sinh hoạt thứ 6. Giáo viên cùng học sinh cả lớp lắng nghe để sửa
sai cho bạn và học tập rút kinh nghiệm. Sau đó kịp thời khen ngợi, động viên
những em làm văn tốt, sưu tầm được những bài văn có ý nghĩa, hay những em
tích cực tham gia “Câu lạc bộ”, những em có sự tiến bộ trong học tập hơn. Bài
văn nào hay, có ý nghĩa sẽ được vinh dự trưng bày ở góc Tiếng Việt để các bạn
trong lớp tham khảo.
Mỗi lần sinh hoạt “Câu lạc bộ bạn yêu văn” tôi thấy, tất cả các em đều rất
thích thú, hào hứng tham gia, em nào cũng tích cực làm bài, xung phong đọc
những bài mình đã làm hoặc sưu tầm được. Qua việc làm này đã góp phần rèn
được kỹ năng viết văn cho học sinh rất nhiều và đạt hiệu quả.
2.4. Hiệu quả việc áp dụng các giải pháp vào dạy học:
Qua một năm giảng dạy và áp dụng những giải pháp trên tôi thấy chất
lượng làm văn của học sinh lớp tôi đã được nâng lên rõ rệt. Tất cả các các em
đều hứng thú thích học, thích làm văn. Từng bước khắc phục những khó khăn
đã nêu ở trên. Sau đây là kết quả đối chứng chất lượng làm văn đầu năm và
cuối kì II năm học 2018 - 2019 của lớp 4A do tôi dạy và lớp đối chứng 4B

bằng đề khảo sát chất lượng.
Đề bài: Hãy tả lại con vật nuôi của gia đình em (hoặc gia đình bạn) mà
em yêu thích.
Kết quả đạt được như sau:
Bảng số liệu kiểm tra cuối kì II
Lớp
Chưa hoàn
Hoàn thành tốt
Hoàn thành
Số học
thành
sinh được
Tỷ lệ
Tỷ lệ
Tỷ lệ
kiểm tra
SL
SL
SL
(%)
(%)
(%)
4A
30
16
53,3
14
46,7
0
0

4B
30
7
23,3
21
70
2
6,7
Bảng số liệu kiểm tra đầu năm
Lớp
4A
4B

Số học
Hoàn thành tốt
sinh được
kiểm tra Số bài
%
30 em
3
10
30 em
3
10

Hoàn thành
Số bài
18
17


%
60
56,7

Chưa hoàn
thành
Số bài
%
9
30
10
33,3

18


Từ thực tế kết quả bài làm của học sinh, tôi nhận thấy vốn từ ngữ miêu
tả của các em ngày càng phong phú hơn cả về số lượng lẫn chất lượng. Cách sử
dụng từ của các em chính xác hơn. Trong khi viết văn các em đã biết cách sử
dụng các biện pháp nghệ thuật như so sánh, nhân hóa, các từ láy, các điệp
từ….Giờ học sôi nổi hẳn lên, học sinh trong lớp có nhiều cách viết khác nhau,
không trùng nhau mà đều hay. Cụ thể: Số em hoàn thành tốt tăng lên 13 em
,chiếm 39,4%, Số em hoàn thành tăng thêm 9 em, chiếm 27,3% .. So với kết
quả kiểm tra đầu năm thì kiểm tra cuối học kì II cao hơn nhiều. Đặc biệt là số
em mắc lỗi được giảm rõ rêt. Nói chung, chất lượng viết văn của học sinh đã
được nâng lên rõ rệt. Số bài đạt hoàn thành tốt và hoàn thành được nâng lên
nhiều. Điều đáng mừng là không còn em nào chưa hoàn thành mà lại nhiều em
chữ viết đẹp, bài làm tốt, nhiều hình ảnh hay, sinh động và rất giàu cảm xúc.
Điều đó chứng tỏ những giải pháp mà tôi áp dụng đã thực sự góp phần "Nâng
cao chất lượng viết văn miêu tả cho học sinh lớp 4."

- Nhìn vào bảng số liệu trên thì thấy rất rõ, kết quả kiểm tra của lớp 4A
do tôi chủ nhiệm cao hơn hẳn so với lớp 4B, 100% học sinh có kết quả hoàn
thành trở lên, trong đó tỉ lệ học sinh Hoàn thành tốt đạt 53,3%.
3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ.
3.1. Kết luận:
Qua nghiên cứu và thực hiện một số giải pháp về dạy học sinh lớp 4 viết
bài văn miêu tả đạt kết quả tốt bản thân tôi rút ra những kết luận sau:
- Để bài văn miêu tả của học sinh lớp 4 đạt kết quả cao cần hướng dẫn
học sinh tìm ý cho bài văn miêu tả bằng cách quan sát đối tượng để tìm tài liệu,
chi tiết cho nội dung bài. Giáo viên không nên dạy các tiết quan sát tìm ý trong
phạm vi bốn bức tường mà cần tạo điểu kiện để hướng dẫn học sinh trực tiếp
quan sát. Hướng dẫn cách quan sát theo từng đối tượng học sinh. Để qua giờ
học, học sinh có được đầy đủ các tư liệu, chi tiết cho bài văn miêu tả.
- Từ những tư liệu thu thập được qua quá trình quan sát, dưới sự hướng
dẫn của giáo viên, học sinh chọn lọc, sắp xếp để xây dựng nội dung miêu tả
đảm bảo vừa đủ ý, vừa phong phú về nội dung.
- Để bài văn hay, sinh động, giáo viên hướng dẫn học sinh diễn đạt có
nghệ thuật bằng cách cho các em luyện cách mở bài gián tiếp, kết bài mở rộng
và tập vận dụng một số giải pháp nghệ thuật vào việc diễn tả nội dung.
- Giáo viên cần hướng dẫn học sinh bộc lộ cảm xúc trong bài văn miêu
tả, cảm xúc không chỉ bộc lộ ở phần kết luận mà phải được thể hiện trong từng
câu, từng đoạn văn. Có như vậy bài văn miêu tả của học sinh mới tránh được sự
khô khan, liệt kê các bộ phận miêu tả. Thấm đượm cảm xúc của người viết.
- Để thực hiện tốt những điểm nêu trên giáo viên cần phải:
+ Nắm vững chương trình của bộ môn toàn cấp và từng lớp. Nắm vững
kiến thức và dạy đúng phương pháp bộ môn, gây hứng thú trong giờ học.
+ Giáo viên cần phải phân loại đối tượng học sinh, thường xuyên kiểm
tra, động viên, đánh giá kịp thời.

19



+ Học sinh phải được làm việc nhiều trên lớp cũng như ở nhà với nhiều
hình thức để nắm vững kiến thức, mở rộng nâng cao tầm hiểu biết và vốn sống.
+ Đọc và nghiên cứu thêm các tài liệu chuyên sâu, các tạp chí, chuyên đề
giáo dục, phương pháp dạy học văn miêu tả, những bài văn mẫu.
3.2. Kiến nghị:
Đề xuất với nhà trường:
- Tổ chức có hiệu quả các buổi sinh hoạt chuyên về chia sẻ sáng kiến kinh
nghiệm.
- Bổ sung và tăng cường sử dụng các tài liệu tham khảo về văn học ở tiểu
học.
- Tạo điều kiện cho tôi được triển khai sáng kiến để được áp dụng rộng rãi
trong toàn trường.
Đề xuất với phòng GD&ĐT:
. - Đối với những sáng kiến kinh nghiệm của những đông chí giáo viên
trong nghành có giá trị áp dụng trong giảng dạy phòng giáo dục in ấn thành tập
san để các trường được học tập các kinh nghiệm quý báu ấy.
- Có sự khuyến khích động viên đối vói những giáo viên có những sáng
kiến kinh nghiệm hay.
- Trên đây là những kinh nghiệm mà bản thân đã đúc kết được trong
quá trình công tác tại trường Tiểu học Thiết Ống I. Do thời gian và khả
năng có hạn, chắc chắn không thể tránh khỏi những tồn tại, hạn chế. Kinh
mong BGH nhà trường và cấp trên góp ý để tôi tiếp tục hoàn thiện đề tài,
góp phần nâng cao năng lực chuyên môn nghiệp vụ để nâng cao chất lượng
giáo dục toàn diện cho học sinh và góp phần thực hiện thành công mục tiêu
giáo dục Tiểu học.
XÁC NHẬN CỦA HIỆU TRƯỞNG

Thiết Ống, ngày 20 tháng 5 năm 2019

Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung của
người khác.

Người thực hiện:

Lưu Thị Lan
DANH MỤC
CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG
ĐÁNH GIÁ XẾP LOẠI CẤP PHÒNG GD&ĐT, CẤP SỞ GD&ĐT VÀ
CÁC CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
Họ và tên tác giả: Lưu Thị Lan

20


Chức vụ và đơn vị công tác: Giáo viên trường Tiểu học Thiết Ống 1, huyện Bá
Thước

TT

1.

2.

3.

Tên đề tài SKKN
Một số biện pháp rèn chữ
viết cho học sinh lớp 3


Một số biện pháp giúp
học lớp 5 đọc diễn cảm.

Một số biện pháp giúp học
lớp 5 đọc diễn cảm

Kết quả
Cấp đánh
đánh giá
giá xếp loại
xếp loại
(Phòng, Sở,
(A, B,
Tỉnh...)
hoặc C)

Năm học
đánh giá xếp
loại

Phòng

B

2008-2009

Phòng

A


2009-2010

Sở

B

2010-2011

4.

Một số giải pháp giúp học
sinh lớp 4 học tốt Luyện từ và
câu.

Phòng

5.

Một số biện pháp giúp học
lớp 5 đọc diễn cảm rèn đọc
cho học sinh lớp 5 giúp các
em học tốt theo mô hình
VNEN.

Phòng

B

2014-2015


6.

Một số biện pháp giúp học
lớp 5 viết chữ đẹp, giữ vở
sạch

Phòng

B

2016-2017

7.

Một số biện pháp dạy học
sinh lớp 4 viết bài văn miêu
tả ở trường Tiểu học Thiết
Ống 1

Phòng

C

2018-2019

B

2012-2013


PHỤ LỤC
MỘT SỐ BÀI VĂN HAY CỦA HỌC SINH LỚP 4A TRƯỜNG TIỂU
HỌC THIẾT ỐNG I BÁ THƯỚC

21


22


23


24


25


×