Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

SKKN một số giải pháp nâng cao chất lượng dạy học tiếng việt 7

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.83 MB, 15 trang )

1. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài
Con người trong tương lai phải là con người biết hành động một cách
năng động, sáng tạo, thích ứng với yêu cầu mới của thời đại. Từ lâu ngành giáo
dục đã xác định được trọng trách của mình: xây dựng được những con người
mới có những phẩm chất mới để có thể thích ứng và phục vụ có hiệu quả những
yêu cầu của xã hội. Đó là những con người có tri thức khoa học công nghệ tiên
tiến, có kĩ năng vững chắc, có tác phong công nghiệp. Để làm được như vậy
ngành giáo dục đòi hỏi người giáo viên đứng lớp phải đổi mới phương pháp
giảng dạy.
Nghị quyết Trung ương Đảng lần thứ IV về “Tiếp tục đổi mới sự nghiệp
Đào tạo“đã chỉ rõ phải “xác định lại mục tiêu thiết kế lại chương trình, kế hoạch,
nội dung, phương pháp giáo dục và đào tạo” và cho đến nay Giáo dục đã khẳng
định là “Quốc sách hàng đầu” trong sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa
đất nước. Như vậy việc đổi mới phương pháp dạy học và giáo dục là một đòi hỏi
khách quan đối với nền giáo dục nước nhà trong giai đoạn hiện nay. Nhất là
trong những năm ở thế kỉ XXI, vấn đề nâng cao chất lượng giáo dục ngày càng
đòi hỏi bức thiết để đáp ứng với sự phát triển của xã hội. Bởi vậy người giáo
viên phải thấy được trách nhiệm của mình trong công cuộc đổi mới giáo dục.
Không những vậy mà còn phải năng động sáng tạo trong phương pháp giảng dạy
nói chung - trong bộ môn văn học nói riêng - trong đó có phân môn Tiếng Việt
Như chúng ta đã biết môn Ngữ văn là môn học có vai trò quan trọng trong
hệ thống giáo dục và đào tạo - đã giành vị trí xứng đáng trong nhà trường phổ
thông. Bởi "Văn học là nhân học"( MX Gooc- ki). Văn học giúp các em cảm thụ
được cái hay, cái đẹp hiểu biết về thế giới bên ngoài xã hội và con người.
Nhưng trên thực tế, phần lớn học sinh không thích học môn học này,
thậm chí có em còn sợ mỗi khi đến giờ học văn… Đặc biệt là những tiết học
Tiếng Việt, các em vẫn thường cho rằng nó khô khan, phức tạp, tẻ nhạt…Các
em coi “ Phong ba bão táp không bằng ngữ pháp Việt Nam”.
Một thực tế nữa hiện nay việc dạy ngữ pháp trong trường phổ thông cơ
sở: chất lượng chưa cao, giáo viên ít có hứng thú và đầu tư so với giờ văn. Bởi


giờ dạy khô khan, một số lượng kiến thức nhiều quá tải với học sinh nhất là học
sinh lớp 7. Về phương pháp giảng dạy, định lượng kiến thức như thế nào trong
giờ dạy… giáo viên còn gặp nhiều lúng túng .
Ví dụ như giải quyết phần tìm hiểu bài như thế nào là vừa đủ, tránh gây
nhàm chán? Vận dụng kiến thức mới vào bài tập như thế nào để gây hứng thú
tạo hiệu quả cao... Đó là điều khiến tôi thật sự trăn trở. Những suy nghĩ đó đã
thôi thúc tôi không ngừng học hỏi, nghiên cứu các phương pháp mới để dạy tốt
môn Ngữ văn nói chung đặc biệt là phân môn Tiếng Việt.
Để đạt được những yêu cầu và giải quyết những khó khăn trên, giáo viên
dạy bộ môn văn không những phải nắm vững phương pháp đặc trưng của bộ
1


môn - phân môn mà còn phải năng động sáng tạo đổi mới phương pháp dạy theo
hướng “ Phát huy tính tích cực của học sinh” để học sinh tự khám phá ra kiến
thức, chân lý. Từ đó bồi dưỡng cho học sinh “Năng lực tư duy sáng tạo, tự chủ,
năng động có khả năng giải quyết những vấn đề thường gặp trong cuộc sống…
Góp phần xây dựng đất nước giàu mạnh , xã hội công bằng, văn minh”.
Đó là lý do tôi chọn đề tài này: “ Một số giải pháp nâng cao chất
lượng dạy học Tiếng Việt lớp 7” trong năm học 2018 – 2019 tại Trường THCS
Minh Khai thành phố Thanh Hóa.
1.2. Mục đích nghiên cứu
Với đề tài “ Một số giải pháp nâng cao chất lượng dạy học Tiếng Việt
lớp 7” Người viết muốn thực hiện với mục đích tìm hiểu thực tế dạy và học
Tiếng Việt để tìm ra các khó khăn, lúng túng của giáo viên và học sinh nhằm
nâng cao hiệu quả giờ dạy.
Giới hạn: được nghiên cứu ở một số bài lớp7H trường THCS Minh Khai Thanh phố Thanh Hóa.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
- Chương trình bặc Ngữ Văn THCS
- Một số bài Tiếng Việt Ngữ Văn 7

*Học kì I
- Từ ghép
- Từ láy
- Đại từ
- Từ Hán Việt
- Quan hệ từ
- Từ đồng nghĩa
- Từ đồng âm
- Từ trái nghĩa
- Thành ngữ
- Điệp ngữ
* Học kì II
- Rút gọn câu
- Câu đặc biệt
- Thêm trạng ngữ cho câu
- Chuyển đổi câu chủ động thành câu bị động
- Dùng cụm chủ - vị để mở rộng câu
- Liệt kê
- Dấu chấm lửng và dấu chấm phẩy
- dấu gạch ngang
1.4. Phương pháp nghiên cứu
Để hoàn thành bài viết này tôi đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu
sau:
1.4.1 Nghiên cứu tài liệu có liên quan :
2


+ Sách giáo khoa lớp 7.
+ Sách giáo viên, Sách thiết kế dạy học Ngữ văn 7.
+ Một số vấn đề đổi mới phương pháp dạy học ở trường THCS.

+ Tài liệu bồi dưỡng thường xuyên 6,7,8,9 các chu kì: 2005- 2007;
2007 - 2009; 2009 - 2011; 2011 - 2013; 2013 - 2014; 2014 - 2015; 2015 – 2016;
2016 – 2017; 2017 - 2018
+ Phương pháp dạy - học Tiếng Việt. ( ĐHSP Hà Nội )
1.4.2. Điều tra, khảo sát, thu thập thông tin, dự giờ, thực nghiệm.
1.4.3. Đàm thoại, kiểm tra, đối chiếu số liệu trước và sau khi áp dụng
phương pháp tích cực vào tiết dạy.

2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN
2.1. Cơ sở lí luận
3


Muốn phát huy tính tích cực học tập của học sinh thì trước hết chúng ta
phải hiểu, tích cực là một hiện tượng sư phạm, biểu hiện sự gắng sức cao về
nhiều mặt trong hoạt động học tập. Nói đến tích cực học tập thực chất là nói đến
tính tích cực nhận thức. Nó được biểu hiện ở việc học sinh có nhu cầu tiếp thu
kiến thức, kĩ năng, gây hứng thú học tập, từ đây các em sẽ tự giác học tập, chủ
động huy động vốn kiến thức đã tích lũy được và thao tác tư duy thích hợp để có
những ứng xử ngôn ngữ cần thiết, phù hợp với hoàn cảnh giao tiếp, biết bộc lộ
nhận thức của mình bằng lời nói, bài viết thông qua ngôn ngữ.
- Thực hiện nghị quyết số 40/2000/QH10 của quốc hội. Chỉ thị số
14/2001/CT-TTg của Thủ tướng chính phủ về việc đổi mới chương trình giáo dục.
- Thực hiện chương trình thay sách giáo khoa được ban hành kèm theo
quyết định số 03/ 2002/ QĐ-BGD&ĐT ngày 24 tháng 01 năm 2002 của bộ
trưởng Bộ GD&ĐT.
- Tiếng Việt trong chương trình Ngữ văn không nhiều tiết nhưng không
phải vì thế mà chúng ta không quan tâm đến phân môn này. Tiết Tiếng Việt
thường tạo cho học sinh tâm lí ngại học bởi lẽ các em cảm thấy những từ loại,
dấu câu, kiểu câu thật khó và khô khan, khác hẳn một tiết học văn thơ du dương

và trầm bổng. Vì chương trình được biên soạn theo hướng tích hợp ngang và
tích hợp dọc nên đòi hỏi người giáo viên phải chú ý đến hệ thống kiến thức
trên cả hai phương diện. Hơn nữa, dạy Tiêng Việt hiện nay cần chú ý đến dạy
học theo quan điểm giao tiếp; thông qua việc học Tiếng Việt, học sinh có thể
nói, viết tốt. Cũng chính vì vậy trong rất nhiều phương pháp, giáo viên cần phải
lựa chọn phương pháp nào phù hợp để hỗ trợ đắc lực trong một tiết Tiếng Việt
mà vẫn thực hiện đúng theo quan điểm tích hợp của Bộ giáo dục và đào tạo:
(Thầy hướng dẫn - trò chủ động, sáng tạo thực hiện). Đó là phương pháp dạy
học tích cực đạt hiệu quả cao trong quá trình thực hiện.
2.2. Thực trạng vấn đề
2.2.1. Căn cứ lí luận thực tiễn
2.2.1.1. Chương trình Ngữ văn mới vẫn giữ nguyên 3 phân môn là Văn
bản Tiếng Việt - Tập làm văn nhưng không trình bày riêng biệt từng môn mà
luôn tìm ra sự đồng quy giữa ba phân môn đó thực hiện quan điểm tích hợp.
2.2.1.2. Một thực tế đặt ra là: một tuần học sinh được học đều đặn từ một
đến hai tiết ngữ pháp trong suốt những năm học phổ thông cơ sở. Song kĩ năng
nói, viết của học sinh còn gặp nhiều khó khăn. Học sinh được học đầy đủ kiến
thức về từ ,câu, đoạn văn, văn bản nhưng vẫn rất lúng túng trong việc trình bày
một văn bản viết Tập làm văn hoặc trình bày vấn đề trước đám đông, tập thể
chưa có hiệu quả.
2.2.1.3. Một nhược điểm của chương trình cũng như việc giảng dạy Ngữ
Văn cũ trước đây là chỉ chú trọng đến kĩ năng viết. Còn chương trình mới coi
trọng cả 4 kỹ năng: Nghe, nói, đọc, viết. Bởi vậy giáo viên cần chú ý đến sự hỗ
trợ giữa hai nhóm kỹ năng về Tiếng Việt và Văn học, bởi vì Văn học là nghệ
thuật ngôn từ, cho nên giỏi về Tiếng Việt, học sinh sẽ giỏi về kỹ năng cảm nhận
4


văn học và ngược lại. Đồng thời trên cơ sở hiểu về nghĩa của từ, cách tạo câu…
học sinh sẽ hứng thú và có kỹ năng về sử dụng Tiếng Việt, để từ đó nâng cao

hơn kỹ năng cảm nhận, tạo lập văn bản...
Việc dạy học theo hướng tích cực sẽ góp phần giải quyết được những khó
khăn trên. Bởi hướng dạy này sẽ tạo ra được những tiết học với nhiều hứng thú
cho học sinh. Không khí lớp học sẽ không còn gò bó, khô khan mà diễn ra trong
một không khí giao tiếp giữa thầy và trò, giữa học trò với học trò, trao đổi tranh
luận để đi tới chiếm lĩnh kiến thức mới… Muốn vậy giáo viên phải nắm vững:
- Vị trí, nhiệm vụ, yêu cầu dạy ngữ pháp ở THCS.
- Những cơ sở và nguyên tắc dạy học ngữ pháp ở THCS.
- Nắm được các phương pháp đặc trưng của phân môn.
Có như vậy thì mới góp phần phát huy được tính tích cực sáng tạo, chủ
động của học sinh. Góp phần đào tạo những con người năng động sáng tạo đáp
ứng yêu cầu xã hội hiện nay.
2.2.2 Các bước tiến hành
2.2.2.1. Khảo sát chất lượng lớp dạy: 7H
Qua thực tế giảng dạy bộ môn ngữ văn lớp 7, đặc biệt thông qua giờ khảo
sát chất lượng đầu năm về phân môn tiếng Việt ở lớp7H - năm học 2018 - 2019,
tôi nhận thấy kết quả như sau:
Kết quả xếp loại bài kiểm tra
Lớp
Giỏi
Khá
TB
Yếu
Kém
7H
SL
%
SL
%
SL

%
SL
%
SL
%
34 HS
4
11.8 7
20.1 15
44.8 4
11.8 4
11.8
2.2.2.2. Với đối tượng hs lớp 7H, tôi nhận thâý sự tiếp thu của các em
còn chưa được tốt, một số em nhận thức chậm, ngại học do vậy kết quả ban đầu
cũng ít số lượng học sinh khá giỏi.
Không khí lớp học không thật sôi nổi, học sinh hầu như không tham gia
xây dựng bài... Tôi nhận thấy một phần do những nguyên nhân sau:
+ Học sinh không chuẩn bị bài mới, bởi vậy các em không hào hứng khi
học.
+ Một số câu hỏi chưa thực sự phát huy vai trò chủ động tích cực của học
sinh, chưa phù hợp từng đối tượng khá, giỏi, yếu kém.Vì thế, cần áp dụng
phương pháp tích cực vào tiết học để hoàn thiện vai trò “Cô thiết kế, trò thi
công” nhằm nâng cao chất lượng dạy và học đặc biệt là ở những lớp có chất
lượng không đồng đều.
2.3. Các giải pháp pháp
Trong quá trình nghiên cứu, giảng dạy trên lớp, tôi đã thực hiện các
phươn pháp đặc trưng của phân môn:
2.3.1. Phương pháp phân tích ngôn ngữ
Đây là phương pháp bắt đầu từ một ngữ liệu “tức là các căn cứ ngôn ngữ,
để tách ra các hiện tượng ngôn ngữ và từ đó giúp các em phân tích khái quát và

kết luận”.
5


Ví dụ: khi dạy kiến thức về phép liệt kê. Giáo viên cung cấp cho học sinh
đoạn văn mẫu có chứa các bộ phận có kết cấu tương tự nhau . Sau đó giúp học
sinh phân tích về kết cấu và ý nghĩa cách sắp xếp của các bộ phận
(đồ vật đưa ra ) :
Bát yến, đường phèn,tráp đồi mồi,dao chuôi ngà….
- Cấu tạo: có kết cấu tương tự nhau.
- Về ý nghĩa: cùng nói về các đồ vật được bày biện chung quanh quan lớn:
những sự vật xa sỉ, đắt tiền.
Từ đó học sinh kết luận về phép liệt kê: được thể hiện qua việc sắp xếp
nối tiếp hàng loạt từ cùng loại ( giống nhau về cấu tạo và ý nghĩa ) để diến tả
đầy đủ hơn, sâu sắc hơn những khía cạnh khác nhau của thực tế hay tư tưởng.
Phương pháp này được giảng dạy ở nhiều tiết học. Đó là phương pháp đặc
trưng, tiêu biểu nhất giúp học sinh tự khám phá ra kiến thức mới và hình thành
khái niệm dưới sự hướng dẫn của giáo viên.
2.3.2. Phương pháp dạy theo mẫu
Phương pháp này giáo viên cung cấp cho học sinh một mẫu về câu hoặc
từ, đoạn văn..sau đó kết hợp với phương pháp phân tích ngôn ngữ để học sinh
hiểu mẫu câu.Từ đó học sinh bắt chước, sáng tạo theo mẫu câu đưa ra.
Ví dụ: khi dạy bài rút gọn câu. Giáo viên có thể đưa ra một đoạn văn đối
thoại trong đó có sử dụng một số câu rút gọn. Sau đó yêu cầu học sinh sáng tạo
xây dựng một đoạn văn khác tương tự của mình và từ chối đoạn văn của người
khác.
2.3.3. Phương pháp dạy Tiếng Việt trên quan điểm giao tiếp
Trước hết chúng ta cần hiểu: Thế nào là quan điểm giao tiếp? Quan điểm
giao tiếp là quan điểm cho rằng dạy tiếng phải lấy cái đích là sử dụng ngôn ngữ
chứ không phải là lý thuyết ngôn ngữ. Dạy tiếng để học sinh sử dụng chính xác,

tinh tế chứ không phải nắm một mớ lý thuyết ngôn ngữ.
Vì phương pháp giảng dạy Tiếng Việt dựa trên lý thuyết- thực hành giao
tiếp, cho nên người giáo viên nên cố gắng giảm thiểu phương pháp dạyTiếng
Việt theo lối thuyết giảng: giáo viên trình bày, học sinh lắng nghe, ghi bài một
cách thụ động.
Khái niệm giao tiếp hóa giảng dạy có nghĩa là chuyển quá trình trình bày
của học sinh thành những cuộc đàm thoại dài ngắn khác nhau giữa giáo viên và
học sinh hoặc giữa học sinh và học sinh với nhau. Mặt khác, giao tiếp hóa đòi
hỏi khi giảng dạy trong phân môn Tiếng Việt giáo viên phải tạo ra môi trường
giao tiếp trong giờ dạy. Đặt nó vào ngữ cảnh, phát hiện ra mục đích, ý định và
cách thức trình bày nội dung, hình thức của bài học sao cho đạt mục đích mà
người nói, người viết đặt ra. Có nghĩa là giáo viên phải sử dụng phương pháp
đàm thoại, sử dụng các câu hỏi gợi mở, vấn đáp, hoặc tổ chức thảo luận nhóm…
Đặc biệt là phải tạo được tình huống có vấn đề.

6


Giáo viên phải tạo ra cuộc trao đổi trò chuyện (phương pháp đàm thoại).
Người thầy gợi ý, định hướng để học sinh tìm hiểu các ngữ liệu tìm con đường
dẫn đến kiến thức mới.
Phương pháp đàm thoại thường được tôi sử dụng ngay từ phần tìm hiểu
bài mới để tạo hứng thú cho học sinh ngay từ ban đầu.
VD: Khi dạy tiết câu rút gọn: Tôi vào bài bằng một câu hỏi rất tự nhiên
khi vào lớp:
- Hôm nay em nào trực nhật?
Một HS đứng dậy trả lời: Thưa cô, hôm nay em trực nhật ạ!
Tôi hỏi tiếp: Còn ai trực nhật cùng bạn?
HS khác: Thưa cô, em ạ!
Tôi nói: Cả 2 câu trả lời của các em có thể chấp nhận được không? Vì

sao? Khi nào cần sử dụng câu đủ CN, VN? khi nào không cần thiết?-> Bài mới
hôm nay.
Lúc bấy giờ HS mới ồ lên vì thích thú, các em không ngờ rằng câu hỏi đó
lại chính là cách để cô giáo dẫn các em vào bài mới. Và thế là các em bị cuốn
hút vào bài mới một cách rất tự nhiên, các em hứng thú học ngay từ ban đầu. Để
dạy phần này tôi đã đưa ra một số phương pháp sau:
2.3.4. Phương pháp gợi mở
Là phương pháp được sử dụng khi học sinh không thể giải quyết được
vấn đề hoặc áp dụng đối với đối tượng học sinh yếu, kém. Phương pháp này
nhằm giúp các em tìm ra lời giải cho nội dung bài học muốn truyền thụ. Ta có
thể sử dụng phương pháp này suốt cả tiết học. Từ những hướng dẫn, gợi mở của
giáo viên, học sinh có thể đi đến kết luận cuối cùng và hình thành ghi nhớ cũng
như có khả năng giải quyết một số bài tập “hóc búa”.
VD: Khi dạy bài: Câu rút gọn- Tôi đặt câu hỏi:
- Khi nào có thể sử dụng câu rút gọn? Khi nào không nên sử dụng?
HS chưa thể trả lời ngay:Trong truờng hợp đó ta có thể hỏi tiếp bằng cách
gợi mở:
+ Các em hãy chú ý đến mối quan hệ giữa 2 người khi giao tiếp
( Mẹ- con; ông - cháu…)-> HS sẽ thấy ngoài việc hoàn cảnh cho phép thì khi
sử dụng câu rút gọn cần chú ý đến mối quan hệ trên - dưới…-> HS hiểu bài sẽ
sâu hơn, có ý thức khi sử dụng câu rút gọn nói riêng và câu nói chung.
2.3.5. Phương pháp sử dụng câu hỏi vấn đáp
Đây là phương pháp thông dụng nhất, được sử dụng nhiều nhất trong hầu
hết các tiết dạy. Để thực hiện tốt phương pháp này, tôi đã chuẩn bị thật kỹ cho
mình một hệ thống câu hỏi từ dễ đến khó cho mọi đối tượng học sinh.Việc
chuẩn bị tốt hệ thống câu hỏi sẽ tạo “Bước ngoặt” cho tiết học. Bởi vì, học sinh
sẽ hứng thú hơn khi trả lời những câu hỏi thú vị, vừa tầm hiểu đối với kiến thức
của các em. Phương pháp này đi kèm cùng phương pháp gợi mở.

7



VD: Khi dạy bài "Câu đặc biệt", sau khi học sinh hiểu thế nào là câu đặc
biệt, tôi liền đặt tiếp câu hỏi vấn đáp: Câu đặc biệt khác với câu rút gọn ở điểm
nào?
Vậy khi nào ta sử dụng câu đặc biệt?
Trên cơ sở HS trả lời những câu hỏi đó, các em đã có thể hiểu sâu hơn về
kiến thức câu đặc biệt và câu rút gọn…
2.3.6. Phương pháp thảo luận nhóm
Dạy - học theo phương pháp mới không thể thiếu được phương pháp thảo
luận nhóm. Đó là một trong số những phương pháp hay được sử dụng trong hệ
thống các phương pháp dạy học tích cực hiện nay. Trong quá trình học tập,
người học phải đứng trước vấn đề, phải tự tìm kiếm cách giải quyết vấn đề, lập
luận, thuyết minh làm sáng tỏ vấn đề. Biết hợp tác, chia sẻ là một cách tối ưu để
tìm đến kiến thức, để tìm đến chân lý khoa học tốt nhất.
Vai trò của giáo viên trong quá trình HS thảo luận rất quan trọng.Trong
khi các em thảo luận, tôi luôn là người tổ chức, tạo điều kiện lắng nghe và hỗ trợ
khi cần. Tuy nhiên, chúng ta không nên can thiệp quá sâu vào nội dung thảo
luận của các em, cần để cho các em chủ động làm việc, thể hiện quan điểm của
mình. Tránh để cho cuộc thảo luận tẻ nhạt, chỉ tập trung vào một số học sinh khá
giỏi; cũng tránh để một vài ý kiến của một vài em nào đó lấn át ý kiến của các
em khác.
Cuộc thảo luận sôi nổi, bình đẳng giữa mọi thành viên trong lớp sẽ giúp
cho mỗi cá nhân tự tin, thoải mái hơn khi học tập, các em được phát biểu ý kiến
của mình một cách hiệu quả nhất. Kết quả cuộc thảo luận được khẳng định bằng
cách ghi lại (Giấy hoặc bảng con), trên cơ sở đó giáo viên sẽ nhận xét và đánh
giá.
2.3.7. Muốn giao tiếp tốt, phát huy được tính tích cưc của học sinh
phải tạo được tình huống có vấn đề để học sinh chiếm lĩnh kiến thức và vận
dụng kiến thức:

“ Tình huống có vấn đề” là trong đó học sinh ( có tư cách làm chủ nhận
thức) ở một trạng thái tâm lí đặc biệt. Trong hoạt động học tập các em gặp phải
khó khăn trở ngại về nhận thức, cảm thấy có mâu thuẫn giữa cái đã biết và cái
các em chưa biết. các em có nhu cầu nhận thức là cần phải phát hiện, lĩnh hội
những tri thức mới, những hành động mới.
Như vậy giáo viên không chỉ truyền đạt thông tin mà còn phải là người tổ
chức và định hướng các em, đưa các em vào tình huống có vấn đề.Từ đó các
em:
- Phân tích tình huống có vấn đề.
- Nêu giả thuyết.
- Đưa ra lời giải .
- Rút ra kết luận.
Ví dụ: Dạy bài: Câu đơn đặc biệt. Khi ta đưa ra ngữ liệu là một đoạn văn
có câu đơn đặc biệt là ta đã tạo một tình huống nảy sinh mâu thuẫn: đó là học
8


sinh đã được học về câu hai thành phần. Các em biết rằng dùng câu phải đủ hai
thành phần C và V. Không được dùng câu thiếu thành phần không rõ chủ ngữ
hay vị ngữ. Vậy dùng câu đó đúng hay sai? Nếu đúng thì dùng như vậy nhằm
mục đích gì? Có tác dụng gì? Giải quyết được mâu thuẫn này là học sinh đã
chiếm lĩnh tri thức về câu đặc biệt.
Như vậy, ta thấy việc tạo ra tình huống có vấn đề sẽ gây được hứng thú
cho học sinh trong giờ học, phát huy được tính tích cực, tư duy cho học sinh.
Tuy nhiên cần lưu ý tạo ra các tình huống có vấn đề sát với tình huống thực. Đó
là các tình huống giao tiếp xảy ra trong thực tế. Có như vậy mới giúp học sinh
vượt qua những trở ngại tâm lý khi học tiếng mẹ đẻ và tạo hứng thú học tập.
2.3.8. Sử dụng phương tiện dạy học hỗ trợ
a. Bảng phụ (máy chiếu)
Bảng phụ là phương tiện hỗ trợ tích cực nhất, đắc lực nhất cho giáo viên

và học sinh trong tiết học Tiếng Việt. Với giáo viên, bảng phụ được sử dụng khi
GV trình bày những VD để hướng các em đến hệ thống kiến thức cần ghi nhớ
hoặc các bài tập cần giải quyết khi có thảo luận nhóm. Những ngữ liệu được
trình bày trên bảng phụ giúp các em nhìn nhận vấn đề rành mạch hơn, dễ nhớ
hơn. Bản thân tôi sử dụng bảng phụ cho hầu hết các phần của bài học. Từ kiểm
tra bài cũ đến phân tích ngữ liệu, làm bài tập bổ sung, hỗ trợ…
Ưu điểm của việc sử dụng bảng phụ là giáo viên có thời gian chuẩn bị
trước, không cần phải ghi chép lên bảng, nên có thời gian nhiều hơn cho việc
giải quyết bài tập, truyền đạt kiến thức mới. Nhược điểm của nó là phải mang
nhiều tấm bảng phụ cho mỗi tiết học. Nếu có hệ thống máy chiếu thì sẽ tiện hơn
rất nhiều.
Còn với HS, các em có thể sử dụng bảng phụ để trình bày những bài tập
nhỏ theo nhóm. Theo đó, kết quả thảo luận được nhóm trưởng ghi vào bảng phụ
và trình bày cho giáo viên xem. Ưu điểm của bảng này là dễ trình bày, xóa đi
khi cần. Nhưng nhược điểm đôi khi các em không tận dụng kết quả tìm được
theo nhóm mà lại nhân lúc này để nói chuyện... Giáo viên cần tránh tình trạng
này khi dạy.
b. Tranh minh họa
- Đây là công cụ hỗ trợ đắc lực trong tiết dạy Tiếng Việt mà không phải
giáo viên nào cũng thực hiện được. Bởi lẽ, bản thân giáo viên không có năng
khiếu hội họa mà thuê họa sĩ vẽ thì rất tốn kém. Tranh minh hoạ sẽ giúp cho
giáo viên rất nhiều trong việc so sánh đối chiếu và hình thành khái niệm ở học
sinh và đặc biệt lôi cuốn sự chú ý, tập trung của học sinh vào bài học.
VD: khi dạy bài "Từ đồng âm" tôi đã sử dụng 3 tranh mới với 3 nội dung
khác nhau nhưng chúng đều minh hoạ cho từ “Lồng”. Từ đó, tôi đã phân tích
từ loại, nghĩa của chúng để các em so sánh, đối chiếu và cuối cùng đi đến khái
niệm “Từ đồng âm” .

9



Ngoài ra, còn có một số phương pháp khác mà mỗi giáo viên sẽ phải vận
dụng khi đặt vào những tình huống cụ thể đó và được xem là bản lĩnh của người
thầy giáo - Người nghệ sĩ khi đứng trên bục giảng.
c. Sử dụng sơ đồ tư duy
Nhằm hướng dẫn các em có thói quen tư duy theo hình thức sơ đồ hóa
trên bản đồ tư duy. Giúp các em khắc sâu kiến thức sau mỗi bài học và tìm hiểu
những kiến thức mới trong mỗi phần có nhiều lượng kiến thức. Áp dụng ở
những tiết ôn tập hoặc một số tiết lí thuyết.
Giáo viên hướng dẫn học sinh cách vẽ bản đồ tư duy theo nhóm hoặc cá
nhân. Từ một vấn đề chính đưa ra các ý lớn, mỗi ý lớn lại có các ý nhỏ liên quan
với nó. Sử dụng bản đồ tư duy khi thảo luận nhóm hoặc làm việc độc lập.
Học sinh thuyết trình trước nhóm, lớp. Giáo viên và các học sinh khác
bổ sung, điều chỉnh hình thành kiến thức.

10


Ví dụ:

Sơ đồ tư duy tiết ôn tập tiếng việt tiết 124

11


2.4. Hiệu quả của sáng kiến
Các bài dạy trên tôi đã áp dụng ở lớp 7H tại trường THCS Minh Khai
năm học 2018-2019 và đã sử dụng một số giải pháp để nâng cao chất lượng:
Phương pháp phân tích ngôn ngữ, phương pháp dạy theo mẫu, phương pháp
giao tiếp học sinh. Kết quả cho thấy các em hiểu bài sâu sắc, không khí lớp

học sôi nổi. Các em hào hứng học tập, vận dụng làm các dạng bài tập tốt.
Ngay từ lúc bước vào bài mới với câu hỏi tình huống như vậy các em đã
thực sự bị cuốn hút vào bài học trong tâm trạng hứng khởi. Các em hào hứng và
thích thú khi nhận ra những cách hiểu khác nhau như vậy.Và trong tình huống
đó các em thật sự hào hứng suốt cả tiết học. Trong giờ học, các em đã giơ tay
xung phong làm bài tập nhiều hơn. Đặc biệt một số em nam lớp 7H thường ngày
không chịu ghi chép bài cũng chăm chú hơn. Đối chiếu với kết quả kiểm tra
nhanh ngay sau tiết học tôi đã ghi nhận một phần nào đó sự đi lên của các em,
cụ thể như sau:
Kết quả xếp loại bài kiểm tra
Lớp 7H
Giỏi
Khá
TB
Yếu
Kém
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
34 HS
8
23.5 13
38.2 11

33
1
2.9
1
2.9
Như vậy, với kết quả chất lượng môn Ngữ Văn khối 7 cuối năm học 20172018, so với kết quả khảo sát đầu năm có nâng lên rõ rệt, điều đó cho thấy đề tài
thử nghiệm của tôi đã thành công. Bởi vậy trong năm học mới 2018-2019 này,
tôi trao đổi với tổ chuyên môn về kinh ngiệm qua việc áp dụng đề tài của năm
học trước. Được sự ủng hộ và chỉ đạo của tổ trưởng chuyên môn, tôi đã trao đổi
kinh nghiệm này với tất cả các đồng chí dạy khối 7. Đến nay kết quả môn Ngữ
Văn lớp 7H nói riêng và toàn khối 7 nói chung của học kì I cũng rất tiến bộ.

12


3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận
Qua nghiên cứu thực nghiệm“Một số giaỉ pháp nâng cao chất lượng
dạy học Tiếng Việt lớp 7” tôi nhận thấy: Học sinh hứng thú học tâp hơn, gây
được sự chú ý của học sinh. Học sinh tư duy, chủ động sáng tạo trong việc hình
thành khái niệm. Hiểu bài sâu sắc, vận dụng được khá tốt quan điểm giao tiếp
trong mọi tình huống nói, viết. Đó cũng chính là mục đích cuối cùng của việc
dạy Tiếng Việt theo hướng giao tiếp là dạy cho học sinh tư duy tốt, giao tiếp tốt.
Vì vậy vận dụng tốt các phương pháp đàm thoại, gợi mở, tạo tình huống trong
giao tiếp... thì việc dạy và học Tiếng Việt nói chung - Tiếng Việt lớp 7 nói riêng
mới có hiệu quả cao. Từ đó các em hứng thú học tập. Đặc biệt các em yêu quí,
trân trọng vẻ đẹp của tiếng mẹ đẻ.
Có thể nói rằng: Nếu một tiết học Tiếng Việt đạt kết quả tốt thì đòi hỏi
người giáo viên trước hết phải nắm vững các phương pháp đặc trưng của phân
môn Tiếng Việt và vận dụng một cách linh hoạt trong mọi tình huống, từng bài

học...
Người thầy chú trọng đến phương pháp dạy theo quan điểm giao tiếp.
Biết tạo ra hứng thú học tập bằng những tình huống có vấn đề. Ở bất cứ bài nào
về mặt nguyên tắc đều có thể nêu ra các tình huống giao tiếp giả định - Những
tình huống đó phải hết sức sát thực với cuộc sống thực. Có như vậy học sinh
mới tìm tòi vấn đề và đề xuất ý kiến riêng. Đây chính là quá trình học sinh học
tập cách giao tiếp, cách bộc lộ tư tưởng, tình cảm, nêu ý kiến riêng để bảo vệ ý
kiến của mình. đồng thời rèn cho các em những kĩ năng dùng từ, đặt câu, nói và
viết trong giao tiếp.
Muốn vậy người thầy cần nâng cao kiến thức tay nghề để linh hoạt, sáng
tạo hướng dẫn học sinh giải quyết các tình huống.
Người thầy có cần phải chuẩn bị chu đáo về phương tiện dạy học vì:
Những phương tiện giạy học sẽ góp phần rất quan trọng cho sự hình thành kiến
thức của mỗi học sinh. Nếu thầy chuẩn bị bài tốt bị cuốn hút ngay từ đầu. Muốn
làm được điều này người thầy phải chú tâm có tinh thần trách nhiệm cao trong
công việc.
Điều tiếp theo, Hệ thống câu hỏi trong giờ học phải đạt hiệu quả tối ưu
nhất. Những câu hỏi phải hướng các em tới việc tìm hiểu và giải quyết vấn đề
đặt ra trong giờ dạy. Các em không chỉ tìm hiểu kiến thức được đưa ra trong
sách giáo khoa mà còn cần phải hiểu: khi nào sử dụng chúng và sử dụng như thế
nào là tốt nhất? Bởi lẽ học Tiếng Việt là để giao tiếp và vận dụng khi tìm hiểu
văn bản, tạo lập văn bản nên người giáo viên cần đặc biệt chú trọng vấn đề này.
Nếu có điều kiện GV nên chú ý đến hệ thống kênh hình trong quá trình
dạy Tiếng Việt- Sử dụng máy chiếu trong khi dạy vừa tiết kiệm thời gian ghi
13


chép vừa tác động cụ thể đến thị giác của HS, giúp các em nhìn nhận vấn đề một
cách hiệu quả nhất. Những hình ảnh sinh động, thú vị trên máy chiếu sẽ kích
thích hoạt động học tập của các em. Các em sẽ cảm thấy tiết học không còn

nhàm chán tẻ nhạt.
Cần phân bố thời gian hợp lý khi chia nhóm thảo luận, chú ý đến nhiều
nhóm đối tượng học sinh; Bởi khi thảo luận, nhiều lúc giáo viên chưa chú ý đến
các nhóm học sinh trung bình, yếu. Điều đó làm hạn chế sự tiếp thu bài học của
một nhóm đối tượng này.
Như vậy, những giải pháp nói trên phù hợp với lý luận dạy tiếng Việt hiện
đại. Phù hợp với thực tiễn hoạt động giao tiếp trong đời sống xã hội ngày nay.
Để làm tốt điều đó, tôi xin kiến nghị với các cấp lãnh đạo những vấn đề
sau:
3.2. Kiến nghị
3.2.1. Đối với nhà trường
- Chỉ đạo sát sao việc thực hiện chuyên đề của giáo viên trong nhà trường
một cách kịp thời và kiểm tra đánh giá cụ thể.
- Tạo điều kiện cho giáo viên học hỏi vận dụng công nghệ thông tin trong
giảng dạy.
- Tăng cường phòng học bộ môn có máy chiếu để giáo viên sử dụng thành
thạo và hiệu quả.
- Tổ chuyên môn thường xuyên dự giờ rút kinh nghiệm kịp thời sau
những giờ dạy.
3.2.2. Đối với Phòng Giáo dục và Đào tạo Thanh Hóa:
- Tiếp tục có kế hoạch xây dựng những chuyên đề có chất lượng.
- Xây dựng những buổi ngoại khóa tại những cụm, trường để tạo điều
kiện cho giáo viên học hỏi kinh nghiệm.
Trên đây là một số ý kiến của tôi về vấn đề dạy phân môn Tiếng Việt
trong chương trình ngữ văn nói chung và dạy Tiếng Việt lớp 7 nói riêng. Do điều
kiện thời gian và hạn chế về kiến thức nghiên cứu về một vấn đề phức tạp. Cho
nên những ý kiến của bản thân cũng như quá trình thực hiện của tôi còn nhiều
thiếu sót. Tôi rất mong được sự đóng góp, xây dựng tận tình của Ban Giám hiệu,
các thành viên Hội đồng Khoa học các cấp của ngành giáo dục, để bài viết của
tôi hoàn thiện hơn.

Tôi xin chân thành cảm ơn!

XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG

Thanh hóa, ngày 10 tháng 3 năm 2019
14


ĐƠN VỊ

Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung
của người khác.
Người viết SKKN

Lê Thị Yên

15



×