Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

SKKN rèn kỹ năng nói qua việc dạy học các tiết luyện nói cho học sinh lớp 6 ở trường THCS lương sơn, thường xuân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (139.85 KB, 18 trang )

MỤC LỤC
Mục

Các phần
Mục lục

1

Mở đầu

1.1

Lí do chọn đề tài

1.2

Mục đích nghiên cứu

1.3

Đối tượng nghiên cứu

1.4

Phương pháp nghiên cứu

2

Nội dung sáng kiến kinh nghiệm

2.1



Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm

2.2

Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh
nghiệm

2.3

Các giải pháp thực hiện để giải quyết vấn đề

2.4

Hiệu quả của SKKN

3

Kết luận, kiến nghị

3.1

Kết luận

3.2

Kiến nghị
Tài liệu tham khảo
Danh mục các đề tài SKKN đã được hội đồng đánh
giá xếp loại cấp Phòng GD&ĐT, cấp Sở GD&ĐT.


Trang
1
2
2
2-3
3
3
4
4
4-5
5 - 13
13 - 14
14
14
15
16
17

1


1. Mở đầu
1.1. Lí do chọn đề tài.
Năm học 2008-2009 Bộ giáo dục đã phát động phong trào thi đua xây
dựng “Trường học thân thiện, học sinh tích cực “ trong toàn ngành giáo dục.
Một trong những nội dung cơ bản của phong trào là rèn luyện kĩ năng sống cho
học sinh. Đó là kĩ năng ứng xử hợp lí với các tình huống trong cuộc sống, kĩ
năng ứng xử có văn hoá, chung sống thân thiện... Thực tế cho thấy để đánh giá
con người có văn hoá, biết cách ứng xử trong cuộc sống, trước hết chúng ta

thường xem xét cách nói năng của mỗi người khi giao tiếp.
Tục ngữ có câu: “ Học ăn, học nói, học gói, học mở “. Có lẽ không phải
ngẫu nhiên mà “ học nói “ được xếp vào vị trí thứ hai của câu nói. Ca dao lại có
câu:” Lời nói chẳng mất tiền mua. Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau” Điều này
cho thấy nói là một kĩ năng rất quan trọng trong giao tiếp hằng ngày. Nói không
chỉ đơn thuần là hoạt động phát ra thành tiếng, thành lời mà quan trọng là làm
thế nào để lời nói đó truyền đạt được lượng thông tin đến với người nghe một
cách chính xác, dễ hiểu đồng thời phải thể hiện được tư tưởng, tình cảm của
người nói. Có lẽ cũng chính vì điều đó mà nhiệm vụ của môn Ngữ văn trong nhà
trường là hướng tới rèn luyện cho học sinh bốn kĩ năng nghe, nói, đọc, viết. Nói
năng tốt không chỉ có ý nghĩa đối với các em trong thời gian học tập ở trường
mà còn giúp các em thành công trong suốt thời gian sống và làm việc sau này.
Nhận thức được tầm quan trọng của việc rèn luyện kĩ năng nói cho học
sinh ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường, trong quá trình giảng dạy tôi luôn
trăn trở làm thế nào để nâng cao hiệu quả của các tiết luyện nói trong các giờ
Ngữ văn, đồng thời hướng đến đích cao hơn là giúp học sinh có khả năng nói
tốt, truyền đạt những suy nghĩ của mình trước mọi người một cách rõ ràng,
truyền cảm trong cuộc sống hàng ngày để các em thực sự trở trhành những chủ
thể giao tiếp có văn hoá. Vì thế trong thời gian vừa qua, tôi đã tiến hành nghiên
cứu đề tài “Rèn kỹ năng nói qua việc dạy học các tiết luyện nói cho học sinh
lớp 6 ở trường THCS Lương Sơn, Thường Xuân”
1.2. Mục đích nghiên cứu.
“ Nói là hoạt động phát ra thành tiếng, thành lời để diễn đạt một nội dung
nhất định trong giao tiếp”. Như vậy nói là hình thức giao tiếp tự nhiên của con
người. Kể chuyện bằng ngôn ngữ nói giữa người này với người khác cũng là
hình thức giao tiếp tự nhiên hằng ngày , bất cứ ai cũng thực hiện trong đời sống
của họ. Trong cuộc sống ta vẫn bắt gặp những cuộc trò chuyện rất vui vẻ, cởi
mở, thân tình giữa các em học sinh ta thấy chúng thật sinh động và tự nhiên biết
bao ! Vậy thì cần gì phải học nói, luyện nói trong nhà trường ?
Luyện nói trong nhà trường là để nói trong một môi trường giao tiếp khác,

môi trường xã hội, tập thể công chúng. Đứng trước môi trường này nhiều học
sinh thường ngày vốn biết ăn nói sinh động bỗng trở nên lúng túng, ngượng
nghịu! Luyện nói trong nhà trường là nói theo những chủ đề, vấn đề không quen
thuộc trong đời sống hằng ngày, lại yêu cầu nói mạch lạc, liên kết, không được
2


tuỳ tiện, do đó cần phải luyện tập trong môi trường giao tiếp xã hội. Luyện nói
tốt sẽ giúp người học có được một công cụ giao tiếp hiệu quả trong cuộc sống xã
hội. Qua những tiết luyện nói, những học sinh có khả năng giao tiếp tốt có cơ
hội để rèn luyện thêm khả năng nói năng của mình, đồng thời tạo cơ hội để
những học sinh rụt rè, nhút nhát dần làm quen với cách nói, cách trình bày một
vấn đề trước đám đông giúp các em trở thành một chủ thể tự tin khi giao tiếp
trong cuộc sống.
Nếu như nghe và đọc là hai kĩ năng quan trọng của hoạt động tiếp nhận
thông tin thì nói và viết là hai kĩ năng quan trọng của hoạt động bộc lộ, truyền
đạt thông tin cần được rèn luyện và phát triển trong nhà trường. Tuy nhiên cần
phải khẳng định rằng năng lực viết, ngôn ngữ viết cố nhiên là quan trọng, song
đó là ngôn ngữ trừu tượng, vì chỉ có những chữ viết không có các yếu tố khác bổ
trợ; còn ngôn ngữ nói là phương tiện giao tiếp có âm thanh, có ngữ điệu sống
động, có sức truyền cảm trực tiếp giữa người nói và người nghe. Do vậy nói
năng tốt sẽ đem lại những thuận lợi, là một trong những yếu tố tạo nên thành
công cho con người trong đời sống xã hội.
Chương trình Ngữ văn 6 có tất cả năm tiết luyện nói bố trí ở cả hai kiểu
văn bản tự sự và miêu tả ( kiểu văn bản tự sự có hai tiết , văn miêu tả có ba tiết).
Cụ thể:
+Tiết 29: Luyện nói kể chuyện
+Tiết 43: Luyện nói kể chuyện
+Tiết 83-84: Luyện nói về quan sát, tưởng tượng, so sánh và nhận xét
trong văn miêu tả.

+Tiết 96: Luyện nói về văn miêu tả.
Ở mỗi kiểu văn bản có những đặc trưng riêng song cùng đều hướng tới
mục tiêu chung là rèn luyện kĩ năng nói cho học sinh, giúp học sinh biết cách
trình bày vấn đề một cách rõ ràng, mạch lạc thể hiện được cảm xúc của mình với
vấn đề đang trình bày.
Chính vì thế , trong phạm vi của đề tài nghiên cứu này tôi đã mạnh dạn áp
dụng những suy nghĩ, kinh nghiệm của bản thân vào thực tế giảng dạy để nhằm
nâng cao hiệu quả của các tiết luyện nói trong chương trình Ngữ văn 6 mặt khác
hướng tới tạo nền móng cơ bản cho những tiết luyện nói ở những năm học tiếp
theo và rèn luyện khả năng giao tiếp cho học sinh trong cuộc sống hàng ngày
một cách có hiệu quả.
1.3. Đối tượng nghiên cứu.
Đề tài nghiên cứu về việc rèn luyện kỹ năng nói cho học sinh lớp 6.
1.4. Phương pháp nghiên cứu.
- Phương pháp nghiên cứu cơ sở lý thuyết.
- Phương pháp điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin.
- Phương pháp thống kê, sử lý số liệu
3


2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm.
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm.
Dạy học theo quan điểm giao tiếp là một trong những chủ trương quan
trọng của chiến lược dạy học các môn ngôn ngữ ở trường phổ thông. Hiện nay
các nước trên thế giới rất coi trọng quan điểm này, lấy hoạt động giao tiếp là
một trong những căn cứ để hình thành và phát triển các hoạt động ngôn ngữ mà
cụ thể là năng lực nghe, nói, đọc, viết cho người học.
Chương trình sách giáo khoa hiện hành đặc biệt nhấn mạnh: “ Trọng tâm
của việc rèn luyện kĩ năng Ngữ văn cho học sinh là làm cho học sinh có kĩ năng
nghe, nói, đọc , viết tiếng Việt khá thành thạo theo các kiểu văn bản và có kĩ

năng sơ giản về phân tích tác phẩm văn học, bước đầu có năng lực cảm nhận và
bình giá tác phẩm văn học.”
Như vậy, muốn rèn luyện cho học sinh kĩ năng nói thì không có cách nào
tốt hơn là thông qua tiết luyện nói. Qua tiết luyện nói giáo viên luyện cho học
sinh biết vận dụng từ ngữ và các quy tắc ngữ pháp cơ bản đã học để nói đúng,
biết diễn đạt ý tưởng chính xác, rõ ràng, trong sáng. Hơn nữa giáo viên còn rèn
luyện cho học sinh các mặt cụ thể: lời nói phải rõ nghĩa, rõ ý; giọng nói phải vừa
nghe vừa cố gắng truyền cảm và tư thế nói phải mạnh dạn, tự tin giúp cho bài
nói có sức thuyết phục hơn để sau mỗi bài học các em cảm nhận được cái hay,
cái đẹp của tiếng Việt từ đó thêm yêu mến tự hào về tiếng nói của dân tộc.Tiết "
Luyện nói" là một tiết học vô cùng quan trọng đối với học sinh THCS, nhất là
học sinh lớp 6- lớp đầu cấp. Rèn luyện kĩ năng nói cho hoc sinh là một việc làm
khó nhưng dù khó đến đâu yêu cầu rèn luyện kĩ năng nói cũng phải luôn luôn
được coi trọng.
Trọng tâm của việc rèn luyện kĩ năng trong chương trình ngữ văn THCS là
giúp cho học sinh có được kĩ năng nghe, nói, đọc, viết một cách thành thạo.
Thực hiện tốt trọng tâm đề ra cũng chính là thay đổi cách dạy học theo xu hướng
quốc tế hoá, góp phần làm cho chất lượng giáo dục ngày càng được nâng cao.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
Thực tế giảng dạy trong nhiều năm qua tôi nhận thấy rằng giờ luyện nói là
giờ giáo viên ít thành công mĩ mãn nhất. Mỗi giờ luyện nói thường trôi qua
một cách rời rạc, căng thẳng do vậy giáo viên thì ngại dạy và học sinh thì ngại
học. Sở dĩ có tình trạng trên là có cả nguyên nhân về cả người dạy và cả người
học.
Về phía giáo viên, do sách giáo khoa đưa ra nhiều đề tài nên giáo viên
thường lúng túng trong khi chọn đề tài không trình bày cả thì sợ thiếu mà trình
bày cả thì không đủ thời gian bởi thời lượng của một tiết học không đủ để giáo
viên có thể cho số lượng học sinh được lên nói nhiều. Hơn nữa, ở những tiết
luyện nói sách giáo viên cũng chưa có định hướng cụ thể rõ ràng giúp người dạy
dễ dàng hơn trong quá trình tổ chức các tiết luyện nói. Các tài liệu tham khảo ít

hoặc hầu như không có những gợi ý cho những tiết luyện nói.
4


Về phía học sinh, do Lương Sơn là một xã miền núi thuần nông, phần lớn
các em học sinh đều xuất thân và sinh sống ở nông thôn và đa số là con em dân
tộc thiểu số nên thường có tâm lí e dè, ngại nói, nói nhỏ hoặc không tự tin khi
nói trước đông người. Đồng thời do đặc điểm của tiếng địa phương hầu hết các
em phát âm chưa tốt, phát âm sai về thanh điệu ( hỏi, ngã lẫn lộn ), phát âm sai
về các nguyên âm, nguyên âm đôi ( iê, uô…), sử dụng từ ngữ địa phương khi
trả lời. Hơn nữa, khi trả lời học sinh thường có thói quen lặp lại từ ngữ nhiều,
diễn đạt vụng về, thiếu mạch lạc và không thoát ý. Sở dĩ có tình trạng trên là do
ngoài giờ học các em quen nói tự do còn trong giờ luyện nói các em phải nói
theo một đề tài do thầy cô đặt ra, nói trước sự giám sát của thầy cô và các bạn
trong lớp nên hầu hết các em thường né tránh khi được cử, được gọi lên trình
bày trước lớp.
Vì những lí do trên nên thực tế trong tiết 29 Luyện nói kể chuyện ( tiết
luyện nói đầu tiên của chương trình Ngữ văn 6 ) kết quả tôi thu
được như sau :
Số học sinh đạt
yêu cầu

Số học sinh
không đạt yêu
cầu

Lớp

Sĩ số


Số học sinh gọi
trình bày

6A

40

16

6

10

6B

41

17

6

11

Từ thực trạng trên thì một vấn đề đặt ra đối với người giáo viên là phải
làm thế nào để đảm bảo được dung lượng kiến thức mà lại cuốn hút được số
học sinh tham gia nói nhiều và nói có chất lượng trong một giờ luyện nói. Đó
thực sự là một thách thức đối với giáo viên.
2.3. Các giải pháp thực hiện để giải quyết vấn đề.
Với những trăn trở làm thế nào để nâng cao chất lượng của những giờ
luyện nói bản thân tôi đã suy nghĩ và mạnh dạn cải tiến phương pháp dạy học.

Sau đây tôi xin trình bày những giải pháp cụ thể đã thực hiện như sau :
2.3.1 Hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài ở nhà một cách cụ thể.
Để một giờ luyện nói đạt kết quả tốt việc đầu tiên giáo viên phải hướng
dẫn học sinh chuẩn bị bài một cách cụ thể, chu đáo. Thông thường trong một tiết
luyện nói sách giáo khoa thường đưa ra một số vấn đề do vậy ngay từ khi lên kế
hoạch bài học giáo viên phải lựa chọn đề nào cho phù hợp với đối tượng học
sinh ở từng vùng, miền. Sau khi đã có sự lựa chọn hợp lí giáo viên hướng dẫn
học sinh chuẩn bị có thể cả lớp cùng chuẩn bị một đề cũng có thể phân công
theo từng tổ, nhóm chuẩn bị theo từng đề để học sinh chuẩn bị kĩ lưỡng tránh
tình trạng ỷ lại, đối phó.
Ví dụ:
Trong Tiết 29 - Luyện nói kể chuyện, sách giáo khoa đưa ra bốn đề:
5


a. Tự giới thiệu về bản thân
b. Giới thiệu người bạn mà em quý mến
c. Kể về gia đình mình
d. Kể về một ngày hoạt động của mình
Cả bốn đề này đều yêu cầu học sinh nói về những vấn đề rất gần gũi trong
cuộc sống của các em vì thế giáo viên nên chọn cả bốn đề và phân công cụ thể
như sau:
Nhóm 1: chuẩn bị đề a
Nhóm 2: chuẩn bị đề b
Nhóm 3: chuẩn bị đề c
Nhóm 4: chuẩn bị đề d
Hoặc trong Tiết 43 - Luyện nói kể chuyện, sách giáo khoa cũng đưa ra
bốn đề:
a. Kể về một chuyến về quê.
b. Kể về một cuộc thăm hỏi gia đình liệt sĩ neo đơn.

c. Kể về một cuộc đi thăm di tích lịch sử.
d. Kể về một chuyến ra thành phố.
Với bốn đề này không phải đối tượng học sinh nào cũng có thể trình bày
tốt được bởi có những tình huống chưa từng xảy ra với các em do vậy giáo viên
phải lựa chọn tuỳ theo điều kiện, đặc điểm của đối tượng học sinh nơi mình
công tác để lựa chọn đề bài phù hợp.
Sau khi đã giao việc cụ thể cho học sinh, giáo viên yêu cầu các em về nhà
chuẩn bị lập dàn ý chi tiết ( lưu ý không viết thành bài hoàn chỉnh ) và tập nói ở
nhà theo đề cương đã chuẩn bị.
2.3.2 Giáo viên cần nêu rõ những yêu cầu cơ bản của giờ luyện nói
Ngay từ đầu của giờ học giáo viên cần nêu rõ yêu cầu của giờ học để học
sinh xác định rõ trọng tâm của tiết học. Cụ thể đối với giờ luyện nói thì học sinh
cần đảm bảo những yêu cầu sau:
- Nội dung giao tiếp (Nói cái gì? )
- Đối tượng giao tiếp (Nói với ai?)
- Cách thức giao tiếp (Nói như thế nào?)
+ Về nội dung:
- Học sinh nói phải đúng nội dung nghĩa là bài nói của các em phải tập
trung vào đề bài mà giáo viên yêu cầu , nói theo đề cương đã chuẩn bị.
- Nắm vững đề tài cần nói, huy động nhanh vốn từ đúng, từ hay, đặt câu
đúng và hay, cách dựng đoạn.
6


+ Về đối tượng giao tiếp:
Đây là một giờ thực hành trên lớp nên đối tượng giao tiếp ở đây cụ thể là
thầy ( cô ) và các bạn do đó trước khi nói các em phải có lời chào, lời giới thiệu
về đề tài sắp nói; sau khi kết thúc bài nói phải có lời cảm ơn.
+ Về cách thức giao tiếp:
Đã là nói thì phải vận dụng đúng ngôn ngữ nói để trình bày vấn đề không

phải là đọc lại hoặc đọc thuộc lòng bài văn chi tiết đã chuẩn bị. Điều đó có nghĩa
là nói phải có các yếu tố bổ trợ như: ngữ điệu, nét mặt, âm lượng, cử chỉ, dáng
điệu…Cụ thể:
- Lời nói to, rừ ràng, mạch lạc, phát âm chuẩn, tránh dùng từ ngữ địa
phương, lời nói phải có sự truyền cảm.
- Có những biểu hiện về nét mặt, cử chỉ, dáng điệu phù hợp khi nói.
- Tác phong lên nói nhanh nhẹn, tự nhiên, hào hứng.
- Có thái độ khiêm tốn, chân tình với người nghe, quán xuyến theo dõi thái
độ người nghe.
Tuy nhiên cần chú ý kết hợp đúng mực giữa nội dung và ngữ điệu, không
để cho ngữ điệu lấn át nội dung.
2.3.3 Tạo điều kiện để cả lớp đều tham gia luyện nói
Làm thế nào để cả lớp đều tham gia luyện nói theo đúng nghĩa của nó? Đó
là yêu cầu quan trọng của tiết dạy. Thường thì những giờ luyện nói như thế này
giáo viên không khéo léo điều khiển thì một số em lơ là, không tham gia luyện
tập. Vỡ vậy giáo viên phải tìm ra những biện pháp tốt nhất mà trong đó không
thể bỏ qua việc cho các em tham gia nhận xét đánh giá sự trình bày của bạn- đó
cũng là một cách để các em luyện nói. Vấn đề đặt ra là giáo viên phải hướng cho
học sinh biết đánh giá thế nào cho đúng. Giáo viên có thể yêu cầu các em nhận
xét, rút kinh nghiệm về các mặt: nội dung bài nói, cách thức nói, tác phong khi
nói … Chẳng hạn giáo viên có thể hỏi:
+ Bạn trình bày nội dung đó được chưa? (Đó đủ chưa, có chỗ nào lệch
lạc? Câu nào, ý nào bạn trình bày tốt? Câu nào bạn dùng từ sai? câu nào sai ngữ
pháp ? câu nào còn diễn đạt dài dòng? ... Theo em, em sẽ trình bày như thế
nào?)
+ Bạn đó trình bày đúng phương thức nói chưa? (Giọng điệu của bạn trình
bày đó phù hợp chưa? Bạn đọc hay nói?)
+Tác phong của bạn khi nói như thế nào? (Cử chỉ, thái độ, giọng điệu biểu
hiện như thế nào?)
Giáo viên muốn đạt được yêu cầu này thì phải đặt ra những yêu cầu trước

đối với các em như: biết nhận xét đúng, sai của bạn nghĩa là bản thân mình trước
hết phải có sự chuẩn bị ở nhà, phải biết lắng nghe khi bạn nói. Giỏo viờn căn cứ
vào bài nói của học sinh để cùng với học sinh có những bổ sung, rút kinh
nghiệm cho các em lần sau nói tốt hơn lần trước.
7


Trọng tâm của những giờ học này là luyện nói, giáo viên nên dành nhiều
thời gian cho học sinh nói trước lớp (30 phút) và số lượng học sinh lên trình
bày tối thiểu phải từ 8 đến 10 học sinh, số còn lại sẽ được nói ở những tiết sau.
Đồng thời phải chú ý đến đối tượng học sinh làm sao để học sinh giỏi, khá, trung
bình, yếu đều được tham gia trình bày bài nói.
2.3.4 Tạo cho học sinh hoàn cảnh giao tiếp thuận lợi trong giờ luyện nói.
Trước mỗi giờ luyện nói, giáo viên đã cho học sinh chuẩn bị đề tài nghĩa
là về phần nội dung các em đã có, vấn đề còn lại là tâm thế chuẩn bị lên nói. Vì
vậy vào giờ học, giáo viên cần cho thời gian để các em có thể chuẩn bị tư thế
trước khi lên nói. Có thể là cá nhân tự chuẩn bị, có thể là cho nhóm thảo luận để
chọn đại diện lên nói. Thông thường nên hướng cho học sinh có thái độ cùng
nhau hợp tác, các em nói ở tổ, nhóm trước thì các em sẽ tự nhiên hơn . Trong khi
học sinh trình bày theo tổ thì giáo viên đến từng tổ theo dõi, động viên, khích lệ
để các em cảm thấy sự gần gũi thân tình, bớt đi cảm giác ngại ngùng khi nói.
Hơn nữa nên để các em cử đại diện, xung phong hoặc có thể giáo viên mời một
vài học sinh có khả năng nói tốt cho các em nói trước rồi đánh giá, khen ngợi để
khích lệ tinh thần của những học sinh khác bởi nếu ngay từ đầu giáo viên gọi,
chỉ định thì sẽ tạo tâm lí lo lắng, sợ sệt ở những học sinh nhút nhát, những học
sinh có kĩ năng nói còn yếu. Mặt khác, đối với những em được cử lên nói nhưng
nói chưa tốt giáo viên cũng đừng vội vàng phê phán các em mà nên khéo léo chỉ
ra những điểm chưa hoàn thiện để động viên các em lần sau nói tốt hơn.Hoặc
cũng có thể giáo viên “nhập vai” cùng học sinh như tiết 29 “Luyện nói kể
chuyện” giáo viên có thể tạo không khí thân mật, gần gũi với các em bằng cách

giáo viên tự giới thiệu về mình trước, điều đó sẽ tạo cơ sở để học sinh dễ dàng
bộc lộ giới thiệu về bản thân mình những điều đơn giản như : họ tên, tuổi, sở
thích, ước mơ…hoặc giới thiệu về gia đình mình giúp các em thoải mái và tự
nhiên hơn khi các em cảm nhận được sự gần gũi ở giáo viên.
Không khí của giờ luyện nói nên tạo được sự hào hứng cho lớp học, cho
từng em học sinh, làm cho các em phấn khởi, mong muốn được lên trình bày bài
nói của mình. Để kích thích học sinh, giáo viên nên đánh giá khen ngợi, khuyến
khích bằng cách cho điểm, tặng những tràng pháo tay động viên sau mỗi bài nói
tốt.
Dạy luyện nói phải gây hứng thú học tập của học sinh, phát huy tính tích
cực, độc lập, sáng tạo của học sinh. Giờ luyện nói là giờ thể hiện cá tính, là giờ
học sinh được làm chủ mình hơn cả, giáo viên đừng ép buộc em, đừng vội vàng
phê phán các biểu hiện chưa tốt của các em, vấn đề là phải tạo những điều kiện
cần và đủ để các em nói.
2.3.5. Rèn luyện kĩ năng nói cho học sinh trong những môi trường giao tiếp
khác nhau
Rèn luyện kĩ năng nói cho học sinh là một việc làm khó vì vậy nếu chỉ bó
hẹp trong phạm vi những tiết luyện nói thì chắc chắn không thể đạt được hiệu
quả do vậy giáo viên phải chú ý rèn luyện kĩ năng nói cho học sinh trong những
môi trường giao tiếp khác nhau.
8


Trong các tiết học, giáo viên nên chú trọng kĩ năng nói cho học sinh thông
qua những lần phát biểu đóng góp xây dựng bài. Đặt những câu hỏi kích thích tư
duy và sự phản xạ của học sinh. Câu hỏi nên đi từ đơn giản đến phức tạp để tập
cho các em biết suy nghĩ trước khi nói, nói đúng vấn đề cần trao đổi, khi nói cần
bình tĩnh, tự tin,..Giáo viên cần khuyến khích, động viên học sinh phát biểu suy
nghĩ của các em ngay cả khi ý kiến đó là sai hoặc chưa hoàn toàn chính xác. Bên
cạnh đánh giá việc trình bày nội dung câu hỏi của học sinh, giaó viên đồng thời

lưu ý cho học sinh những lỗi cần tránh trong nói tiếng Việt về phát âm, dùng từ ,
về cách diễn đạt và hướng dẫn các em nói diễn cảm, ngắn gọn, súc tích, hấp dẫn
cho người nghe.
Thông qua các tiết hoạt động ngoài giờ lên lớp như sinh hoạt 15 phút đầu
giờ, giáo viên có thể kết hợp với Đoàn - Đội tăng cường các buổi đọc báo chung
để rèn về ngữ điệu và cách phát âm chuẩn cho học sinh. Hoặc trong các buổi
sinh hoạt lớp cuối tuần giáo viên có thể khuyến khích các em phát biểu ý kiến để
tạo cho các em thói quen trình bày một vấn đề trước tập thể đông người. Đồng
thời trong các tiết hoạt động ngoài giờ lên lớp cao điểm cần tổ chức cho các em
dựng hoạt cảnh, đóng kịch từ các tác phẩm đã học để luyện cho các em khả năng
đối thoại, độc thoại tốt hơn.
Ngoài ra cần phải rèn luyện kĩ năng nói cho các em thêm ngoài các giờ
học, ngoài các hoạt động giáo dục của nhà trường. Chúng ta cần thống nhất rằng
mỗi một lần học sinh có dịp nói là một lần tập nói. Một nguyên tắc rất quan
trọng trong việc luyện nói là không một lúc nào, một nơi nào các em được nói
cẩu thả, nói tục nói thiếu văn hoá. Muốn vậy cần phải có sự phối hợp đồng bộ
giữa gia đình, nhà trường và xã hội để có những nhắc nhở, uốn nắn kịp thời đối
với các em.
Dạy luyện nói không chỉ dạy lời nói, dáng điệu nói….mà phải dạy chiều
sâu của tâm hồn, tư tưởng của học sinh mà cụ thể hơn là dạy nếp sống có văn
hóa, nói năng có văn hoá, chống lại cách nói năng xấu đang có nguy cơ lan tràn
trong học sinh hiện nay như nói tục, nói trống không, nói tiếng lóng,..Dạy luyện
nói phải kết hợp việc rèn luyện kĩ năng với việc giáo dục tư tưởng, tình cảm, tư
duy cho học sinh, giáo dục lòng yêu mến tự hào về tiếng Việt, tự hào về tiếng
nói của dân tộc ta.
Tiết dạy minh họa: Tiết 29: LUYỆN NÓI KỂ CHUYỆN
Bước 1: Chuẩn bị: Yêu cầu HS chuẩn bị chương trình luyện nói:
- Nội dung chương trình : Kể về bản thân, gia đình, bè bạn, công việc
( theo các đề bài ở SGK )
- Cách thức chuẩn bị :

+ Cá nhân HS dựa vào đề bài và dàn bài tham khảo ở SGK để lập dàn bài
chi tiết vào vở soạn ( 4 đề bài trong SGK ).
Đề 1 : Tự giới thiệu về bản thân.
Đề 2 : Giới thiệu người bạn mà em quý mến.
9


Đề 3 : Kể về gia đình mình.
Đề 4 : Kể về một ngày hoạt động của mình.
+ Mỗi HS tự lựa chọn những phần muốn giãi bày, giới thiệu trước tập thể
để tập nói thật kỹ trước khi đến lớp.
+ HS tham khảo tư liệu (Gợi ý: Học tốt Ngữ văn 6, Hướng dẫn tự học
Ngữ văn 6, SGK …), tham khảo kỹ năng nói của các thành viên tham gia các
Chương trình trên truyền hình như: Đường lên đỉnh Olympya, Ở nhà chủ nhật,
Chiếc nón kỳ diệu, các chương trình Giao lưu…
+ Ghi lên bảng phụ 4 dàn bài chi tiết (4 tổ chuẩn bị trước khi tiến hành tiết
học).
GV cũng chuẩn bị một số nội dung để giao lưu cùng HS.
Lưu ý : GV tranh thủ huấn luyện cho HS hoặc ít nhất là đội ngũ nòng cốt
gồm cán sự bộ môn, lớp phó học tập, tổ trưởng, nhóm trưởng về một số kỹ năng
nói (để số HS này hướng dẫn lại cho những HS khác).
+ Dùng ngôi kể, cách xưng hô cho thích hợp.
+ Đối thoại với người nghe trong quá trình nói.
+ Kết hợp yếu tố ngôn ngữ với yếu tố phi ngôn ngữ (giọng điệu, cử chỉ,
ánh mắt, …).
+ Khả năng ứng biến linh hoạt tuỳ theo sự tiếp nhận của người nghe.
Bước 2: Trình tự tiến hành trong tiết học:
- GV giới thiệu bài:
Nêu nội dung và mục đích của chương trình luyện nói:
Cô trò chúng ta đã gắn bó với nhau được hai tháng rồi. Hai tháng trôi

qua đã xóa dần những bỡ ngỡ ban đầu, nhưng có lẽ chúng ta vẫn muốn có cơ
hội hiểu nhau nhiều hơn, phải không các em. Vậy cơ hội ấy đến rồi! Tiết học
hôm nay sẽ thực sự là một dịp tốt để chúng ta giao lưu, chia sẻ với nhau về bản
thân, gia đình, bè bạn, công việc…
Và thể loại kể chuyện đời thường sẽ giúp chúng ta xích lại gần nhau hơn
qua những lời kể chân thành, tự nhiên mà không kém phần mạch lạc, hấp dẫn

* GV nêu yêu cầu và thể lệ cuộc giao lưu:
- Yêu cầu:
Nội dung: đảm bảo theo đúng dàn ý của một bài kể chuyện với bố cục ba
phần (yêu cầu HS Khá, Giỏi treo bảng phụ và giới thiệu dàn bài chi tiết)
Kỹ năng nói: SGK/ 77
- Cách thức thực hiện: Thời gian giao lưu: khoảng 35 phút; chia làm 3
vòng
10


+ Giao lưu trong tổ: 10 phút
+ Giao lưu trước lớp: 20 phút
+ Giao lưu với cô giáo: 5 phút
- Hình thức:
+ Các thành viên trong tổ trò chuyện với nhau về 4 nội dung - trao đổi về
việc thi đua giao lưu với các tổ khác
+ Thành viên các tổ thi đua nhau lên giao lưu với cả lớp (tuần tự được mời
khi đến lượt ; nếu tổ nào chậm trễ thì mất lượt).
Có bốn nội dung Giao lưu để chia sẻ cùng mọi người nhưng mỗi người
được phép tự chọn phần nào mình thích chia sẻ cùng mọi người để nói trước
lớp. Mỗi người chỉ được phép nói tối đa trong vòng 3 phút.
Nhận xét và tính điểm theo bảng điểm sau :
Người thứ

nhất

Người thứ
hai

Người thứ
ba

Người thứ


Tổng cộng
điểm

Tổ 1
Tổ 2
Tổ 3
Tổ 4
Mỗi người được ghi 10 điểm nếu đảm bảo yêu cầu về nội dung (nói đúng
chủ đề) và hình thức trình bày (giọng điệu, phong thái…). Nếu không đạt yêu
cầu thì tuỳ mức độ sẽ bị trừ bớt điểm. GV là giám khảo, thư ký lớp sẽ ghi điểm
và tổng kết bảng điểm.
+ Tổ nào đạt số điểm cao nhất sẽ được quyền ưu tiên giao lưu với cô giáo
(phỏng vấn GV về 4 nội dung trên) trong vòng 3-5 phút.
Bước 3: Giáo viên điều hành, tổ chức cho học sinh giao lưu:
- Phân công các tổ thực hiện vòng 1 - GV bao quát, chỉ đạo.
- GV dẫn chương trình cho vòng 2
- Mở đầu bằng bài hát tập thể : Lớp chúng mình để gây tâm thế hào hứng.
- Lần lượt dẫn dắt và mời thành viên các tổ lên nói trước lớp - Xen kẽ với
lời nhận xét, khích lệ:

+ Động viên Cán sự bộ môn Ngữ văn (đồng thời cũng là thành viên trong
một tổ) xung phong lên đầu tiên để tạo không khí sôi nổi ngay từ đầu.
+ Thành viên của tổ trước được phép mời bất cứ thành viên nào của tổ sau
(theo thứ tự).

11


+ Khi thành viên của một tổ lên trước lớp; nếu thành viên đó không trình
bày được thì tổ tiếp sức bằng cách cử ngay thành viên khác nhưng chỉ được thay
thế một lần và trong thời lượng cho phép.
+ Lần lượt như thế cho đến hết thời gian theo quy định của vòng 2.
- Nhận xét, khích lệ chung.
- GV giao lưu với lớp qua câu hỏi phỏng vấn của tổ đạt điểm cao nhất
( vòng 3).
- Giáo viên kết thúc tiết học - Rút kinh nghiệm.
Bước 3: Kết quả - Rút kinh nghiệm về tiết học:
- Tiết học vận dụng hình thức: THI NÓI HAY
- Đảm bảo được thời lượng với các hoạt động như dự định.
- Số lượng HS được nói trước lớp: 8 HS (không kể số HS nói trước tổ và
đặt câu hỏi giao lưu thêm).
- Tuy còn đôi chút gượng gạo nhưng giờ học diễn ra trong không khí khá
tự nhiên, thân mật và không kém phần sôi nổi.
- Một số HS nhút nhát khi được mời lên cũng đã cố gắng hết sức nhờ sự
khích lệ, động viên. Các em chỉ nói được vài câu nhưng đó là kết quả bước đầu
để sau này các em dần dần mạnh dạn hơn.
VD: như em Thúy Hiền, khuôn mặt tái nhợt, người run lên vì sợ nhưng
sau đó cũng cố trấn tĩnh để nói cho các bạn biết về địa chỉ gia đình và người mẹ
của mình.
- Một vài HS đã kể khá mạch lạc về những nội dung giao lưu tuy còn đôi

chút ngượng nghịu ban đầu .
Ví dụ: Ghi lại theo lời kể của HS)
Phần trình bày của em Nguyễn Hoài Thương với phong thái chững chạc,
lời lẽ ngắn gọn mà chân tình, đôn hậu:
Hoài Thương: Thưa cô giáo! Chào các bạn!
Tôi thích lớp mình luôn vui vẻ và ai cũng học giỏi. Tôi muốn được sống
mãi trong không khí đầm ấm của gia đình, bố mẹ tôi rất thương yêu và chăm
sóc tôi. Chắc các bạn đều không muốn bố mẹ buồn lòng, tôi cũng vậy. Vì thế, tôi
tự nhủ phải hết sức cố gắng... (ngập ngừng)
Tôi rất yêu quý tình bạn và mong muốn được tiếp đón các bạn tại nhà
mình. Nhưng, tôi nghĩ rằng chúng ta nên gặp nhau vì việc học tập, công tác là
chính chứ không nên phí thời gian vào những điều không có ích.
Mong các bạn thông cảm!
Tôi xin hết. Cảm ơn cô giáo và các bạn đã lắng nghe!

12


Phần trình bày của em Trịnh Xuân Hùng với phong thái vui vẻ, lời lẽ tự
nhiên, dí dỏm, giàu tình cảm:
Xuân Hùng: Thưa cô giáo và các bạn!
Tôi có một cô em gái “dễ ghét” vô cùng. Nó lên bốn và khá xinh xắn
nhưng hay nghịch ngợm, nhõng nhẽo. Ông nội tôi thật vất vả khi chăm sóc bé
từng miếng ăn, giấc ngủ. Còn tôi thường bị mắng oan vì nó. Có lần, con bé ấy
thừa lúc tôi không để ý để vẽ và bôi bẩn lên sách vở của tôi. Đã thế nó còn toét
miệng cười tươi như thể lập được kỳ tích không bằng. Còn bao nhiêu việc khiến
tôi bực mình nữa…Đúng là “ Làm anh khó lắm…”. Nhưng, các bạn biết
không, nếu không có em bé thì tôi buồn biết chừng nào !
Quỳnh Trâm: Bạn có ước mơ gì cho tương lai ?
Xuân Hùng: Người ta bảo “Con nhà công không giống lông thì cũng

giống cánh. Mẹ tôi là giáo viên dạy Toán ở một trường cấp ba còn bố tôi là
chuyên viên Tin học . Vì thế, tôi mê môn Toán và mơ ước sau này trở thành một
kỹ sư tin học nổi tiếng.
Chúc các bạn có những ước mơ đẹp! Tôi xin hết.
- Hoạt động của GV và HS khá nhịp nhàng, ăn ý, hầu như không có thời
gian “chết”. Càng cuối giờ càng có nhiều HS bộc lộ ý muốn được giao lưu trước
lớp, muốn được giao lưu với cô giáo.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm.
Sau khi áp dụng những phương pháp như đã nói trên thì học sinh có sự
chuyển biến tương đối tốt. Cụ thể:
Bài nói do có sự chuẩn bị chu đáo nên khi trình bày các em không có sự
ngập ngừng, ấp úng, nội dung cũng trọn vẹn, đầy đủ hơn. Do đó, đa số bài nói
đều hoàn chỉnh hơn lúc trước.
Các em không còn sự rụt rè, e ngại, thiếu tự tin khi đứng trước đám đông
để luyện nói mà thay vào đó là sự tự tin, thái độ cởi mở hơn.
Không khí lớp học có sự hào hứng, sôi nổi, các em thích được học những
tiết luyện nói hơn.
Kĩ năng nói của các em đó có sự tiến bộ, các em biết chào khi mở đầu và
cảm ơn khi kết thúc, biết giới thiệu đề tài, cách nói cũng trôi chảy, gãy gọn, phát
âm chính xác hơn, biết kết hợp ánh mắt, cử chỉ, nét mặt, thái độ,… khi nói. Hơn
nữa, các em đã có ý thức sửa chữa cách phát âm không chuẩn của tiếng địa
phương, không sử dụng tiếng địa phương khi trình bày bài nói.
Cụ thể kết quả đạt được như sau:

13


Tên bài dạy

Tiết

theo
PPCT

Luyện nói kể
chuyện

43

Luyện nói về
quan sát, tưởng
tượng, so sánh
nhận xét trong
văn miêu tả

83-84

Luyện nói về văn
miêu tả

96

Số HS
đạt
yêu
cầu

Số HS
chưa
đạt
yêu

cầu

Lớp

Sĩ số

Số HS
được
trình
bày

6A

40

15

13

2

6B

41

16

13

3


6A

40

13

11

2

6B

41

14

12

2

6A

40

12

10

2


6B

41

13

11

2

Trên đây là những kết quả cụ thể mà bản thân tôi đã khảo sát được qua
từng tiết luyện nói trong năm học vừa qua ở hai lớp 6A, 6B. Song thực tế đây
vẫn chỉ là những chuyển biến bước đầu ở học sinh, muốn rèn luyện được kĩ
năng nói tốt cho học sinh để các em có thể trở thành những chủ thể giao tiếp
nhanh nhạy, tự tin trong cuộc sống thì mỗi giáo viên chúng ta còn cần phải tiếp
tục tìm tòi, học hỏi, rút kinh nghiệm lẫn nhau để đạt hiệu quả cao nhất khi dạy
các tiết luyện nói nhằm hướng tới đạt được mục tiêu chung của bộ môn cũng
như mục tiêu đào tạo con người Việt Nam trong thời đại mới.
3. Kết luận, kiến nghị.
3.1. Kết luận.
Từ những thành công qua những biện pháp trên, bản thân tôi rút ra những
bài học kinh nghiệm sau đây:
Trước hết, muốn giờ luyện nói đạt kết quả tốt, người giáo viên phải có sự
chuẩn bị chu đáo. Trước hết là chuẩn bị kế hoạch dạy học ( giáo án), sau đó là
chuẩn bị cụ thể, tỉ mỉ cho việc hướng dẫn sự chuẩn bị bài của học sinh. Có như
vậy cả giáo viên và học sinh mới thực hiện tốt việc luyện tập nói trên lớp.
Trong giờ luyện nói, giáo viên phải phát huy tính tích cực của học sinh, áp
dụng những biện pháp tốt nhất để cả lớp tích cực tham gia luyện tập. Từ đó giúp
các em hiểu được yêu cầu của của tiết luyện tập cũng như nâng cao kĩ năng trình

bày, nói trước tập thể học sinh.
Quá trình luyện nói phải diễn ra liên tục ở mọi lúc, mọi nơi nghĩa là phải
có sự phối kết hợp đồng bộ giữa gia đình, nhà trường và xã hội.
Tóm lại, hơn ai hết người giáo viên dạy Ngữ văn phải thấy được tầm quan
trọng của tiết luyện nói ở lớp 6 nói riêng và ở bậc THCS nói chung. Người giáo
14


viên phải có sự tận tụy và đem hết trách nhiệm của mình để đạt kết quả cao nhất
cho tiết học này. Thông qua tiết luyện nói, giáo viên giáo dục cho học sinh lòng
tự hào được nói tiếng Việt, biết tôn trọng và giữ gìn sắc thái ngữ âm độc đáo của
tiếng Việt. Lòng tự hào về tiếng Việt của học sinh phải thể hiện:học tập, xây
dựng tiếng nói và chống những cách nói không đúng, không lành mạnh. Phải
làm thế nào cho Tiếng Việt vang lên tất cả sự giàu đẹp và nhạc điệu của nó trong
giờ học Ngữ văn. Thông qua tiết luyện nói để học sinh có ý thức điều chỉnh khả
năng ngôn ngữ của mình cũng như những ứng xử trong những tình huống giao
tiếp khác nhau của cuộc sống để các em thực sự trở thành những người có văn
hoá.
3.2. Kiến nghị.
Từ thực tế dạy dạy trong những năm qua tôi có một số đề xuất kiến nghị
như sau :
* Đối với nhà trường.
Nhà trường nên có phòng học chức năng để học sinh có thể được nghe,
xem băng, đĩa về các giờ luyện nói, các hoạt động Ngữ văn như : thi ngâm thơ,
kể chuyện.
Trong các hoạt động ngoại khoá nên tổ chức các hoạt động Ngữ văn như
đóng kịch theo các tác phẩm đã học, thi ngâm thơ, kể chuyện để tạo điều kiện
cho những học sinh có khả năng nói tốt có cơ hội được bộc lộ qua đó cũng để
những học sinh khác có cơ hội để học tập, rèn luyện cách nói cho mình. Đồng
thời trong các buổi sinh hoạt 15 phút đầu giờ nên tăng cường các buổi đọc báo

nghe chung để các em được rèn luyện cách phát âm chuẩn và đọc diễn cảm.
* Đối với Phòng Giáo dục, Sở Giáo dục đào tạo.
Tăng cường tổ chức báo cáo các SKKN có chất lượng để giáo viên có
điều kiện tiếp thu, học hỏi kinh nghiệm của đồng nghiệp để nâng cao chất lượng
dạy học.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN
CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Thường Xuân, ngày 10 tháng 03 năm 2019
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết,
không sao chép nội dung của người khác.
Người viết SKKN

Lê Thị Thanh Tâm

15


TÀI LIỆU THAM KHẢO
Stt

Tên tài liệu tham khảo

1

Sách giáo khoa Ngữ văn 6 tập
1-2.
Sách giáo viên Ngữ văn 6 Tập
1- 2.

Tài liệu “Các dạng bài tập làm
văn và cảm thụ thơ văn lớp
6”.
Thiết kế bài giảng Ngữ văn 6
THCS.
Kiến thức cơ bản Ngữ văn 6.

2
3

4
5

Nhà xuất bản
Nhà xuất bản Giáo dục.
Nhà xuất bản Giáo dục.
Nhà xuất bản Giáo dục.

Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội.
Nhà xuất bản Đà Nẵng.

16


DANH MỤC
CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG
ĐÁNH GIÁ XẾP LOẠI CẤP PHÒNG GD&ĐT, CẤP SỞ GD&ĐT
Họ và tên tác giả: Lê Thị Thanh Tâm
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường THCS Lương Sơn, Thường Xuân.


TT

Tên đề tài SKKN

1

Hướng dẫn HS lớp 9
trường THCS Ngọc Phụng
làm bài văn nghị luận về
một sự việc, hiện tượng đời
sống
Kỹ năng đặt câu và cách
chữa lỗi chủ ngữ, vị ngữ cho
HS lớp 6 ở trường THCS
Ngọc Phụng, Thường Xuân
Một vài phương pháp khi
giảng dạy biện pháp tu từ so
sánh cho HS lớp 6 ở trường
THCS Ngọc Phụng, Thường
Xuân
Phương pháp sử dụng sơ đồ
tư duy trong dạy học Ngữ
văn lớp 9 ở trường THCS
Ngọc Phụng, Thường Xuân

2

3


4

Cấp đánh
giá xếp loại
(Phòng, Sở,
Tỉnh...)

Kết quả
đánh giá
xếp loại
(A, B,
hoặc C)

Năm học
đánh giá
xếp loại

Cấp Phòng

B

2005 - 2006

Cấp Phòng

C

2008 - 2009

Cấp Phòng


B

2013 - 2014

Cấp Phòng

B

2015 - 2016

17


18



×