Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

SKKN một vài kinh nghiệm giáo dục kỹ năng sống cho học sinh thông qua giảng dạy phần II trong chương trình giáo dục công dân lớp 10

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.87 MB, 23 trang )

MỤC LỤC

Trang

I. Mở đầu.

2

1.1. Lý do chọn đề tài
1.2. Mục đích nghiên cứu

2
3

1.3. Đối tượng nghiên cứu.

4

1.4. Phương pháp nghiên cứu.

4

1.5. Những điểm mới của sáng kiến kinh nghiệm.

4

II. Nội dung của sáng kiến kinh nghiệm.
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm.

4
4



2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.

7

2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề.
2.4. Hiệu quả của kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục .

7
9

III. Kết luận.

16

3.1. Kết luận.
3.2. Kiến nghị.

16
16

Tài liệu tham khảo.

18

I. Mở đầu
1.1 . Lí do chọn đề tài.
“Chất lượng cuộc sống của chúng ta phụ thuộc khá lớn vào việc
xung quanh chúng ta có nhiều người thấu hiểu chúng ta hay không” Nhà tâm
lý học Ba Lan Krytyna Skarzyska và “Sự Thành công của mỗi người chỉ có

1


15% là dựa vào kỹ thuật chuyên ngành, còn 85% là dựa vào những quan hệ
giao tiếp và tài năng xử thế của người đó” Kinixti – Học giả Mỹ.[2]
Vậy chúng ta đã làm như thế nào và chúng ta đã nâng cao chất lượng
cuộc sống của mình ra sao? Và để có kết quả cuối cùng thực tốt đẹp, ta cần
bồi dưỡng thêm cho mình những tố chất gì?
Đó là những câu hỏi mà không phải ai cũng có thể trả lời một cách dễ
dàng được. Có một thực trạng rất dễ nhận ra là để tồn tại và phát triển với
bất kì ai thì việc trang bị kĩ năng sống là điều không thể thiếu được.
Trong điều kiện kinh tế xã hội của Việt Nam nói riêng và bối cảnh
toàn cầu nói chung, càng ngày chúng ta càng nhận ra tầm quan trọng của
việc giáo dục kĩ năng sống để ứng phó với việc thay đổi, biến động của môi
trường kinh tế, xã hội và thiên nhiên. Đặc biệt là lứa tuổi dậy thì, khi các em
bước vào giai đoạn khủng hoảng- lứa tuổi quan trọng của cuộc đời.
Kĩ năng sống là nhịp cầu giúp con người biến kiến thức thành thái độ
và hành vi và thói quen tích cực, lành mạnh. Người có kĩ năng sống sẽ vững
vàng trước cuộc sống, luôn yêu đời và làm chủ cuộc sống của mình. Ngược
lại, người không có kĩ năng sống thường dễ bị thất bại trong cuộc sống.
Không những thúc đẩy sự phát triển của cá nhân kĩ năng sống còn góp
phần thúc đẩy sự phát triển của xã hội. Việc thiếu kĩ năng sống của cá nhân
là nguyên nhân làm nảy sinh nhiều vấn đề xã hội như: cờ bạc, rượu chè...
Thực trạng xã hội hiện nay cho thấy tình trạng học sinh phổ thông có
xu hướng gia tăng về bạo lực học đường, về sự liều lĩnh, ứng phó không
lành mạnh, dễ mắc các tệ nạn xã hội, sống ích kỉ, vô tâm, khép mình…đồng
thời kĩ năng thực hành giao tiếp, kĩ năng phục vụ bản thân còn hạn chế. Hơn
nữa đứng trước thềm hội nhập quốc tế đòi hỏi thế hệ trẻ phải tự tin, nắm bắt
kịp thời các cơ hội . Với lí do đó chúng ta lại càng thấy sự cần thiết phải
giáo dục kĩ năng sống cho học sinh trung học phổ thông.

Để học sinh có thể tiếp cận những kỹ năng sống và kinh nghiệm của
người đi trước hiện nay các ở các trường phổ thông giáo dục KNS cho học
sinh được quan tâm nhiều hơn. Giáo dục KNS cho học sinh phổ thông hiện
nay không bố trí thành một môn học riêng trong hệ thống các môn học của
nhà trường phổ thông bởi KNS phải được giáo dục ở mọi lúc, mọi nơi khi có
điều kiện, cơ hội phù hợp. Do đó, giáo dục KNS phải thực hiện thông qua
từng môn học và trong các hoạt động giáo dục. Vì vậy, cơ hội thực hiện giáo
dục KNS rất nhiều và rất đa dạng. Có thể đề cập tới một số phương thức tổ
chức sau: Thông qua dạy học các môn học; qua chủ đề tự chọn; qua hoạt
động giáo dục ngoài giờ lên lớp; qua hoạt động trải nghiệm.
Mặc dù thời gian qua giáo dục KNS có được quan tâm nhưng hiệu quả
vẫn còn nhiều hạn chế thể hiện qua thực trạng về KNS của học sinh còn
nhiều khiếm khuyết.Tình trạng học sinh thiếu kĩ năng sống vẫn xảy ra, biểu
2


hiện hành vi ứng xử không phù hợp trong xã hội, sự ứng phó hạn chế với
các tình huống trong cuộc sống như: ứng xử thiếu văn hóa trong giao tiếp
nơi công cộng; thiếu lễ độ với thầy cô giáo, cha mẹ và người lớn tuổi; chưa
có ý thức bảo vệ môi trường, giữ gìn vệ sinh công cộng.[5]
Nhận thức được tầm quan trọng của việc giáo dục kĩ năng sống cho
học sinh THPT tôi chọn đề tài: “Một vài kinh nghiệm giáo dục kỹ năng
sống cho học sinh thông qua giảng dạy phần II trong chương trình
giáo dục công dân lớp 10” làm đề tài sáng kiến của với mong muốn đóng
góp một phần công sức nhỏ bé vào việc giáo dục kĩ năng sống cho các em
học sinh .
1.2. Mục đích nghiên cứu.
Giáo dục kĩ năng sống là một hoạt động quan trọng, góp phần nâng
cao chất lượng giáo dục toàn diện, thực hiện mục tiêu giáo dục của nhà
trường. Chính từ những hoạt động như: lao động, sinh hoạt tập thể, hoạt

động xã hội đã góp phần rất lớn trong việc hình thành nhân cách của học
sinh. Giúp các em biết tự giáo dục, tự rèn luyện, tự hoàn thiện mình. Mục
tiêu của việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh THPT nhằm:
- Trang bị cho HS những kiến thức, giá trị, thái độ và kĩ năng phù hợp.
Trên cơ sở đó hình thành cho HS những hành vi, thói quen lành mạnh, tích
cực; loại bỏ những hành vi, thói quen tiêu cực trong các mỗi quan hệ, các
tình huống và hoạt động hàng ngày.
- Tạo cơ hội thuận lợi để HS thực hiện tốt quyền, bổn phận của mình
và phát triển hài hòa về thể chất, trí tuệ, tinh thần và đào đức. Trên cơ sở đó
hình thành cho các em những hành vi, thói quen lành mạnh, tích cực; loại bỏ
những hành vi, thói quen tiêu cực trong các mỗi quan hệ, các tình huống và
hoạt động hàng ngày.
- Làm chủ bản thân, thích ứng và biết cách ứng phó trước những tình
huống khó khăn trong cuộc sống.
- Rèn luyện cách sống có trách nhiệm với bản thân, gia đình, cộng
đồng.
- Nâng cao khả năng thích nghi, ứng phó tốt hơn với những vấn đề
cũng như những thách thức mà các em đặt ra.
- Làm giảm những nguy cơ phát triển những hành vi chống đối, những
hành vi bạo lực với người khác và hành vi phạm tội ở trẻ em.
- Làm giảm nguy cơ bị bắt nạt cũng như bị bạn bè xa lánh.
- Giúp các em kiểm soát cơn giận dữ tốt hơn.
- Nâng cao kết quả học tập.
- Nâng cao ý thức về môi trường và quan tâm hơn đến thế giới xung
quanh.
3


1.3. Đối tượng nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là vấn đề giáo dục kỹ năng sống cho

học sinh thông qua giảng dạy phần II “ Công dân với đạo đức” thuộc
chương trình Giáo dục công dân lớp 10.
1.4. Phương pháp nghiên cứu.
Phương pháp nghiên cứu tài liệu.
Phương pháp khảo sát, phỏng vấn.
Phương pháp xử lí thông tin.
Phương pháp nghiên cứu lý luận.
1.5. Những điểm mới của sáng kiến kinh nghiệm.
- Có sự tham gia của các lực lượng trong và ngoài nhà trường.
- Việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh được các cấp, các nghành
và cả xã hội quan tâm.

II. Giải quyết vấn đề
2. 1. Cơ sở lí luận.
Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh là một vấn đề được đông đảo các
cấp lãnh đạo, các nhà khoa học, nhà quản lý và những người làm công tác
giảng dạy đặc biệt là giảng dạy bộ môn Giáo dục công dân quan tâm, trăn
trở. Trên các phương tiện thông tin đại chúng, trên báo chí đã có rất nhiều
bài nói, bài viết về vấn đề giáo dục kĩ năng sống trong trường học, cũng như
về vai trò giáo dục kĩ năng sống cho thanh niên, sinh viên, học sinh…
Trên báo điện tử có rất nhiều bài viết đề cập đến vai trò của kĩ năng
sống đối với sự thành công của con người trong đó tôi chỉ dẫn ra một ví dụ
của tác giả Trần thượng Tuấn. Tác giả viết: “Dựa trên cơ sở nào để cho rằng
kĩ năng sống là chìa khoá đến thành công? Kiến thức chỉ là dạng sức mạnh
tiềm ẩn, nó chỉ trở thành sức mạnh có giá trị và hiệu quả khi được ứng dụng
vào những công việc có mục đích và hiệu quả. Yếu tố quyết định phần lớn
phát huy sức mạnh tiềm ẩn của tri thức là kĩ năng sống.”[2]
Kĩ năng sống là những kĩ năng tâm lý – xã hội cơ bản giúp cho cá
nhân tồn tại và thích ứng trong cuộc sống, giúp cho cá nhân vững vàng trước
cuộc sống có nhiều thách thức nhưng cũng nhiều cơ hội trong thực tại... Kĩ

năng sống đơn giản là tất cả điều cần thiết mà chúng ta phải biết để có được
khả năng thích ứng với những thay đổi diễn ra hằng ngày trong cuộc sống.
Nhiều công trình nghiên cứu đã đề cập tới công tác giáo dục kĩ năng
sống cả mặt lý luận và thực tiễn. Đó là những tư liệu tham khảo hết sức bổ
ích khi nghiên cứu vấn đề này, nhưng đến nay chưa có một đề tài nào nghiên
cứu một cách có hệ thống về vấn đề giáo dục kĩ năng sống cho học sinh
thông qua việc giảng dạy phần II thuộc chương trình giáo dục công dân lớp
10.
Giáo công dân 10 là một môn thuộc khoa học xã hội đang được giảng
dạy trong trường Trung học phổ thông. Môn học này trang bị cho học sinh
4


những kiến thức phổ thông, cơ bản, thiết thực về triết học và đạo đức. Qua
đó, bước đầu hình thành và bồi dưỡng cho học sinh thế giới quan khoa học,
nhân sinh quan cộng sản, phương pháp tư duy biện chứng trong việc phân
tích, đánh giá hiện thực khách quan, đặc biệt góp phần hình thành con người
mới xã hội chủ nghĩa, bao gồm phẩm chất và năng lực – hai nhân tố cơ bản
tạo nên nhân cách. Như vậy, môn Giáo dục công dân 10 có vị trí hàng đầu
trong việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh.
Công tác giáo dục kĩ năng sống cho học sinh qua trong thời gian vừa
qua đã được các cấp, các ngành quan tâm và đạt được nhiều thành tựu.
Nhưng nhìn chung đội ngũ giáo viên, nhất là giáo viên Giáo dục công dân
chưa có điều kiện đảm bảo cho việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh qua
môn học của mình. Giáo dục kĩ năng sống không thể hình thành trong ngày
một ngày hai mà đòi hỏi phải có một quá trình: Nhận thức- hình thành thái
độ- thay đổi hành vi. Đây là một quá trình mà mỗi yếu tố có thể là khởi đầu
của một chu trình mới. Do đó, nhà giáo dục có thể tác động lên bất kì mắt
xích nào trong chu trình trên.Việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh hiện
đang là nhiệm vụ vừa mang tính cấp bách, vừa có ý nghĩa chiến lược lâu dài

đối với sự nghiệp giáo dục đào tạo.
Với ý nghĩa đó, tôi đã chọn đề tài “Một vài kinh nghiệm giáo dục kỹ
năng sống cho học sinh thông qua giảng dạy phần II trong chương
trình giáo dục công dân lớp 10” làm sáng kiến kinh nghiệm.
2.1.1. Quan niệm về kĩ năng sống.
- Theo quan niệm của tổ chức văn hoá, khoa học và giáo dục của
liên hợp quốc: Kỹ năng sống là kỹ năng tự quản bản thân và kỹ năng xã
hội cần thiết để cá nhân tự lực trong cuộc sống, học tập và làm việc hiệu
quả. Kỹ năng sống gắn với 4 trụ cột của giáo dục: Học để biết, học để làm
người, học để sống và tương tác với người khác .[2]
- Theo UNICEF: Kỹ năng sống là những kỹ năng tâm lý xã hội có
liên quan đến tri thức , những giá trị và thái độ, cuối cùng thể hiện ra bằng
những hành vi làm cho các cá nhân có thể thích nghi và giải quyết có hiệu
quả các yêu cầu và thách thức của cuộc sống.[2]
- Theo tổ chức y tế thế giới: Kỹ năng sống là kỹ năng mang tính tâm
lý xã hội, là các khả năng để thích ứng và hành vi tích cực cho phép các cá
thể giải quyết có hiệu quả nhu cầu và thách thức trong cuộc sống hàng ngày.
[2]
2.1.2. Phương pháp giáo dục kĩ năng sống cho học sinh.
Để giáo dục kỹ năng sống thông qua giảng dạy phần II thuộc chương
trình Giáo dục công dân 10 đạt hiệu quả cao thì giáo viên có thể sử dụng hệ
thống các phương pháp cơ bản sau:
Phương pháp nêu gương: Giáo viên đưa ra những tấm gương sáng,
những việc tốt, những giá trị xã hội chuẩn mực của các cá nhân hay tập thể,
để người được giáo dục học tập và noi theo. Tuy nhiêu, khi cần thiết giáo
5


viên còn dùng những “gương xấu” – gương phản diện để giáo dục học sinh,
nhằm lên án, né tránh những cái xấu.

Phương pháp giảng giải: là phương pháp phù hợp với trình độ của
học sinh, nhằm hình thành ở các em những kỹ năng sống, niềm tin vào
những chuẩn mực đạo đức cao đẹp, mong muốn rèn luyện và đạt được
những chuẩn mực đó trong cuộc sống.
Phương pháp đàm thoại: Đây là phương pháp tối ưu, phát huy được
tính tích cực, chủ động của học sinh khi các em tiếp nhận kiến thức . Thực
hiện tốt phương pháp này sẽ tạo ra không khí thoải mái, dân chủ trong lớp
học. Không những thế, giáo viên còn có thể kiểm tra trình độ nhận thức,
cũng như cách ứng xử, thái độ đánh giá của học sinh trước những chuẩn
mực và hiện thực đạo đức.
Phương pháp động não: Những tri thức môn Giáo dục công dân 10
mang nội dung đạo đức sâu sắc, lại khá quen thuộc với học sinh và cuộc
sống xung quanh. Vì vậy, phương pháp tác động não sẽ kích thích hứng thú
học tập.
Phương pháp thảo luận nhóm: Phương pháp này hình thành ở các em
tinh thần tập thể, cộng đồng, ý thức tự giác cao.
Phương pháp đóng vai: Thông qua phương pháp này, học sinh được
rèn luyện, thực hành những kỹ năng ứng xử và bày tỏ thái độ trong môi
trường an toàn trước khi thực hành trong thực tiễn, khích lệ sự thay đổi thái
độ, hành vi của học sinh theo hướng tích cực.
Phương pháp trò chơi.
Dạy học theo dự án.
2.1.3. Một số điểm chú ý khi thực hiện giáo dục kĩ năng sống cho
học sinh:
+ Việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh phải nhẹ nhàng, thú vị để
các em hứng thú.
+ Để lồng ghép giáo dục kĩ năng sống giáo viên cần phải điều chỉnh
phương pháp giảng dạy, khéo léo sắp xếp thời gian dạy lồng ghép kĩ năng
sống hợp lí nhằm không gây quá tải về mặt nội dung.
2.2. Thực trạng của vấn đề.

2.2.1 .Thông báo 242-TB/TW ngày 15/4/2009 của Bộ Chính trị (khóa
X) về tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 2 (khóa VIII) và phương
hướng phát triển giáo dục và đào tạo đến năm 2020, đã nêu một trong những
hạn chế của giáo dục phổ thông như sau: “ giáo dục phổ thông mới chỉ quan
tâm nhiều đến “dạy chữ”, chưa quan tâm đúng mức đến “dạy người”, kỹ
năng sống và “dạy nghề” cho thanh thiếu niên”.[6]
2.2.2. Thời lượng dành cho môn học còn ít (1tiết/ tuần) nên giáo viên
chưa phát huy hết được hiệu quả của việc giáo dục kỹ năng sống học sinh.
Đối với học sinh cũng chưa bộc lộ được hết khả năng, thái độ và hành vi cụ
thể của mình qua môn học.
6


2.2.3. Giáo viên chưa có đủ điều kiện đảm bảo cho công tác giáo dục
qua việc tổ chức hoạt động ngoài giờ, ngoại khóa.
2.2.4. Tình trạng thiếu tự tin, mặc cảm trong giảng dạy môn Giáo dục
công dân. Đồng thời, trước những quan niệm không đúng đắn về vị trí, vai
trò, chức năng, nhiệm vụ của môn Giáo dục công dân; sự quan tâm không
đầy đủ của các cấp lãnh đạo, của xã hội, phụ huynh học sinh và bản thân học
sinh thì giáo dục đạo đức qua môn học vẫn chưa phát huy hết hiệu quả của
nó.
2.2.5. Tình trạng xuống cấp về mặt đạo đức hiện nay, kinh nghiệm
sống của các em còn ít cũng là nguyên nhân gây khó khăn cho việc giáo dục
kĩ năng sống cho học sinh.

2.3. Các giải pháp sử dụng để giải quyết vấn đề.
*Các kỹ năng sống cơ bản cần được giáo dục.
2.3.1. Kỹ năng tự nhận thức.
Tự nhận thức là tự nhìn nhận , tự đánh giá về bản thân.
Tự nhận thức là một nhu cầu và đòi hỏi cơ bản của mỗi con người

trong quá trình năng tự nhận thức là khả năng và những cách thức con người
sử dụng để nhận biết hiểu được, đánh giá được điểm mạnh, điểm yếu, khả
năng....[1]
2.3.2. Kỹ năng xác định giá trị.
Là khả năng của con người trong việc định hình, nhận biết, khắc sâu
được những gì là quan trọng, có ý nghĩa, có tác dụng chi phối, định hướng
cho hành vi, cho hoạt động, thái độ cư xử của mình trong quan hệ với bản
thân và thế giới xung quanh.[1]
2.3.3. kỹ năng kiểm soát xúc.
Là khả năng con người nhận thức rõ cảm xúc của mình trong một tình
huống nào đó và hiểu được ảnh hưởng của cảm xúc đối với bản thân và
người khác như thế nào để biết cách điều chỉnh cảm xúc một cách phù hợp.
[1]
2.3.4. Kỹ năng quyết định và giải quyết vấn đề.
Là khả năng suy nghĩ có phê phán, tư duy một cách sáng tạo, khả
năng giải quyết vấn đề một cách cân nhắc đến cái lợi, cái hại của từng giải
pháp ứng xử để cuối cùng có được quyết định đúng đắn.[1]
2.3.5. Kỹ năng kiên định.
Là kỹ năng giúp chúng ta luôn biết dung hoà giữa quyền lợi và nhu
cầu của bản thân với quyền lợi và nhu cầu của người khác.
Người có kỹ năng kiên định là người tự bảo vệ được chính kiến, quan
điểm, thái độ và những quyết định của bản thân nhưng không chà đạp lên
quyền lợi và lợi ích người khác. Người có kỹ năng kiên định là người sống
có bản lĩnh, dám nghĩ , dám làm.[1]
2.3.6. Kỹ năng tìm kiếm sự hỗ trợ.
7


Kỹ năng này bao gồm các yếu tố sau:
- Ý thức được nhu cầu cần giúp đỡ.

- Biết xác dịnh được những địa chỉ hỗ trợ đáng tin cậy.
- Tự tin và biết tìm đến các địa chỉ đó.
- Biết bày tỏ nhu cầu cần giúp đỡ một cách phù hợp .[1]
2.3.7. Kỹ năng giao tiếp.
Kỹ năng giao tiếp là khả năng tiếp xúc, trao đổi thông tin mong muốn
suy nghĩ, tình cảm, cảm xúc,... là khả năng thể hiện các mối quan hệ tương
tác giữa người này với người khác về các vấn đề khác nhau.[1]
2.3.8. Kỹ năng đặt mục tiêu.
Là khả năng của con người trong việc đề ra những cái đích có thể thực
hiện cho một vấn đề nào đó của cuộc sống như một sự hiểu biết, một việc
làm cụ thể hay một thái độ nào đó .
Kỹ năng đặt mục tiêu giúp chúng ta sống có mục đích, có kế hoạch và
có khả năng thực hiện được mục tiêu của mình.[1]
2.3.9. Kỹ năng thể hiện sự cảm thông.
Là khả năng có thể hình dung và đặt mình trong hoàn cảnh của người
khác giúp chúng ta hiểu và chấp nhận người khác là những người rất khác
mình ,qua đó chúng ta có thể hiểu rõ cảm xúc và tình cảm của người khác và
cảm thông với hoàn cảnh và nhu cầu của họ.[1]
*Các kĩ năng sống cần được giáo dục trong phần Công dân với đạo đức.
Thứ tự
Các kĩ năng sống cần được giáo
Tên bài
1

dục.
Kĩ năng thể hiện sự cảm thông.

Một số phạm trù cơ bản của đạo

2


Kĩ năng chọn bạn phù hợp.

đức học.
Công dân với tình yêu hôn nhân và

Kĩ năng làm chủ.

gia đình.

3
4

Kĩ năng kiểm soát cảm xúc.
Kỹ năng hợp tác.
Công dân với cộng đồng.
Kĩ năng sinh tồn, ứng phó với thiên Công dân với một số vấn đề cấp
tai và biến đổi khí hậu.

thiết của nhân loại.

Kĩ năng quyết định và giải quyết vấn
đề.

8


5

Kĩ năng tự nhận thức về bản thân.


Tự hoàn thiện bản thân

Kĩ năng tìm kiếm sự trợ giúp.
Kĩ năng đặt mục tiêu.
Kĩ năng giao tiếp.
Kĩ năng xác định giá trị.

2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo
dục, với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường.
2.4.1. Thực nghiệm sư phạm.
2.4.1.1. Mục đích thực nghiệm.
Tiến hành giảng dạy theo kế hoạch trong đó tập trung vào việc nghiên
cứu tính khả thi của việc giáo dục kĩ năng sống trong phần II Công dân với
đạo đức thuộc chương trình giáo dục công dân lớp 10.
2.4.1.2. Nhiệm vụ thực nghiệm
- Chuẩn bị thực nghiệm.
- Giảng dạy và kiểm tra đánh giá theo kế hoạch.
- Xử lí, phân tích nhận xét, đánh giá kết quả thực nghiệm.
2.4.1.3. Nội dung và đối tượng thực nghiệm
- Thực nghiệm được tiến hành bằng việc giảng hạy theo các nội dung
đã soạn.
Tiết PPCT: 25. Bài 13 : CÔNG DÂN VỚI CỘNG ĐỒNG
( Tiết 2)
Nội dung 2. Trách nhiệm của công dân đối với cộng đồng.
Hoạt động 1 . Tìm hiểu nội dung b, hòa nhập.
Hình thức làm việc : cá nhân.
GV cho một học sinh đọc và học sinh cả lớp trao đổi hai tình huống sau
(treo tình huống lên bảng) từ đó tìm hiểu thế nào là hòa nhập.
Tình huống 1 : Bố Mạnh bị mất sớm, mẹ bỏ Mạnh từ nhỏ, Mạnh ở

với ông bà. Được sự quan tâm của thầy cô, bạn bè. Mạnh không mặc cảm, tự
ti, sống vui vẻ, gần gũi với bạn bè, cố gắng học tập tốt, hiếu thuận với ông
bà. Mạnh cảm thấy yêu cuộc đời, yêu mọi người hơn khi nhận được sự quan
tâm ấy.
Tình huống 2 : Trong cuộc đời hoạt động cách mạng, Bác Hồ đã từng
bôn ba rất nhiều nơi. Nhưng dù ở đâu Bác cũng luôn gần gũi, yêu thương
mọi người. Quan tâm giúp đỡ đồng cam cộng khổ với nhân dân. Được nhân
dân tin cậy và yêu mến.[4]
- Học sinh trả lời ý kiến cá nhân.
- Giáo viên liệt kê ý kiến của học sinh lên bảng.
9


- Học sinh cả lớp trao đổi, góp ý kiến.
- Giáo viên nhận xét, bổ sung, kết luận.
Giáo viên giúp học nắm được kiến thức hòa nhập bằng phương pháp
đàm thoại theo các câu hỏi.
? Thế nào là sống hòa nhập ?
? Khi chúng ta sống hòa nhập với cộng đồng, xã hội sẽ đem lại ý
nghĩa gì ?
Giáo viên lưu ý : người sống không hòa nhập sẽ cảm thấy đơn độc,
buồn tẻ, cuộc sống kém ý nghĩa.
? Học sinh cần phải làm gì để sống hòa nhập với cộng đồng, xã hội ?
GV chốt kiến thức.
Khái niệm : Sống hòa nhập là gần gũi, chan hòa, không xa lánh mọi
người ; không gây mâu thuẫn, bất hoàn với người khác ; có ý thức tham gia
các hoạt động chung của cộng đồng.
Ý nghĩa : Sẽ có thêm niềm vui, niềm tin và sức mạnh vượt qua khó
khăn trong cuộc sống.
Học sinh cần phải :

+ Tôn trọng, đoàn kết, giúp đỡ, vui vẻ, chan hòa với bạn, thầy cô, mọi
người xung quanh.
+ Tích cực tham gia vào các hoạt động tập thể, hoạt động xã hội, vận
động mọi người cùng tham gia.
Hoạt động 2 . Tìm hiểu nội dung c, hợp tác
Hình thức: Thảo luận nhóm.
Tình huống : Giáo viên gọi 02 học sinh lên bảng và thực hiện trò
chơi đó là một học mô tả đồ vật, học sinh còn lại đoán đồ vật đó là gì?
? Thế nào là hợp tác ?
Giáo viên tổ chức cho học thảo luận nhóm, chia lớp ra làm bốn nhóm
thực hiện bốn yêu cầu sau :
Nhóm 1. Theo em, hợp tác có những biểu hiện cơ bản nào ?
Nhóm 2. Theo em, khi chúng ta thực hiện tốt hợp tác thì sẽ đem lại ý
nghĩa gì ?
Nhóm 3. Trong hợp tác chúng ta phải dựa trên những nguyên tắc cơ
bản nào ?
Nhóm 4. Theo em, có các loại hợp tác cơ bản nào ?
- Học sinh tiến hành thảo luận nhóm theo câu hỏi.
- Giáo viên hướng dẫn học sinh thảo luận.
- Đại diện các nhóm trình bày kết quả.
- Các nhóm khác nhận xét, bổ sung (nếu có).
- Giáo viên ghi ý kiến của học sinh lên bảng sau đó nhận xét, kết luận.
Sau khi kết luận GV chiếu lên màn hình những hình ảnh: học nhóm
(phụ luc 1), thanh niên tình nguyện (phụ lục 2), hội nghị APEC (phụ lục 3),
Việt Nam gia nhập WTO (phụ lục 4)....
10


Từ khi ngồi trên nghế nhà trường, học sinh chúng ta cần phải rèn
luyện tinh thần hợp tác với mọi người trong các hoạt động học tập, lao động,

hoạt động tập thể, hoạt động xã hội.
? Vậy để thực hiện tốt tinh thần hợp tác học sinh cần phải làm gì ?
GV chốt kiến thức.
Khái niệm : Hợp tác là cùng chung sức làm việc, giúp đỡ, hỗ trợ lẫn
nhau trong một công việc, một lĩnh vực nào đó vì mục đích chung.
Biểu hiện của hợp tác.
+ Cùng bàn bạc.
+ Phối hợp nhịp nhàng.
+ Hiểu biết về nhiệm vụ của nhau.
+ Sẵn sàng giúp đỡ, chia sẻ.
Ý nghĩa của hợp tác.
+ Tạo nên sức mạnh tinh thần và thể chất.
+ Đem lại chất lượng và hiệu quả công việc.
+ Phẩm chất của con người mới đó là biết hợp tác .
Nguyên tắc hợp tác.
+ Tự nguyện, bình đẳng.
+ Các bên cùng có lợi .
Các loại hợp tác.
+ Hợp tác song phương và đa phương.
+ Hợp tác từng lĩnh vực hoặc hợp tác toàn diện.
+ Hợp tác giữa các cá nhân, các nhóm, giữa các cộng đồng, dân tộc,
quốc gia.
Học sinh phải :
+ Cùng nhau bàn bạc, xây dựng kế hoạch, phân công cụ thể.
+ Nghiêm túc thực hiện.
+ Phối hợp nhịp nhàng, chia sẻ, đóng góp sáng kiến cho nhau.
+ Đánh giá rút kinh nghiệm.
Củng cố.
- Nhắc lại kiến thức trọng tâm của tiết học
- GV có thể hướng dẫn học sinh lập kế hoạch giúp đỡ lẫn nhau , giúp

đỡ những người có hoàn cảnh khó khăn ở địa phương mình sinh sống.
Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh tiết 31+32 bài 16: Tự hoàn
thiện bản thân.
Nội dung 1. Thế nào là tự nhận thức về bản thân.
Hoạt động 1. Thế nào là tự nhận thức về bản thân.
Hình thức làm việc: Cá nhân.
Giáo viên có thể thực hiện theo các bước sau: cho học sinh suy nghĩ về một
số đặc điểm của bản thân.
- Hình ảnh bên ngoài của em như thế nào? Điểm khác biệt? Ưu thế là gì?
- Em có những điểm mạnh, điểm yếu nào về tính cách và năng lực
11


-

Em thường thành công trong những lĩnh vực nào?
Em thường chưa thành công trong những hoạt động nào?
Mục tiêu cuộc sống của em là gì?
Những điều kiện thuận lợi nào giúp em có thể hoàn thành mục tiêu ?
Những trở ngại và thách thức có thể đối với việc đạt mục tiêu của em là
gì?
- Em có sở thích gì?
- Em có tin là bạn có khả năng hiểu được đối tượng giao tiếp trong phần
lớn các tình huống không?
Em hãy tập xác định:
- Những môn học nào em học khá nhất, môn nào cần cố gắng nhiều hơn?
- Những lĩnh vực tri thức nào mà em hay quan tâm và thấy thú vị?
- Em dành nhiều thời gian nhất cho hoạt động nào? Và hoạt động đó đã
thực hiện mang lại cho em cái gì trong thực tại và trong cả tương lai?
- Trong trời gian qua, thành công lớn nhất của em là gì?

- Chỉ ra những thất bại của em trong năm vừa qua.
- Chỉ ra ba điểm mạnh và ba điểm yếu của bản thân (có thể kể cả suy nghĩ,
cảm xúc hay hành vi) và đưa ra kết luận về bản thân mình
Viết về điểm mạnh và điểm yếu:
- Em hãy viết ra ba điểm mạnh nhất và ba điểm yếu nhất của em. Liệt kê ra
ba công việc em làm suôn sẻ nhất từ trước đến nay và ba việc em làm đã
hỏng.
- Hãy kể ra ba điều mà mọi người thường ca ngợi về em và cũng như ba
điều mọi người hay phàn nàn về em.
- Nếu trong một công việc nào đó, một buổi họp hay một buổi đi chơi mà
thiếu vắng em, mọi người có cảm thấy thiếu vắng không? Nếu có em thì
sự việc có khác chút nào không?
Trả lời được những câu hỏi này, em sẽ nhận ra năng lực đích thực của bản
thân .[3]
Hoặc GV cũng có thể cho học sinh nhận thức bằng những trả lời những câu
hỏi:
- Người mà em yêu quý nhất?
- Điều quan trọng nhất mà em mong ước sẽ đạt được trong cuộc đời?
- Một tiêu chuẩn đạo đức mà em luôn giữ cho mình không bao giờ vi phạm?
- Em hãy kể một vài sở thích của em?
- Môn học mà em ưa thích nhất?
- Một năng khiếu, sở trường của em?
- Những điểm em thấy tự hào, hài lòng về mình?
- Những điểm em thấy mình còn hạn chế, cần phải cố gắng hơn?[4]
Học sinh chia sẻ kết quả tự nhận thức về bản thân mình và sau đó so sánh
với bạn xem mình có điểm gì giống và khác bạn.
Giáo viên cho học cả lớp thảo luận các câu hỏi sau.
12



? Thế nào là tự nhận thức về bản thân?
GV chốt kiến thức.
? Tự nhận thức đúng về mình có phải là điều dễ dàng không?
? Có ai chỉ toàn ưu điểm hoặc chỉ toàn điểm yếu không?
? Để phát triển tốt hơn, mỗi người cần phải làm gì?
- Khái niệm: Tự nhận thức bản thân là biết nhìn nhận, đánh giá về khả
năng, hành vi, việc làm, điểm mạnh, yếu …của bản thân.
- Có những người thường đánh giá quá cao về mình, có những người lại mặc
cảm, tự ti về khả năng của mình.
- Để nhận thức tốt về bản thân thì mỗi người cần phát huy những điểm mạnh
và khắc phục những điểm yếu.
Hoạt động 2. Tìm hiểu nội dung : Tự hoàn thiện bản thân.
a. Thế nào là tự hoàn thiện bản thân
Hình thức làm việc. Cả lớp.
GV cho học sinh đọc truyện kể “ Người thầy và những giấc mơ
khoảng trời” (phụ luc 5), truyện kể về Đê-mốt –xten (phụ lục 6), truyện kể
về Phranh-clin(phụ lục 7). Sau đó yêu cầu học sinh phân tích câu truyện để
trả lời những câu hỏi sau:
? Nêu suy nghĩ của em về các nhân vật trong truyện? Bài học rút ra từ
những câu chuyện đó là gì?
? Thế nào là tự hoàn thiện bản thân?
? Chúng ta có cần tự hoàn thiện bản thân không? vì sao?
? Bạn ở trong lớp, (trong trường) em cho là tấm gương để em có thể học
tập để tự hoàn thiện bản thân?
Giáo viên yêu cầu học sinh liệt kê những yêu cầu đạo đức của xã hội đối
với công dân trong giai đoạn hiện nay như: lương tâm, danh dự, trách
nhiệm, yêu nước, nhân nghĩa, khoan dung, khiêm tốn, trung thực, giản dị,
hòa nhập, hợp tác…
Sau đó giáo viên yêu cầu học sinh đối chiếu các yêu cầu đó với bản thân
mình và tự đánh giá xem mình đã thực hiện tốt các yêu cầu nào, những yêu

cầu nào mình còn cần phải cố gắng.
Giáo viên tổng kết các ý kiến và kết luận về quyền và trách nhiệm tự
hoàn thiện bản thân, về cách xây dựng kế hoạch tự hoàn thiện bản thân.
Tự hoàn thiện bản thân là:
- Vượt lên mọi khó khăn trở ngại, không ngừng lao động, học tâp, tu dưỡng.
- Phát huy ưu điểm, khắc phục khuyết điểm, học hỏi những điều hay điều
tốt.
Vì sao phải tự hoàn thiện bản thân?
- Xã hội ngày càng phát triển => là tất yếu để đáp ứng đòi hỏi xã hội.
- Tự hoàn thiện bản thân là phẩm chất quan trọng của thanh thiếu niên, giúp
cho cá nhân, gia đình và cộng đồng ngày càng tiến bộ hơn.
Hoạt động 3. Tự hoàn thiện bản thân như thế nào?
13


Phương pháp: Đóng vai.
- GV tổ chức cho học sinh đóng vai câu chuyện “ Một cách giúp đỡ” (phụ
lục 8) để tìm hiểu nội dung này.
- Sau khi HS diễn xong vai diễn, GV cho học sinh trong lớp nhận xét và rút
ra nhận xét.
- GV đặt câu hỏi: Những biện pháp cơ bản để hoàn thiện bản thân là gì?
HS trả lời.
GV chốt kiến thức.
a. Yêu cầu chung.
- Mỗi người đều phải phấn đấu tu dưỡng đạo đức để tự hoàn thiện bản
thân mình.
- Biết nhận sự hỗ trợ, giúp đỡ bạn bè, gia đình, xã hội để hoàn thiện
bản thân.
b. Học sinh cần phải:
- Xác định rõ điều mình mong muốn

- Lập kế hoạch thực hiện theo mốc thời gian cụ thể.
- Xác định được những biện pháp cần làm
- Xác định được những thuận lợi và khó khăn và cách vượt qua khó
khăn
- Xác định được những người sẽ giúp đỡ mình
- Có quyết tâm thực hiện và biết tìm sự giúp đỡ của những người tin
cậy.
- Lấy ví dụ cụ thể:
Củng cố.
GV cho học sinh tìm hiểu một số câu dao, tục ngữ , bài hát đoạn thơ
để nói về chủ đề tự hoàn thiện bản thân.
Sưu tầm gương những cá nhân biết tự hoàn thiện bản thân ( người
khuyết tật tham gia thể thao, thương binh tàn nhưng không phế…)
- Đối tượng thực nghiệm là các lớp 10C1,10C2,10C3,10C4,10C5,10C6
trường THPT Thạch Thành 3.
+ Lớp đối chứng:10C2, 10C4, 10C6 giảng dạy với giáo án bình thường.
+ Lớp thực nghiệm:10C1, 10C3, 10C5 giảng dạy với giáo án tăng cường
giáo dục kĩ năng sống cho học sinh.
+ Các lớp có khả năng nhận thức ngang nhau.
4.2 Kết quả thực nghiệm
- Lớp đối chứng.
Lớp
10C2
10C4
10C6

Tổng số
32
37
44


Học hứng thú
25/32
22/37
30/44

Hiểu bài
25/32=78,1%
22/37=59,5%
30/44= 68,2%
14


Giỏi

Khá

Lớp

Tổng
số

Số
lượng

10C2

32

7


21,9

20

10C4

37

5

13,5

10C6

44

5

Tổng

113

17

Tỉ
Số
Tỉ
lệ(% lượng lệ(%)
)


Trung bình

Yếu

Số
lượng

Tỉ
lệ(%)

Số
lượng

Tỉ
lệ(%)

62,5

4

12,5

1

3,1

17

45,9


10

27

5

13,5

11,4

18

40,9

15

34,1

6

13,6

15

55

48,7

29


25,7

12

10,6

- Lớp thực nghiệm.
Lớp
10C1
10C3
10C5

Tổng số
45
42
34

Học hứng thú
40/45
37/42
28/34

Giỏi
Lớp

10C1
10C3
10C5
Tổng


Hiểu bài
40/45=88,9%
37/42=88,1%
28/34=82,5%

Khá

Trung bình

Yếu

Tổng
số

Số
lượng

Tỉ
lệ(%
)

Số
Tỉ
lượng lệ(%)

Số
lượng

Tỉ

lệ(%)

Số
lượng

Tỉ
lệ(%)

45

20

44,4

18

40

7

15,6

0

0

42

8


19

29

69

5

11,9

0

0

34

15

44,1

17

50

2

5,9

0


0

121

43

35,5

64

52,9

14

11,6

0

0

Kết quả thực nghiệm cho thấy việc giáo dục kĩ năng sống trong giảng
dạy phần 2 “Công dân với đạo đức” đã mang lại hiệu quả hơn, nâng cao
hứng thú học tập phát huy được tính tích cực chủ động sáng tạo của học sinh
trong quá trình nhận thức, phát huy năng lực tư duy khơi gợi kích thích suy
nghĩ, tìm tòi huy động các năng lực trí tuệ để tìm ra và lĩnh hội nguồn tri
thức mới.
15


III. Kết luận

3.1. Kết luận.
Kĩ năng sống là những kỹ năng tâm lí, kỹ năng tâm lý- xã hội cơ bản
giúp cho cá nhân tồn tại và luôn thích ứng với sự biến đổi của cuộc sống.
Lewis L Dunmington từng nói “ Ý nghĩa của cuộc sống không phải ở chỗ nó
đem đến cho ta điều gì mà ở chỗ ta có thái độ với nó ra sao, không phải ở
chỗ điều gì xảy ra với ta mà ở chỗ ta phản ứng với những điều đó như thế
nào?” [2]
Lứa tuổi học sinh là lứa tuổi đang hình thành những giá trị nhân cách,
giàu ước mơ, ham hiểu biết, thích tìm tòi, khám phá song thiếu hiểu biết sâu
sắc về xã hội, còn thiếu kinh nghiệm sống, dễ bị lôi kéo. Đặc biệt là trong
bối cảnh hội nhập quốc tế và cơ chế thi trường hiện nay thế hệ trẻ thường
xuyên chịu tác động đan xen của những yếu tố tích cực và tiêu cực, luôn
được đặt vào hoàn cảnh phải lựa chọn những giá trị, phải đương đầu với
những khó khăn, thách thức. Nếu thiếu kĩ năng sống các em dễ bị lôi kéo
vào các hành vi tiêu cực, bạo lực.Vì vậy việc giáo dục kĩ năng sống cho các
em là điều vô cùng cần thiết, giúp các em rèn luyện các hành vi có trách
nhiệm với bản thân, gia đình, cộng đồng và tổ quốc, giúp các em ứng phó
tích cực trước các tình huống của cuộc sống, xây dựng mối quan hệ tốt đẹp
với bạn bè, sống an toàn, hài hoà và lành mạnh.
3.2. Kiến nghị.
3.2.1. Đối với giáo viên:
Thường xuyên có ý thức lồng ghép giáo dục kĩ năng sống trong các
bài giảng. Luôn tạo cho các em tính chủ động, tích cực, hứng thú trong học
tập. Trong giờ học giáo viên cần tạo điều kiện để các em được nói, được
trình bày ý kiến của mình nhất là các em rụt rè, kĩ năng giao tiếp kém.
3.2.3. Đối với học sinh.
Nhận thức rõ KNS là một yếu tố không thể thiếu được trong học tập
và cuộc sống hàng ngày nên . Dưới sự hướng dẫn của giáo viên phải tích
cực, tự giác trong học tập.
3.2.2. Đối với nhà trường.

Tổ chức tốt hoạt động ngoài giờ lên lớp, các cuộc thi nhằm rèn luyện
kĩ năng cho học sinh như “ Âm Vang Xứ Thanh”, “ Rung chuông vàng”....
3.2.4. Đối với chương trình SGK.
Giảm tải một nội dung mang tính chất lý thuyết nhiều. Qua đó tăng
cường các nội dung giáo dục kĩ năng sống , tạo điều kiện cho học sinh tiếp
cận và rèn luyện những kĩ năng cơ bản của cuộc sống hàng ngày.
XÁC NHẬN
CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Thanh Hóa, ngày 6 tháng 5 năm 2017
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
16


mình viết, không sao chép nội dung của
người khác.

Nguyễn Thi Thùy Dung

Tài liệu tham khảo
1. Tài liệu bồi dưỡng thường xuyên THPT.[1]
2. Tham khảo từ nguồn internet.[2]
3. Giáo dục kĩ năng sống , giá trị sống cho học sinh THPT- NXB ĐHQG Hà Nội
2010.[3]
4. SGK Giáo dục công dân 10 – Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam 2010.[4]
5. Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh THPT- Tiến sĩ Nguyễn Văn Huấn .[5]
6. Thông báo 242-TB/TW ngày 15/4/2009 của BCT.[6]

17



Phụ lục.
Phụ lục 1

18


Phụ lục 2

Nguồn internet.

Báo Bắc Giang ,ảnh Nguyễn Hào.
Phụ lục 3.

19


Nguồn internet.
Phụ lục 4.

Nguồn internet.
20


Phụ lục 5. Người thầy và những giấc mơ khoảng trời.
Đó là thầy Nguyễn Ngọc Ký, quê ở Hải Thanh, Hải Hậu, Nam Định. Nhắc
đến thầy nhiều người nghĩ ngay đến một tấm gương nghị lực phi thường và ý chí
mạnh mẽ vượt lên số phận, trở thành một người thầy giáo ưu tú.
Năm lên 4 tuổi một cơn bệnh đã khiến thầy Nguyễn Ngọc Ký bị bại liệt cả
hai tay. Niềm khao khát được viết chữ mãnh liệt đến nỗi Nguyễn Ngọc Ký đã

phải nghĩ mọi cách để viết cho bằng được. Thoạt đầu cậu viết bằng miệng nhưng
không thành công vì chỉ viết được một lúc nước mắt nước mũi thi nhau chảy.
Thất bại cậu lại chuyển sang cách khác,nhưng lại thất bại. Tình cờ một lần cậu
nhìn đàn gà bới đất bằng chân, cậu đã lóe lên ý nghĩ dùng chân để viết. Thế là Ký
ngày đêm dùng chân rèn luyện. Kết quả Ký không những viết thành thạo mà còn
viết rất đẹp và trở thành học sinh giỏi trong nhiều năm, hai lần được Bác Hồ tặng
huy hiệu học sinh giỏi.
Năm 1966, Nguyễn Ngọc Ký được tuyển thẳng vào khoa Văn trường Đại
học Tổng hợp Hà Nội.
Năm 1983, thầy đạt giải nhất giáo viên dạy giỏi tỉnh Nam Định.
Hiện nay, ngoài việc dạy học thầy còn viết sách cho thiếu nhi, viết chuyên
luận văn học, giáo dục công dân và thầy còn là nhà tư vấn tâm lí của tổng đài
1088. Nhà giáo Nguyễn Ký đã có vài trăm cuộc giao lưu về nghị lực vươn lên dạy
giỏi, học giỏi.
Triết lí cuộc đời được thầy Nguyễn Ngọc Ký bộc bạch bằng những câu thơ
giản dị sau:
“ Biết mơ những khoảng trời
Biết cười trong nước mắt
Biết cắt những cái thừa”
( Theo Kỉ lục Việt Nam, tập 3, NXB Thông tấn, 2004).
Phụ lục 6.
Đê-mốt-xten( 384-322 trước công nguyên), nhà hùng biện, chính khách cổ
Hy lạp, khi trẻ có tật nói lắp.Hàng ngày ông đẩ bờ biển ngậm sỏi tập nói át tiếng
sóng biển. Nhờ sự khổ luyện đó,sau này ông đã trở thành một nhà hùng biện nổi
tiếng.
(Giáo dục công dân 10, nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam)
Phụ lục 7.

21



Ông Phranh- clin (1706-1790), nhà khoa học lớn người Mĩ, thuở thiếu thời
nghèo đói, không được đi học. Ban ngày ông đi làm thợ nhà in, tối về lại cặm cụi
học. Mỗi bữa ông chỉ ăn một miếng bánh mì với súp, để dành tiền mua sách học.
Nhờ vậy ông đã được học văn học và triết học.
Năm 25 tuổi ông chú trọng rèn luyện nhân cách bằng cách kê rõ những đức
tính ông cần rèn luyện như cần mẫn, trung thực, công bằng ....Ông có một cuốn
sổ, hễ phạm một lỗi ông gạch một gạch vào sổ cho nhớ để sửa chữa.dần dần các
gạch mực ấy không còn trong cuốn sổ của ông. Ông thường nói: “Thật tình thì tôi
không đạt đến tuyệt mĩ, nhưng dù sao, những cố gắng hàng ngày để đến đích ấy
làm cho tôi tốt hơn và sung sướng hơn.”
(Giáo dục công dân 10, nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam)
Phụ lục 8. Một cách giúp đỡ.
Thái sư Trần Thủ Độ có người thiếp quý. Bà có người cháu “học không
hay, cày chẳng biết”, muốn nhờ ông sắp xếp một chức quan lại trong phủ đường.
Một hôm có việc về tổng nọ, ông cho gọi người cháu đó đến rồi bảo:
Anh hãy xòe tay ra có bao nhiêu ngón?
Dạ bẩm quan lớn, 10 ngón ạ!
Phủ đường đang rất cần một người có 9 ngón tay, anh có thể cắt bớt đi một
ngón được không?
Anh này tái mặt lập cập thưa: Bẩm lạy quan lớn! Vậy thì thôi ạ!
Quan Thái Sư nói tiếp: Cửa trường rộng mở, sao anh không chịu khó dùi
mài? Đường vào công danh tại sao phải đi nhờ một người đàn bà? Mới nghe nói
cắt bớt một ngón tay, mà đã ngất xỉu! Chí, khí, dũng không có, thử hỏi anh có thể
làm được việc gì có ích cho dân cho nước.
Anh thanh niên đỏ mặt, rồi lùi dần ra cổng. Trước đông đảo quan lại Trần
Thủ Độ nói : Còn biết xấu hổ, anh này sẽ nên người.
Quả vậy sau vài năm miệt mài đèn sách qua kì thi hương anh đã đỗ tú tài.
(Dạy học theo chuẩn kiến thức, kỹ năng môn Giáo dục
công dân lớp 10- Nxb Đại học sư phạm).


22


23



×