Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

SKKN sử DỤNG có HIỆU QUẢ KÊNH HÌNH KHI dạy bài 11 tây âu THỜI hậu kì TRUNG đại (LỊCH sử lớp 10 cơ bản), để PHÁT HUY TÍNH TÍCH cực của học SINH”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1009.65 KB, 29 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ

TRƯỜNG THPT TRIỆU SƠN 4

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

ĐỀ TÀI: “SỬ DỤNG CÓ HIỆU QUẢ KÊNH HÌNH KHI DẠY
BÀI 11: TÂY ÂU THỜI HẬU KÌ TRUNG ĐẠI (LỊCH SỬ LỚP 10
CƠ BẢN), ĐỂ PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC CỦA HỌC SINH”

Người thực hiện: Lê Trọng Thế
Chức vụ: Giáo viên
SKKN thuộc lĩnh vực (môn): Lịch sử

THANH HOÁ NĂM 2019


M ỤC L ỤC
Trang
1. MỞ ĐẦU...........................................................................................
1
1.1. Lí do chọn đề tài:............................................................................
1
1.2. Mục đích nghiên cứu: ....................................................................
2
1.3. Đối tượng nghiên cứu.....................................................................
2
1.4. Phương pháp nghiên cứu ...............................................................
3
2. NỘI DUNG .....................................................................................
4


2.1. Cơ sở lí luận……............................................................................
4
2.2. Thực trạng vấn đề:………………………………………………..
4
2.2.1. Đối với giáo viên……………………………………………….
4
2.2.2. Đối với học sinh………………………………………………...
5
2.3. Giải pháp khai thác kênh hình bài Tây Âu hậu kì Trung đại…….
7
2.3.1. Những kĩ năng cơ bản khi sử dụng, khai thác kênh hình bài Tây
7
Âu hậu kì Trung đại…………………………………………………...
2.3.2. Các nguyên tắc cơ bản khi sử dụng, khai thác kênh hình bài
8
Tây Âu hậu kì Trung đại………………………………………………
2.3.3. Giải pháp cụ thể khi sử dụng, khai thác kênh hình bài Tây Âu
9
hậu kì Trung đại……………………………………………………….
2.3.3.1. Đối với guyên nhân, điều kiện phát kiến địa lí………………
10
2.3.3.2. Đối với những cuộc phát kiến tiêu biểu………………………
11
2.3.3.3. Đối với hệ quả của cuộc phát kiến địa lí……………………
14
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm……………………………..
14
3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ………………………………….....
15
3.1. Kết luận...........................................................................................

15
3.2.
Kiến
16
nghị.........................................................................................
Tài liệu tham khảo
18
Danh mục sáng kiến kinh nghiệm được xếp loại
18
Phụ lục
19


1. MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài
Đổi mới giáo dục nói chung, đổi mới phương pháp dạy học lịch sử nói
riêng đang trở thành yêu cầu cấp thiết hiện nay. Phương pháp giảng dạy là yếu tố
quan trọng và ảnh hưởng lớn đến chất lượng đào tạo. Một phương pháp giảng
dạy khoa học, phù hợp sẽ tạo điều kiện để giáo viên và học sinh phát huy hết
khả năng của mình trong việc truyền đạt, lĩnh hội kiến thức và phát triển tư duy,
tạo nên sự hứng thú, say mê và sáng tạo của người học.
Chúng ta đã biết đặc trưng của môn Lịch sử là khơi dậy quá khứ để nhìn
nhận hiện tại và hướng tới tương lai. Do đó, việc làm cho quá khứ sống lại chính
xác, sinh động là yêu cầu cần thiết. Thế nhưng, trong học tập lịch sử, học sinh
không thể trực tiếp quan sát đối tượng nghiên cứu như trong khoa học tự nhiên,
không thể dựng lại hiện thực quá khứ khách quan ở trong phòng thí nghiệm. Do
vậy, để đảm bảo tính cụ thể của lịch sử đòi hỏi sự truyền đạt sinh động của giáo
viên và các phương tiện trực quan để giúp cho học sinh có biểu tượng về quá
khứ. Việc sử dụng đồ dùng trực quan trong dạy học lịch sử ở trường phổ thông
có vai trò vô vùng quan trọng. Trên thực tế việc dạy học mới chỉ dừng lại ở "lý

thuyết suông". Nguyên nhân của tình trạng này có nhiều nhưng chủ yếu là do
giáo viên chưa nhận thức được vai trò và ý nghĩa quan trọng của việc sử dụng đồ
dùng trực quan trong dạy học lịch sử. Hơn nữa, đặc trưng của bộ môn lịch sử là
không lặp lại như cũ, không thể tái tạo được lịch sử trong phòng thí nghiệm như
khi học tập nghiên cứu về hiện tượng tự nhiên. Vậy làm sao để hiểu đúng lịch
sử, đảm bảo được tính khách quan của nó, đồng thời hạn chế tình trạng hiện đại
hóa lịch sử, đó là vấn đề đang được các nhà sử học quan tâm?.
Việc nâng cao chất lượng dạy học bộ môn lịch sử là sự kết hợp hài hoà,
nhuần nhuyễn của nhiều phương pháp và mỗi phương pháp đều có vị trí, vai trò
nhất định. Trong đó có phương pháp khai thác kênh hình sách giáo khoa phục vụ
cho giảng dạy, góp phần tích cực đổi mới phương pháp dạy học hiện nay. Bởi vì,
quan niệm về chức năng, tác dụng của kênh hình trong sách giáo khoa đã có
nhiều đổi mới. “Trước kia chúng ta thuần túy quan niệm kênh hình trong sách
giáo khoa lịch sử chỉ nhằm minh họa làm cho kiến thức trở nên sinh động. Ngày
nay ngoài chức năng, tác dụng đó, kênh hình trong sách giáo khoa lịch sử còn
là một trong những nguồn nhận thức quan trọng của việc truyền bá và nhận
thức lịch sử” [1]. Khai thác triệt để chức năng, tác dụng này sẽ tạo điều kiện để
giáo viên thực hiện tốt việc đổi mới phương pháp soạn giảng, học sinh có điều
kiện chủ động, tích cực tham gia vào quá trình tự nhận thức lịch sử một cách tốt
nhất.
Hiện nay sách giáo khoa lịch sử nói chung và sách giáo khoa lịch sử lớp
10 nói riêng số lượng kênh hình được bổ sung nhiều hơn, nội dung phong phú
hơn, thuận lợi cho cho việc dạy và học theo hướng phát huy tính tích cực, chủ
động của học sinh. Tuy nhiên, qua thực tế giảng dạy cho thấy, việc khai thác
kênh hình của học sinh còn nhiều bất cập, lúng túng, các em chưa biết khai thác
kênh hình để phục vụ cho bài học, nhiều khi giáo viên gọi học sinh phân tích
1


lược đồ hay tranh ảnh các em không biết làm như thế nào, trả lời điều gì? Không

phải một bài mà rất nhiều bài các em chỉ xem hình ảnh để bình luận ảnh đó, lược
đồ đó xấu hay đẹp, không liên tưởng gì đến bài học. Vấn đề này không phải lỗi
của người học mà một phần trách nhiệm của người dạy. Vì vậy để khai thác tối
đa hệ thống kiến thức bài học trong sách giáo khoa, thì việc hướng dẫn học sinh
phương pháp khai thác kênh hình là một trong những nhiệm vụ quan trọng của
mỗi giáo viên lịch sử.
Cùng với đổi mới sách giáo khoa trong nhà trường phổ thông thì đổi mới
nội dung và phương pháp dạy học trở thành một yêu cầu bắt buộc đối với tất cả
các môn học. Đối với bộ môn Lịch sử, điều này càng trở nên cần thiết hơn bao
giờ hết. Trong đó, để có một giờ học có hiệu quả thì đồ dùng trực quan đóng vai
trò vô cùng quan trọng. Bởi vì, đồ dùng trực quan nếu được sử dụng tốt sẽ huy
động được sự tham gia của nhiều giác quan, sẽ kết hợp được chặt chẽ hai hệ
thống tín hiệu với nhau: Tai nghe, mắt thấy, tạo điều kiện cho học sinh dễ hiểu,
nhớ lâu, gây được những mối liên hệ thần kinh tạm thời khá phong phú, phát
triển ở học sinh năng lực chú ý, quan sát, hứng thú.
Với những lí do đó và để góp phần vào việc đổi mới phương pháp dạy học
lịch sử, tôi chọn đề tài nghiên cứu: “Sử dụng có hiệu quả kênh hình khi dạy
Bài 11: Tây Âu thời hậu kì Trung đại (lịch sử lớp 10 cơ bản), nhằm phát huy
tính tích cực của học sinh”.
1.2. Mục đích nghiên cứu.
Nghiên cứu đề tài: Sử dụng có hiệu quả kênh hình khi dạy Bài 11: Tây Âu
thời hậu kì Trung đại (lịch sử lớp 10 cơ bản), tôi muốn hướng tới một số mục
đích sau:
- Đối với bản thân: tìm ra được ra được phương pháp dạy tối ưu cho bài
học nhằm nâng cao chất lượng giáo dục môn lịch sử, đồng thời nâng cao được
năng lực chuyên môn.
- Đối với học sinh:
+ Thông qua việc sưu tầm, sử dụng và khai thác kênh hình như lược đồ,
tranh ảnh các cuộc phát kiến địa lí sẽ phát huy được tính tích cực, chủ động và
khả năng tư duy, sáng tạo của học sinh.

+ Học sinh sẽ hứng thú hơn trong học tập, đồng thời khắc sâu và ghi nhớ
những nội dung của bài học.
+ Hướng các em ngày càng yêu thích môn lịch sử hơn.
1.3. Đối tượng nghiên cứu.
- Đối tượng nghiên cứu là học sinh lớp 10 trường THPT Triệu Sơn 4.
- Để có cơ sở đánh giá hiệu quả của đề tài, trong thực tế giảng dạy tôi chọn
4 lớp của trường THPT Triệu Sơn 4, đó là:
+ Lớp 10B1 và lớp 10B3 năm học 2017-2018 làm lớp đối chứng.
+ Lớp 10A1 và 10A5 năm học 2018-2019 làm lớp thực nghiệm.
2


- Với đối tượng nghiên cứu đó, mong muốn lớn nhất của đề tài là nhằm gây
hứng thú học tập và phát huy được tính tích cực, chủ động của học sinh.
1.4. Phương pháp nghiên cứu.
- Phương pháp sưu tầm sử liệu.
- Phương pháp phân tích.
- Phương pháp tổng hợp.
- Phương pháp khái quát.
- Phương pháp thực nhiệm.
- Phương pháp so sánh.

3


2. NỘI DUNG
2.1. Cơ sở lí luận
Hiện nay, trong dạy học nói chung và dạy học lịch sử nói riêng, việc sử
dụng thiết bị dạy học là một trong những nội dung trọng tâm được Bộ GD – ĐT
hết sức quan tâm trong quá trình đổi mới phương pháp dạy học, tại Quyết định

số 41/2000/QĐ/BGD&ĐT ngày 24/3/2000 của BGD & ĐT nhấn mạnh: “Thiết
bị dạy học phải được sử dụng hiệu quả nhất, đáp ứng các yêu cầu về nội dung
và phương pháp được quy định trong chương trình giáo dục” [2].
Kênh hình có hai chức năng lớn: vừa là phương tiện trực quan sinh động
vừa là nguồn tri thức cốt lõi đối với người học. Những hình ảnh đa màu sắc từ
sách giáo khoa đến màn hình Power Point không chỉ giúp học sinh nhận thức
được sự vật hiện tượng lịch sử một cách thuận lợi mà còn là nguồn tri thức để
các em khai thác, phát hiện ra những kiến thức lịch sử còn ẩn dấu trong kênh
hình. Theo đó, kênh hình đập trực tiếp vào thị giác nên có sức lưu giữ hình ảnh
cao. Bằng chứng từ kết quả nghiên cứu của PGS.TS. Đặng Văn Đức cho thấy:
“học sinh nhớ được 30% nếu chỉ nghe bằng tai, còn nếu cả nghe, lẫn nhìn sẽ
nhớ được 50% kiến thức” [3].
Nguyên tắc trực quan là một trong những nguyên tắc cơ bản của lý luận
dạy học nhằm tạo cho học sinh những biểu tượng, hình thành các khái niệm trên
cơ sở trực tiếp quan sát hiện vật đang học hay đồ dùng trực quan minh hoạ sự
vật. Đồ dùng trực quan là chỗ dựa để hiểu biết sâu sắc bản chất của sự kiện lịch
sử, là phương tiện rất hiệu lực để hình thành các khái niệm lịch sử quan trọng
giúp cho học sinh nắm vững các quy luật phát triển của xã hội.
Để phù hợp với đặc trưng môn học, đồng thời thực hiện tốt quá trình đổi
mới phương pháp giáo dục theo hướng tích cực, chủ động của học sinh thì việc
dạy và học lịch sử trong nhà trường phổ thông muốn đạt hiệu quả cao cần phải
có sự kết hợp nhuần nhuyễn các phương pháp, trong đó có việc khai thác hệ
thống kênh chữ và kênh hình. Sở dĩ như vậy, là vì kênh hình ngoài chức năng
đóng vai trò là phương tiện trực quan, minh họa cho kênh chữ nó còn là một
nguồn tri thức lớn có khả năng phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của
học sinh trong quá trình học tập. Bên cạnh đó, thông qua kênh hình con đường
nhận thức của học sinh được hình thành, giúp cho học sinh tự mình phát hiện và
khắc sâu kiến thức.
2.2. Thực trạng của vấn đề.
2.2.1. Đối với giáo viên.

Việc sử dụng và khai thác kênh hình trong sách giáo khoa nói chung và
kênh hình trong bài Tây Âu thời hậu kì Trung đại nói riêng là một biện pháp
quan trọng để nâng cao chất lượng dạy học. Tuy nhiên, qua thực tế giảng dạy tôi
thấy vẫn còn giáo viên chỉ quan tâm đến kênh chữ mà ít nhận thấy kênh hình -

4


nguồn kiến thức quan trọng có giá trị giúp bài học lịch sử trở nên sinh động và
hấp dẫn hơn. Vậy đâu là nguyên nhân của thực trạng đó?
Thứ nhất: nhiều giáo viên nhận thức đầy đủ giá trị ý nghĩa của kênh hình
nhưng lại ngại sử dụng, sợ mất thời gian hoặc sử dụng mang tính chất hình thức,
minh họa cho bài giảng.
Thứ hai: có không ít giáo viên hiểu chưa hết nội dung, ý nghĩa của các
kênh hình, nên chưa vận dụng chưa đúng vào trong bài giảng, vì vậy hiệu quả
bài giảng không cao.
Thứ ba: có giáo viên lại sưu tầm nhiều hình ảnh sinh động, có nội dung liên
quan đến kênh hình trong bài, nhưng chỉ mang tính giới thiệu, chứ chưa mang
tính chất khai thác để nâng cao chất lượng dạy học.
Với thực trạng đó, trong những năm qua, nhằm nâng cao chất lượng dạy và
học của bộ môn, bản thân tôi đã và đang cố gắng sưu tầm tranh ảnh tư liệu, tăng
cường ứng dụng công nghệ thông tin trong soạn giảng và luôn tích cực tìm ra
những phương pháp mới để sử dụng, khai thác tốt kênh hình trong bài Tây Âu
thời hậu kì Trung đại đạt hiệu quả cao nhất.
2.2.2. Đối với học sinh.
Ở trường THPT Triệu Sơn 4 sau khi dạy xong bài Tây Âu thời hậu kì Trung
đại, tôi tiến hành kiểm tra kết quả và mức độ hứng thú học tập của học sinh lớp
10B1 và 10B3 năm học 2017-2018.
- Cách thức tiến hành. Tôi điều tra bằng 2 mẫu phiếu:
+ Mẫu phiếu thứ nhất: điều tra về mức độ hứng thú học tập của học sinh.

(học sinh tích dấu X vào cột mình lựa chọn)
Mức độ

Thích

Bình thường

Không thích

Ghi chú

Lớp
(lưu ý phiếu điều tra không ghi tên người được điều tra để đảm bảo yếu tố
khách quan).
+ Mẫu phiếu thứ hai: điều tra kết quả học tập của học sinh. Hình thức nối
cột A với cột B cho đúng: (nối đúng mỗi ý được 2,5 điểm. Thời gian làm 5 phút)
A
B
B. Đi-a-xơ (1450-1500)
Đi vòng quanh thế giới bằng đường biển
C. Cô-lôm-bô (1451?-1506)
Đến được cực Nam của châu Phi
Va-xcô đơ Ga-ma (1469?-1524) Tìm ra châu Mĩ
Ph. Ma-gien-lan (1480-1521)
Đến được Ca-li-cút của Ấn Độ
- Sau khi phát phiếu và nhận được kết quả như sau:
+ Đối với mức độ hứng thú học tập:
5



Lớp
Mức độ
Thích
Bình thường
Không thích
Tổng

Năm học 2017-2018
10B1
10B3
Số lượng
%
Số lượng
7
17,07
6
15
36,58
15
19
46,34
21
41
100
42

%
14,28
35,71
50,0

100

Qua bảng điều tra ta thấy, số lượng học sinh thích môn lịch sử nói chung và
bài 11: Tây Âu thời hậu kì Trung đại là khá khiêm tốn chỉ chiếm hơn 15%, còn
lại đa số học sinh được điều cảm thấy bình thường hoặc không thích. Đáng chú
ý là ở cả lớp 10B1 và 10B3 học sinh không thích học bài này chiếm đến
48,19%. Đó thực sự là một thách thức lớn đối với mỗi giáo viên lịch sử.
+ Đối với kết quả học tập:
Lớp
Xếp loại
Giỏi
Khá
Trung bình
Yếu - kém
Tổng

Năm học 2017-2018
10B1
10B3
Số lượng
%
Số lượng
6
14,63
5
9
21,95
8
17
41,16

18
9
21,95
11
41
100
42

%
11,90
19,04
42,85
26,19
100

Nhìn vào kết quả tiếp thu bài học của học sinh ta nhận thấy, số lượng học
sinh khá, giỏi còn ít, cả hai lớp chỉ đạt hơn 33%, trong khi đó học sinh yếu kém
còn chiếm số lượng lớn trên 24%. Điều này cũng phản ánh gần sát thực với
phiếu đánh giá về mức độ hứng thú học tập của học sinh. Vậy đâu là nguyên
nhân của thực trạng trên?
Trước những kết quả điều tra, tôi đã giành thời gian tìm hiểu nguyên nhân
vì sao các em không thích học lịch sử nói chung và bài 11: Tây Âu thời hậu kì
Trung đại nói riêng, để có những biện pháp khắc phục giúp các em yêu thích
môn lịch sử hơn. Qua tìm hiểu lớp 10B1 và 10B3 tôi thu được kết quả như sau:

Năm học 2017-2018
6


Lớp


Sĩ số

10B1

41

10B3

42

Tổng

83

Do phương
pháp giảng
dạy khô khan,
buồn tẻ, nặng
về trình bày,
diễn thuyết.
SL
18
SL
19
37

%
43,90
%

45,23
44,57

Nguyên nhân
Do kiến thức - Do học sinh
trong sách
không theo
giáo khoa
khối C chỉ tập
nặng nề,
trung học các
nhiều mốc
môn khối A.
thời gian, sự
- Do Áp lực
kiện.
từ gia đình và
xã hội.
SL
%
SL
%
8
19,51
12
29,26
SL
%
SL
%

12
28,57
9
21,42
20
24,59
21
25,30

Ý kiến khác

SL
3
SL
2
5

%
7,31
%
4,76
6,02

Qua bảng thống kê trên ta thấy có nhiều nguyên nhân dẫn đến học sinh
không hứng thú khi học bài Tây Âu thời hậu kì Trung đại, trong đó nguyên nhân
học sinh lựa chọn nhiều nhất là do phương pháp giảng dạy khô khan, buồn tẻ,
nặng về trình bày, diễn thuyết (chiếm 44,57%). Trong tiết dạy giáo viên chưa
thực sự khai thác tốt các kênh hình sách giáo khoa, điều đó khiến cho tiết học trở
thành buổi liệt kê những sự kiện lịch sử đã xảy ra trong quá khứ. Vì vậy, nhiều
học sinh cảm thấy “sợ” mỗi khi học bài Tây Âu thời hậu kì Trung đại.

2.3. Giải pháp sử dụng, khai thác kênh hình bài Tây Âu hậu kì Trung đại.
2.3.1. Những kĩ năng cơ bản khi sử dụng, khai thác kênh hình bài Tây
Âu hậu kì Trung đại.
Thứ nhất: Nắm được kiến thức cơ bản của kênh hình.
Việc nắm được kiến thức cơ bản của kênh hình đóng một vai trò quan
trọng, giúp giáo viên chủ động, linh hoạt trong quá trình tổ chức khai thác kênh
hình trên lớp. Trong bài 11 số lượng kênh hình không có nhiều chỉ có lược đồ
hình 27 – Những cuộc phát kiến địa lí . Vì vậy, giáo viên cần phải sưu tầm thêm
một số kênh hình khác có liên quan đến bài học: ảnh minh họa chân dung của B.
Đi-a-xơ, C. Cô-lôm-bô, Va-xcô đơ Ga-ma, Ph. Ma-gien-lan, ảnh về sự tiến bộ
của khoa học kĩ thuật: tàu Ca-ra-ven, la bàn... . Hầu hết cách kênh hình và những
thông tin liên quan đến bài học này đều đã có trên một số trang Web của
Internet, nên việc tìm thông tin không gặp nhiều khó khăn đối với giáo viên và
học sinh.
Thứ hai: Nắm được phương pháp khai thác các loại kênh hình.
Về cơ bản, hệ thống kênh hình trong bài Tây Âu thời hậu kì Trung đại có
hai loại:
Loại 1: Tranh ảnh minh họa chân dung của B. Đi-a-xơ, C. Cô-lôm-bô, Vaxcô đơ Ga-ma, Ph. Ma-gien-lan, ảnh về sự tiến bộ của khoa học kĩ thuật: tàu Cara-ven, la bàn,…
7


Loại 2: Lược đồ những cuộc phát kiến địa lí cuối thế kỷ XV-XVI.
Để khai thác có hiệu quả, phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh
giáo viên cần phải thực hiện tốt các bước sau:
- Đối với tranh ảnh:
Bước 1: Cho học sinh quan sát tranh ảnh để xác định một cách khái quát
nội dung cần khai thác.
Bước 2: Giáo viên nêu vấn đề, tổ chức hướng dẫn nội dung tranh ảnh.
Bước 3: Học sinh trình bày kết quả tìm hiểu nội dung tranh ảnh sau khi
quan sát, kết hợp gợi ý của giáo viên và tìm hiểu nội dung trong bài.

Bước 4: Giáo viên nhận xét, hoàn thiện nội dung khai thác tranh ảnh cung
cấp cho học sinh.
Cuối cùng học sinh nắm được cách khai thác tranh ảnh và nội dung trong
bài học.
- Đối với lược đồ:
Bước 1: Cho học sinh quan sát lược đồ, trong đó chú ý quan sát cả nội
dung, ranh giới và các kí hiệu của các cuộc phát kiến địa lí.
Bước 2: Giáo viên nêu vấn đề, gợi ý học sinh tìm hiểu nội dung lược đồ.
Bước 3: Học sinh trình bày kết quả tìm hiểu nội dung tranh lược đồ.
Bước 4: Giáo viên nhận xét, hoàn thiện nội dung lược đồ mà học sinh cần
tìm hiểu cung cấp cho học sinh.
Cuối cùng học sinh nắm được cách khai thác lược đồ và nội dung lược đồ
của bài học. Thực hiện như vậy học sinh sẽ rất hứng thú theo dõi bài giảng, đảm
bảo được yếu tố trực quan sinh động, giúp các em hiểu sâu sắc và ghi nhớ bền
lâu.
Thứ ba: Thiết kế câu hỏi hợp lý, trọng tâm.
Câu hỏi hợp lý, trọng tâm, có ý nghĩa rất quan trọng, nó không những phát
huy được tính tích cực, phát triển khả năng tư duy của học sinh mà còn giúp học
sinh hiểu sâu, nhớ kĩ những kiến thức của bài.
2.3.2. Các nguyên tắc cơ bản khi sử dụng, khai thác kênh hình bài Tây
Âu hậu kì Trung đại.
Để nâng cao hiệu qủa sử dụng, khai thác kênh hình trong bài Tây Âu thời
hậu kì Trung đại phải nắm vững một số nguyên tắc sau:
Thứ nhất: Sử dụng kênh hình đúng mục đích:
Mục đích của bài học, chính là học sinh lĩnh hội được tri thức, hình thành
và phát triển kỹ năng, nhân cách. Các loại kênh hình trong sách giáo khoa cũng
như sưu tầm của giáo viên có một chức năng riêng, nên chúng phải được nghiên
cứu cụ thể để sử dụng đúng mục đích, phù hợp với yêu cầu bài học.
Ví dụ: ảnh minh họa về sự tiến bộ của khoa học kĩ thuật: tàu Ca-ra-ven, la
bàn… chỉ nên trình bày để minh họa cho bài giảng nhằm làm cho nội dung bài

giảng sinh động, phong phú, hấp dẫn hơn. Giáo viên không sử dụng chúng trong
việc củng cố hay trong kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh. Với
8


kênh hình là nguồn cung cấp thông tin kiến thức thì giáo viên phải gợi mở, yêu
cầu học sinh thông qua làm việc với kênh hình để tìm ra kiến thức và lĩnh hội tri
thức đó ví dụ như lược đồ hình 27 – Những cuộc phát kiến địa lí.
Thứ hai: Kết hợp tốt việc sử dụng kênh hình với kênh chữ:
Giáo viên không nên quá lạm dụng vào các kênh hình trong quá trình soạn
giảng. Đối với bài Tây Âu thời hậu kì Trung đại, kênh chữ hết sức quan trọng
cho nên giáo viên cần phải kết hợp tốt việc khai thác kênh chữ và kênh hình, làm
được như vậy tiết học mới trở nên sinh động, học sinh mới chủ động, hứng thú
trong học tập.
Thứ ba: Sử dụng kênh hình đúng đối tượng:
Tùy vào từng nội dung, mục đích sử dụng mà giáo viên đưa ra những yêu
cầu khác nhau đối với học sinh. Đối với tranh ảnh về sự tiến bộ của khoa học kĩ
thuật hàng hải trong bài này, giáo viên chỉ dừng lại ở việc cho học sinh quan sát
sơ lược để các em nắm được những biểu tượng ban đầu, không nên cho học sinh
đứng lên thuyết trình về kênh hình đó. Ngược lại, đối với lược đồ các cuộc phát
kiến địa lí sau khi hướng dẫn học sinh quan sát từ tổng thể đến chi tiết, giáo viên
phải để học sinh đứng lên thuyết trình, có như vậy thì tiết dạy mới phong phú,
học sinh mới hứng thú chủ động học tập.
2.3.3. Giải pháp cụ thể khi sử dụng, khai thác kênh hình bài Tây Âu
hậu kì Trung đại.
Theo phân phối chương trình, Bài 11 Tây Âu thời hậu kì Trung đại có 4 nội
dung chính được chia làm 2 tiết, ở tiết 1 có 2 nội dung, trong đó mục 2. Sự nảy
sinh của chủ nghĩa tư bản ở Tây Âu giảm tải. Như vậy, học sinh chỉ tập trung
nghiên cứu mục 1. Những cuộc phát kiến địa lí. Nội dung kiến thức phù hợp với
khả năng tiếp nhận của học sinh. Tuy nhiên đồ dùng trực quan sẵn có được sử

dụng trong bài này không nhiều nên giáo viên phải đầu tư thêm các loại đồ dùng
trực quan khác để đảm bảo yêu cầu tối đa của bài học.
Mục 1: Những cuộc phát kiến địa lí
Trọng tâm của tiết học này, giáo viên cần làm rõ và hướng dẫn học sinh nắm
được 3 vấn đề chính:
- Nguyên nhân dẫn đến các cuộc phát kiến địa lí.
- Các cuộc phát kiến địa lí.
- Hệ quả của các cuộc phát kiến địa lí.
Nhìn tổng thể thì nội dung kiến thức không quá nhiều và phức tạp, nhưng
làm sao để tạo nên hứng thú, phát huy được tính chủ động của học sinh, đồng
thời khắc sâu nội dung kiến thức của bài học đến học sinh lại là một vấn đề
không đơn giản. Vậy, để tiết dạy có hiệu quả tôi đưa ra một số cách giải pháp
hiện như sau:
2.3.3.1. Đối với nguyên nhân, điều kiện phát kiến địa lí.

9


Trước tiên giáo viên chiếu hoặc treo lược đồ, tranh ảnh: Con đường buôn
bán qua Tây Á và Địa Trung Hải (Hình 1 – phụ lục)
- GV cho học sinh (HS) quan sát hai lược đồ, hướng dẫn HS theo dõi phần
chú giải
- Mục đích hướng đến là: Tìm ra nguyên nhân dẫn đến các cuộc phát kiến
địa lí.
- Nội dung cơ bản để khai thác.
- HS quan sát lược đồ kết hợp với nội dung kiến thức SGK, lời giảng của
giáo viên, HS thảo luận và trả lời câu hỏi? Nguyên nhân dẫn đến các cuộc phát
kiến địa lí.
+ Vào thế kỉ XV thương nhân và những nhà hàng hải châu Âu hiểu biết về
thế giới còn rất hạn chế. Họ chỉ quen thuộc đường biển quanh châu Âu và Địa

Trung Hải, còn phương Đông nhất là Ấn Độ, đối với họ thì đây không chỉ là xứ
sở giàu hương liệu, gia vị, tơ lụa mà còn là một vùng đất giàu không thể tưởng
tượng được về vàng, bạc. "Phương Đông được tô vẽ thành một thế giới thần tiên
trong Nghìn lẻ một đêm (cuốn truyện của người Ả rập) và cuốn Những truyện kì
lạ (du kí của Mác-cô Pô-lô, người Ý” [4].
+ Thế kỉ XV con đường mua bán từ Châu Âu sang phương Đông bằng
đường bộ (Tây Á) và đường thủy (Địa Trung Hải) bị thổ dân Áp-ga-ni-xtan,
người Thổ và người Ả - rập độc chiếm. Vấn đề cấp thiết được đặt ra là phải tìm
con đường thương mại giữa phương Đông và Châu Âu.
- Sau khi kết luận vấn đề GV tiếp tục đặt câu hỏi, vậy tiền đề dẫn đến các cuộc
phát kiếb địa lí là gì ?
+ GV chiếu hình ảnh : Tàu Caraven (Hình 2 – phụ lục)
La bàn (Hình 3 – phụ lục)
Hải đồ vùng Địa Trung Hải (Hình 4 – phụ lục)
- Mục đích hướng đến về hình ảnh tàu Caraven, La bàn và Hải đồ vùng
Địa Trung Hải là: Những tiến bộ của khoa học – kĩ thuật làm tiền đề cho các
cuộc phát kiến địa lí.
- Nội dung cơ bản để khai thác:
Vào thế kỉ XV, khoa học - kĩ thuật có những bước tiến quan trọng. Các nhà
hàng hải hiểu biết nhiều về đại dương, có quan niệm đúng đắn về hình dạng Trái
Đất. Người ta đã vẽ được nhiều bản đồ, hải đồ ghi rõ những vùng đất, các hòn
đảo có dân cư. Máy đo góc thiên văn, sử dụng la bàn được sử dụng trong việc
định hướng giữa đại dương bao la. Kỹ thuật đóng tàu có nhiều tiến bộ, người ta
đã đóng được những con tàu có bánh lái và hệ thống buồm lớn như tàu Caraven.
Đây chính là tiền đề cho các cuộc phát kiến địa lí.
10


- Phương pháp sử dụng:
Giáo viên yêu cầu học sinh quan sát lược đồ, tranh ảnh giới thiệu và mô tả

con đường buôn bán qua Tây Á và Địa Trung Hải bị người Ả-rập độc chiếm,
đồng thời giới thiệu về những tiến bộ của khoa học – kĩ thuật tạo tiền đề cho các
cuộc phát kiến địa lí, có thể giáo viên gợi mở một số câu hỏi trong quá trình giới
thiệu để cuốn hút học sinh lắng nghe và lĩnh hội kiến thức.
Sau khi giới thiệu xong, giáo viên đặt câu hỏi: Vậy theo các em đâu là
nguyên nhân và điều kiện dẫn đến các cuộc phát kiến địa lí? Học sinh thảo luận
và trả lời. Cuối cùng giáo viên kết luận và đưa ra những vấn đề cơ bản học sinh
cần phải nắm là:
- Sản xuất phát triển dẫn đến nhu cầu về hương liệu, vàng bạc, thị trường
cao.
- Con đường giao lưu buôn bán qua Tây Á và Địa Trung Hải bị người Ảrập độc chiếm.
- Khoa học- kĩ thuật có những bước tiến quan trọng như kĩ thuật mới.
2.3.3.2. Đối với những cuộc phát kiến tiêu biểu.
Giáo viên treo hoặc chiếu lược đồ: Những cuộc phát kiến địa lí (Hình 5–
phụ lục)
- Mục đích cần hướng đến là: Những cống hiến lớn lao của các nhà thám
hiểm Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha cho văn minh thế giới ở thế kỷ XV-XVI.
- Nội dung cơ bản để khai thác.
Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha là những nước tiên phong trong các cuộc phát
kiến địa lí. Sở dĩ như vậy, vì hai nước này đều có những hạm đội mạnh nhất
châu Âu thời bấy giờ, với nhiều thủy thủ gan dạ và thông minh.
Từ đầu thế kỉ XV trở đi, người Bồ Đào Nha bắt đầu đem hết sức lực ra
khám phá vùng bờ biển Châu Phi, hầu như năm nào cũng có đoàn đi, nhưng
đoàn chỉ đi một thời gian rồi quay trở về. Hoàng tử Hen-ri đã hai lần dẫn đoàn đi
thám hiểm vào các năm 1445 và năm 1472.
Tháng 8/1487, Bác-tơp-lơ-mi Đi-a-xơ (1450 – 1500) đã tiến hành thám
hiểm vùng biển nam Châu Phi, quá trình di chuyển đoàn thuyền của ông bị
giông bão thổi bật xuống phía nam Châu Phi, nhờ đó phát hiện ra mũi Hảo
Vọng. Tại đây, Đia-a-xơ nhìn thấy biển Đông Châu Phi. Các hoa tiêu của người
Hồi giáo sẵn sàng dẫn đường cho ông tiến về phía tây Ấn Độ, nhưng các thủy

thủ của ông nổi loạn buộc ông phải trở về Bồ Đào Nha. Tuy nhiên, cuộc thám
hiểm của Đia-a-xơ đã chuẩn bị mọi điều kiện cho sự thành công của Va-xcô đơ
Ga-ma. Đó là đỉnh cao nhất trong hàng loạt phát hiện của các nhà thám hiểm Bồ
Đào Nha – hoàn thành việc tìm đường biển thông sang Ấn Độ. (Hình 6 – phụ
lục)

11


Tháng 7/1497, khi vừa mới tròn 28 tuổi, Va-xcô đơ Ga-ma đã tổ chức đoàn
thám hiểm qui mô lớn với 4 tàu Ca-ra-ven và 168 thủy thủ rời cảng Li-xbon tiến
xuống phía nam châu Phi, tiếp tục lộ trình của Đi-a-xơ trước đây. Khi đến Mũi
Xanh thì bị chệch hướng sang phía Tây, tiến tới phía Đông của một châu lục
khác mà đoàn không hề biết (châu Mĩ). Tuy vậy đoàn thám hiểm vẫn lập thương
điếm (tại Bra-xin ngày nay), sau đó ông điều chỉnh hướng vượt qua được mũi
Hảo Vọng ngược lên phía Bắc. (Hình 7 – phụ lục)
Ngày 20/5/1498, trải qua nhiều khó khăn, họ đã cập bến Ca-li-cút (Ấn Độ).
Giấc mơ phát hiện đường biển sang Ấn Độ như thần thoại cuối cùng đã được
thực hiện. Từ Ca-li-cút, đoàn thám hiểm đã theo đường cũ trở về Bồ Đào Nha.
Khi về, đoàn chỉ còn 55 thủy thủ, nhưng đầy ắp vàng, bạc châu báu, hương liệu
quý. Sau đó, người Bồ Đào Nha đã chiếm giữ độc quyền con đường này 18 năm
liền và tổ chức nhiều cuộc viễn chinh mới.
Đồng thời với các cuộc thám hiểm của người Bồ Đào Nha, người Tây Ban
Nha cũng tiến hành nhiều cuộc thám hiểm lớn. Trái ngược với người Bồ Đào
Nha thám hiểm vùng đất mới bằng cách đi xuống phía nam châu Phi, thì người
Tây Ban Nha lại di chuyển theo hướng tây nam. Xuất phát từ giả thuyết trái đất
hình cầu tròn, họ đặt mục tiêu hướng về phía tây để sang phương Đông giàu có.
Tiêu biểu là cuộc hành trình của C.Cô-lôm-bô và Ma-gien-lan.
Ngày 2/8/1492, C. Cô-lôm-bô (1451-1506) đã dẫn đầu đoàn thuỷ thủ 90
người với 3 chiếc tàu rời cảng Pa-lê-xơ (Tây Ban Nha) đi về hướng Tây. Sau hai

tháng lênh đênh trên Đại Tây Dương gặp nhiều sóng to gió lớn, ngày 28/10/1892
ông đã đến một số đảo thuộc vùng biển Ca-ri-bê (Châu Mĩ), nhưng ông tưởng
đây là miền “Đông Ấn Độ” (Hình 8 – phụ lục).
Quay trở về Tây Ban Nha ông được phong chức Thượng tướng hải quân,
tổng đốc Ấn Độ. Cô-lôm-bô được coi là người đầu tiên phát hiện ra châu Mĩ,
nhưng do tưởng lầm là Ấn Độ nên châu Mĩ ngày nay không mang tên ông mà
mang tên một nhà thám hiểm khác.
Sau những cuộc phát kiến địa lí của C. Cô-lôm-bô, người Tây Ban Nha
vẫn không hài lòng với những gì mình thu được nên vẫn tiếp tục các cuộc hành
trình thám hiểm. Ma-gien-lan (1480-1521), sau khi biết vùng đất mới mà Côlôm-bô phát hiện không phải là Ấn Độ nên ông tiếp tục cuộc hành trình đó
(Hình 9 – phụ lục).
Ma-gien-lan là nhà hàng hải người Bồ Đào Nha, nhưng lại phục vụ trong
vương triều Tây Ban Nha. Được sự giúp đỡ của vua Tây Ban Nha, ông tổ chức
đoàn thám hiểm đi vòng quanh trái đất.
Ngày 20/9/1519 Ma-gien-lan dẫn đầu đoàn thám hiểm gồm 5 chiếc tàu với
265 thủy thủ rời cảng Xan Lu-các, bắt đầu cuộc hành trình vượt Đại Tây Dương
đầy mạo hiểm. Tháng 10/1519, đoàn tới được bờ biển Bra-xin, rồi men theo bờ
biển phía đông Nam Mĩ tới vịnh Xan-ta Lu-xi-a (nay là thành phố Ri-ô đờ giane rô). Do cuộc hành trình quá dài, lại thiếu lương thực nên nhiều thủy thủ nổi
12


loạn đòi quay trở về, nhưng ông vẫn kiên quyết tiếp tục cuộc hành trình. Ông đã
kết án treo cổ 40 thủy thủ vì nổi loạn và làm hoang mang những người khác. Khi
đến cực nam châu Mĩ đoàn chỉ còn 4 tàu vì 1 tàu bỏ trốn.
Sau khi vượt qua cực nam Châu Mĩ (sau này được gọi là eo biển Ma-gienlan) đoàn thám hiểm đến một đại dương mới. Tại đây, thấy gió lặng, sóng yên,
khác hẳn với bão tố liên miên của vùng biển nam Mĩ, nên ông đặt là biển Thái
Bình Dương.
Tháng 4/1521, đoàn đến được Phi-líp-pin và đụng độ với thổ dân, Ma-gienlan cùng 22 thủy thủ đã hi sinh. Hoan-xe-ba-xti-an Đơ En-ca-nô lên thay chỉ huy
đoàn thám hiểm, lúc này chỉ còn 2 tàu với 113 thủy thủ.
Tháng 11/1521, khi đoàn tới đảo Mô-lúc thì gặp bão lớn nên chỉ còn 1 tàu

với 33 thủy thủ. Năm 1522, đoàn thám hiểm tiến về phía nam và tới Bru-nây,
vòng qua nam In-đô-nê-xi-a vào Ấn Độ Dương vượt qua mũi Hảo Vọng, men
theo bờ biển phía tây châu Phi về tới Tây Ban Nha ngày 8/9/1522, lúc này đoàn
chỉ còn 18 thủy thủ với một tàu chở đầy hương liệu của phương Đông.
Như vậy, cuộc hành trình vòng quanh trái đất lần đầu tiên được hoàn thành
đã làm rạng rỡ tên tuổi của nhà thám hiểm Ma-gien-lan. Nó chứng minh một
cách thuyết phục nhất về quả đất hình cầu tròn. “Ông đã tặng cho nhân loại
những hiểu biết mới và chiến công đó của ông đã vượt lên tất cả mọi chiến
công. Ông đã biến những gì mà hàng trăm thế hệ trước chỉ coi là giấc mơ thì
nay đã thành hiện thực” [5].
- Phương pháp sử dụng:
Lược đồ trên, nói về những cuộc phát kiến địa lí của những nhà thám hiểm
nổi tiếng châu Âu cuối thế kỉ XV, đầu thế kỉ XVI. Để học sinh phát huy được
tính tích cực chủ động, giáo viên cần thực hiện tốt các bước sau:
Trước hết, giáo viên yêu cầu học sinh quan sát lược đồ, đồng thời giúp các
em phân biệt những loại mũi tên chỉ từng cuộc hành trình của các nhà thám
hiểm.
Bước hai: giáo viên yêu cầu học sinh kết hợp với nội dung trong sách giáo
khoa và lên bảng thuyết trình các cuộc phát kiến địa lí. Trong quá trình học sinh
giới thiệu về các cuộc phát kiến địa lí giáo viên có thể gợi mở một số câu hỏi để
cuốn hút học sinh lắng nghe và lĩnh hội kiến thức.
Ví dụ: Tại sao cuộc hành trình đến được cực nam châu Phi của người Bồ
Đào Nha lại diễn ra trong một thời gian dài như vậy? Tại sao người Tây Ban
Nha lại chọn hướng đi sang phía tây Đại Tây Dương mà không đi theo con
đường người Bồ Đào Nha đã đi?....
Bước ba: Sau khi học sinh đã thuyết trình xong giáo viên yêu cầu học sinh
khác nhận xét bổ sung.
Cuối cùng, giáo viên nhận xét, đồng thời để học sinh khắc sâu nội dung vừa
học giáo viên treo lên bảng, bảng biểu yêu cầu học sinh hoàn thành cột B sao
cho phù hợp với nội dung cột A:

13


A
Năm 1487 B. Đi-a-xơ
Năm 1492 C. Cô-lôm-bô
Năm 1497 Va-xcô đơ Ga-ma
Năm 1519-1522 Ph. Ma-gien-lan

B

Sau khi kết thúc nội dung trên, giáo viên đặt câu hỏi: Các cuộc phát kiến địa lí
đã để lại những hệ quả gì?
2.3.3.3. Đối với hệ quả của cuộc phát kiến địa lí:
Sau khi đã học sinh thảo luận và trả lời giáo viên nhận xét và kết luận, các
cuộc phát kiến địa lí đã để lại những hệ quả to lớn:
+ Đem lại hiểu biết mới về trái đất, về những con đường mới, dân tộc mới.
Thị trường thế giới được mở rộng. (Giáo viên minh họa bằng lược đồ) (Hình 10
– phụ lục)
+ Thúc đẩy nhanh sự tan rã của chế độ phong kiến dẫn tới sự xác lập của
chủ nghĩa tư bản.
+ Nảy sinh quá trình cướp bóc thuộc địa và buôn bán nô lệ. (Giáo viên
minh họa bằng tranh ảnh) (Hình 11 – phụ lục)
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm.
Để đánh giá hiệu quả của đề tài tôi chọn lớp 10A1, 10A5 năm học 20182019 làm lớp thực nghiệm. Sau các tiết dạy tôi có sử dụng phiếu điều tra về mức
độ hứng thú và kết quả học tập của học sinh:
+ Kết quả phiếu điều tra về hứng thú học tập của học sinh:
Năm học 2018-2019
Lớp
10A1

10A5
Mức độ
Số lượng
%
Số lượng
%
Thích
23
56,09
22
55,00
Bình thường
12
29,26
13
32,50
Không thích
6
14,63
5
12,50
Tổng
41
100
40
100
+ Phiếu điều tra kết quả học tập của học sinh: Em hãy nối cột A và B sao
cho đúng? (Lưu ý: Nối đúng mỗi ý được 2,5 điểm, thời gian 5 phút)
A
B

Năm 1487 B. Đi-a-xơ
Đi vòng quanh thế giới bằng đường biển
Năm 1492 C. Cô-lôm-bô
Đến được cực Nam của châu Phi
Năm 1497 Va-xcô đơ Ga-ma
Tìm ra châu Mĩ
Năm 1519-1522 Ph. Ma-gien-lan Đến được Ca-li-cút của Ấn Độ
Kết quả thu được là:
Lớp
Xếp loại

Năm học 2018-2019
10A1
10A5
Số lượng
%
Số lượng

%
14


Giỏi
13
31,70
12
30,00
Khá
17
41,63

16
40,00
Trung bình
8
19,51
8
20,00
Yếu - kém
3
7,31
4
10,00
Tổng
41
100
40
100
Qua các bảng thống kê ta thấy, đã có sự thay đổi lớn về hứng thú cũng như
kết quả học tập của học sinh. Trước khi áp dụng phương pháp sử dụng, khai thác
kênh hình vào giảng dạy bài Tây Âu thời hậu kì Trung đại số học sinh có hứng
thú học tập ở lớp 10B1 và 10B3 năm học 2017-2018 chỉ chiếm 15%, số không
thích học chiếm tới 48,9%. Tuy nhiên, khi áp dụng phương pháp sử dụng, khai
thác kênh hình vào giảng dạy tại lớp 10A1 và 10A5 số học sinh hứng thú với
môn học tăng lên rõ rệt, chiếm tỉ lệ trên 55%, số không thích học cũng giảm
xuống còn 13,5%. Mặt khác, trong giờ học khi dạy bằng phương pháp mới này
học sinh cũng học tích cực, chủ động hơn, các em hăng hái tham gia phát biểu ý
kiến xây dựng bài làm cho giờ học lịch sử trở nên sôi nổi hơn. Vì vậy kết quả
học tập của học sinh ở cả 2 lớp đối chứng và thực nghiệm đã có sự khác nhau rõ
rệt. Ở lớp 10B1 và 10B3 khi chưa áp dụng phương pháp mới vào giảng dạy thì
số học sinh khá, giỏi chỉ chiếm 33%; yếu, kém chiếm tỉ lệ hơn 24%. Nhưng khi

áp dụng phương pháp mới vào trong quá trình giảng dạy ở lớp 10A1 và 10A5
năm học 2018-2019 số học sinh khá, giỏi tăng lên, chiếm hơn 71%, đặc biệt số
học sinh xếp loại yếu, kém giảm mạnh chỉ còn 8,64%.
Từ kết quả thu được tôi nhận thấy việc khai thác kênh hình trong dạy học là
rất cần thiết, đặc biệt đối với môn lịch sử. Nếu tận dụng tốt trong tiết dạy sẽ đem
lại hiệu quả cao, đây cũng là một trong những nội dung thể hiện sự đổi mới
phương pháp dạy học, làm cho kết quả học tập bộ môn không ngừng được nâng
cao. Điều đó cho thấy đổi mới phương pháp dạy học là một định hướng đúng
đắn của Đảng và nhà nước.

3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận.
Đổi mới phương pháp dạy học nói chung và phương pháp dạy học lịch
sử nói riêng là vấn đề đang được toàn xã hội quan tâm, trong phạm vi nghiên
15


cứu của đề tài tôi nhận thấy người giáo viên phải thật sự tâm huyết với nghề,
phải thường xuyên nâng cao năng lực chuyên môn, phải có năng lực sư phạm và
biết kết hợp khéo léo các phương pháp, phương tiện nhằm tổ chức tốt việc nhận
thức cho học sinh. Thực tiễn chứng minh rằng, học sinh gắn việc yêu thích môn
lịch sử với phương pháp dạy của giáo viên.
Ngoài những nội dung kiến thức trong sách giáo khoa, đồ dùng trực quan
có sẵn và đồ dùng trực quan tự tạo sẽ minh họa thêm cho học sinh thấy rõ được
ý nghĩa, mục đích sâu sắc của bài học lịch sử và đặc biệt sẽ giúp học sinh nhớ
lâu những kiến thức lịch sử.
Việc sử dụng đồ dùng trực quan trong bài giảng này, nếu giáo viên tích
cực tìm tòi, sáng tạo về cách làm lược đồ, sơ đồ sự kiện lịch sử, bảng thống kê
sự kiện... thì sẽ có tác dụng tốt, có thể áp dụng trong tất cả các trường THPT. Có
làm được như vậy tôi tin chắc học sinh sẽ ham học môn Lịch sử, làm tăng hiệu

quả của giờ dạy trên lớp, từ đó chất lượng bộ môn được nâng cao.
Với mỗi giáo viên lịch sử, việc kết hợp kĩ năng khai thác kênh hình sách
giáo khoa với ứng dụng CNTT phục vụ cho giảng dạy, sẽ góp phần tích cực đáp
ứng yêu cầu đổi mới giáo dục. Điều đó, không những hoàn thiện kĩ năng sư
phạm, nâng cao được trình độ chuyên môn của người thầy mà còn phát huy tính
tích cực của học sinh trong quá trình học tập bộ môn.
Với kinh nghiệm giảng dạy từ thực tế là các giờ học và tính hiệu quả của nó,
tôi xin chia sẻ với bạn bè đồng nghiệp sáng kiến kinh nghiệm với đề tài “Sử
dụng có hiệu quả kênh hình khi dạy Bài 11: Tây Âu thời hậu kì Trung đại
(lịch sử lớp 10 cơ bản), nhằm phát huy tính tích cực của học sinh”.
Mặc dù phạm vi trình bày và nội dung nghiên cứu hẹp, cụ thể chỉ là một tiết
dạy, hệ thống đồ dùng trực quan mà tôi đưa ra có thể là chưa đầy đủ. Song bản
thân cũng đã có nhiều cố gắng và cũng mong muốn được góp thêm một số ít
kinh nghiệm giảng dạy đối với bài "Tây âu thời hậu kì trung đại" nói riêng và
bộ môn lịch sử nói chung. Rất mong nhận được ủng hộ của các thầy cô, và bạn
bè đồng nghiệp để sáng kiến kinh nghiệm được hoàn thiện.
3.2. Kiến nghị
Từ kết quả đạt được bước đầu trong sáng kiến kinh nghiệm và từ thực tiễn
dạy học hiện nay, tôi xin phép được đề xuất một vài kiến nghị sau :
- Cần có những chuyên đề bồi dưỡng cho giáo viên về cách khai thác và sử
dụng kênh hình.
- Trong thời gian tới khi biên soạn sách giáo khoa lịch sử nên bổ sung thêm
các loại kênh hình và có sách hướng dẫn.
- Nhà nước cần đầu tư xây dựng thêm các phòng học bộ môn phù hợp với
đặc trưng bộ môn lịch sử.
- Giáo viên cần đưa ra những yêu cầu cụ thể đối với học sinh trong quá trình
dạy học như sưu tầm tài liệu trước ở nhà theo định hướng của giáo viên.
16



- Các cấp quản lý phải thực sự quan tâm, tạo điều kiện, động viên khuyến
khích giáo viên sử dụng loại tài liệu này; tổ chức các buổi hội thảo, tập trung
những giáo viên giỏi, có kinh nghiệm và tâm huyết với nghề để chung tay sưu
tầm, chỉnh lý và biên soạn thành hệ thống tài liệu cần thiết cho cả chương trình
và kèm theo các phương pháp sử dụng cho từng đoạn tài liệu một.
XÁC NHẬN CỦA THỦ
TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Thanh Hóa, ngày 20 tháng 05 năm 2019
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình,
không sao chép nội dung của người khác.
Người viết

Đoàn Ngọc Thanh

Lê Trọng Thế

TÀI LIỆU THAM KHẢO
I. TÀI LIỆU TRÍCH DẪN
[1]. Nguyễn Thị Côi - Hướng dẫn sử dụng kênh hình - NXB Đại Học Sư Phạm -

Hà Nội - 2013.
17


[2]. Quyết định số 41/2000/QĐ/BGD&ĐT ngày 24/3/2000 của BGD & ĐT.
[3]. Đặng Văn Đức - Lí luận dạy học Địa lí - NXB Đại Học Sư Phạm, Hà Nội.
[4]. Truyện cổ Ả- Rập( Contes dorient)
[5]. Magellan set out - History.com
II. TÀI LIỆU THAM KHẢO


1. Quyết định số 41/2000/QĐ/BGD&ĐT ngày 24/3/2000 của BGD & ĐT
2. Đặng Văn Đức - Lí luận dạy học Địa lí - NXB Đại Học Sư Phạm, Hà Nội.
3. Phan Ngọc Liên - Lịch sử lớp 10 nâng cao - NXB Giáo dục - 2011.
4. Phan Ngọc Liên - Lịch sử lớp 10 - NXB Giáo dục - 2006.
5. Bộ giáo dục và đào tạo - Những vấn đề chung về đổi mới giáo dục trung học
phổ thông - NXB Đại Học Sư Phạm - Hà Nội - 2007.
6. Nguồn một số trang Web trên Internet.
7. “Phương pháp dạy học Lịch sử” (Tập 1), tập 2 NXB giáo dục.
8. Nguyễn Thị Côi - Hướng dẫn sử dụng kênh hình - NXB Đại Học Sư Phạm Hà Nội - 2013.
9. Dạy học theo chuẩn kiến thức - kĩ năng môn Lịch sử. Tác giả: Trịnh Đình
Tùng (Chủ biên) - Nguyễn Mạnh Hưởng - Lê Thị Thu. Nhà xuất bản: Đại học
Sư phạm 2010.

DANH MỤC
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN KINH
NGHIỆM NGÀNH GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HUYỆN, TỈNH VÀ CÁC
CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
18


Họ và tên tác giả: Lê Trọng Thế
Chức vụ và đơn vị công tác: Giáo viên – Trường THPT Triệu Sơn 4
TT

Tên đề tài SKKN

Cấp đánh
giá xếp
loại


Kết quả
đánh giá
xếp loại

(Ngành GD cấp

(A, B,
hoặc C)

huyện/tỉnh;
Tỉnh...)

1

“Tích hợp chủ quyền biển đảo
giảng dạy mục Sự thành lập Liên
hợp quốc trong bài Sự hình
thành trật tự thế giới mới sau
chiến tranh thế giới thứ hai
(1945-1949) (lịch sử lớp 12)
nhằm gây hứng thú học tập cho
học sinh”.

Tỉnh

C

Năm học
đánh giá

xếp loại

2014-2015

PHỤ LỤC
MỘT SỐ HÌNH ẢNH PHỤC VỤ CÔNG TÁC NGHIÊN CỨU SKKN

19


Hình 1: Con đường buôn bán qua Tây Á và Địa Trung Hải

Hình 2: tàu Caraven

20


Hình 3: La bàn

Hình 4: Hải đồ vùng Địa Trung Hải [7]

21


Hình 5: Lược đồ các cuộc phát kiến địa lí

Hình 6: Lược đồ hành trình phát kiến địa lí của B. Đi-a-xơ

22



Hình 7: Lược đồ hành trình phát kiến địa lí của Vaxcô Đơ Gama

Hình 8: Lược đồ hành trình phát kiến địa lí của C. Côlômbô

23


×