Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

SKKN một số giải pháp giáo dục kĩ năng sống cho học sinh THPT qua môn ngữ văn nhằm nâng cao hiệu quả dạy và học ở trường THPT t

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (707.71 KB, 25 trang )

1. Lời mở đầu:
1.1.Lí do chọn đề tài:
Như chúng ta biết, đất nước Việt Nam của chúng ta đang bước vào thời kì
mới - thế kỉ của công nghiệp hoá, hiện đại hoá - và trong thế kỉ này con người được
đặt ở trung tâm chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, trong đó thế hệ trẻ hôm nay sẽ
là những công dân, những người chủ tương lai của đất nước. Do đó, giáo dục kĩ
năng sống cho học sinh đặc biệt là học sinh ở lứa tuổi THPT ngày càng trở nên
quan trọng.
Những biến đổi về nhiều mặt của xã hội hiện nay đã có tác động mạnh mẽ đến
đời sống con người. Nhiều vấn đề nảy sinh mà trước đây con người chưa từng gặp
phải hoặc chưa từng đối đầu thì nay đòi hỏi phải có cách ứng phó để tránh gặp rủi
ro không cần thiết. Thực tiễn này khiến các nhà giáo dục và những người tâm huyết
đến sự nghiệp giáo dục đặc biệt quan tâm đến việc giáo dục kĩ năng sống cho thế hệ
trẻ. Giáo dục kĩ năng sống cho người học đã trở thành trách nhiệm của mỗi quốc
gia. Điều này đã được thể hiện trong báo cáo Giám sát toàn cầu Giáo dục cho mọi
người năm 2009, trong đó tại mục tiêu 3 có nêu: "Đảm bảo đáp ứng tất cả mọi nhu
cầu học tập của thanh thiếu niên và người lớn thông qua tiếp cận bình đẳng với các
chương trình học tập và kĩ năng sống phù hợp" và tại mục tiêu 6 có ghi "cải thiện
tất cả mọi khía cạnh của chất lượng giáo dục và đảm bảo chất lượng tốt nhất sao
cho mọi đối tượng đều đạt được kết quả học tập được công nhận được và đo lường
được, nhất là khả năng đọc viết, làm tính và kĩ năng sống cơ bản". Những mục tiêu
này cho thấy mỗi quốc gia cần đảm bảo cho người học được tiếp cận chương trình
giáo dục kĩ năng sống phù hợp, đồng thời kĩ năng sống được coi như một tiêu chí
của chất lượng giáo dục. Ở nước ta, mục tiêu của giáo dục phổ thông là “Đào tạo
con người Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức khỏe, thẩm mỹ
và nghề nghiệp, trung thành với lí tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hình
thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất năng lực công dân, đáp ứng yêu cầu của
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” (Luật giáo dục năm 2005 - Điều 2) [2].
Từ năm học 2010 - 2011 trở lại đây Bộ GD & ĐT đã chỉ đạo tổ chức giáo
dục kĩ năng sống cho học sinh trong nhà trường thông qua việc lồng ghép trong các
môn học. Tuy nhiên thực tế hiện nay, vấn đề giáo dục kĩ năng sống trong trường


học còn hạn chế, tập trung chủ yếu thông qua các chương trình, dự án hợp tác quốc
tế nên tính bền vững không cao, chỉ được triển khai trong thời gian nhất định. Cách
thức triển khai giáo dục kĩ năng sống ở cấp học phổ thông chủ yếu là phát tài liệu,
tập huấn giáo viên, dạy thí điểm, thông qua các hoạt động ngoại khóa, hiệu quả của
việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh thực sự chưa cao.... và hàng trăm câu hỏi
được đặt ra. Không chỉ học sinh mà bản thân nhiều giáo viên cũng còn bỡ ngỡ và
lúng túng trong việc giáo dục các kĩ năng sống [1].
Ngữ văn là môn học về khoa học xã hội và nhân văn, bên cạnh việc hình thành
và phát triển ở học sinh năng lực sử dụng tiếng Việt, năng lực tiếp nhận văn bản.
1


Môn ngữ văn còn là công cụ đắc lực giúp các em hiểu biết về xã hội, văn hoá, văn
học, lịch sử không chỉ trong nước mà còn hiểu biết rộng hơn về các nước trên thế
giới. Để giáo dục kĩ năng sống cho các em, lứa tuổi được xem là nhạy cảm nhất,
một hành trang mới để các em bước vào cuộc sống độc lập và có cách nhìn nhận
đúng đắn về hiện thực xã hội. Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh thông qua một số
tác phẩm trong chương trình là giúp các em vận dụng kiến thức vào những tình
huống khác nhau trong học tập và trong thực tiễn: tạo niềm tin, hứng thú học tập.
Từ đó hình thành hiểu biết, năng lực và phẩm chất để đáp ứng những yêu cầu của
cuộc sống hiện tại và tương lai.
Vậy làm thế nào để nâng cao hiệu quả việc tổ chức giáo dục kĩ năng sống cho
học sinh nói chung và học sinh bậc THPT nói riêng. Từ thực tế giảng dạy và học
tập cụ thể của Trường THPT Thạch Thành 4, tôi nhận thấy đây là điều trăn trở
không chỉ riêng tôi mà còn nhiều các thầy cô giáo tâm huyết, yêu nghề khác. Bởi
vậy, tôi mạnh dạn chia sẻ một số kinh nghiệm mà tôi đã thử nghiệm thành công
trong những năm vừa qua về “Một số giải pháp giáo dục kĩ năng sống cho học
sinh THPT qua môn Ngữ văn nhằm nâng cao hiệu quả dạy và học ở Trường THPT
Thạch Thành 4”.
1.2. Mục đích nghiên cứu:

Mục đích nghiên cứu của đề tài này là góp phần giáo dục kĩ năng sống cho học
sinh qua môn học cụ thể nhằm nâng cao chất lượng dạy và học môn Ngữ văn nói
riêng, chất lượng học tập của học sinh nói chung. Đặc biệt, rèn luyện cho các em
một số kĩ năng quan trọng như tính sáng tạo, tự đánh giá, khả năng nắm bắt và vận
dụng vấn đề một cách có hiệu quả.
1.3. Đối tượng nghiên cứu:
- Học sinh lớp 11A1, 11A2, 11A3, 11A4, 11A6 Trường THPT Thạch Thành 4.
1.4. Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp thực nghiệm:
+ Triển khai nghiên cứu các vấn đề về Văn học, Tiếng việt, Làm văn của chương
trình môn Ngữ văn 11.
+ Áp dụng lí thuyết vào những bài kiểm tra cụ thể.
- Phương pháp đánh giá, rút kinh nghiệm:
+ Học sinh tự đánh giá
+ Giáo viên đánh giá, rút kinh nghiệm, bổ sung hoàn thiện.
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm:
2.1. Cơ sở lý luận của SKKN:
Giáo dục trong xu hướng hiện nay không chỉ hướng vào mục tiêu tạo ra nguồn
nhân lực đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế xã hội, mà còn hướng đến mục tiêu
phát triển đầy đủ và tự do giá trị của mỗi cá nhân giúp cho con người có năng lực
để cống hiến, đồng thời có năng lực để sống một cuộc sống có chất lượng và hạnh
phúc.
2


Chính vì vậy trong diễn đàn thế giới về giáo dục cho mọi người họp tại
Senegan (2000) Chương trình hành động Dakar đã đề ra 6 mục tiêu, trong đó mục
tiêu 3 nói rằng “Mỗi quốc gia phải đảm bảo cho người học được tiếp cận chương
trình giáo dục kĩ năng sống phù hợp”. Còn trong mục tiêu 6 yêu cầu “Khi đánh giá
chất lượng giáo dục cần phải đánh giá kĩ năng sống của người học”. Như vậy, học

kĩ năng sống trở thành quyền của người học và chất lượng giáo dục phải được thể
hiện cả trong kĩ năng sống của người học.[3]
Với tính chất là một môn học công cụ, môn Ngữ văn giúp các em có năng lực
ngôn ngữ để học tập, có khả năng giao tiếp, nhận thức về xã hội và con người, đặc
biệt giúp các em có đời sống nội tâm phong phú. Với tính chất là môn học giáo dục
thẩm mĩ, môn Ngữ văn giúp các em bồi dưỡng năng lực tư duy, làm giàu cảm xúc
thẩm mĩ và định hướng thị hiếu lành mạnh để hoàn thiện nhân cách. Từ cơ sở trên
chúng ta thấy, Ngữ văn là môn học có những khả năng đặc biệt trong giáo dục kĩ
năng sống cho học sinh THPT - lứa tuổi bắt đầu làm quen với cuộc sống độc lập.
2.2.Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm:
2.2.1. Kết quả khảo sát thực trạng:
Trước khi áp dụng
HS có kĩ năng tốt
Lớp
Số lượng
11A1
35(HS)
11A2
(45HS)
11A3
(46HS)
11A4
(45HS)
11A6
(48HS)

HS có hình thành được HS có kĩ năng chưa
kĩ năng
tốt
Số lượng


8

Tỉ lệ
(%)
22,9

Số lượng

18

Tỉ lệ
(%)
51,4

9

Tỉ lệ
(%)
25,7

11

24.4

21

46,7

13


28,9

12

26,1

18

39,1

16

34,8

10

22,2

22

48,9

13

28,9

9

18,8


24

50

15

31,2

3


Từ kết quả khảo sát, chúng ta nhận thấy, trong những năm trở lại đây, theo xu
thế của xã hội, đại bộ phận học sinh không học khối C, chỉ chạy theo những môn
khoa học tự nhiên để sau này dễ chọn ngành, chọn trường và có công ăn việc làm
ổn định. Vì vậy, học sinh trong trường THPT gần như không chú ý học môn Ngữ
văn, chỉ coi môn Ngữ văn như là một môn điều kiện. Từ những thực trạng trên,
khiến cho học sinh chán những giờ Văn dẫn đến những giờ dạy - học Ngữ văn tẻ
nhạt, nhàm chán, trôi qua một cách vô vị. Hiện nay, do sự phát triển của xã hội, học
sinh THPT bị cuốn vào những trang mạng xã hội ảo, các trò game vui nên mất dần
một số kĩ năng cần thiết như chia sẻ, quan tâm lẫn nhau, cảm ơn, xin lỗi.... Vì vậy,
thông qua môn Ngữ văn, người giáo viên cần giáo dục lồng ghép những kĩ năng
cần thiết giúp tâm hồn các em phát triển toàn diện.
2.2.2. Khó khăn gặp phải cần tìm cách khắc phục:
- Một số phụ huynh học sinh ít quan tâm hoặc còn xem nhẹ việc giáo dục kĩ năng
sống cho con em mình.
- Nhiều học sinh chạy theo xu thế hiện nay: chỉ học Toán không học văn nên kĩ
năng nhận thức, kĩ năng phân tích, cảm thụ tác phẩm văn học còn hạn chế.
- Tài liệu tham khảo về giáo dục kĩ năng sống cho học sinh chưa nhiều.
- Ý nghĩa, tầm quan trọng của giáo dục kĩ năng sống chưa được nhận thức một cách

đúng mức trong một bộ phận cán bộ, giáo viên.
- Khi thực hiện giáo dục kĩ năng sống, giáo viên còn gặp nhiều khó khăn, lúng túng
(chưa có tài liệu cho giáo viên và học sinh, tiêu chí đánh giá chưa cụ thể,…). Tổ
chức giáo dục kĩ năng sống có những đặc thù riêng khác với các hoạt động giáo dục
khác, nội dung giáo dục không chỉ diễn ra trong môn học mà còn thông qua một số
hoạt động khác (hoạt động ngoài giờ lên lớp, câu lạc bộ,...) cho nên phải tính đến
cơ sở vật chất, kinh phí để thực hiện.
- Giáo viên quen với việc tập trung cung cấp kiến thức mà không hoặc ít quan tâm
giáo dục kĩ năng sống cho học sinh.
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề:
2.3.1. Giải pháp 1: Nắm vững các kĩ năng cơ bản được giáo dục trong mỗi bài
học Ngữ văn. Mỗi bài học Ngữ văn đều có một số kĩ năng sống cơ bản. Giáo
viên cần căn cứ vào mục tiêu cần đạt về kiến thức kĩ năng và thái độ ở mỗi bài
học để xác định.
Ví dụ 1: Mục tiêu cần đạt của bài “Lưu biệt khi xuất dương” là:
Giúp HS:
- Về kiến thức: + Cảm nhận được vẻ đẹp lãng mạn, hào hùng của nhà chí sĩ cách
mạng đầu thế kỉ XX.
+ Thấy được những nét đặc sắc về nghệ thuật và giọng thơ tâm huyết của Phan Bội
Châu.
- Kĩ năng: Đọc hiểu thơ thất ngôn đường luật theo đặc trưng thể loại.
- Về thái độ: Bồi dưỡng, giáo dục lòng yêu nước, ý thức tự cường dân tộc.
+ Định hướng phát triển năng lực:
4


+ Năng lực thu thập thông tin liên quan đến văn bản.
+ Năng lực phát hiện và giải quyết tình huống có vấn đề, thuyết trình vấn đề.
Trên cơ sở đó, Giáo viên xác định các kĩ năng sống cơ bản được giáo dục trong bài
học như sau:

- Giao tiếp: trình bày suy nghĩ, ý tưởng về vẻ đẹp lãng mạn và hào hùng của nhà
chí sĩ cách mạng những năm đầu thế kỉ XX.
- Tư duy sáng tạo: phân tích, bình luận về quan niệm chí làm trai, khát vọng cháy
bỏng tìm con đường đi mới cho đất nước.
- Tự nhận ra bài học về niềm khao khát thực hiện hoài bão lớn vì đất nước của nhà
thơ. Từ đó nhận thức về lí tưởng sống đẹp của thanh niên hiện nay [4], [5].
Ví dụ 2: Mục tiêu cần đạt của bài “Vội vàng” là:
1. Về kiến thức:
a. Bộ môn:
- Niềm khát khao giao cảm với đời và quan niệm nhân sinh, thẩm mĩ mới mẻ
của Xuân Diệu.
- Đặc sắc của phong cách nghệ thuật thơ Xuân Diệu trước CM tháng 8.
b. Giáo dục kĩ năng sống:
- Tư duy sáng tạo: Phân tích, bình luận về triết lí sống, khát vọng sống mạnh
mẽ, cuồng nhiệt của hồn thơ Xuân Diệu, về hình ảnh ngôn từ, giọng điệu bài thơ
- Tự nhận thức về mục đích, giá trị cuộc sống đối với mỗi cá nhân.
- Giao tiếp: cảm thông và sẻ chia cùng tâm trạng của tác giả.
2. Về kĩ năng:
a. Bộ môn:
- Đọc - hiểu một tác phẩm trữ tình theo đặc trưng thể loại.
- Phân tích một bài thơ mới.
b. Kĩ năng sống:
- Rèn luyện tư duy sáng tạo về một vấn đề mang tính triết lí trong cuộc sống
- Rèn luyện kĩ năng giao tiếp và tự nhận thức
3. Về thái độ: Xác định thái độ sống đúng đắn, có tinh thần lạc quan yêu đời [4],
[5].
Ví dụ 3: Mục tiêu cần đạt của bài “Chiều tối” là:
1. Về kiến thức:
- Cảm nhận được hình tượng thiên nhiên và bức tranh cuộc sống con người
trong bài thơ

- Vẻ đẹp tâm hồn Hồ Chí Minh: dù trong hoàn cảnh khắc nghiệt đến đâu vẫn
luôn hướng về ánh sáng, sự sống và tương lai.
- Hiểu được vẻ đẹp cổ điển và tinh thần hiện đại của bài thơ.
2. Về kỹ năng:
- Rèn kỹ năng phân tích tác phẩm thơ trữ tình.
5


- Rèn luyện kĩ năng cảm thụ tác phẩm thơ.
3. Về thái độ:
- Củng cố thêm lòng yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống lao động của con người.
- Bồi đắp thêm tinh thần lạc quan, yêu đời.
4. Giáo dục kĩ năng sống:
- Giao tiếp: trình bày suy nghĩ, ý tưởng về vẻ đẹp thiên nhiên và tâm hồn, ý chí,
nghị lực của nhà thơ - vị lãnh tụ của dân tộc.
- Tư duy sáng tạo: phân tích, bình luận về vẻ đẹp tâm hồn của Hồ Chí Minh.
- Bồi dưỡng thêm tinh thần lạc quan, yêu đời, hòa hợp với thiên nhiên, tạo vật.
- Tự nhận ra bài học về niềm khao khát, có bản lĩnh, ý chí thực hiện hoài bão lớn vì
đất nước của nhà thơ. Từ đó nhận thức về lí tưởng sống đẹp của thanh niên hiện
nay [4], [5].
Ví dụ 4: Mục tiêu cần đạt của bài “Hai đứa trẻ” là:
1. Về kiến thức :

Bức tranh phố huyện với cảnh ngày tàn, chợ tàn, những kiếp người tàn qua
cảm nhận của hai đứa trẻ

Niềm xót xa, thương cảm của nhà văn đ/v cuộc sống quẩn quanh, tù túng của
những con người nghèo nơi phố huyện và sự trân trọng, nâng niu những khát
vọng nhỏ bé nhưng tươi sáng của họ.


Tác phẩm đậm đà yếu tố hiện thực vừa phảng phất chất lãng mạn, chất thơ;
là truyện tâm tình với lối kể thủ thỉ như một lời tâm sự.
2. Về kĩ năng :

Đọc hiểu văn bản theo đặc trưng thể loại

Phân tích tâm trạng nhân vật trong tp tự sự
3. Về thái độ: yêu thương, trân trọng những con người nghèo khổ.
4. Về giáo dục kĩ năng sống:
- Tư duy sáng tạo: Phân tích, bình luận về triết tâm trạng, khát vọng sống
những kiếp người tàn qua cảm nhận của hai đứa trẻ
- Tự nhận thức về mục đích, giá trị cuộc sống đối với mỗi cá nhân.
- Giao tiếp: cảm thông và sẻ chia với cuộc sống quẩn quanh, tù túng của
những con người nghèo nơi phố huyện và sự trân trọng, nâng niu những khát
vọng nhỏ bé nhưng tươi sáng của họ.
5. Định hướng phát triển năng lực:
– Năng lực chung: năng lực giải quyết vấn đề, năng lực hợp tác, năng lực tự
học, năng lực sáng tạo.
– Năng lực đặc thù: năng lực giao tiếp bằng ngôn ngữ, cảm thụ văn học, tạo
lập văn bản.
2.3.2. Giải pháp 2: Thiết kế câu hỏi đảm bảo tính giáo dục để học sinh được
hoạt động, được suy nghĩ và được trải nghiệm.
6


Để đảm bảo tính khoa học và tính giáo dục trong một bài học Ngữ văn, người
GV phải thiết kế những câu hỏi phù hợp với yêu cầu đó nhằm nâng cao tư duy và
rèn luyện kĩ năng sống cho các em. Muốn hình thành kĩ năng sống là phải làm và
phải trải nghiệm nên khi tìm hiểu nội dung các bài học, tôi thường thiết kế những
câu hỏi có mục đích giáo dục như vậy.

Ví dụ: Khi dạy bài thơ “Chiều tối” của Hồ Chí Minh, muốn học sinh hiểu nội dung
hai câu đầu qua đó giáo dục kĩ năng sống cho học sinh, giáo viên đặt câu hỏi:
GV đặt câu hỏi: ? Bức tranh thiên nhiên lúc chiều tối ở 2 câu đầu có những
hình ảnh nào quen thuộc, gần gũi trong văn chương cổ điển?
-Liên hệ giáo dục tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh: Qua bài thơ “Chiều tối”, GV
giúp học sinh thấy được vẻ đẹp tâm hồn của Người:
+ Lòng yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống, hòa hợp với thiên nhiên tạo vật.
+ Luôn yêu thương, sẻ chia, cảm thông với con người (người lao động)
+ Phong thái ung dung, tự tại, ý chí, nghị lực phi thường.
+ Tinh thần lạc quan, bản lĩnh thép trước mọi hoàn cảnh. [1]
2.3.3. Giải pháp 3: Thực hiện tốt các hình thức hoạt động dạy học.
Trong quá trình dạy học, trong mỗi bài dạy cụ thể để nâng cao hiệu quả, tạo
hứng thú cho học sinh tôi thường tổ chức một số hoạt động như:
* Thảo luận nhóm: Thông qua hoạt động này không chỉ phát huy tính tích cực,
tính trách nhiệm mà còn phát triển kĩ năng hợp tác làm việc và kĩ năng giao
tiếp cho HS. Vì thế, ở hình thức này, tôi thường chú ý đến đối tượng HS yếu kém,
tính còn rụt rè, thiếu mạnh dạn, thiếu tự tin, nói năng còn lúng túng, vụng về. Khi
đại diện nhóm lên trình bày, tôi thường gọi những em này để rèn kĩ năng giao tiếp
cho các em.
Ví dụ 1: Khi dạy văn bản “Hai đứa trẻ”, GV tổ chức cho HS trao đổi thảo luận
nhóm(4 nhóm): 5 phút.
- Nhóm 1. Cảnh vật trong truyện được miêu tả trong thời gian và không gian như
thế nào?
- Nhóm 2. Thạch Lam miêu tả cuộc sống nơi phố huyện ra sao?
- Nhóm 3. Thạch Lam miêu tả hình ảnh con người nơi phố huyện như thế nào?
- Nhóm 4: Em có nhận xét gì về cuộc sống và con người nơi phố huyện
-> HS trình bày theo nhóm -> Bổ sung => GV khái quát vấn đề:
+ Thời gian trong truyện: Buổi chiều tối.
+ Không gian trong truyện: Phố huyện.
7



+Ánh sáng trong truyện: Ngọn đèn dầu.
- Mọi cuộc sống sinh hoạt diễn ra đều được cảm nhận qua con mắt của Liên. Cuộc
sống nơi đây đều gợi sự tàn tạ, hiu hắt:
+ Cảnh ngày tàn: Tiếng trống, phương đông đỏ rực, tiếng ếch nhái, tiếng muỗi vo
ve... bóng tối bắt đầu tràn ngập trong con mắt Liên.
+ Cảnh chợ tàn: Mấy đứa trẻ nhặt nhạnh, mùi ẩm mốc quen thuộc, mùi riêng của
quê hương... Liên thương bọn trẻ và cảm nhận rõ ràng thời khắc của ngày tàn.
+ Cảnh kiếp người tàn tạ: Vợ chồng bác Xẩm, gia đình chị Tý, bà cụ Thi điên, mấy
đứa trẻ con nhà nghèo, bác Siêu, và chính cả hai chị em Liên...Thân phận tàn tạ
đang héo mòn, con người hoà lẫn cùng bóng tối như những cái bóng vật vờ lay lắt,
mong manh đang trôi theo thời gian.
- Cuộc sống ấy cứ đều đều, đơn điệu, lặp đi lặp lại buồn tẻ, nhàm chán đối với
người dân phố huyện.
- Tất cả họ đang mong đợi một cái gì đó tươi mát thổi vào cuộc đời họ.
-> Nét vẽ âm thanh, ánh sáng, con người của bức tranh phố huyện tưởng chừng rời
rạc, nhưng nó hoà quyện cộng hưởng trong hệ thống u buồn, trầm mặc, xót xa.
Điểm thêm vào cuộc sống ấy là ngọn đèn dầu cùng bóng tối bao phủ, càng ngợi sự
nghèo khổ lay lắt đến tội nghiệp.
Ví dụ 2: Khi dạy văn bản “Chí Phèo” của Nam Cao, GV cho HS trao đổi thảo luận
nhóm (4 nhóm):
.Nhóm 1: - Vì sao Chí Phèo đi tù? Sau khi ra tù Chí Phèo là người như thế nào?
- Em hãy phác hoạ chân dung nhân vật Chí sau khi ở tù về?
- Em có nhận xét như thế nào về sự thay đổi của Chí Phèo?
- Ý nghĩa tố cáo từ cuộc đòi của Chí Phèo tha hóa của Chí Phèo?
. Nhóm 2: Những gì diễn ra trong tâm hồn Chí sau cuộc gặp gỡ với Thị Nở?
- Hình ảnh bát cháo hành có ý nghĩa như thế nào?
+ Đối với Chí Phèo?
+ Tình cảm của tác giả?

.Nhóm 3: Nguyên nhân nào Chí bị cự tuyệt?
Diễn biến tâm trạng của Chí Phèo sau khi bị Thị Nở từ chối? Vì sao Chí Phèo lại có
hành động như vậy?
- Ý nghĩa hành động đâm chết Bá Kiến và tự xác của Chí Phèo?
.Nhóm 4: Hãy nêu ý nghĩa 3 câu nói của Chí phèo khi đứng trước Bá Kiến?
-> Trao đổi thảo luận nhóm.
8


Đại diện nhóm trình bày.
=> GV chuẩn xác kiến thức:
- Nguyên nhân: vì Bá Kiến ghen với vợ hắn.
- Chế độ nhà tù thực dân đã biến Chí trở thành lưu manh, có tính cách méo mó và
quái dị. Chí trở thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại.
- Hậu quả của những ngày ở tù:
+ Hình dạng: biến đổi thành con quỷ dữ “Cái đầu trọc lóc, hàm răng cạo trắng hớn,
cái mặt thì câng câng đầy những vết sứt sẹo, hai con mắt gườm gườm.....”
→ Chí Phèo đã đánh mất nhân hình.
+ Nhân tính: du côn, du đãng, triền miên trong cơn say, đập đầu, chửi bới, phá
phách và làm công cụ cho Bá Kiến.
-> Chí Phèo đã đánh mất nhân tính.
=> Chí đã bị cướp đi cả nhân hình lẫn nhân tính. Bị biến chất từ một người lương
thiện thành con quỉ dữ. Chí điển hình cho hình ảnh người nông dân lao động bị đè
nén đến cùng cực, và cũng là một nhân chứng tố cáo chế độ thực dân phong kiến đã
cướp đi quyền làm người của Chí.
c. Cuộc gặp gỡ giữa Chí Phèo và Thị Nở:
- Tình yêu thương mộc mạc, chân thành của Thị Nở - người đàn bà xấu như ma chê
quỷ hờn, lại dở hơi ấy đã đánh thức bản chất lương thiện của Chí Phèo.
- Chí Phèo đã thức tỉnh.
+ Về nhận thức: Nhận biết được mọi âm thanh trong cuộc sống.

+ Nhận ra bi kịch trong cuộc đời của mình và sợ cô đơn, cô độc đối với Chí Phèo
“cô độc còn đáng sợ hơn đói rét và ốm đau”.
+ Về ý thức: Chí Phèo thèm lương thiện và muốn làm hòa với mọi người.
- Hình ảnh bát cháo hành là hình ảnh độc đáo, chân thật và giàu ý nghĩa:
+ Lần đầu tiên và cũng là lần cuối cùng Chí được ăn trong tình yêu thương và hạnh
phúc.
=> Chí Phèo đã hoàn toàn thức tỉnh, Chí đang đứng trước tình huống có lối thoát là
con đường trở về với cuộc sống của một con người. Cái nhìn đầy chiều sâu nhân
đạo của nhà văn.
d. Bi kịch bị cự tuyệt:
- Nguyên nhân: do bà cô Thị Nở không cho Thị lấy Chí Phèo -> định kiến của xã
hội.
- Diễn biến tâm trạng của Chí Phèo:
+ Lúc đầu: Chí ngạc nhiên trước thái độ của Thị Nở
+ Sau Chí hiểu ra mọi việc: ngẩn người, nắm lấy tay Thị Nở, bị xô ngã, Chí thấy
hơi cháo hành nhưng lại tuyệt vọng Chí uống rượu và khóc “rưng rứt”, xách dao
đên nhà Bá Kiến đâm chết Bá Kiến và tự xác.
- Ý nghĩa hành động đâm chết Bá Kiến và tự xác của Chí:
+ Đâm chết Bá Kiến là hành động lấy máu rửa thù của người nông dân thức tỉnh về
quyền sống.
9


+ Cái chết của Chí Phèo là cái chết của con người trong bi kịch đau đớn trên
ngưỡng cửa trở về cuộc sống làm người.
* Đóng vai nhân vật để xử lí tình huống:
Khi dạy bài “Chiếc thuyền ngoài xa” ở chương trình Ngữ văn lớp 12, tôi tổ
chức cho HS thực hành, “làm thử” một số cách ứng xử khi gặp tình huống cần xử lí
bằng cách cho HS thử đóng vai nhân vật trong tác phẩm. Ví dụ:
+ Thử đóng vai chánh án Đẩu khuyên người đàn ông hàng chài không nên đánh

vợ, phải yêu thương vợ con.
+ Thử làm một tuyên truyền viên tuyên truyền về nạn bạo hành gia đình trong
cuộc sống hiện nay. Qua hình thức hoạt động này, HS biết quyết định lựa chọn
phương án tối ưu và hành động theo phương án đã chọn để giải quyết vấn đề gặp
phải trong cuộc sống [4], [5].
Đây là một trong những hoạt động dạy học mà HS yêu thích nhất vì nó kích
thích sự hứng thú học tập, làm cho tiết học thêm sinh động và hấp dẫn. Đồng thời
qua hình thức này GV cũng rèn được một số kĩ năng sống cho HS như kĩ năng lắng
nghe tích cực, kĩ năng thể hiện sự tự tin, kĩ năng giao tiếp, ứng xử.
Tổ chức tốt các hình thức dạy học là một trong những khâu quan trọng của GV
trong quá trình dạy học trên lớp. GV cần vận dụng linh hoạt để rèn các kĩ năng
sống cho HS.[1]
2.3.4. Giải pháp 4: Kết hợp dạy học trên lớp với các hình thức ngoại khóa văn
học.
Ngoại khóa văn học có rất nhiều hình thức. Trong quá trình dạy học, tôi đã
vận dụng một số hình thức sau:
* Thuyết trình về tác phẩm văn học theo các chủ điểm hoạt động của nhà trường
trong năm học.
Ví dụ: - Tháng 3 - tháng chủ điểm của thanh niên. Với học sinh lớp 10, dạy bài văn
thuyết minh, giáo viên có thể cho học sinh thuyết minh về một tấm gương thanh
niên tiêu biểu về có nghị lực vượt khó (đạt kết quả cao trong học tập - học sinh tự
chọn).
- Tháng 11 - chủ điểm “Nhớ ơn thầy cô”, giáo viên có thể tổ chức một số giờ
ngoại khóa thuyết minh về chủ đề tri ân công ơn thầy cô.
2.3.5. Giải pháp 5: Tích hợp với các môn học khác
Một số văn bản trong chương trình Ngữ văn THPT có nội dung liên quan đến
những kiến thức của bộ môn học khác, GV cần nắm vững để liên hệ. Từ đó, giáo
viên một mặt giúp học sinh nắm vững kiến thức của môn học, mặt khác phát triển
một số kĩ năng cơ bản nhằm nâng cao chất lượng dạy học toàn diện.
Giáo án minh họa:

Tiết CT: 82 - 83
ĐỌC VĂN: ĐÂY THÔN VĨ DẠ
- Hàn Mặc Tử 10


A-MỤC TIÊU CẦN ĐẠT:
1. Về kiến thức:
a. Đối với bộ môn:
- Vẻ đẹp thơ mộng, đượm buồn của thôn Vĩ và nỗi buồn, cô đơn trong
cảnh ngộ bất hạnh của một con người tha thiết yêu thiên nhiên, yêu sự sống.
- Phong cách thơ Hàn Mặc Tử qua bài thơ: một tâm hồn thơ luôn quằn
quại yêu, đau; trí tưởng tượng phong phú; hình ảnh thơ có sự hoà quyện giữa thực
và ảo.
b. Đối với giáo dục bảo vệ môi trường: Phân tích nét đẹp của phong cảnh,
mối liên hệ giữa cảnh vật và tâm trạng của nhân vật trữ tình.
c. Đối với giáo dục kĩ năng sống:
- Giao tiếp: trình bày suy nghĩ, ý tưởng, tình cảm cá nhân trước nỗi buồn,
niềm khao khát tình đời, tình người của hồn thơ Hàn Mặc Tử.
- Tư duy sáng tạo: phân tích, bình luận về vẻ đẹp của thiên nhiên và con
người xứ Huế, về vẻ đẹp của hồn thơ Hàn Mặc Tử.
- Tự nhận thức về giá trị cuộc sống từ cuộc đời và cảm xúc thơ Hàn Mặc
Tử.
2. Về kĩ năng:
a. Đối với bộ môn:
- Đọc - hiểu một bài thơ trữ tình theo đặc trưng thể loại.
- Cảm thụ, phân tích tác phẩm thơ.
b. Đối với giáo dục bảo vệ môi trường: Thiên nhiên muôn đời không thể
tách rời cuộc sống, tình cảm con người, ngay cả khi đó là kỉ niệm.
c. Đối với giáo dục kĩ năng sống:
- Động não: suy nghĩ và trình bày cảm nhận về sự thể hiện mạch cảm xúc

thơ qua các câu nghi vấn của mỗi khổ thơ.
- Thảo luận nhóm: trao đổi về vẻ đẹp riêng của giọng điệu thơ Hàn Mặc
Tử trong phong trào thơ Mới.
3. Về thái độ:
a. Đối với bộ môn: càng thêm yêu quý tài năng thơ ca của Hàn Mặc Tử một nhà thơ tài hoa nhưng bất hạnh.
b. Đối với giáo dục bảo vệ môi trường: yêu quý và bảo tồn thiên nhiên.
c. Đối với giáo dục kĩ năng sống: có thói quen thảo luận nhóm và trình
bày trước lớp.
B. CHUẨN BỊ CỦA GIÁO VIÊN VÀ HỌC SINH:
1. Giáo viên: tranh chân dung Hàn Mặc Tử; một số tranh về xứ Huế
2. Học sinh: câu hỏi chuẩn bị bài; bảng phụ để thảo luận.
C. PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC: Kết hợp các phương pháp: đọc văn bản, trả lời
câu hỏi, trao đổi, thảo luận nhóm.
D. TIẾN TRÌNH BÀI DẠY:
11


1. Kiểm tra bài cũ:
- GV: đọc thuộc lòng và nêu nội dung chính bài thơ “Tràng Giang”?
- HS: trả lời -> GV nhận xét cho điểm.
2. Giới thiệu bài mới: “Đây thôn Vĩ Dạ” là một bài thơ trong trẻo, trữ tình trong
tập “Thơ Điên” và cũng là bài thơ xuất sắc trong sáng tác của Hàn Mặc Tử. Tình
yêu của tác giả đối với cảnh Huế, người Huế thật thiết tha, sâu đậm. Bài thơ giúp
chúng ta hiểu hơn vẻ đẹp tâm hồn của một nhà thơ bất hạnh.
3. Nội dung bài mới:
HOẠT ĐỘNG CỦA GV VÀ HS
NỘI DUNG CẦN ĐẠT
Hoạt động 1: Đọc - hiểu khái quát
I. Đọc - hiểu khái quát văn bản:
- HS xem tranh chân dung tác giả

1. Tác giả:
- GV gọi HS đọc phần tiểu dẫn trong
- Hàn Mặc Tử (1912 -1940), tên khai sinh:
SGK và rút ra những điểm cơ bản về
Nguyễn Trọng Trí, quê: làng Lệ Mĩ - Phong
tác giả Hàn Mặc Tử như: quê quán,
Lộc - Đồng Hới (Quảng Bình)
cuộc đời, đóng góp, tác phẩm …
- Thành phần gia đình và hoàn cảnh sống
- HS trả lời
(SGK)
- GV nhận xét, bổ sung và chốt lại các
- Học trung học ở Huế -> làm công chức ở
ý chính
Bình Định -> vào Sài Gòn làm báo.
-1936 mắc bệnh phong và mất ở Quy Nhơn
1940.
- Tác phẩm: Gái quê, Thơ điên, Xuân như
ý, Duyên kì ngộ, Quần tiên hội,…..
=> Là nhà thơ có sức sáng tạo mãnh liệt
trong phong trào Thơ mới “Ngôi sao chổi
- Gv yêu cầu Hs xác định xuất xứ bài
trên bầu trời thơ Việt Nam” (Chế Lan Viên)
thơ
2. Văn bản:
- HS trả lời
a. Xuất xứ: Lúc đầu có tên là “Ở đây thôn
- GV nhận xét, bổ sung.
Vĩ Dạ” sáng tác 1939, in trong tập “Thơ
Điên” sau đổi là “Đau thương”. Bài thơ

được gợi cảm hứng từ mối tình đơn phương
của Hàn Mặc Tử với Hoàng Thị Kim Cúc.
b. Bố cục: 3 phần
- Khổ 1: Cảnh ban mai thôn Vĩ và tình
người tha thiết.
- Khổ 2: Vĩ Dạ đêm trăng
- Khổ 3: Nỗi niềm thôn Vĩ
Hoạt động 2: Đọc - hiểu chi tiết
- GV: HS đọc văn bản, gợi ý cách đọc: II. Đọc - hiểu chi tiết văn bản:
giọng nhẹ nhàng, trầm lắng, buồn
buồn.
GV: Thảo luận nhóm: 3 nhóm (7phút)
12


+ Nhóm 1: Phân tích cảnh ban mai
thôn Vĩ và tình người tha thiết? Nghệ
thuật đặc sắc?
+ Nhóm 2: Phân tích cảnh Vĩ Dạ đêm
trăng? Nghệ thuật đặc sắc?
+ Nhóm 3: Nỗi niềm thôn Vĩ được thể
hiện như thế nào?
HS: Thảo luận, đại diện nhóm trình
bày -> Bổ sung, nhận xét.
GV: Nhận xét, khái quát.
GV: Gọi HS đọc khổ 1 và trả lời câu
hỏi?
- HS trả lời.
GV chốt lại ý chính về nội dung và
nghệ thuật của khổ thơ 1.

*Liên hệ giáo dục bảo vệ môi trường
(HS thử đóng vai một tuyên truyền
viên thuyết trình về vấn đề bảo vệ môi
trường hiện nay): phân tích nét đẹp của
phong cảnh, mối liên hệ giữa cảnh vật
và tâm trạng => Cảnh thơ mộng trong
hoài niệm của tác giả => Thiên nhiên
muôn đời không thể tách rời cuộc
sống.
GV: Nhận xét, bổ sung

1. Khổ thơ 1: Cảnh ban mai thôn Vĩ và tình
người tha thiết.
- Câu đầu: Sao anh không về chơi thôn
Vĩ?
-> Hỏi nhưng gợi cảm giác như lời trách
móc, cũng là lời mời gọi của cô gái hay đấy
là lời tự trách, tự hỏi mình, là ước ao thầm
kín của người đi xa (về chơi: thân mật, tự
nhiên, thân tình).
Theo các tư liệu lịch sử, thì làng Vĩ Dạ xưa
có tên là Vĩ Dã. Có lẽ do cách phát âm của
cộng đồng nhân dân địa phương nên Vĩ Dã
đã thành ra Vĩ Dạ. Ngày xưa, Vĩ Dã gồm hai
xã: Vĩ Dã hạ và Vĩ Dã thượng thuộc huyện
Hương Trà, phủ Triệu Phong. Ngày đó, Vĩ
Dạ giống như một ly rượu mạnh, chưa về đã
nhớ, không cần ở lâu để trở thành thân thuộc
(Kiến thức lịch sử, văn hóa).


Hình ảnh minh họa
Hình ảnh minh họa
-> Câu hỏi khơi dậy trong lòng nhà thơ bao
kỉ niệm, bao hình ảnh về xứ Huế.
13


- Cảnh thôn Vĩ trong khoảnh khắc hừng
đông: + Nhìn nắng…mới lên: Những hàng
cau lấp lánh ánh mặt trời buổi sớm mai,
không tả mà chỉ gợi những gì còn lưu lại
trong tâm trí người đi xa.
-> Quan sát tinh tế: Cái đẹp của thôn Vĩ là
do “nắng hàng cau” (2 chữ nắng), gợi đúng
đặc điểm của miền Trung: nắng nhiều và
chói chang, “nắng mới lên” -> Trong trẻo,
tinh khiết.
+ Vườn ai …như ngọc: thần thái của thôn
Vĩ là vườn cây được chăm sóc chu đáo
Hình ảnh minh họa
(mướt )-> Sự tốt tươi đầy sức sống; “vườn ai
mướt quá”.
-> Lời cảm thán mang sắc thái ngợi ca;
“xanh như ngọc” -> So sánh
=> Tâm trạng tác giả: Yêu thiên nhiên, cuộc
sống mới lưu giữ những hình ảnh sống động
và đẹp đẽ như thế.
+ Lá trúc……..chữ điền: xuất hiện con
người kín đáo, thấp thoáng sau bóng trúc.
Trong tiếng Hán, chữ điền nghĩa là ruộng

đất. Theo quan niệm của người xưa trời tròn
đất vuông, nên chữ điền có hình vuông.
Theo ngũ hành, khuôn mặt này thuộc hệ
Kim, tiêu biểu cho sự quyết đoán, cương
nghị, do đó chủ nhân vận thế tốt. Mặt chữ
điền là mặt quý tướng. (Kiến thức xã hội)
=>Thần thái của thôn Vĩ:
+ Cảnh xinh xắn, người phúc hậu, thiên
nhiên con người hài hoà trong vẻ đẹp kín
đáo, dịu dàng.
+ Đằng sau bức tranh phong cảnh là là tâm
hồn nhạy cảm, yêu thiên nhiên con người
tha thiết cùng niềm băn khoăn, day dứt của
tác giả.
- GV: gọi HS đọc lại khổ thơ 2 và thảo
2. Khổ thơ 2: Vĩ Dạ đêm trăng
luận câu hỏi 2 trong SGK về vẻ thơ
- 2 câu đầu: tả thực vẻ êm đềm, nhịp điệu
mộng huyền ảo của sông Hương dưới khoan thai của xứ Huế; biện pháp nhân hoá:
ánh trăng?
sự chuyển động ngược chiều của gió mây
- HS: thảo luận và cử đại diện trình bày làm tăng thêm sự trống vắng của không
14


- GV: nhận xét, bổ sung

gian.
-> Hình ảnh đẹp nhưng lạnh lẽo, phảng phất
tâm trạng u buồn, cô đơn của nhà thơ.

- 2 câu sau: Vẻ đẹp thơ mộng, huyền ảo
dưới ánh trăng của sông Hương, tác giả
mong muốn con thuyền chở đầy trăng về kịp
tối nay.

Hình ảnh minh họa
GV mở rộng vấn đề:
Sông Hương hay Hương Giang (Hán
Nôm 香 香 ) là con sông chảy qua thành
phố Huế và các huyện, thị xã: Hương
Trà, Hương Thủy, Phú Vang đều thuộc
tỉnh Thừa Thiên - Huế, miền Trung
Việt Nam. Theo các sách cổ, trước khi
mang tên sông Hương, con sông này
tuỳ theo thời gian có nhiều tên khác
nhau. Sách "Dư địa chí" của Nguyễn
Trãi (1435), viết là sông Linh. Sách "Ô
châu cận lục" do Dương Văn An nhuận
sắc vào năm 1555, viết sông cái Kim
Trà (Kim Trà đại giang). Sách "Phủ
biên tạp lục" của Lê Quý Đôn gọi là
sông Hương Trà (Hương Trà nguyên).
Từ nhiều tài liệu khác cho biết cho biết
sông Hương đã từng mang tên sông Lô
Dung, sông Dinh, sông Yên Lục.
Từ năm 1469 dưới thời Lê Thánh
Tông, Kim Trà là tên của một huyện ở
phủ Triệu Phong thuộc Thừa
tuyên Thuận Hoá. Đến khi Đoan Quốc
công Nguyễn Hoàng vào trấn phủ

Thuận Hoá (1558), huyện Kim Trà
được đổi tên là Hương Trà. (Kiến thức

Đêm trên sông Hương
=> Cảm xúc chuyển biến đột ngột từ niềm
vui của hi vọng gặp gỡ sang trạng thái lo âu,
đau buồn, thất vọng khi tác giả nhớ và mặc
cảm về số phận bất hạnh của mình. Ở đó, ta
còn thấy được sự khao khát tha thiết đợi chờ
một cách vô vọng.

15


Địa lý, Lịch sử).

Cån Gi· Viªn

Bản đồ dòng chảy của sông Hương

Sông Hương về đêm

3. Khổ thơ 3: Nỗi niềm thôn Vĩ
- 2 câu đầu: điệp ngữ “khách đường xa”->
Nhấn mạnh nỗi xót xa như lời tâm sự của
nhà thơ với chính mình (Tác giả chỉ là
khách đường xa)
-> Mặc cảm về tình người.
- 2 câu cuối: Mang chút hoài nghi nhưng
lại chứa chan niềm thiết tha với cuộc đời.

Từ phiếm chỉ “ai” mở ra 2 ý nghĩa: Nhà
thơ làm sao biết tình người xứ Huế có đậm
đà hay không nhưng tình cảm của nhà thơ
đối với con người xứ Huế hết sức thân thiết,
đậm đà.
=> Nỗi cô đơn trống vắng trong một tâm
hồn thiết tha yêu thương con người và cuộc
đời.

- GV: yêu cầu HS đọc đoạn thơ 3 và
thảo luận câu hỏi 3 trong SGK?
- HS: thảo luận và cử đại diện trình bày
- GV: chốt lại các ý chính
*Liên hệ giáo dục kĩ năng sống: giáo
dục kĩ năng sống giao tiếp bằng cách:
trình bày suy nghĩ, ý tưởng, tình cảm
cá nhân trước nỗi buồn, niềm khao
khát tình đời, tình người của hồn thơ
Hàn Mặc Tử.
Kĩ năng: Tư duy sáng tạo qua hình
thức: phân tích, bình luận về vẻ đẹp
của thiên nhiên và con người xứ Huế,
về vẻ đẹp của hồn thơ Hàn Mặc Tử.
Hoạt động 3: Tổng kết bài học
GV: gọi HS đọc phần Ghi nhớ trong
SGK?
- GV nêu những đặc sắc về nghệ thuật III. TỔNG KẾT:
1. Nội dung: Bức tranh phong cảnh Vĩ Dạ ->
và nội dung bài thơ?
Tiếng lòng của một tâm hồn tha thiết yêu

GV hướng dẫn HS phát hiện chủ đề
16


đời, ham sống mãnh liệt mà đầy uẩn khúc
của nhà thơ Hàn Mặc Tử.
2.Nghệ thuật:
- Trí tưởng tượng phong phú.
- Nghệ thuật so sánh, nhân hóa, lấy động tả
tĩnh, sử dụng câu hỏi tu từ.
- Hình ảnh có sự sáng tạo, có sự hòa quyện
giữa thực và ảo.
Sông Hương đêm trăng

Sắc tím sông Hương

Sắc tím sông Hương
Qua đó, giáo viên bồi dưỡng cho
sinh lòng yêu thiên nhiên, yêu
hương đất nước; Biết tự hào về vẻ
văn hóa, vẻ đẹp tự nhiên của
hương đất nước; Biết trân trọng,
gìn các giá trị ấy....

học
quê
đẹp
quê
giữ


Gv mở rộng vấn đề:
Sông Hương là một trong những nét đẹp tiêu
biểu của thiên nhiên xứ Huế. Sông là hợp
lưu của hai nguồn Hữu Trạch, Tả Trạch,
chảy qua vùng đá hoa cương cuồn cuộn
ghềnh thác, đổ dốc từ độ cao 900 mét đầu
nguồn Hữu trạch, 600 mét đầu nguồn Tả
trạch, vượt 55 ghềnh thác của nguồn hữu, 14
ghềnh thác của nguồn tả, chảy qua nhiều
vùng địa chất, uốn mình theo núi đồi trùng
điệp của Trường Sơn để gặp nhau ở ngã ba
Bàng Lãng, êm ả đi vào thành phố, hợp lưu
với sông Bồ ở Ngã Ba Sình và dồn nước về
phá Tam Giang, đổ ra cửa biển Thuận An.
(Tích hợp môn Địa lý)

4. Củng cố: GV nhắc lại nội dung chính của bài thơ?
5. Luyện tập: Theo em khổ thơ nào hay nhất trong bài? Vì sao? Nêu cảm nhận của
em về khổ thơ ấy?
17


6. Chuẩn bị bài mới: Đọc và thực hiện các hỏi trong phần Hướng dẫn học bài
“Chiều tối” của Hồ Chí Minh?
2.3.6. Giải pháp 6: Giáo viên giảng dạy phải có giải pháp thực hiện hiệu quả
trong việc phối kết hợp với các giáo viên trong tổ nhóm chuyên môn để giáo
dục toàn diện thể chất cũng như tinh thần cho học sinh nhằm nâng cao chất
lượng dạy và học ở trường THPT hiện nay.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đến chất lượng giáo dục:
2.4.1. Đối với học sinh:

Qua một thời gian ngắn áp dụng thực tế, tôi thấy việc giáo dục kĩ năng
sống cho học sinh là việc làm cần thiết và cần phải đổi mới phương pháp dạy học
theo hướng hiện đại hoá xã hội. Nhất là đối với học sinh THPT, lứa tuổi được xem
là nhạy cảm và bắt đầu cuộc sống độc lập. Vì vậy, thông qua các bài học trong
chương trình Ngữ văn THPT, giáo viên có thể vận dụng các tình huống giáo dục
vào bài giảng của mình thêm phong phú, lôi cuốn sự chú ý của học sinh và phát
huy tinh thần tự học, tính sáng tạo của học sinh.
Trước khi áp dụng SKKN
HS có kĩ năng tốt
Lớp

HS có hình
thành được kĩ
năng

Trong và sau khi áp dụng SKKN
HS có kĩ
HS có hình
HS có kĩ
năng tốt
thành được kĩ năng chưa tốt
năng
Số
Tỉ lệ Số
Tỉ
Số
Tỉ lệ
Số
Tỉ lệ
lượng (%) lượng lệ

lượng (%)
lượng (%)
(%)
HS có kĩ
năng chưa
tốt

Số lượng

Tỉ lệ
(%)

Số
lượng

Tỉ lệ
(%)

8

22,9

18

51,4

9

25,7


23

65,7

12

34,3

0

0

11

24.4

21

46,7

13

28,9

26

57,8

19


42,2

0

0

12

26,1

18

39,1

16

34,8

22

47,8

18

39,1

6

13,1


10

22,2

22

48,9

13

28,9

20

44,4

22

48,9

3

6,7

9

18,8

24


50

15

31,2

18

37,5

24

50

6

12,5

11A1
35(HS
)
11A2
(45HS
)
11A3
(46HS
)
11A4
(45HS
)

11A6
(48HS
)

2.4.2. Đối với giáo viên:
Qua một thời gian ngắn nghiên cứu tìm tòi và ứng dụng từ thực tế giảng dạy,
tôi thấy việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh là việc làm cần thiết, quan trọng
song quá trình thực hiện lại không phải dễ dàng. Tuy vậy, bằng kinh nghiệm còn
18


hạn chế của mình, sau khi áp dụng đề tài, tôi tự rút ra cho mình một vài kinh
nghiệm: Giáo viên dạy Ngữ văn cần nắm được phương pháp đặc trưng trong công
tác giáo dục kĩ năng sống để lựa chọn kĩ năng phù hợp với từng đối tượng học sinh,
từng khối lớp lựa chọn kĩ thuật dạy học phù hợp kết hợp hình thức hợp lí nhằm
phát huy tính chủ động tích cực của học sinh, giúp các em phát huy cao độ trí tuệ,
cảm xúc, năng động, sáng tạo trong học tập và giao tiếp.
Cuộc sống luôn biến đổi, do vậy không thể có một giáo trình cứng nhắc về kĩ
năng sống. Một trong những yêu cầu quan trọng để thực hiện việc lồng ghép giáo
dục kĩ năng sống vào bài học trên lớp là giáo viên phải tìm ra được mối quan hệ
giữa kĩ thuật dạy học với nội dung rèn luyện kĩ năng sống. Cụ thể để hình thành kĩ
năng tự nhận thức (nhận thức bản thân, xây dựng kế hoạch, xác định điểm mạnh,
điểm yếu của bản thân, khắc phục khó khăn để đạt mục tiêu, tư duy tích cực và tư
duy sáng tạo…) giáo viên cần sáng tạo nhiều câu hỏi, tình huống trong bài học để
học sinh qua đó hình thành các kĩ năng sống. Để làm tốt nhiệm vụ này, đòi hỏi ở
giáo viên một tinh thần trách nhiệm và khả năng sáng tạo cao.
Giáo dục kĩ năng sống chỉ thật sự có hiệu quả khi người thầy có lòng yêu
nghề, có tâm huyết, sự kiên nhẫn và nhất là phải đầu tư thời gian soạn giáo án, có
phương pháp hợp lí, sinh động dạy vừa đủ, vừa thấm, không dư, không thiếu. Giáo
dục kĩ năng sống cho học sinh phải đảm bảo các yếu tố: Giúp học sinh ý thức được

giá trị của bản thân trong mối quan hệ xã hội, giúp các em hiểu biết về thể chất,
tinh thần của bản thân mình, có hành vi, thói quen ứng xử có văn hóa…Tuy nhiên,
giáo dục kĩ năng sống cho học sinh để đạt hiệu quả đòi hỏi nhiều yếu tố chứ không
phải chỉ từ các bài giảng. Nhân tố ảnh hưởng đến quá trình giáo dục kĩ năng sống
trong nhà trường chính là thầy cô giáo, ngoài cộng đồng chính là các bậc phụ
huynh, người thân trong gia đình, thôn xóm và các tập thể xã hội khác. [1], [6]
Nói tóm lại, học sinh chính là chủ nhân tương lai của đất nước, là những người
sẽ quyết định sự phát triển của đất nước. Khi có kĩ năng sống, các em sẽ luôn
vững vàng trước thử thách, biết ứng xử, giải quyết vấn đề một cách tích cực và phù
hợp, làm chủ được chính mình. Ngược lại, nếu thiếu kĩ năng sống, các em sẽ
thường bị vấp váp, dễ thất bại, chậm trễ trong khâu tự quyết định nên hay lỡ mất cơ
hội… Do vậy, giáo dục thế hệ trẻ không chỉ chú trọng “dạy chữ” mà còn phải quan
tâm đúng mức đến nhiệm vụ “dạy người”. Con người không chỉ có tri thức mà còn
phải biết sống đúng, sống đẹp, sống có ích.
2.4.3. Đối với nhà trường:
Được sự chỉ đạo sâu sắc của Ban giám hiệu nhà trường, đề ra kế hoạch cụ thể
hàng tháng, theo từng kì, theo dõi, kiểm tra, đôn đốc thường xuyên nên đa số giáo
viên chủ nhiệm của trường đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ năm học 2018 - 2019.
Đặc biệt, ngoài việc dạy “củng cố dạy chữ” góp phần nâng cao chất lượng dạy học,
hầu hết giáo viên còn chú ý “nâng cao dạy người”, bồi dưỡng nhân cách cho học
sinh.
19


3. Kết luận, kiến nghị:
3.1. Kết luận:
Với kinh nghiệm giáo dục kĩ năng sống cho học sinh qua bộ môn Ngữ
văn, sau khi vận dụng SKKN vào thực tế giảng dạy tôi thấy khả năng áp dụng đạt
hiệu quả cao, đặc biệt là học sinh đã biết vận dụng các kĩ năng một cách hợp lý
trong sinh hoạt và học tập hàng ngày.

Trên đây là một vài suy nghĩ nhỏ của tôi về việc giáo dục kĩ năng sống cho
học sinh qua bộ môn Ngữ văn. Với khả năng còn hạn chế và chắc chắn rằng đó vẫn
chưa phải là khuôn mẫu hoàn chỉnh vì vậy kính mong quý đồng nghiệp đóng góp ý
kiến để cùng nhau tìm ra một phương pháp tối ưu hơn nữa để việc tổ chức giáo dục
kĩ năng sống trong nhà trường nói chung và trong môn học Ngữ văn nói riêng
mang lại nhiều ý nghĩa và hiệu quả thiết thực.
3.2. Đề xuất:
Từ thực tiễn cụ thể, chúng tôi nghĩ rằng, sự thành công trong công tác giảng
dạy ở bất cứ cấp học nào, môn học nào cũng cần có sự phối hợp của nhiều yếu tố.
Trong đó rất cần sự quan tâm tạo điều kiện của Sở Giáo dục và Đào tạo, của nhà
trường cùng sự nỗ lực của bản thân người dạy và người học. Trên cơ sở đó, chúng
tôi xin đưa ra một số kiến nghị sau:
Đối với Sở GD và ĐT: tổ chức tập huấn cho giáo viên theo chuyên đề giúp
giáo viên giữa các trường có điều kiện trao đổi kinh nghiệm. Tổ chức hội thảo về
tiết dạy có lồng ghép, tích hợp kĩ năng sống cho học sinh để giáo viên các trường
có tiếng nói chung về phương pháp và có điều kiện giao lưu, học hỏi kinh nghiệm
của nhau.
Đối với nhà trường, tổ chuyên môn nên có nhiều cuộc hội thảo về các
chuyên đề văn học, soạn một số giáo án Ngữ văn có lồng ghép giáo dục kĩ năng
sống để bản thân mỗi GV được học hỏi, trao đổi những kinh nghiệm góp phần nâng
cao chất lượng dạy và học ở trường THPT Thạch Thành 4.
Đối với cá nhân: cần tự nghiên cứu, tìm tòi đổi mới phương pháp dạy
học để mang lại hiệu quả cao trong các giờ dạy Ngữ văn.
Với phụ huynh: quan tâm hơn đến việc học hành của con em mình, đầu
tư nhiều về thời gian cho con cái học tập. Hướng dẫn và tạo cho con thói quen đọc
sách; chia sẻ, tư vấn, bồi dưỡng tâm hồn cho con để các em có nhiều thuận lợi
trong việc bộc lộ và phát triển cảm xúc, tình cảm trong giao tiếp.

20



Xác nhận của thủ trưởng
đơn vị.

Thanh Hóa, ngày 22 tháng 5 năm 2019
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình
viết, không sao chép nội dung của người khác.
Người viết:

Mai Thị Tuyết Nhung

21


TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Nguồn internet:
- Thư viện bài giảng.
- Thư viện giáo án.
- Các nguồn khác...
[2]. Những vấn đề chung về đổi mới giáo dục THPT, Nxb Giáo dục.
[3]. Tài liệu bồi dưỡng thường xuyên giáo viên THPT chu kỳ 3 (2004 2007)
[4]. Sách giáo khoa Ngữ văn 10 (Tập 1,2) cơ bản - Nhà xuất bản Giáo dục.
- Sách giáo khoa Ngữ văn 11 (Tập 1,2) cơ bản - Nhà xuất bản Giáo dục.
- Sách giáo khoa Ngữ văn 12 (Tập 1,2) cơ bản - Nhà xuất bản Giáo dục.
[5]. Chuẩn kiến thức môn Ngữ văn 10 cơ bản
Chuẩn kiến thức môn Ngữ văn 11 cơ bản
Chuẩn kiến thức môn Ngữ văn 12 cơ bản.
[6]. Phan Trọng Luận, Trần Đình Sử (và các tác giả khác) (2008), Hướng
dẫn thực hiện chương trình sách giáo khoa lớp 12 môn Ngữ văn, NXB GD.


22


MỤC LỤC
1. Mở đầu.......................................................................................................1
1.1. Lí do chọn đề tài:.............................................................................1
1.2. Mục đích nghiên cứu:......................................................................2
1.3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu:......................................................2
1.4. Phương pháp nghiên cứu:................................................................2
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm:..............................................................2
2.1. Cơ sở lí luận:...................................................................................2
2.2. Thực trạng vấn đề:...........................................................................3
2.3. Giải pháp của đề tài:........................................................................4
2.3.1. Giải pháp 1:.................................................................................4
2.3.2. Giải pháp 2:.................................................................................6
2.3.3. Giải pháp 3:.................................................................................7
2.3.4. Giải pháp

4:................................................................................10
2.3.5. Giải pháp
5:................................................................................10
2.3.6. Giải pháp 6:...............................................................................18
2.4. Hiệu quả của sáng kiến:.................................................................18
2.4.1. Đối với học sinh:......................................................................18
2.4.2. Đối với giáo viên:.....................................................................18
2.4.3. Đối với nhà trường:..................................................................19
3. Kết luận, kiến nghị: .................................................................................20

DANH MỤC CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI
ĐỒNG ĐÁNH GIÁ XẾP LOẠI

Họ và tên tác giả: Mai Thị Tuyết Nhung
Chức vụ: Giáo viên.
Đơn vị công tác: Trường THPT Thạch Thành 4

23


TT

Tên đề tài

1

Một số giải pháp kiểm tra
đánh giá góp phần thúc
đẩy đổi mới phương pháp
giảng dạy môn Ngữ văn
THPT.

2

Cách thức tìm hiểu tập
thơ “Ngục trung nhật ký”
từ việc đọc - hiểu bài thơ
“Chiều tối”(Mộ) của Hồ
Chí Minh trong Ngữ văn
11.

3


4

5

6

Biện pháp ứng dụng hợp
lý công nghệ thông tin
trong bài dạy Ngữ văn 12
Giải pháp hữu ích tích
hợp giáo dục tư tưởng đạo
đức Hồ Chí Minh trong
dạy học Ngữ văn ở trường
THPT.
Kinh nghiệm sử dụng hiệu
quả thiết bị, đồ dùng dạy
học tự làm trong dạy học
Ngữ văn ở trường THPT
Thạch Thành 4

Một số kinh nghiệm giáo
dục đạo đức cho học sinh
trong công tác chủ nhiệm
nhằm nâng cao chất lượng
dạy và học ở Trường
THPT hiện nay.

Cấp đánh
giá xếp
loại


Kết quả
đánh giá xếp
loại (A,B,C)

Sở GD và
ĐT

C

Sở GD và
ĐT

Sở GD và
ĐT
Sở GD và
ĐT

C

Năm đánh
giá xếp loại
2008 -2009

2009 -2010

C

2010-2011


C

2012-2013

Sở GD và
ĐT

C

Sở GD và
ĐT

C

2016 - 2017

2017 - 2018

24


25


×