Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

SKKN rèn luyện kỹ năng diễn đạt ngôn ngữ cho học sinh bằng tác phẩm chiếc thuyền ngoài xa của nguyễn minh châu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (310.87 KB, 17 trang )

MỤC LỤC
Danh mục
1. Mở đầu
1.1. Lý do chọn đề tài
1.2. Đối tượng nghiên cứu
1.3. Mục đích nghiên cứu
1.4. Phương pháp nghiên cứu
1.5. Điểm mới của skkn
2. Nội dung đề tài
2.1. Thực trạng vấn đề nghiên cứu
2.1.1 Thuận lợi
2.1.2 Khó khăn
2.2. Cơ sở lí luận
Những tiền đề lý luận ngôn ngữ liên quan đến hoạt động rèn luyện
kỹ năng diễn đạt ngôn ngữ cho HS THPT
Những tiền đề lý luận dạy học liên quan đến hoạt động rèn luyện kỹ
năng diễn đạt ngôn ngữ cho học sinh THPT
2.2
Giải pháp thực hiện
2.3. Kết quả áp dụng sáng kiến
3. Kết luận, Kiến nghị

Trang
2
2
3
3
3
3
4
4


4
5
5
7
17
18

1


1. MỞ ĐẦU
1.1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Người xưa thường nói: “Lời nói không mất tiền mua/ Lựa lời mà nói cho
vừa lòng nhau”. Ngôn ngữ là một phương diện để đánh giá phẩm chất của con
người. Diễn đạt ngôn ngữ, nói để vừa lòng người khác là một quá trình khổ
luyện, dày công học tập. Trong nhà trường phổ thông nhằm giúp học sinh làm
chủ ngôn ngữ như một công cụ hữu hiệu trong việc trình bày tư tưởng tình cảm
của mình là một trong những mục đích quan trọng của việc dạy học ngữ văn. Để
đạt được điều đó, diễn đạt là một trong những kỹ năng cần tập trung rèn luyện
cho học sinh phổ thông vì nó quan hệ trực tiếp với việc làm cho tư tưởng, tình
cảm trở nên sáng rõ đầy đủ và thuyết phục hơn.
Thạch Thành là một huyện miền núi, nhiều học sinh dân tộc thiểu số khả
năng trau dồi ngôn ngữ diễn đạt hạn hẹp.Trong khi chương trình làm văn, tiếng
việt bậc Trung học phổ thông còn nhiều bất cập. Một phần do tài liệu dạy học
còn thiên về trình bày những tri thức lý thuyết dùng từ, đặt câu, các kiểu câu,
cấu tạo đoạn văn, văn bản mà chưa chú trọng đúng mức hệ thống bài tập, biện
pháp rèn luyện, yêu cầu rèn luyện cụ thể; phần khác còn do giáo viên chưa chú
trọng luyện tập, còn lúng túng về phương pháp. Nhiều công trình nghiên cứu có
giá trị về tiếng Việt, về phương pháp dạy học tiếng Việt - làm văn chưa đến được
giáo viên và học sinh nên việc ứng dụng những thành tựu nghiên cứu ngôn ngữ

vào dạy học cũng còn hết sức hạn chế; thời lượng dành cho phần tiếng Việt ít.
Đồng thời dạy học ngữ văn còn thiên về kiến thức chưa gắn với mục đích thiết
thực của học sinh.
Dạy cho học sinh rèn luyện kỹ năng diễn đạt ngôn ngữ là dạy tạo lập văn
bản. Đây là việc làm hết sức khó khăn. Khó nhưng không thể không làm. Muốn
làm được đòi hỏi phải có sự nỗ lực cả về phương thức tác động (từ phía người
dạy) cũng như hiệu quả rèn luyện tạo lập ngôn ngữ (từ phía người tạo lập).
Những nội dung triển khai trong đề tài sáng kiến kinh nghiệm phù hợp với nỗ
lực hướng tới sự đổi mới trong dạy học; tăng cường vai trò chủ thể của người
học, tạo cơ hội rèn luyện cho người học. Đồng thời phù hợp với tính chất dạy
học môn ngữ văn.
Trước thực trạng trên, các cấp các ngành không khỏi băn khoăn trăn trở
và có nhiều nỗ lực đổi mới phương pháp dạy học nhằm tích cực hóa hoạt động
của học sinh, gắn giáo dục với thực tiễn cuộc sống. Là một giáo viên Ngữ văn,
tôi thiết nghĩ rằng môn văn là phương tiện thích hợp nhất để rèn luyện khả năng
diễn đạt ngôn ngữ cho học sinh. Đồng thời giúp học sinh thấy được sự thiết thực
của môn văn với cuộc sống chứ không chỉ là một môn nghệ thuật. Vì thế, tôi
mạnh dạn đưa ra vấn đề : Góp phần rèn luyện kỹ năng diễn đạt ngôn ngữ cho
học sinh thông qua tác phẩm văn học nhằm giúp học sinh thành thạo hơn trong
dùng từ, đặt câu, tạo lập văn bản, ... thành các kỹ năng diễn đạt cụ thể nhằm
mang lại hiệu quả cao cho việc bộc lộ nội dung, tư tưởng, tình cảm của mình.
1.2. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU:
Mỗi bài lại có cách lồng ghép khác nhau. Trong phạm vi bài viết, tôi chọn
tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu để rèn luyện kỹ năng
2


ngôn ngữ cho học sinh. Những suy nghĩ này được rút ra từ thực tế giảng dạy cho
đối tượng học sinh trung học phổ thông ban cơ bản.
1.3. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU

Bài viết đưa ra một số kĩ năng, kinh nghiệm phân tích tác phẩm “Chiếc
thuyền ngoài xa”(Nguyễn Minh Châu) nhằm giúp học sinh tiếp cận tác phẩm
một các dễ dàng và hiệu quả nhất. Giáo viên hướng dẫn học sinh phân tích tác
phẩm một cách thành thạo, chủ động, tích cực, sáng tạo.Thấy được giá trị của
tác phẩm, mối quan hệ giữa văn học và đời sống. Từ đó rèn luyện kỹ năng diễn
đạt ngôn ngữ cho bản thân học sinh.
1.4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Phương pháp nghiên cứu được xây dựng trên cơ sở xây dựng lý thuyết;
khảo sát qua quá trình dạy học học sinh, thu thập thông tin, hình thành kiến thức,
thực nghiệm thăm dò khả năng tiếp nhận của học sinh, …
2. NỘI DUNG ĐỀ TÀI.
2.1. THỰC TRẠNG CỦA VIỆC RÈN LUYỆN KỸ NĂNG DIỄN ĐẠT
CHO HỌC SINH BẰNG TÁC PHẨM VĂN HỌC.
2.1.1. THUẬN LỢI
- Rèn luyện kĩ năng diễn đạt ngôn ngữ cho học sinh luôn nhận được sự
ủng hộ, quan tâm của các cấp, các ngành và phụ huynh học sinh. Văn học là
môn học thích hợp nhất để rèn luyện khả năng diễn đạt ngôn ngữ cho học sinh
không khiên cưỡng, gò ép, không tốn kém đầu tư chi phí khi phải tổ chức những
hoạt động ngoại khoá, bồi dưỡng cho giáo viên dễ dàng tạo hứng thú cho học
sinh.
- Khái quát của nội dung chương trình chúng ta cũng thấy rằng ở bậc học
phổ thông vấn đề rèn luyện ngôn ngữ cho học sinh đã được các nhà nghiên cứu
sư phạm xem đó là nhiệm vụ trọng tâm. Mỗi cấp học khác nhau, cấp độ rèn
luyện ngôn ngữ được đặt ra cũng ở những mức khác nhau. Nhìn chung chương
trình ngữ văn ở bậc phổ thông đã được xây dựng một cách có hệ thống và ít
nhiều tuân thủ theo nguyên tắc kế thừa, phát triển khoa học và toàn diện.
- Việc áp dụng những phương pháp dạy học chung, dạy học ngữ văn đã sử
dụng một số phương pháp dạy học khác nhau trong phần tiếng Việt như: phương
pháp phân tích ngôn ngữ, phương pháp rèn theo mẫu và phương pháp giao tiếp
của phần tiếng Việt. Ngoài ra cần phải biết dựa trên cơ sở vốn ngôn ngữ tự nhiên

của học sinh và vốn ngôn ngữ được nhà trường trang bị, dạy học tiếng Việt theo
phương châm “phát hiện lại” gắn bó hơn nữa giữa phương pháp và nội dung.
- Phần văn bản văn học có dung lượng lớn, nhiều tác phẩm hay nhất là
những tác phẩm sau năm 1975; vốn ngôn ngữ giàu có, phong phú của các nhà
văn phù hợp và tạo hứng thú cho người học và người dạy.
- Học sinh không hứng thú với giờ tiếng Việt bằng việc lồng ghép dạy kỹ
năng diễn đạt ngôn ngữ trong giờ học văn.
- Giáo viên ngày càng có ý thức trong đổi mới phương pháp dạy ngữ văn
gắn với kỹ năng vận dụng của học sinh. Vấn đề này thể hiện rõ qua việc thiết kế
bài và tổ chức dạy học trên lớp. Về phía học sinh, so với học sinh những lớp
3


dưới, kỹ năng sử dụng tiếng Việt của các em có phần tốt hơn, kỹ năng dùng từ,
đặt câu dựng đoạn thành thạo hơn.
Do vậy, Xây dựng biện pháp rèn luyện kỹ năng diễn đạt ngôn ngữ cho học
sinh trung học phổ thông qua giờ dạy học ngữ văn thật sự cần thiết.
2.1.2. KHÓ KHĂN
- Một số giáo viên chưa thực sự coi trọng giờ dạy thực hành tiếng Việt làm văn, dạy cho xong chương trình, thiên về lí thuyết.
- Kỹ năng diễn đạt của học sinh còn yếu so với yêu cầu. học sinh diễn đạt
chủ yếu bằng vốn ngôn ngữ kinh nghiệm nên thường hay mắc lỗi viết như nói,
diễn đạt thiếu chặt chẽ, kỹ năng sử dụng các phương thức liên kết chưa thành
thạo, sử dụng sai phong cách ngôn ngữ,… mức độ mắc lỗi trong bài làm của học
sinh quá nhiều.
+ Lỗi ở cấp độ câu
Câu văn viết tương đối đầy đủ các bộ phận, các thành phần nhưng mối
quan hệ giữa chúng hết sức rời rạc: “Ai đã đặt tên cho dòng sông là tác phẩm
xuất sắc nhất của Nguyễn Minh Châu. Vẻ đẹp của con sông được thể hiện qua
quan sát miêu tả của nhà văn. Sông Hương mang nhiều vẻ đẹp khác nhau…”;
Câu văn không đủ thành phần thậm chí có khi chỉ có một thành phần: “Bên cạnh

lời dặn dò đó, còn chỉ ra cho chúng ta thấy giá trị tinh thần của đoàn kết, yêu
thương giúp đỡ lẫn nhau.”; Câu văn thiếu thành phần vị ngữ - thành phần rất
quan trọng về mặt ngữ pháp: “Sự xả thân vì đại nghĩa để chiến đấu cho độc lập,
tự do của dân tộc” ; Lỗi về dùng từ, các quan hệ từ; lỗi chính tả: chời/trời, xuất
sắc/ xuất xắc, bổ sung/bổ xung, …
+ Lỗi ở cấp độ đoạn văn: sử dụng không đúng các phương thức liên kết
trong đoạn văn, bài văn mà các em đã được làm quen về mặt lý thuyết qua các
bài học trong chương trình tiếng Việt - làm văn ở trường phổ thông như: Lỗi do
dùng sai các phép liên kết.
+ Lỗi ở cấp độ văn bản. Trong tạo lập văn bản học sinh có thể mắc các
lỗi như các lỗi trong một đoạn văn, nhưng chúng khác nhau về phạm vi và cấp
độ. Ngoài ra ở cấp độ văn bản thường phổ biến hai kiểu lỗi khác nhau như: Lỗi
không tách đoạn hay tách, lỗi không dùng các phương thức liên kết để chuyển
đoạn.
Những kết quả nghiên cứu trên đây đã mở ra cho chúng tôi một phương
hướng hợp lý trong việc xây dựng một số biện pháp rèn luyện kỹ năng diễn đạt
ngôn ngữ cho học sinh trong những giờ dạy ngữ văn. Việc vận dụng các biện
pháp, cách thức này sẽ tạo cho các em sự hứng thú trong học tập và các em có
cơ hội để phát huy hết khả năng của mình trong tạo lập văn bản.
2.2 CƠ SỞ LÍ LUẬN
2.2.1. Những tiền đề lý luận ngôn ngữ liên quan đến hoạt động rèn
luyện kỹ năng diễn đạt ngôn ngữ cho học sinh trung học phổ thông.
- Diễn đạt và diễn đạt ngôn ngữ: Theo Chaler Maccip diễn đạt là sự giải
phóng, là chuyển từ nội tâm ra bên ngoài, là muốn truyền cho người khác biết về
mình hoặc những gì mình có. Đó là sự cố gắng vươn lên, làm giàu cả người diễn
đạt lẫn người tiếp nhận sự diễn đạt: “diễn đạt là sự thể hiện bản thân ra bên
4


ngoài. Diễn đạt sẽ giúp ta truyền kinh nghiệm tư tưởng cho người khác. Nó tạo

điều kiện thuận lợi cho sự trao đổi và làm giàu lẫn nhau. Để diễn đạt có kết quả
cần hiểu biết và làm chủ nhiều kỹ thuật”. Diễn đạt là một nhu cầu và có tính mục
đích rõ ràng. Muốn diễn đạt có kết quả, con người phải làm chủ các phương tiện
trong đó làm chủ phương tiện ngôn ngữ để diễn đạt là quan trọng nhất. Nói hoặc
viết để bày tỏ cho người khác biết những điều mình nghĩ, mình cảm…
Từ điển tiếng Việt định nghĩa: “Diễn đạt là làm cho nội dung tư tưởng,
tình cảm được tỏ rõ bằng ngôn ngữ hoặc hình thức nào đó.” diễn đạt là đáp ứng
nhu cầu bộc lộ bằng một kỹ thuật nào đó có thể là hành vi cử chỉ, điệu bộ, nét
mặt … trong kỹ thuật có cả phương tiện mà ngôn ngữ là phương tiện diễn đạt
quan trong nhất, phổ biến nhất. Muốn diễn đạt có hiệu quả đòi hỏi con người
phải làm chủ một số kỹ thuật sử dụng ngôn ngữ. Như vậy, muốn diễn đạt ngôn
ngữ được tốt cần phải có những tri thức về ngôn ngữ. Nhuần nhuyễn trong việc
dùng từ, đặt câu văn đến xây dựng đoạn văn cũng như việc tạo lập văn bản.
- Diễn đạt ngôn ngữ nhìn từ góc độ liên kết văn bản: Diễn đạt ngôn ngữ
được biểu hiện ở nhiều cấp độ khác nhau từ việc dùng từ, đặt câu đến việc xây
dựng văn bản và nhất là trong việc lựa chọn và sử dụng các phương thức liên
kết. Sở dĩ như vậy là vì các đơn vị ngôn ngữ có ý nghĩa không chỉ có cấp độ từ,
câu độc lập mà còn ở sự kết nối, phối hợp của chính các đơn vị đó nữa. Một văn
bản không chỉ là sự lắp ghép đơn thuần các đơn vị ngôn ngữ. Nhân tố có tác
dụng biến một chuỗi các đơn vị ngôn ngữ thành văn bản chính là sự liên kết tức
là giữa các đơn vị ngôn ngữ (từ- câu – đoạn – văn bản) phải có mối quan hệ
phức tạp qua lại, phải tạo nên một mạng lưới mà một số nhà ngôn ngữ học gọi
đó là tính liên kết.
Nói một cách chung nhất thì văn bản là một hệ thống mà trong đó các câu
mới chỉ là các phần tử. Ngoài các câu – phần tử trong hệ thống văn bản còn cấu
trúc. Cấu trúc của văn bản chỉ ra vị trí của mỗi câu và những mối quan hệ, liên
hệ của nó với những câu xung quanh nói riêng và của toàn thể văn bản nói
chung. Sự liên kết là mạng lưới của những quan hệ và liên hệ ấy. Hiện nay đang
tồn tại nhiều quan niệm khác nhau về tính liên kết. Với cách nhìn của các nhà
nghiên cứu thì giữa tính liên kết và mạch lạc có mối quan hệ với nhau. Vấn đề

rèn luyện kỹ năng diễn đạt ngôn ngữ cũng cần được xem xét trong mối tương
quan giữa liên kết và mạch lạc.
Tiếng Việt có những đặc trưng riêng của nó. Tính liên kết phải được xem
xét trên hai phương thức: liên kết nội dung và liên kết hình thức. Mặt khác tính
liên kết trong ngôn ngữ không chỉ được xem xét ở cấp độ văn bản mà tính liên
kết được biểu hiện ở các cấp độ nhỏ hơn văn bản ngay cả trong một ngữ, một
câu, một đoạn. Vì thế tính liên kết cần đặc biệt coi trọng trong kỹ năng diễn đạt
ngôn ngữ.
Giai đoạn diễn đạt ý nghĩa gọi là sự hành văn của người viết. Đây là khâu
cuối cùng đồng thời là khâu tổng hợp, khâu hoàn thành của quá trình làm văn để
tạo ra sản phẩm ngôn ngữ là một bài văn. Như vậy, trường trung học phổ thông
không thể thiếu quá trình rèn luyện cho học sinh kỹ năng sử dụng ngôn ngữ
trong đó có kỹ năng liên kết khi tạo lập văn bản. Vấn đề cần quan tâm là giáo
5


viên phải tổ chức cho học sinh rèn luyện sao cho có hiệu quả, chọn hình thức
hợp lí.
- Rèn luyện kỹ năng diễn đạt ngôn ngữ cho học sinh trong mối quan hệ
ngôn ngữ - tư duy: Ngôn ngữ vừa ghi lại kết quả của một quá trình tư duy nhận
thức vừa dùng để biểu đạt, hiện thực hóa quá trình đó. Do vậy, dạy cho học sinh
dùng ngôn ngữ để tư duy tức là phải dạy cho họ sử dụng đúng nghĩa mà nó biểu
thị; đồng thời cũng phải dạy cho họ cách sắp xếp, kết hợp các từ với nhau sao
cho diễn đạt đúng nhất với quá trình tư duy.
Việc nắm vững mối quan hệ giữa ngôn ngữ và tư duy giúp cho quá trình
rèn luyện năng lực ngôn ngữ cho học sinh đạt được hiệu quả cao hơn. Dạy rèn
luyện ngôn ngữ phải luôn gắn với rèn luyện tư duy.
2.2.2 Những tiền đề lý luận dạy học liên quan đến hoạt động rèn luyện
kỹ năng diễn đạt ngôn ngữ cho học sinh trung học phổ thông.
- Rèn luyện kỹ năng diễn đạt ngôn ngữ cho học sinh trên cơ sở lý luận

dạy học hiện đại.
+ Học sinh là trung tâm của hoạt động: là đối tượng trung tâm của quá
trình dạy học. Áp dụng phương pháp mới này sẽ nâng cao tính chủ động, sáng
tạo của học sinh.
+ Dạy học hiện đại coi trọng đổi mới phương pháp dạy học: Đổi mới về
phương pháp dạy học được xem là linh hồn của sự đổi mới giáo dục. Việc lựa
chọn phương pháp dạy học phù hợp sẽ có tác dụng quyết định rất lớn đối với
chất lượng giáo dục . Một trong những phương pháp được xem có tính ưu việt
hiện nay đó là phương pháp dạy học tăng cường phát triển kỹ năng thực hành.
+ Kỹ xảo là kỹ năng đạt đến mức tự động hóa bằng con đường thực hành:
Muốn diễn đạt tốt, hầu hết mọi người không phải viết ra một lần là xong mà phải
xem lại, sửa chữa, thêm bớt … Đó là điều người ta gọi là sự dụng công của
người tạo lập văn bản. Qua nhiều lần như thế kỹ năng sẽ trở thành kỹ xảo – tức
là kỹ năng đạt đến mức tự động hóa.
Các kỹ năng, kỹ xảo được xem xét không phải chỉ ở một cấp độ mà trái lại
có thể được xem xét ở nhiều cấp độ khác nhau. Do đó, rèn luyện kỹ năng ngôn
ngữ cho học sinh cũng phải đặt ra nhiều cấp độ khác nhau có thể là ngữ âm, từ
vựng và ngữ pháp, chính tả, dấu chấm câu đến việc tạo lập văn bản. Trong quá
trình tổ chức hoạt động thực hành ngôn ngữ phải làm thế nào để học sinh thực
sự là chủ thể của hoạt động rèn luyện và cách thức tổ chức rèn luyện phải tối ưu
đáp ứng được nhu cầu của học sinh thì dạy học ngữ văn mới có hiệu quả.
- Rèn luyện kỹ năng diễn đạt cho học sinh trên cơ sở của tâm lý học
nhận thức.
Về mặt tâm lý lứa tuổi học sinh lớp 12 các em đang ở độ tuổi thanh niên
từ 15 đến 18 tuổi. Ở độ tuổi này các em đã bắt đầu có sự lựa chọn đối với các
môn học. Về mặt nhận thức sự tri giác có tính mục đích đã đạt tới mức rất cao.
Ở tuổi thanh niên những đặc điểm chung của con người về mặt trí tuệ thông
thường đã được hình thành và chúng vẫn còn được tiếp tục hoàn thiện. Đặc biệt,
đặc điểm nổi bật trong sự phát triển nhân cách của thanh niên độ tuổi này là sự
tự ý thức.

6


2.3. GIẢI PHÁP THỰC HIỆN
2.3.1.Hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài
- Hướng dẫn học sinh đọc văn bản không đơn thuần đọc để hiểu biết, để
tham khảo, hơn nữa việc đọc ở đây đã trở thành một khâu then chốt quyết định
sự thành công trong việc học tác phẩm, rèn luyện sự tự tin, phát huy khả năng
ngôn ngữ của học sinh.
+ Đối với đoạn trích “Chiếc thuyền ngoài xa”(Nguyễn Minh Châu) trong
sách giáo khoa đòi hỏi người học phải tìm đọc văn bản hoàn chỉnh để có cái nhìn
tổng quát về văn bản.
+ Đọc kĩ văn bản để nhận diện được vấn đề bao quát, cảm hứng chủ đạo
của tác phẩm, chú ý những chi tiết quan trọng nhất, từ ngữ, giọng điệu, cấu trúc
tác phẩm, hình thức trần thuật.
+ Đọc và tóm tắt được cốt truyện .
Nếu học sinh không đọc kĩ, chính xác văn bản sẽ không tránh khỏi lúng
túng khi diễn đạt, khi phân tích một dẫn chứng nào đó để làm sáng tỏ luận điểm.
- Hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài là bước quan trọng nhất của việc
hướng dẫn đọc hiểu tác phẩm, giúp ta đi vào tìm hiểu tác phẩm một cách dễ
dàng nhất và giáo dục cho học sinh tinh thần học tập nghiêm túc chuẩn bị bài
chu đáo trước khi đến lớp hay làm bất cứ công việc gì thì công việc mà mình
làm sẽ hiệu quả hơn rất nhiều. Với “Chiếc thuyền ngoài xa”(Nguyễn Minh
Châu) ta có thể tham khảo tài liệu như: Mấy vấn đề về văn xuôi sau 1975
(Hoàng Quỳnh Liên); Chuyên đề dạy - học ngữ văn 12 (TS Lê Thị Hường) và
soạn bài theo câu hỏi sách giáo khoa.
- Giao bài tập cho học sinh bằng câu hỏi cụ thể:
Câu hỏi 1: Đọc kĩ văn bản “Chiếc thuyền ngoài xa” ”(Nguyễn Minh Châu)
và cho biết đoạn văn nào em thích nhất?
Câu hỏi 2: Viết khoảng 10 câu nêu cảm nhận của em về đoạn văn em

thích.
Mục đích giúp học sinh chuẩn bị bài và rèn luyện ở nhà khả năng viết câu,
đoạn của bản thân. Giáo viên có điều kiện đánh giá năng lực diễn đạt ngôn ngữ
của học sinh tạo tâm thế hứng thú cho học sinh và học sinh tự đánh giá năng lực
diễn đạt của bản thân một cách khách quan trước khi bắt đầu bài học.
2.3.2.Rèn luyện kỹ năng diễn đạt ngôn ngữ thông qua hướng dẫn học
sinh tìm hiểu về tác giả Nguyễn Minh Châu:
Muốn thành công trong việc tìm hiểu tác phẩm thì phải tìm hiểu tác giả vì
tác phẩm văn chương chính là tâm huyết của nhà văn và là nơi để nhà văn thổ lộ
tâm tư tình cảm, suy nghĩ của mình về một vấn đề nào đó.
* Nên yêu cầu học sinh tóm tắt lại những nét chính cuộc đời và sự nghiệp
của tác giả một cách rõ ràng, khoa học.
- Nguyễn Minh Châu (1930 – 1989) quê ở Quỳnh Lưu, Nghệ An. Ông là
nhà văn trưởng thành trong kháng chiến chống Mĩ.
- Sự nghiệp: Thành công ở nhiều thể loại như: tiểu thuyết, truyện ngắn, lí
luận phê bình.
7


+ Tác phẩm tiêu biểu như: Cửa sông (tiểu thuyết,1967); Dấu chân người
lính (tiểu thuyết,1972); Mảnh trăng cuối rừng (truyện ngắn,1970); Bến quê
(truyện ngắn,1985);….
Ông được coi là : “Nhà văn mở đường tinh anh và tài năng nhất của văn
học ta hiện nay” (Nguyên Ngọc). Sự tinh anh và tài năng ấy được thể hiện ở quá
trình đổi mới tư duy nghệ thuật: Tác phẩm của ông luôn đi sâu khám phá sự thật
đời sống trên bình diện đạo đức thế sự và phát hiện nhiều mối quan hệ xã hội
phức tạp, góp phần nhìn nhận và hoàn thiện nhân cách con người. Từ đó thể hiện
cái nhìn đa chiều về cuộc sống và con người của nhà văn. Nguyễn Minh Châu là
gương mặt lớn của nền văn học dân tộc, là nhà văn tiên phong trong công cuộc
đổi mới văn học.

* Từ những thông tin về tác giả, học sinh có thể rèn luyện kĩ năng viết
đoạn tóm tắt tiểu sử nhà văn thấy được ý thức trách nhiệm của nhà văn đối với
những vấn đề của đời sống hiện thực và trăn trở trước những vấn đề nóng bỏng
của hiện thực đời sống.
2.3.3. Rèn luyện kỹ năng diễn đạt ngôn ngữ thông qua tìm hiểu chung
tác phẩm
* hướng dẫn học sinh tìm hiểu xuất xứ của tác phẩm “Chiếc thuyền
ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu: Tác phẩm được sáng tác tháng 8-1983, in
trong tập truyện cùng tên, NXB Tác phẩm mới, 1987.
Tác phẩm ra đời trong hoàn cảnh lịch sử xã hội có nhiều thay đổi. Cuộc
kháng chiến chống Mĩ kết thúc, Đất nước thống nhất trong nền hoà bình độc lập.
Cuộc sống “Muôn mặt đời thường” trở lại sau chiến tranh, nhiều vấn đề về đời
sống, nhân sinh phải được nhìn nhận lại, nhiều yếu tố mới nảy sinh trong điều
kiện xã hội mới.
* Rèn luyện kỹ năng diễn đạt ngôn ngữ thông qua tìm hiểu về tình
huống truyện “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh châu.
Tình huống truyện là sự kiện có ý nghĩa bộc lộ mọi mối quan hệ, khả năng
ứng xử, thử thách phẩm chất, tính cách, đôi khi tạo ra những bước ngoặt trong tư
tưởng, tình cảm, trong cuộc đời con người.
Tình huống truyện “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu khá
đặc biệt để lại ấn tượng đậm nét cho người đọc. Trong giây phút tâm hồn thăng
hoa những cảm xúc lãng mạn nhất, Phùng bất ngờ chứng kiến từ con thuyền
vừa đưa đến cho anh một bức tranh đẹp như mơ ấy là cảnh lão đàn ông đánh vợ
dã man và vô lí nhưng người đàn bà vẫn cam chịu, nhẫn nhục. Trước tình thế bi
đát đó, thằng Phác đã xông ra đánh bố nó để bảo vệ cho mẹ nó. Từ đó, Phùng có
cách nhìn đời đa diện, sâu sắc về cuộc đời, con người và chính bản thân.
*Rèn luyện kỹ năng diễn đạt ngôn ngữ cho học sinh thông qua tìm hiểu
điểm nhìn trần thuật: “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu.
Với quan niệm nghệ thuật đích thực không bao giờ rời xa cuộc đời, tác giả
không áp đặt mà đối thoại, cùng người đọc suy ngẫm về con người và nghệ

thuật.
Nhìn nhận cuộc đời không nên đơn giản, xuôi chiều, bị đánh lừa bởi vẻ
ngoài mà cần soi thấu sự phức tạp, chứa đầy nghịch lí, mâu thuẫn bên trong. Để
8


nhận diện được bản chất đích thực của đời sống, mỗi người cần thâm nhập mạch
ngầm ẩn sâu để không bị ngộ nhận bởi vẻ hào nhoáng bên ngoài.
Với truyện ngắn này, Nguyễn Minh Châu đã khám phá con người trong sự
phức hợp, đa chiều của nó thông qua điểm nhìn của nhân vật Phùng. Từ đó soi
chiếu, lật xới mọi chiều, cạnh của tác phẩm, cảm nhận thông điệp ánh lên từ vẻ
đẹp tâm hồn người đàn bà làng chài lòng bao dung độ lượng, vị tha và đức hi
sinh vì chồng con. Điều đó giúp cho Đẩu và Phùng vỡ vạc nhiều chân lí đời
sống mà trước hết, đó là sự trải nghiệm.
2.3.4. Rèn luyện kỹ năng diễn đạt ngôn ngữ thông qua hướng dẫn học
sinh tìm hiểu tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh châu.
2.3.4.1. Đối với đối tượng học sinh trung học phổ thông giáo viên cần có
sự dẫn dắt hợp lí, tránh áp đặt kiến thức để học sinh chủ động tranh luận, tìm ra
hướng khai thác văn bản hợp lí.
- Giáo viên hướng dẫn học sinh xác định được vấn đề trọng tâm của văn
bản, nhấn mạnh những ý cần làm sáng tỏ.
- Giáo viên xây dựng câu hỏi bám sát từng vấn đề để học sinh hình dung
kết cấu nội dung và nghệ thuật của tác phẩm. Trong khâu này giáo viên cần
khuyến khích học sinh chủ động phát biểu suy nghĩ và hình thành hệ thống kiến
thức cho mình. Từ đó, các em tự tin nêu cách hiểu của mình dù đúng hướng hay
sai lệch thì giáo viên có điều kiện điều chỉnh kịp thời.
- Giáo viên hướng dẫn học sinh phân tích lần lượt từng vấn đề . Đầu tiên
giáo viên và học sinh chọn một vấn đề cơ bản hướng dẫn các em cách khai thác.
Sau đó các em lần lượt tìm hiểu các vấn đề tiếp theo.
- Cuối cùng, giáo viên hệ thống hoá lại kiến thức, chốt lại ý quan trọng

nhất, và nhận xét, đánh giá hướng phân tích của học sinh, tuyên dương những
cách hiểu hay, điều chỉnh những cách hiểu lệch lạc, chưa đúng.
2.3.4.2. Rèn luyện kỹ năng diễn đạt ngôn ngữ thông qua cách thức
đọc hiểu tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu.
- Muốn xây dựng được cấu trúc bài dạy trước hết ta phải xác định được
trọng tâm văn bản và định hướng hướng tiếp cận văn bản: Chiếc thuyền ngoài xa
mang đến bài học đúng đắn về cách nhìn nhận cuộc sống và con người: một
cách nhìn đa diện, nhiều chiều, phát hiện ra bản chất thực sự sau bề ngoài của
hiện tượng. Xác định hướng khai thác văn bản: Lần lượt làm sáng tỏ từng vấn đề
của tác phẩm theo bố cục sách giáo khoa.
+ Tìm ý và lập ý phải tuân thủ tính lôgíc chặt chẽ từ ý lớn đến ý bé, tuỳ
tầm quan trọng của vấn đề mà sắp xếp.
Thứ nhất, những phát hiện của người nghệ sĩ nhiếp ảnh.
Thứ hai, câu chuyện của người đàn bà làng chài và tấm ảnh được chọn
cho bộ lịch năm ấy.
Thứ ba, những độc đáo trong bút pháp của Nguyễn Minh châu.
+ Tìm dẫn chứng cho từng vấn đề cụ thể, chú ý đến cấu trúc câu văn, từ
ngữ, giọng điệu, hình ảnh, nhất là những chi tiết then chốt của tác phẩm,…

9


+ Đánh giá tổng quát, nhấn mạnh những khám phá mới, độc đáo của nhà
văn để khám phá giá trị của văn bản. Liên hệ mở rộng để thấy được những đóng
góp của tác giả.
+ Diễn đạt rõ ràng mạch lạc, không rập khuôn, dựa dẫm vào quan điểm ý
kiến của người khác.
+ Giáo viên phải trau dồi năng lực cảm thụ, từ ngữ, nhất là cảm xúc với
văn bản.
2.3.4.3. Hình thành văn bản, đây là khâu chính để hướng dẫn học sinh đọc

hiểu tác phẩm nên giáo viên phải hoàn chỉnh, kiểm tra, diễn đạt lại văn bản.
- Giáo viên hướng dẫn học sinh tìm hiểu các chi tiết trong đoạn trích và
cho biết:
Người nghệ sĩ đã phát hiện điều gì khi đến vùng biển miền trung?
Thái độ của anh khi bắt gặp “Cảnh đắt trời cho” và chứng kiến bi kịch gia
đình?
Từ đó anh đã chiêm nghiệm và có cách hành xử như thế nào?
Bài học mà Nguyễn Minh Châu muốn gửi gắm đến độc giả là gì?
* HAI PHÁT HIỆN CỦA NGƯỜI NGHỆ SĨ NHIẾP ẢNH: Giáo viên
đọc diễn cảm đoạn trích, nhấn mạnh một số chi tiết đặc sắc để tạo hứng thú cho
học sinh tiếp cận bài học. Sau đó, giáo viên định hướng cho học sinh bằng câu
hỏi cụ thể, nhằm dẫn dắt học sinh vào vấn đề : Sau nhiều ngày lăn lộn ở vùng
biển miền trung, Phùng đã phát hiện thấy điều gì? Phùng có cảm nhận như thế
nào về điều vừa phát hiện? Điều đó đã tác động như thế nào đến tâm trạng của
Phùng? Hãy lí giải vì sao tác giả lại chọn nơi bấm máy của Phùng là một vùng
biển miền trung heo hút và còn đầy tàn tích của chiến tranh. Học sinh theo dõi
phát hiện và trả lời theo câu hỏi định hướng của giáo viên, chú ý khuyến khích
học sinh chủ động tiếp cận tri thức tránh rập khuôn, máy móc, nhất là phụ thuộc
tài liệu để trả lời đối phó khi giáo viên hỏi đến.
- Phát hiện thứ nhất của người nghệ sĩ là một bức tranh thiên nhiên tuyệt
mĩ được miêu tả như “Một bức tranh mực tàu của một danh hoạ thời cổ”, mũi
thuyền “in một nét mơ hồ loè nhoè vào bầu sương mù trắng như sữa có pha đôi
chút màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào.”; “Vài bóng người lớn lẫn trẻ
con ngồi im phăng phắc”; “đường nét đến ánh sáng đều hài hoà và đẹp”;… Đó
là một bức tranh thiên nhiên diệu kì, tươi mát và mĩ lệ, vừa có đường nét vừa có
màu sắc của cảnh biển lúc bình minh và Phùng đã quyết định thu vào ống kích
của mình.
Từ góc nhìn của một người nghệ sĩ, Phùng hài lòng với tất cả những gì
đang diễn ra trước mắt và anh gọi đó là “một cảnh đắt trời cho” vì đó là cảnh
đẹp diệu kì của tạo hoá khi trời đất hoà hợp giao thoa. Nhưng đồng thời đó cũng

chính là những phút giây bùng phát của niềm đam mê sáng tạo, tài năng của
người nghệ sĩ. Nếu khoảnh khắc thăng hoa ấy trôi đi thì chắc rằng Phùng đã bỏ
qua cơ hội để nắm được phút linh một đi không trở lại trong sáng tạo nghệ thuật.
Bức tranh diệu kì tươi mát, phút bùng phát của niềm đam mê sáng tạo
nghệ thuật đã tác động rất lớn đến tâm trạng người nghệ sĩ. Phùng cảm thấy bối
rối “trong tim như có cái gì bóp thắt vào” phút giây vừa bắt gặp khiến cho tâm
10


hồn nghệ sĩ rung động thật sự và dấy lên nhiều xúc cảm thẩm mĩ đặc biệt. Và
cũng chính lúc đó anh khám phá thấy “Chân lí của sự toàn thiện, khám phá thấy
cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn”. Phùng đã cảm nhận được cái Chân Thiện - Mĩ của cuộc đời mình. Cái đẹp đã giúp anh chạm đến được phần thánh
thiện, trong sáng nhất của tâm hồn mình. Qua đó, Nguyễn Minh Châu đã khẳng
định “Bản thân của cái đẹp chính là đạo đức”. Cái đẹp có khả năng gột rửa, tinh
lọc tâm hồn con người. Cho nên, Phùng cảm thấy tâm hồn mình trở nên trong
trẻo vô ngần.
Nơi Phùng bấm máy, khám phá vẻ đẹp toàn bích của tạo hoá và chạm tới
kẽ lòng mình đó là một bãi biển còn đầy tàn tích của chiến tranh, chi tiết tuy nhỏ
nhưng có sức gợi rất lớn. Đằng sau không gian tưởng như bình yên ấy là những
vết tích đau thương còn sót lại nhưng người nghệ sĩ chưa kịp nhận ra. Đồng thời,
chính không gian yên tĩnh nơi đây sẽ giúp anh trút bỏ được những bộn bề của
cuộc sống để soi lại chính mình.
Giáo viên dẫn dắt học sinh vào phát hiện thứ hai của Phùng: Giáo
viên cho một học sinh đọc diễn cảm đoạn tiếp, lưu ý học sinh những chi tiết
quan trọng để học sinh dễ dàng tiếp cận phát hiện tiếp theo của Phùng. Giáo viên
hướng dẫn học sinh tiếp cận tri thức bằng câu hỏi cụ thể: Phùng đã phát hiện
điều gì khi con thuyền ngư phủ tiến vào bờ? Bức tranh hiện thực gia đình được
tác giả tái hiện như thế nào? Thái độ của Phùng khi chứng kiến bức tranh đó?
Cảnh đó có phải hôm nay mới có hay không? Tại sao Phùng lại hết sức ngỡ
ngàng khi chứng kiến bi kịch gia đình? Từ đó, Phùng đã có cách hành xử như

thế nào?
- Phùng đang say sưa với thành quả nghệ thuật vừa khám phá được thì
cũng chính lúc đó anh phát hiện ra một bức tranh cuộc sống đầy nghịch lí, trớ
trêu trên chính con thuyền vừa đưa đến cho anh một bức tranh đẹp như mơ.
Người đàn ông có tấm lưng rộng, mái tóc tổ qụa, chân đi chữ bát, lông
mày cháy nắng, đầy vẻ độc dữ, dường như cuộc sống mưu sinh vất vả, nhọc
nhằn đã khiến cho đặc điểm nhận dạng trở nên thô sì, đáng sợ.
Người đàn bà đi bên cao lớn, thô kệch, rỗ mặt, mệt mỏi, tái ngắt, lưng áo
bạc phếch, rách rưới. Ngoại hình xấu xí, chai sạn vì khó nhọc.
Nghịch cảnh trớ trêu của hiện thực không dừng lại ở đó đập vào mắt
người đọc là một cảnh tượng tàn nhẫn, khiến người đọc ngỡ ngàng đau đớn đó là
cảnh người đàn ông đánh và chì chiết vợ dã man “Dùng chiếc thắt lưng quật tới
tấp vào lưng người đàn bà, lão vừa đánh vừa thở hồng hộc, hai hàm răng nghiến
ken két” và chì chiết “Mày chết đi cho ông nhờ”.
Chưa hết, đứa con ở đâu lao ra đánh cha để bảo vệ mẹ.
+ Tác giả miêu tả một cách cụ thể chi tiết từ cử chỉ, điệu bộ, hành động,
ngoại hình của nhân vật nhằm tái hiện một bức tranh cuộc sống trần trụi, thô ráp
hoàn toàn đối lập với bức tranh thiên nhiên hoàn mĩ mà Phùng vừa khám phá ra.
Hoá ra đằng sau lớp sương huyền hoặc thơ mộng tưởng như bình yên ấy là bão
tố, là hiện thực trớ trêu, đau đớn đang diễn ra hàng ngày, hàng giờ, là những
mảnh đời đau khổ bất hạnh, mà tại đây không gian gần hơn, thật hơn, Phùng mới
có điều kiện chứng kiến .
11


+ Trước bức tranh đời sống đầy nghịch lí ấy, Phùng đã vô cùng ngạc nhiên
“cứ há mồm ra mà nhìn” dường như anh đang chết lặng, không thể tin vào
những gì đang diễn ra trước mắt. Bi kịch gia đình không phải hôm nay mới có,
đó chỉ là một màu trong muôn màu của cuộc sống, đó chỉ là một bi kịch trong vô
vàn bi kịch khác của cuộc sống. Thế nhưng hôm nay anh mới phát hiện ra vì

đang mãi đắm chìm trong vẻ đẹp tinh khôi lãng mạn kia. Và sau đó mấy ngày,
khi định thần lại tất cả, dường như anh đã trở lại là Phùng của hai mươi năm về
trước, thời còn là một anh lính đầy lí tưởng, đầy khao khát, chưa nhuốm những
lo toan, bụi bặm của cuộc sống đời thường. Nên lần thứ hai khi chứng kiến cảnh
đó Phùng đã xông ra “buộc lão đàn ông chấm dứt hành động độc ác” anh không
thể phó mặc cuộc đời với những ngang trái đang diễn ra để mải mê với cái đẹp
mờ ảo, xa xôi kia được. Trái tim nghệ sĩ chân chính không cho phép anh dửng
dưng trước sự bạo hành của cái ác.
Giáo viên hướng dẫn học sinh rút ra kết luận khái quát về thông điệp
mà Nguyễn Minh Châu muốn thể hiện qua những phát hiện của Phùng.
Từ đó, Nguyễn Minh Châu khẳng định nghệ sĩ không nên rời xa hiện
thực, mải tìm kiếm những điều xa rời với cuộc sống đời thường. Dẫu biết, nghệ
thuật luôn hướng đến cái đẹp nhưng nghệ thuật không thể là ảo ảnh dối lừa, lãng
mạn hoá cuộc đời, tô hồng hiện thực nhiều khi vô nghĩa. Bởi vì hiện thực có cả
niềm vui, hạnh phúc và cả khổ đau, nước mắt. Cho nên, nghệ thuật phải hướng
đến cuộc đời, vì cuộc đời đó mới là nghệ thuật chân chính. Từ cái nhìn của
Phùng, người đọc khám phá ra nhiều chân lí cho cuộc sống, nhìn cuộc sống
không nên đơn giản, xuôi chiều mà phải có cái nhìn đa chiều mới phát hiện ra
chiều sâu của cuộc sống. Cái đẹp phải gắn với “đạo đức”, với cuộc đời thì cái
đẹp mới tồn tại và toả sáng.
Giáo viên hướng dẫn học sinh tiếp cận vấn đề thứ hai của văn bản:
Nhân vật người đàn bà làng chài được miêu tả như thế nào? Cuộc đời của người
đàn bà có gì đáng chú ý? Đằng sau cuộc đời bất hạnh ấy người đọc cảm nhận
được gì ở người đàn bà? Từ đó tác giả muốn khẳng định điều gì? Học sinh theo
dõi phát hiện và trả lời theo câu hỏi định hướng của giáo viên, chú ý khuyến
khích học sinh chủ động tiếp cận tri thức.
* CÂU CHUYỆN CỦA NGƯỜI ĐÀN BÀ LÀNG CHÀI.
- Xuyên suốt tác phẩm, người đọc không hề biết tên gọi của người đàn bà
tội nghiệp ấy, tác giả chỉ gọi nhân vật một cách đầy phiếm chỉ : người đàn bà
làng chài, chị ta, mụ,…Mục đích của tác giả làm mờ hoá tên tuổi người đàn bà

để tô đậm số phận bé nhỏ, ngang trái, tiêu biểu cho số phận của những người
đàn bà khác trong cuộc đời.
Người đàn bà không tên nhưng lại có vai trò quan trọng trong mạch
truyện, trong mối quan hệ với các nhân vật khác, góp phần thể hiện tư tưởng chủ
đề của câu chuyện. Nhờ có câu chuyện của người đàn bà làng chài mà câu
chuyện “săn ảnh” của người nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng được soi chiếu từ nhiều
góc nhìn khác ở bề sâu bức tranh cuộc sống. Ta hiểu vì sao người đàn bà không
tên ấy lại để lại nhiều day dứt trong tâm trí của người nghệ sĩ.
12


- Nhân vật được miêu tả cụ thể, chân thật trong từng chi tiết ngoại hình:
Chị trạc bốn mươi tuổi, dáng người thô kệch, rỗ mặt, khuôn mặt mệt mỏi sau
một đêm thức trắng, tái ngắt, quần áo ướt sũng gợi ấn tượng về một người đàn
bà xấu xí, thô kệch và cuộc đời đầy nhọc nhằn, lam lũ, hằn in trên dáng điệu, nét
mặt của chị.
- Ở số phận của người đàn bà ấy, dường như mọi khổ đau bất hạnh của
cuộc đời đều trút lên chị: xấu, nghèo, lam lũ, thường xuyên bị đánh đập, hành
hạ.
+ Cái xấu đeo đuổi chị như một định mệnh. Từ nhỏ, chị đã là một cô gái
xấu xí, rỗ mặt và cũng vì xấu nên không ai lấy. Đối với một cô gái mới lớn thì
cái xấu về ngoại hình là một sự bất công mà tạo hoá lỡ tay làm hại mình.
+ Lớn lên, chị có mang với một anh hàng chài đến mua bả về đan lưới rồi
thành vợ, thành chồng. Cuộc sống mưu sinh trên biển cực nhọc, bấp bênh và
ngày càng khốn khó hơn khi những đứa con lần lượt ra đời mà thuyền thì lại
chật.
+ Bà thường xuyên bị chồng đánh đập, hành hạ “Ba ngày một trận nhẹ,
năm ngày một trận nặng”, mỗi khi thấy cuộc sống bức bách, khó chịu lão lại lôi
bà ra đánh và việc đánh vợ như một chu kì lặp đi lặp lại hết ngày này qua ngày
khác. Cứ như vậy, cuộc đời người đàn bà cứ triền miên trong những trận đòn.

Chưa hết, lão chồng vừa đánh vợ vừa rít lên những lời nguyền rủa cay độc “Mày
chết đi cho ông nhờ, chúng mày chết đi cho ông nhờ”.
Nỗi đau bị hành hạ của người đàn bà thấm đẫm trong từng trang viết của
Nguyễn Minh Châu khiến người đọc day dứt, xót xa. Đó cũng chính là số phận
của bao người đàn bà khác trong cuộc sống, đang vừa phải chống chọi với mưu
sinh, vừa phải chống chọi với bạo lực gia đình.
- Phẩm hạnh của người đàn bà đã làm cho người đọc ngỡ ngàng, ngưỡng
mộ. Mặc dù bị hành hạ như vậy nhưng chị vẫn cam chịu, nhẫn nhục, không kêu
van, không trốn chạy. Bị đánh, chị chỉ xin một điều “Đưa tôi lên bờ mà đánh,
đừng đánh trước mặt con”. Khi nhìn thấy thằng Phác đánh cha nó để bảo vệ cho
mình, người mẹ câm lặng ấy chỉ thốt lên những tiếng đứt đoạn “Phác, con ơi!”
và chị “vái lấy vái để” đứa con. Dường như trong vẻ tiều tuỵ và câm lặng ấy, chị
muốn nói với con những điều nó chưa kịp hiểu. Dù lí do nó đánh cha nó là gì đi
chăng nữa, cha nó có độc dữ đến đâu thì hành động đánh cha là hành động trái
với luân thường đạo lí, không thể biện hộ bằng bất cứ lí lẽ nào. Khi được Phùng
và Đẩu đề nghị giúp đỡ chị li hôn, để thoát khỏi người chồng vũ phu, chị không
những không đồng ý mà còn van xin “Bắt tội con cũng được, bỏ tù con cũng
được nhưng đừng bắt con bỏ nó” và chị còn chủ động chấp nhận cuộc sống cơ
cực, đẫm nước mắt ấy “Chú đừng bắt tôi bỏ nó”.
Lí do chịu đựng, nhẫn nhục của người đàn: Trong hoàn cảnh khổ đau như
vậy thường những người đàn bà khác họ tìm cách phản kháng hoặc giải thoát
cho mình còn người đàn bà làng chài tưởng như thất học, lạc hậu và mụ mị vì
đau khổ ấy lại là một người đàn bà sắc sảo, thấu hiểu lẽ đời và đầy bao dung độ
lượng.
13


Triền miên trong đau khổ, người đàn bà ấy hiểu gánh nặng mưu sinh quá
nặng nhọc đang đổ lên vai người đàn ông khiến lão trở thành kẻ vũ phu đánh vợ
nên chị coi việc mình bị đánh như là một cách để chia sẻ gánh nặng mưu sinh

với chồng. Không những thế, bà luôn ý thức được vai trò của người đàn ông
trong gia đình “Thuyền cần có một người đàn ông chèo chống khi phong ba” và
còn cao thượng biết bao khi bà nhận về mình tất cả những sai lầm của người đàn
ông “đẻ nhiều quá mà thuyền thì lại chật”.
Chị còn là người mẹ yêu con vô bờ “phải sống cho con chứ không thể
sống cho mình được” và khuôn mặt chị “Chợt ửng sáng lên một nụ cười” khi
nghĩ đến cảnh “vợ chồng con cái sống hoà thuận, vui vẻ”. Niềm hạnh phúc của
người đàn bà ấy được chắt chiu từ cuộc sống khổ đau, ngang trái của bà.
- Cuộc đời người đàn bà bất hạnh, tủi cực nhưng cao cả, vĩ đại và thấu
hiểu lẽ đời. Đó là những “Hạt ngọc ẩn dấu trong bề sâu tâm hồn con người” mà
Nguyễn Minh châu suốt đời săn tìm. Từ cuộc đời người đàn bà làng chài, Phùng
và Đẩu, người đại diện cho công lí, người đại diện cho nghệ thuật đã có những
cách nhìn nhận khác về cuộc đời: Hoá ra đằng sau vẻ thô sì, sần sùi là vẻ đẹp
của cuộc đời. Cho nên nhìn cuộc đời không nên đơn giản, xuôi chiều mà phải có
cái nhìn đa chiều thì mới phát hiện được chiều sâu của cuộc sống, những gì tiềm
ẩn bên trong sự vật, hiện tượng.
Giáo viên cho học sinh đọc đoạn cuối của văn bản và tìm những chi tiết
quan trọng của văn bản và cho biết thành quả nghệ thuật mà Phùng đạt được đó
là gì? Từ đó rút ra bài học cho mình.
* Kết thúc tác phẩm, người nghệ sĩ đã hoàn thành kiệt tác của mình
đem đến cho công chúng những cảm nhận về vẻ đẹp tuyệt mỹ của tạo hoá, thế
nhưng mấy ai biết được sự thật nằm sau vẻ đẹp tuyệt vời kia?
Phần kết của tác phẩm để lại nhiều suy ngẫm: “Quái lạ, tuy là ảnh đen
trắng nhưng mỗi lần ngắm kỹ, tôi vẫn thấy hiện lên cái màu hồng hồng của ánh
sương mai lúc bấy giờ tôi nhìn thấy từ bãi xe tăng hỏng, và nếu nhìn lâu hơn,
bao giờ tôi cũng thấy người đàn bà ấy đang bước ra khỏi tấm ảnh, đó là một
người đàn bà vùng biển cao lớn với những đường nét thô kệch, tấm lưng áo bạc
phếch có miếng vá, nửa thân dưới ướt sũng, khuôn mặt rỗ đã nhợt trắng vì kéo
lưới suốt đêm. Mụ bước những bước chậm rãi, bàn chân dậm trên mặt đất chắc
chắn, hòa lẫn trong đám đông.”

Cuộc sống vốn vậy, vẫn đẹp tươi, êm ả, nhưng nếu không có tấm lòng để
nhận ra những uẩn khúc số phận thì những vẻ đẹp như màu hồng hồng của ánh
sương mai kia cũng trở nên vô nghĩa, người nghệ sĩ phải nhận ra sự thật ẩn
khuất sau màn sương huyền ảo kia, phải tiếp cận sự thật để nhận ra ý nghĩa đích
thực của cuộc sống và con người.
* Rèn luyện kỹ năng diễn đạt ngôn ngữ thông qua tổ chức hướng dẫn
học sinh tìm hiểu bút pháp nghệ thuật của truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài
xa”(Nguyễn Minh Châu).
Một thực trạng có thể thấy được là học sinh trung học phổ thông kiến thức
lí luận văn học rất yếu, để có thể tìm hiểu thấu đáo những điều thuộc về đặc
trưng của thể loại văn học. Các thầy cô cũng chưa có sự quan tâm đúng mức
14


trong việc trang bị kiến thức lí luận văn học cho các em. Đó là khó khăn trong
việc giúp các em thấy được những đặc sắc, sáng tạo của Nguyễn Minh Châu thể
hiện ở tác phẩm này. Nên muốn các em hiểu thấu đáo vấn đề, giáo viên cần cung
cấp cho các em kiến thức về lí luận văn học, đặc trưng truyện ngắn sau 1975,…
Riêng đối với tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa, cần lưu ý các em phân tích
tình huống truyện có tính nhận thức, cách trần thuật sắc sảo và chân thật của nhà
văn, đặc biệt cần giúp các em thấy được tính chất triết lí sâu sắc và đầy giá trị
nhân văn của truyện ngắn. Vấn đề các hình ảnh có tính chất biểu tượng cũng cần
được lưu ý tìm hiểu đúng mức. Đó là các biểu tượng: Chiếc thuyền ngoài xa; bãi
xe tăng; tấm ảnh nghệ thuật,…Không nên áp đặt mà cần gợi mở để các em tự
rút ra ý nghĩa sâu sắc của hình tượng văn học, đảm bảo tính đa nghĩa của tác
phẩm.
Giáo viên lồng ghép rèn luyện kỹ năng diễn đạt ngôn ngữ cho học
sinh:
- Rèn luyện kỹ năng diễn đạt cho học sinh: Bài tập rèn luyện kỹ năng diễn
đạt ngôn ngữ phải phong phú, đa dạng và có hệ thống. Bài tập rèn luyện kỹ năng

diễn đạt ngôn ngữ phải phù hợp với cấu trúc, thao tác của quá trình tư duy ở học
sinh. Bài tập rèn luyện kỹ năng diễn đạt phải được xây dựng theo các cấp độ
câu, đoạn, văn bản.
- Ở bậc trung học phổ thông vấn đề rèn luyện ngôn ngữ được đặt ở nhiều
cấp độ. Mỗi cấp độ rèn luyện lại bao gồm nhiều thể loại phong cách ngôn ngữ
văn bản khác nhau như phong cách ngôn ngữ văn bản hành chính khoa học,
phong cách ngôn ngữ văn bản nghị luận, phong cách ngôn ngữ văn chương
nghệ thuật … Mỗi loại, bên cạnh những yêu cầu có tính chuẩn mực về dùng từ,
đặt câu … nó còn có những đặc điểm riêng về phương thức diễn đạt, cái làm nên
đặc trưng loại bài.Thể loại văn nghị luận cũng vậy.
Để tránh sự trùng lặp, hệ thống bài tập không xây dựng theo các kiểu loại
nhận biết, cải biến, chữa lỗi, sáng tạo hay tổng hợp mà hệ thống bài tập được
xây dựng theo các cấp độ đơn vị ngôn ngữ (câu, đoạn, bài).
Tóm lại yêu cầu chung là bài tập phải mạng tính khoa học, tính giáo dục
và tính thực tiễn.
Bài tập rèn luyện kỹ năng diễn đạt ở cấp độ câu: Kỹ năng diễn đạt ở
bậc câu chính là sự thành thạo trong việc tạo câu giao tiếp (nói ra, viết ra) sao
cho thể hiện được vừa đúng, vừa phong phú tình ý của chủ thể viết câu. Để đạt
được điều đó, chúng tôi tập trung vào các kỹ năng bộ phận sau đây: chọn sắp
xếp, kết hợp từ ngữ trong câu, thay thế từ, Xây dựng và cho HS luyện tập các
bài tập sử dụng yếu tố từ ngữ trong chức năng thể hiện chiều hướng lập luận của
câu.
- Tìm những câu văn độc đáo, hấp dẫn, giàu giá trị biểu đạt. Nhận xét câu
văn của Nguyễn Minh Châu.
VD:
+ “Thằng nhỏ cho đến lúc này vẫn chẳng hề hé răng, như một viên đạn
bắn vào người đàn ông và bây giờ đang xuyên qua tâm hồn người đàn bà, làm rỏ
xuống những dòng nước mắt, và cái thằng nhỏ, lặng lẽ đưa mấy ngón tay khẽ sờ
15



trên khuôn mặt người mẹ, như muốn lau đi những giọt nước mắt chứa đầy trong
những nốt rỗ chằng chịt.” câu văn dài, mở rộng thành phần, kết hợp thủ pháp so
sánh diễn tả nỗi đau xuyên thấu trái tim người đàn bà khi chứng kiến đứa con
yêu quý đang dần nhiễm thói xấu của người cha.
+ “Ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng” hình thức lặp cấu trúc,
nỗi đau dường như nghiền đi nghiến lại hòa trong nỗi đau mặn chát của người
đàn bà trước những cơn cuồng nộ của chồng.
Bài tập rèn luyện kỹ năng diễn đạt ở cấp độ đoạn văn :
- Từ truyện ngắn « Chiếc thuyền ngoài xa » hãy viết đoạn văn nghị luận
khoảng 15 câu về nguyên nhân của tình trạng bạo lực gia đình.
- Học sinh cần đảm bảo các yêu cầu sau :
+ Hình thức : đảm bảo cấu trúc đoạn văn.
+ Nội dung cần làm rõ các nguyên nhân dẫn đến bạo lực gia đình như :
đói nghèo ; lạc hậu ; áp lực cuộc sống tha hóa đạo đức ; gia tăng dân số ;…
Bài tập rèn luyện kỹ năng diễn đạt ở cấp độ văn bản.
Rèn luyện kỹ năng diễn đạt phải có sự kết hợp giữa trang bị kiến thức liên
kết văn bản cho HS đi cùng với việc rèn luyện kỹ năng sử dụng các phương tiện
liên kết văn bản.
Kỹ năng diễn đạt ở cấp độ văn bản chính là sự thành thạo trong việc dùng
câu, đoạn, để tạo được những văn bản hoàn chỉnh, làm nổi bật được chủ đề
chung nhằm đạt hiệu quả cao trong giao tiếp. Trong khuôn khổ SKKN và điều
kiện thực nghiệm chúng tôi không đi sâu vào nội dung này. Chúng tôi chỉ tập
trung vào hai loại kỹ năng sau đây ở mức độ vừa phải.
-Bài tập về nhà: Cảm nhận của anh (chị) về vẻ đẹp của người đàn bà làng
chài trong tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa”(Nguyễn Minh Châu).
-Yêu cầu học sinh về nhà làm chú ý: Xây dựng luận điểm, luận cứ; Lập
luận; dẫn chứng; lí lẽ;…
2.4. KẾT QUẢ ÁP DỤNG SÁNG KIẾN
Sau qua trình tìm tòi, nghiên cứu để tìm ra hướng tiếp cận văn bản, lồng

ghép rèn luyện kỹ năng diễn đạt ngôn ngữ cho học sinh trong thực tế giảng dạy,
tôi nhận thấy hiệu quả của vấn đề như sau.
- Cung cấp kiến thức đầy đủ, chính xác, lồng ghép rèn luyện kỹ năng diễn
đạt ngôn ngữ cho học sinh nhẹ nhàng nhưng hiệu quả, không áp đặt.
- Phát huy được sự tích cực chủ động, tạo hứng thú cho học sinh.
- Góp phần hoàn thiện rèn luyện kỹ năng diễn đạt ngôn ngữ của học sinh
và thấy được môn Văn rất cần thiết và hữu ích với các em trong cuộc sống.
- Rèn luyện cho học sinh năng lực làm việc theo nhóm, vận dụng kiến
thức lí thuyết, năng lực thiết kế, khả năng tổ chức, năng lực tư duy sáng tạo,
năng lực giải quyết những vấn đề phức hợp, năng lực đánh giá, kỹ năng ứng
dụng công nghệ thông tin,… Đồng thời còn rèn luyện tính bền bỉ, kiên nhẫn
trong quá trình hoàn thiện kỹ năng diễn đạt ngôn ngữ cho các em.
3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
- Vấn đề đổi mới phương pháp dạy học và rèn luyện kỹ năng diễn đạt ngôn
ngữ cho học sinh thông qua tìm hiểu tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa (Nguyễn
16


Minh Châu) hẳn sẽ còn nhiều ý kiến tranh luận. Trên đây, người viết chỉ xin đưa
ra một vài suy nghĩ đúc kết sau những tiết giảng dạy tác phẩm trong thực tế, đó
là những suy nghĩ nhỏ của bản thân nhằm giúp cho học sinh cảm nhận được giá
trị của tác phẩm, để bồi dưỡng cho các em không phải chỉ là kiến thức văn học
mà còn vun đắp tâm hồn, đánh thức các em về trách nhiệm với cuộc đời, quan
tâm tới thực tế cuộc sống còn nhiều đói nghèo, bất trắc của một bộ phận nhân
dân. Giáo dục cho học sinh những kỹ năng cần thiết trong cuộc sống làm hành
trang vững bước vào đời, tránh được phần nào những va vấp trong cuộc sống.
Đồng thời góp phần rèn luyện kỹ năng diễn đạt ngôn ngữ cho học sinh.
- Việc rèn luyện kỹ năng diễn đạt ngôn ngữ cho học sinh có ý nghĩa thực tiễn
cao nên việc đổi mới là rất cần thiết. Tuy nhiên, để đổi mới được là cả một quá
trình rất cần sự nỗ lực từ nhiều phía, đặc biệt là từ giáo viên và sự hỗ trợ của các

nhà giáo dục. Thành ngữ Việt Nam có câu: “Phong ba bão táp không bằng ngữ
pháp Việt Nam” sự phong phú và đa dạng của từ ngữ và ngữ pháp là một thách
thức lớn đối với giáo viên ngữ văn, trong đó việc thiếu tài liệu tham khảo là một
trở ngại lớn ảnh hưởng đến chất lượng giờ dạy. Từ đó, ảnh hưởng đến chất
lượng tiếp nhận của học sinh. Rất mong được quý cấp lãnh đạo quan tâm giúp
đỡ.
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG
ĐƠN VỊ

Thanh Hóa, ngày 18 tháng 5 năm
2019
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung của
người khác.
(Ký và ghi rõ họ tên)

Nguyễn Thị Tâm

17



×