Tải bản đầy đủ (.docx) (91 trang)

Trách nhiệm pháp lý của công chứng viên trong các giao dịch về quyền sử dụng đất theo pháp luật việt nam từ thực tiễn tỉnh bắc ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (338.35 KB, 91 trang )

HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN HOÀNG DŨNG

TRÁCH NHIỆM PHÁP LÝ CỦA CÔNG CHỨNG VIÊN
TRONG CÁC GIAO DỊCH VỀ QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM
TỪ THỰC TIỄN TỈNH BẮC NINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ

HÀ NỘI, 2019


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN HOÀNG DŨNG

TRÁCH NHIỆM PHÁP LÝ CỦA CÔNG CHỨNG VIÊN
TRONG CÁC GIAO DỊCH VỀ QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM
TỪ THỰC TIỄN TỈNH BẮC NINH

Chuyên ngành : Luật Kinh Tế
Mã số: 83.80.107

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. NGUYỄN TRUNG TÍN


HÀ NỘI, 2019


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn này là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các
kết quả nêu trong luận văn chưa được ai công bố trong bất kỳ công trình khoa
học nào khác, số liệu, trích dẫn trong luận văn đảm bảo tính chính xác và trung
thực.
Vậy tôi viết lời cam đoan này kính đề nghị Học viện Khoa học xã hội xem
xét cho phép tôi được bảo vệ luận văn.
Tôi xin trân thành cảm ơn!
Người cam đoan

Nguyễn Hoàng Dũng


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU..............................................................................................................1
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRÁCH NHIỆM PHÁP LÝ
CỦA CÔNG CHỨNG VIÊN TRONG CÁC GIAO DỊCH VỀ QUYỀN SỬ
DỤNG ĐẤT THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM................................................7
1.1 Pháp luật về công chứng, tổ chức hành nghề công chứng...........................7
1.2 Pháp luật về các giao dịch quyền sử dụng đất............................................ 12
1.3 Pháp luật về công chứng viên và những vấn đề liên quan đến trách nhiệm
pháp lý của công chứng viên............................................................................ 16
Chương 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ TRÁCH NHIỆM PHÁP LÝ
CỦA CÔNG CHỨNG VIÊN TRONG CÁC GIAO DỊCH VỀ QUYỀN SỬ
DỤNG ĐẤT THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN TỈNH
BẮC NINH......................................................................................................... 31
2.1 Khái quát tình hình địa phương liên quan đến vấn đề nghiên cứu.............31

2.2 Văn phòng công chứng, phòng công chứng tại tỉnh Bắc Ninh...................35
2.3 Thực trạng vấn đề trách nhiệm pháp lý của công chứng viên trong các giao
dịch về quyền sử dụng đất theo pháp luật

Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Bắc

Ninh................................................................................................................. 38
2.4 Những tồn tại, hạn chế thuộc về trách nhiệm pháp lý của công chứng viên
trong các giao dịch về quyền sử dụng đất theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn
tỉnh Bắc Ninh…………………………………………………....................49
Chương 3. ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP VỀ TRÁCH NHIỆM PHÁP LÝ
CỦA CÔNG CHỨNG VIÊN KHI THỰC HIỆN CÔNG CHỨNG CÁC
GIAO DỊCH VỀ QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT THEO PHÁP LUẬT VIỆT
NAM................................................................................................................... 63
3.1 Định hướng bảo đảm pháp luật về trách nhiệm pháp lý của công chứng
viên trong các tổ chức hành nghề công chứng theo pháp luật Việt Nam.........63


3.2 Giải pháp hoàn thiện trách nhiệm pháp lý của công chứng viên trong các
giao dịch về quyền sử dụng đất theo pháp luật Việt Nam................................ 68
KẾT LUẬN........................................................................................................ 78
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO......................................................... 80


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đất đai là tài sản đặc biệt luôn gắn liền với mọi giao dịch, hoạt động kinh
doanh. Bắc Ninh đang dần trở thành một trong những tỉnh có tiến độ phát triển công
nghiệp khá mạnh trong cả nước. Tại đây các vấn đề liên quan đến đất đai như:
chuyển nhượng, tặng cho, thừa kế, thế chấp quyền sử dụng đất, cầm cố, thế chấp,

cho thuê đất, các tranh chấp về quyền sử dụng đất diễn ra ngày càng nhiều và phức
tạp. Theo khoản 3 Điều 167 Luật Đất đai 2013 [39], các loại hợp đồng, văn bản thực
hiện các quyền của người sử dụng đất phải được công chứng, chứng thực gồm: Hợp
đồng chuyển nhượng, tặng cho, thế chấp, góp vốn bằng quyền sử dụng đất, quyền
sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất. Ngoài ra, văn bản về thừa kế quyền sử dụng
đất, quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất cũng được công chứng hoặc chứng
thực theo quy định. Có hiệu lực thi hành kể từ ngày 1/1/2015, Luật Công chứng
2014 tập trung sửa đổi, bổ sung quy định về Công chứng viên, tổ chức hành nghề
công chứng nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ Công chứng viên, phát triển các tổ
chức hành nghề công chứng quy mô lớn, hoạt động ổn định, bền vững, tăng cường
chất lượng hoạt động, tiếp tục đẩy mạnh xã hội hóa hoạt động công chứng. Đồng
thời, bảo đảm an toàn pháp lý cho các bên tham gia hợp đồng, giao dịch, phòng
ngừa tranh chấp, góp phần bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức, ổn
định và phát triển kinh tế - xã hội. Luật Công chứng 2014 có nhiều quy định mới tác
động đến tổ chức và hoạt động công chứng, chế độ hành nghề của Công chứng viên.
Tinh thần của Luật là tiếp tục phát triển mạnh mẽ xã hội hóa hoạt động công chứng,
kiện toàn hơn nữa chất lượng đội ngũ Công chứng viên ngang tầm với nhiệm vụ
trong thời kỳ mới và hội nhập quốc tế, đề cao vai trò tự quản của tổ chức xã hội nghề nghiệp của Công chứng viên. Theo Luật Công chứng 2014 [40], Công chứng
viên phải đảm bảo và chịu trách nhiệm đối với tính xác thực, tính hợp pháp của các
loại giấy tờ trong hồ sơ mà người yêu cầu công chứng cung cấp. Trong trường hợp
có căn cứ cho rằng hồ sơ yêu cầu công chứng có

1


dấu hiệu bị đe dọa, cưỡng ép hoặc cần được làm rõ thì Công chứng viên đề nghị
làm rõ hoặc xác minh, yêu cầu giám định theo đề nghị của người yêu cầu công
chứng; nếu không làm rõ được thì từ chối công chứng.
Để làm rõ hơn phần trách nhiệm pháp lý của Công chứng viên tôi
chọn đề tài : “Trách nhiệm pháp lý của Công chứng viên trong các giao dịch

về quyền sử dụng đất theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh” làm
đề tài luận văn Thạc sĩ Luật học.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Sự hình thành và phát triển của công chứng Việt Nam gắn liền với các giai
đoạn của lịch sử nước ta, đạt nhiều kết quả đáng ghi nhận trong quá trình phát triển,
nhất là từ khi đất nước bước vào giai đoạn đổi mới. Ngay sau khi Cách mạng tháng
Tám thành công, hoạt động công chứng ở nước ta đã được đặt nền móng với Sắc
lệnh số 59/SL của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, mãi đến năm 2006, hoạt động
công chứng mới chính thức được luật hóa với sự ra đời của Luật Công chứng năm
2006 và tiếp đó là Luật Công chứng năm 2014. Trên cơ sở quy định của pháp luật
và tình hình thực tiễn việc thực hiện pháp luật của Công chứng viên tại các địa
phương, đã có một số đề tài nghiên cứu về lĩnh vực này như:
- Đề tài Luận văn mang mã số 60.38.01.03 về “ Quy chế Công chứng viên

theo pháp luật Việt Nam” của tác giả Chu Hồng Sơn năm 2015 [48, tr. 2]. Luận văn
đã thể hiện rõ những quy định đã được thực tiễn kiểm nghiệm của Luật hiện hành,
luật hoá các quy định có tính nguyên tắc trong các văn bản hướng dẫn thi hành của
Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, đồng thời phân tích rõ về điều kiện hành nghề
công chứng, thành lập các Văn phòng công chứng, quy hoạch phát triển các tổ chức
hành nghề công chứng, điều kiện bổ nhiệm Công chứng viên, nâng cao chất lượng
đội ngũ Công chứng viên, chất lượng hoạt động công chứng, tăng cường trách
nhiệm của Công chứng viên trong hoạt động công chứng để công chứng thực sự trở
thành một công cụ "bảo vệ" người dân trong quan hệ dân sự, qua đó bảo đảm tốt
hơn cho cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp sử dụng dịch vụ công chứng trong điều

2


kiện các giao dịch dân sự, kinh tế, thương mại ngày càng đa dạng, phong phú và
phức tạp.

-

Luận văn thạc sĩ mang mã số 60.85.01.03 “ Đánh giá thực trạng công

tác công chứng, chứng thực các giao dịch về đất đai trên địa bàn quận Đống
Đa,
Thành phố Hà Nội” của tác giả Hà Lan Hương năm 2013 [31, tr. 3]. Đề tài
nghiên cứu khoa học đã làm rõ hoạt động công chứng, chứng thực những giao
dịch liên quan đến Đất đai trên địa bàn quận Đống Đa để từ đó có những nhận
xét đánh giá chính xác về thực tiễn thi hành luật công chứng. Luận văn cũng chỉ
ra những tồn tại và hạn chế trong hoạt động công chứng, chứng thực các giao
dịch liên quan đến đất đai của quận Đống Đa và cũng đưa ra những giải pháp để
khắc phục những tồn tại hạn chế đó.
- Luận văn thạc sĩ mang mã số 8.38.01.02 “ Quản lý nhà nước đối với các tổ

chức hành nghề công chứng từ thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi” của tác giả Nguyễn
Thị Cẩm Lai năm 2018 [33, tr. 12]. Luận văn đã nêu lên những thực trạng về tình
hình quản lý nhà nước đối với các tổ chức hành nghề công chứng trên địa bàn
tỉnh Quảng Ngãi và từ đó đưa ra những quan điểm giải pháp hoàn thiện quản lý
nhà nước đối với các tổ chức hành nghề công chứng.
- Luận văn thạc sĩ mang mã số 8.38.01.02 “ Quản lý nhà nước về công chứng

trong lĩnh vực chuyển nhượng tài sản từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh” của
tác giả Vi Châu Khánh năm 2018 [32]. Luận văn đã chỉ ra những vấn đề lý luận
và pháp luật của quản lý nhà nước về lĩnh vực công chứng trong chuyển nhượng
tài sản. Trên thực tế tại Thành phố Hồ Chí Minh phát sinh những giao dịch về
chuyển nhượng tài sản mà pháp luật công chứng gắn liền thì tác giả cũng đưa ra
những giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về công chứng trong lĩnh
vực chuyển nhượng tài sản.
-


Luận văn Thạc sĩ mang mã số 60.38.01.07 “ Chuyển nhượng quyền sử

dụng đất của tổ chức kinh tế theo quy định của luật đất đai 2013” của tác giả
Nguyễn Ngọc Anh năm 2015 [1]. Luận văn nêu rõ trọng tâm các khó khăn vướng

3


mắc về chuyển nhượng quyền sử dụng đất của tổ chức kinh tế theo luật đất đai
2013 và đưa ra các giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi các quy định của luật đất
đai 2013 về chuyển nhượng quyền sử dụng đất của tổ chức kinh tế.
- Luận văn Thạc sĩ mang mã số 8.38.01.07 “ Thế chấp bằng quyền sử dụng

đất ở để đảm bảo hợp đồng tín dụng ngân hàng theo pháp luật Việt Nam hiện nay
từ thực tiễn Thành phố Đà Nẵng” của tác giả Lương Đình Thí năm 2018 [63]. Luận
văn nêu lên thực trạng của pháp luật về thế chấp quyền sử dụng đất ở để bảo đảm
hợp đồng tín dụng ngân hàng và thực tiễn áp dụng tại tổ chức tín dụng ở Thành phố
Đà Nẵng. Cùng với đó tác giả cũng nêu ra các phương hướng, giải pháp hoàn thiện
pháp luật và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về thế chấp quyền sử dụng đất ở
để đảm bảo hợp đồng tín dụng ngân hàng ở Việt Nam hiện nay.
-

Luận văn Thạc sĩ mang mã số 60.38.01.03 “ Thừa kế quyền sử dụng đất

theo pháp luật Việt Nam” của tác giả Trần Huy Nam năm 2016[34]. Luận văn đã
làm rõ những vấn đề lý luận về thừa kế quyền sử dụng đất. Trên cơ sở nghiên
cứu lý luận và thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật về thừa kế quyền sử
dụng đất, luận văn đã đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định của
pháp luật về thừa kế quyền sử dụng đất.

Những luận văn đã được công bố nêu trên đã góp phần làm rõ những vấn đề
lý luận về công chứng nói chung và công chứng viên nói riêng. Cùng với đó là
những lý luận về giao dịch liên quan đến quyền sử dụng đất như chuyển nhượng,
thế chấp, thừa kế. Tuy nhiên cũng cho thấy rằng chưa có công trình nghiên cứu nào
nói về “ Trách nhiệm pháp lý của công chứng viên trong các giao dịch về quyền sử
dụng đất theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh”
3.

Mục đích và nhiệm vụ nghiên

cứu 3.1 Mục đích nghiên cứu
Làm sáng tỏ thêm về mặt lý luận, trách nhiệm pháp lý của công chứng
viên trong các giao dịch về quyền sử dụng đất.
3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu

4


Phân tích và làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận và quy định của pháp luật
về hoạt động công chứng và trách nhiệm pháp lý của Công chứng viên gắn liền
với hoạt động công chứng liên quan đến các giao dịch về quyền sử dụng đất
Phân tích và đánh giá thực tiễn thực hiện pháp luật về hoạt động công chứng
trong đó có trách nhiệm pháp lý của Công chứng viên đối với các hợp đồng , giao
dịch liên quan đến quyền sử dụng đất. Trên cơ sở đó, tìm ra những vướng mắc trong
quá trình thực hiện pháp luật, xác định được những bất cập, qua đó tiến hành tìm
hiểu những nguyên nhân để đề xuất những giải pháp, kiến nghị cụ thể cho việc hoàn
thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật đối của Công chứng viên
trong các giao dịch về quyền sử dụng đất từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh
4.


Đối tượng và phạm vi nghiên

cứu 4.1 Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những quan hệ phát sinh trong việc
thực hiện pháp luật khi công chứng các giao dịch về quyền sử dụng đất.
4.2 Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu là những quan hệ phát sinh trong việc thực hiện pháp
luật khi công chứng các giao dịch về quyền sử dụng đất từ thực tiễn trên địa bàn
tỉnh Bắc Ninh từ năm 2015 đến nay.
5.

Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

5.1 Cơ sở lý luận
Luận văn được thực hiện trên cơ sở sử dụng cơ sở lý luận của phương pháp
luận nghiên cứu duy vật biện chứng và duy vật lịch sử; Sự chỉ đạo của đảng và nhà
nước nói chung về xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

5.2 Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ của luận văn, tác giả đã sử dụng các
phương pháp nghiên cứu: Phương pháp so sánh, phương pháp thống kê, phương
pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp điều tra, phương pháp khảo

5


sát thực tiễn về trách nhiệm pháp lý của Công chứng viên trong các giao dịch về
quyền sử dụng đất từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh.
6.


Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

6.1 Ý nghĩa lý luận
Luận văn đã hệ thống, phân tích, bổ sung những vấn đề có tính lý luận về
trách nhiệm pháp lý của Công chứng viên và các giao dịch liên quan đến quyền
sử dụng đất.
6.2 Ý nghĩa thực tiễn
Các luận cứ và giải pháp của đề tài có thể sử dụng cho việc hoàn thiện các
chế định pháp luật có liên quan đến tổ chức hành nghề công chứng nói chung và
Công chứng viên nói riêng.
7.

Kết cấu luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, kết cấu luận
văn gồm 03 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về trách nhiệm pháp lý của công chứng
viên trong các giao dịch về quyền sử dụng đất theo pháp luật Việt Nam.
Chương 2: Thực trạng pháp luật về trách nhiệm pháp lý của công chứng
viên trong các giao dịch về quyền sử dụng đất theo pháp luật Việt Nam từ thực
tiễn tỉnh Bắc Ninh.
Chương 3: Định hướng và giải pháp về trách nhiệm pháp lý của công
chứng viên khi thực hiện công chứng các giao dịch về quyền sử dụng đất theo
pháp luật Việt Nam.

6


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRÁCH NHIỆM PHÁP LÝ

CỦA CÔNG CHỨNG VIÊN TRONG CÁC GIAO DỊCH
VỀ QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM
1.1 Pháp luật về công chứng, tổ chức hành nghề công chứng
1.1.1 Khái niệm và đặc điểm về công chứng
1.1.1.1 Khái niệm công chứng
Sau khi cách mạng tháng Tám thành công, nhà nước Việt Nam dân chủ cộng
hòa ra đời. Trong hoàn cảnh đầy khó khăn, phức tạp lúc bấy giờ, Chính phủ nước
Việt Nam dân chủ cộng hòa vẫn không quên việc giải quyết vấn đề về thể chế công
chứng. Ngày 1 tháng 10 năm 1945 (một tháng sau khi tuyên bố độc lập), Bộ trưởng
Bộ Tư pháp Vũ Trọng Khánh đã ký quyết định về một số việc liên quan đến hoạt
động công chứng như: bãi chức công chứng viên người Pháp tên là Deroche tại Văn
phòng công chứng; bổ nhiệm một công chứng viên người Việt Nam là ông Vũ Quý
Vỹ (luật khoa cử nhân, luật sư tập sự tại Tòa thượng thẩm Hà Nội) thay thế cho
công chứng viên người Pháp tại Hà Nội. Trong nghị định này đã chỉ rõ: những quy
định cũ về công chứng của Pháp vẫn được áp dụng, trừ những quy định trái với
chính thể Việt Nam dân chủ cộng hòa; công chứng viên chịu trách nhiệm và chịu sự
kiểm tra giám sát của Ủy ban hành chính các cấp.
Như vậy, có thể thấy rằng, tổ chức công chứng đầu tiên của nước Việt Nam
dân chủ cộng hòa là sự kế thừa tổ chức công chứng của Pháp để lại, tuy nhiên cũng
chỉ còn một phòng công chứng tại Hà Nội[5]. Các nguyên tắc quy chế hoạt động
công chứng vẫn như cũ, trừ những quy định trái với nền độc lập và chính thể Dân
chủ công hòa của nước ta lúc bấy giờ. Điểm mới của thể chế công chứng này được
thể hiện ở chỗ: Đó là thể chế công chứng của nhà nước Việt Nam Dân chủ cộng
hòa, công chứng viên là người Việt Nam và đây cũng là lần đầu tiên trong một văn
bản pháp lý nhà nước ta đã sử dụng thuật ngữ “công chứng”.

7


Sang đầu thập kỷ chín mươi, sự nghiệp đổi mới toàn diện ở đất nước ta

dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam thu được nhiều thành tựu rực rỡ.
Cụ thể, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI năm 1986 là một bước ngoặt lịch sử
trong tiến trình phát triển đất nước ta – Đại hội của sự đổi mới, mở cửa, chúng ta
tiến hành đổi mới quản lý kinh tế, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa. Tiếp theo sự thành công của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI,
Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII năm 1991 với cương lĩnh xây
dựng đất nước trong thời lỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và chiến lược kinh tế –
xã hội đã vạch ra những định hướng lớn về kinh tế, tiếp tục phát triển nền kinh tế
hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Theo quan điểm
chỉ đạo của Nghị quyết Đảng, ngày 27 tháng 2 năm 1991 Hội đồng Bộ trưởng
ban hành Nghị định số 45/HĐBT về tổ chức và hoạt động công chứng Nhà nước,
đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế xã hội chủ nghĩa, đảm bảo giá trị pháp lý của
các văn bản pháp luật về công chứng. Theo Nghị định này thì “ Phòng Công
chứng Nhà nước là cơ quan thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh có tư cách pháp nhân, có
tài khoản riêng ở Ngân hàng, có con dấu mang hình quốc huy”, theo đó, mỗi tỉnh
sẽ có một phòng công chứng riêng. Ở những nơi chưa thành lập được phòng
công chứng thì Ủy ban nhân dân được thực hiện một số việc công chứng.
Sau hơn 5 năm thực hiện (từ tháng 2/1991-5/1996) Nghị định 45/HĐBT,
chúng ta đã thu được khá nhiều thành công trong việc tổ chức và hoạt động công
chứng. Thể chế công chứng ở nước ta đã được hình thành và phát triển khá nhanh
trên thực tế do gặp được môi trường thuận lợi, đó là cơ chế thị trường. Tuy nhiên,
với sự phát triển nhanh chóng của cơ chế kinh tế thị trường ở nước ta, nhu cầu về
giao kết dân sự, hợp đồng kinh tế,… của các tổ chức, cá nhân ngày càng tăng và có
nhiều thay đổi liên quan đến hoạt động công chứng và Nghị định 45/HĐBT không
còn đáp ứng được. Chính vì thế, ngày 18 tháng 5 năm 1996, Chính phủ ban hành
Nghị định số 31/CP về tổ chức và hoạt động công chứng Nhà nước thay thế cho
Nghị định số 45/HĐBT, theo đó, Phòng công chứng thuộc Sở Tư pháp nhằm

8



chuyên môn hóa hoạt động công chứng và giảm tính trạng quá tải cho Ủy ban
nhân dân. Ngày 03 tháng 10 năm 1996, Bộ Tư pháp ban hành Thông tư số 411TT/CC hướng dẫn thực hiện Nghị định 31/CP.Tuy nhiên, những văn bản này vừa
quy định về công chứng, vừa quy định về chứng thực và sự phân biệt giữa công
chứng và chứng thực là không rõ ràng.
Do nhu cầu giao kết ngày càng phong phú, đa dạng về số lượng cũng như nội
dung các lĩnh vực giao kết, nên Nghị định 31/CP đã bộc lệ nhiều điểm bất cập. Do đó,
ngày 08 tháng 12 năm 2000, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 75/2000/NĐ-CP về
công chứng, chứng thực. Nghị định này quy định về phạm vi công chứng, chứng thực;
tổ chức phòng công chứng; nguyên tắc hoạt động; trình tự thủ tục thực hiện việc công
chứng, chứng thực; công tác chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp huyện, quận, thị xã,
thành phố thuộc tỉnh và Ủy ban nhân dân cấp xã, phường, thị trấn. Cũng trong Nghị
định này, thuật ngữ phòng công chứng đã được sử dụng để thay thế cho thuật ngữ
phòng công chứng Nhà nước, góp phần vào yêu cầu quan trọng trong việc xã hội hóa
hoạt động công chứng ở nước ta. Trước nhu cầu công chứng ngày càng lớn, để đáp ứng
nhu cầu của những người yêu cầu công chứng và thực hiện hiệu quả hơn nữa chủ
trương xã hội hóa hoạt động công chứng. Ngày 29 tháng 11 năm 2006, tại kỳ họp thứ
10 Quốc hội khóa XI, Luật Công chứng đã được thông qua và có hiệu lực thi hành vào
ngày 01 tháng 07 năm 2007. Theo Luật Công chứng 2006, công chứng viên được thừa
nhận là một nghề, ghi nhận tổ chức hành nghề công chứng tư và công chứng viên
chứng nhận các hợp đồng, giao dịch và không thực hiện các việc chứng thực như: sao
y, chứng nhận chữ ký. Để góp phần vào việc thực hiện hoạt động công chứng tốt hơn,
các văn bản hướng dẫn thi hành luật công chứng cũng lần lượt ra đời như Nghị định số
79/2007/NĐ-CP của Chính phủ ban hành ngày 18 tháng 5 năm 2007 về cấp bản sao từ
sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký giao về Phòng Tư pháp
cấp huyện và Ủy ban nhân dân cấp xã; Nghị định số 02/2008/NĐ-CP của Chính phủ
ngày 04 tháng 01 năm 2008 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của
Luật Công chứng.

9



Trước yêu cầu thực tiễn của hoạt động công chứng và để tiếp tục thể chế
hoá Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02 tháng 6 năm 2005 của Bộ Chính trị về
chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, tạo cơ sở pháp lý cho việc đẩy mạnh
xã hội hoá hoạt động công chứng, đảm bảo thực hiện tốt các nghĩa vụ thành viên
của Liên minh công chứng Quốc tế, Luật công chứng mới đã được Quốc hội
nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XIII, kỳ họp thứ bảy thông qua
ngày 20/6/2014 và có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/2015 (sau đây gọi là
Luật công chứng năm 2014).
Để thực hiện Luật Công chứng đạt được những thành tựu trong quá trình
phát triển của hoạt động công chứng, Chính phủ, Bộ Tư pháp đã ban hành các
văn bản hướng dẫn dân chi tiết bao gồm: Nghị định 29/2015/NĐ-CP quy định
chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Công chứng (có hiệu lực
ngày 1/5/2015) về chuyển đổi Phòng công chứng thành Văn phòng công chứng;
hợp nhất, sáp nhập, chuyển nhượng Văn phòng công chứng; chính sách ưu đãi
đối với Văn phòng công chứng thành lập tại các địa bàn có điều kiện kinh tế – xã
hội khó khăn, đặc biệt khó khăn; điều kiện về trụ sở của Văn phòng công chứng;
niêm yết việc thụ lý công chứng văn bản thỏa thuận phân chia di sản, văn bản
khai nhận di sản; bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp của công chứng viên và tổ
chức xã hội – nghề nghiệp của công chứng viên; Thông tư số 06/2015/TT-BTP
quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Công chứng (có
hiệu lực ngày 1/8/2015) về thủ tục đề nghị bổ nhiệm công chứng viên, đăng ký
hành nghề, cấp Thẻ công chứng viên; đào tạo nghề công chứng, khoá bồi dưỡng
nghề công chứng, bồi dưỡng nghiệp vụ công chứng hàng năm; tổ chức và hoạt
động công chứng; một số mẫu giấy tờ trong hoạt động công chứng.
1.1.1.2 Đặc điểm công chứng
Hoạt động công chứng do công chứng viên thực hiện.
Nội dung công chứng là xác định tính xác thực, tính hợp pháp của hợp
đồng giao dịch. Tính xác thực của các tình tiết, sự kiện có trong văn bản đó đã


10


được công chứng viên xác nhận. Công chứng viên kiểm chứng và xác nhận các
tình tiết, sự kiện có xảy ra trong thực tế, trong số đó có cả tình tiết, sự kiện chỉ
xảy ra một lần, không để lại hình dạng, dấu vết về sau, đó do, nếu không có công
chứng viên xác nhận thì về sau rất dễ xảy ra tranh chấp mà toà án không thể xác
minh được. Đồng thời, công chứng viên cũng kiểm tra và xác nhận tính hợp pháp
của hợp đồng giao dịch.
Có hai loại hợp đồng giao dịch thực hiện hoạt động công chứng, đó là các
loại hợp đồng giao dịch theo yêu cầu của pháp luật bắt buộc phải công chứng và
các hợp đồng giao dịch do cá nhân, tổ chức tự nguyện yêu cầu công chứng.
Ý

nghĩa pháp lý của hoạt động công chứng là bảo đảm giá trị thực hiện

cho các hợp đồng giao ý dịch, phòng ngừa tranh chấp và cung cấp chứng cứ nếu
có tranh chấp xảy ra.
Như vậy có thể hiểu, Công chứng là hành vi của công chứng viên lập,
chứng nhận tính xác thực của các giao dịch nhằm đảm bảo an toàn pháp lý cho
các chủ thể tham gia giao dịch, phòng ngừa tranh chấp và vi phạm pháp luật.
Văn bản công chứng có giá trị thực hiện và giá trị chứng cứ.
1.1.2 Tổ chức hành nghề công chứng
Tổ chức hành nghề công chứng bao gồm Phòng công chứng và Văn phòng
công chứng được tổ chức và hoạt động theo quy định của Luật công chứng do
Quốc hội Nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam bàn hành ngày 20/06/2014
[2] và các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan. Tổ chức hành nghề
công chứng thực hiện hai nghiệp vụ chính là công chứng và chứng thực.
Phòng công chứng do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định thành lập; là đơn

vị sự nghiệp công lập thuộc Sở Tư pháp, có trụ sở, con dấu và tài khoản riêng. Tổ
chức, hoạt động gồm các công chức, viên chức hưởng chế độ lương theo đơn vị sự
nghiệp công lập và trưởng phòng Phòng công chứng do Chủ tịch Ủy ban nhân dân
cấp tỉnh bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức. Thành lập do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh
quyết định thành lập theo quy định tại Điều 20 Luật công chứng 2014 [40]: Căn cứ

11


vào nhu cầu công chứng tại địa phương, Sở Tư pháp chủ trì phối hợp với Sở Kế
hoạch và Đầu tư, Sở Tài chính, Sở Nội vụ xây dựng đề án thành lập Phòng công
chứng trình Ủy ban nhân dân cấp tỉnh xem xét, quyết định.
Văn phòng công chứng được tổ chức và hoạt động theo quy định của Luật
công chứng 2014 và Luật Doanh nghiệp. Văn phòng công chứng phải có từ hai
công chứng viên hợp danh trở lên, văn phòng công chứng không có thành viên
góp vốn. Tổ chức hoạt động phải có từ hai công chứng viên hợp danh trở lên và
không có thành viên góp vốn. Nếu như Trưởng Phòng công chứng được hình
thành theo con đường bổ nhiệm thì Trường phòng Văn phòng công chứng do các
thành viên hợp danh tự bầu, tự thỏa thuận theo quy định của pháp luật liên quan
về loại hình công ty hợp danh. Việc thành lập do các công chứng viên thành lập
được quy định tại Điều 23 Luật công chứng 2014. Văn phòng công chứng phải
có hồ sơ đề nghị thành lập Văn phòng công chứng gửi Ủy ban nhân dân cấp tỉnh
xem xét, quyết định.
1.2 Pháp luật về các giao dịch quyền sử dụng đất
1.2.1 Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Khái niệm: Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất được hiểu là sự
thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên chuyển nhượng quyền sử dụng đất giao đất
và quyền sử dụng cho bên nhận chuyển nhượng, còn bên nhận chuyển nhượng
trả tiền cho bên chuyển nhượng theo quy định. Hợp đồng chuyển nhượng quyền
sử dụng đất phải được lập thành văn bản có công chứng, chứng thực và phải làm

thủ tục tại cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.
Bên chuyển nhượng quyền sử dụng đất có các nghĩa vụ: Chuyển giao đất
cho bên nhận chuyển nhượng đủ diện tích, đúng hạng đất, loại đất, ví trí, số hiệu
và tình trạng đất như đã thỏa thuận; giao giấy tờ có liên quan đến quyền sử dụng
đất cho bên nhận chuyển nhượng. Bên chuyển nhượng quyền sử dụng đất có
quyền được nhận tiền chuyển nhượng quyền sử dụng đất.

12


Bên nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất có các nghĩa vụ: trả đủ
tiền, đúng thời hạn và đúng phương thức đã thỏa thuận cho bên chuyển nhượng
quyền sử dụng đất; đăng ký quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật về
đất đai; đảm bảo quyền của người thứ ba đối với đất chuyển nhượng; thực hiện
các nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật về đất đai. Bên nhận chuyển
nhượng quyền sử dụng đất có quyền: yêu cầu bên chuyển nhượng quyền sử dụng
đất giao đất đủ diện tích, đúng hạng đất, loại đất, vị trí, số hiệu và tình trạng đất
như đã thỏa thuận; được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với đất
được chuyển nhượng; được sử dụng đất theo đúng mục đích, đúng thời hạn. Loại
đất, hạng đất, diện tích, vị trí, số hiệu, ranh giới và tình trạng đất (ghi theo giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất). Thời hạn sử dụng đất của bên chuyển nhượng;
thời hạn sử dụng đất con lại của bên nhận chuyển nhượng. Giá chuyển nhượng
(do các bên thỏa thuận hoặc theo quy định của pháp luật). Phương thức, thời hạn
thanh toán (có đặt cọc không? Trả tiền một lần hay nhiều lần, việc giải quyết tiền
đặt cọc đã nhận, trả bằng tiền mặt hay chuyển khoản…). Quyền của người thứ ba
đối với đất chuyển nhượng (nếu có).
1.2.2 Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất
Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất là sự thoả thuận giữa các bên, theo
đó bên tặng cho giao quyền sử dụng đất cho bên được tặng cho mà không yêu
cầu đền bù, còn bên được tặng cho đồng ý nhận theo quy định của Bộ luật Dân

sự và pháp luật về đất đai.
Bên tặng cho quyền sử dụng đất có các nghĩa vụ sau đây: Giao đất đủ diện
tích, đúng hạng đất, loại đất, vị trí, số hiệu và tình trạng đất như đã thoả thuận;
Giao giấy tờ có liên quan đến quyền sử dụng đất cho bên được tặng cho để làm
thủ tục đăng ký quyền sử dụng đất.
Bên được tặng cho quyền sử dụng đất có các nghĩa vụ sau đây: Đăng ký
quyền sử dụng đất tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định của pháp
luật về đất đai; Bảo đảm quyền của người thứ ba đối với đất được tặng cho; Thực

13


hiện các nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật về đất đai. Bên được tặng
cho quyền sử dụng đất có các quyền sau đây: Yêu cầu bên tặng cho giao đủ diện
tích, đúng hạng đất, loại đất, vị trí, số hiệu và tình trạng đất như đã thoả thuận;
Được sử dụng đất theo đúng mục đích, đúng thời hạn; Được cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất.
1.2.3 Thừa kế quyền sử dụng đất
Thừa kế quyền sử dụng đất là việc chuyển giao quyền sử dụng đất từ
người chết sang người thừa kế thông qua di chúc hợp pháp hoặc theo quy định
pháp luật. Thừa kế quyền sử dụng đất xảy ra người có quyền sử dụng đất mất đi
để lại quyền sử dụng đất cho những người khác theo di chúc hợp pháp hoặc theo
quy định pháp luật.
Đối với đất do người chết để lại (không phân biệt có tài sản hay không có
tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất) mà người đó đã có giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất theo Luật Đất đai năm 1987, Luật Đất đai năm 1993, Luật Đất
đai năm 2003 thì quyền sử dụng đất đó là di sản. Đối với trường hợp đất do
người chết để lại mà người đó có một trong các loại giấy quy định tại các Khoản
1, 2 và 5 Điều 50 của Luật Đất đai năm 2003, thì kể từ ngày 01/7/2004 quyền sử
dụng đất đó cũng là di sản, không phụ thuộc vào thời điểm mở thừa kế.

Tuy nhiên Luật đất đai 2013 ra đời thay thế Luật Đất đai 2003 [39], và Bộ
luật Dân sự 2015 ra đời thay thế Bộ luật Dân sự 2005 đã có những quy định rõ hơn
và thiết thực hơn về thừa kế quyền sử dụng đất. Về bản chất, thừa kế nhà ở và quyền
sử dụng đất ở cũng giống như thừa kế các loại tài sản khác. Tuy nhiên thừa kế nhà ở
và quyền sử dụng đất ở còn có những đặc điểm tương đối độc lập với thừa kế các
loại tài sản khác: Do chế độ sở hữu toàn dân về đất đai nên đất đai trước hết thuộc
quyền sở hữu của Nhà nước và do Nhà nước thống nhất quản lí. Do vậy thừa kế
quyền sử dụng đất ở cũng không nằm ngoài nguyên tắc thừa kế quyền sử dụng đất
nói chung, tuy rằng thừa kế quyền sử dụng đất ở không cần phải có các điều kiện
như đối với thừa kế đất nông nghiệp trồng cây nông nghiệp hằng năm, nuôi

14


trồng thủy hải sản. Đất đai thuộc sở hữu Nhà nước, cá nhân có quyền sử dụng,
khai thác đất ở chứ không có quyền chiếm hữu. Vì vậy, di sản thừa kế không
phải là đất ở hay diện tích đất ở mà phải được hiểu là thừa kế quyền sử dụng đất
ở. Hơn nữa đất đai nói chung và đất ở nói riêng đều thuộc quyền sở hữu của Nhà
nước, vì vậy việc để lại thừa kế quyền sử dụng đất không những phải tuân theo
qui định về thừa kế trong Bộ Luật Dân sự mà còn phải thỏa mãn các điều kiện về
thừa kế quyền sử dụng đất ở theo qui định của Luật đất đai năm 2013.
1.2.4 Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất
Hợp đồng vay thế chấp quyền sử dụng đất là sự thỏa thuận giữa các bên,
theo đó bên sử dụng đất dùng quyền sử dụng đất của mình để bảo đảm thực hiện
nghĩa vụ dân sự với bên nhận thế chấp. Bên vay thế chấp quyền sử dụng đất
được tiếp tục sử dụng đất trong thời hạn thế chấp.
Trước hết, hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất có hiệu lực pháp luật khi
nó đảm bảo được các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự tại Điều 117 Bộ
luật Dân sự 2015 cụ thể [45]: Chủ thể có năng lực pháp luật dân sự, năng lực
hành vi dân sự phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập; Chủ thể tham gia giao

dịch dân sự hoàn toàn tự nguyện; Mục đích và nội dung của giao dịch dân sự
không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội.
Về hình thức, Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất phải được công
chứng hoặc chứng thực theo quy định tại Khoản 3 Điều 167 Luật Đất đai 2013.
Trong trường hợp nhận thấy hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất bị vô
hiệu thì một bên trong hợp đồng thế chấp có thể yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp
đồng đó vô hiệu. Theo Điều 132 Bộ luật Dân sự thì thời hiệu để yêu cầu Tòa án
tuyên bố hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất vô hiệu do mục đích và nội dung
của hợp đồng vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội hoặc do hợp
đồng thế chấp là giả tạo thì không bị hạn chế về thời hiệu; đối với các trường hợp
còn lại thì thời hiệu là 2 năm kế từ ngày hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất
được xác lập [45].

15


Hậu quả của việc hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất bị vô hiệu được
quy định tại Điều 131 Bộ luật Dân sự 2015 [45], theo đó: không làm phát sinh,
thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm xác lập
hợp đồng thế chấp; Các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau
những gì đã nhận; nếu không hoàn trả được bằng hiện vật thì phải hoàn trả bằng
tiền, trừ trường hợp tài sản giao dịch, hoa lợi, lợi tức thu được bị tịch thu theo
quy định của pháp luật. Bên có lỗi gây thiệt hại phải bồi thường.
1.3. Pháp luật về công chứng viên và những vấn đề liên quan đến trách

nhiệm pháp lý của công chứng viên
1.3.1. Công chứng viên
Công chứng viên, một người hành nghề luật, là một chức danh công, do Nhà
nước bổ nhiệm để xác thực các văn bản pháp lý và hợp đồng mà công chứng viên soạn
thảo và để tư vấn cho những người cần đến dịch vụ công chứng. Công chứng viên là

người nắm giữ quyền lực công nhưng thực hiện chức năng của mình một cách khách
quan và độc lập ngoài hệ thống thứ bậc hành chính của cơ quan Nhà nước.

Trước hết, để trở thành công chứng viên, một người bắt buộc phải là công
dân Việt Nam, được đào tạo và có bằng cử nhân luật; có đủ sức khỏe và tư cách
đạo đức tốt. Sau khi có bằng cử nhân luật, người đó phải tham gia khóa đào tạo
nghề công chứng trong 12 tháng tại Học viện Tư pháp. Sau khóa đào tạo chuyên
môn, Học viện Tư pháp cấp giấy chứng nhận tốt nghiệp khóa học cho người học.
Việc tham gia khóa đào tạo hành nghề công chứng không bị áp dụng cho tất cả
các trường hợp. Cụ thể, theo Điều 10 Luật Công chứng 2014, những đối tượng
sau sẽ được miễn đào tạo hành nghề công chứng:
- Người đã có thời gian làm thẩm phán, kiểm sát viên, điều tra viên từ 05
năm trở lên;
-

Luật sư đã hành nghề từ 05 năm trở lên;

-

Giáo sư, phó giáo sư chuyên ngành luật, tiến sĩ luật;

16


-

Người đã là thẩm tra viên cao cấp ngành tòa án, kiểm tra viên cao cấp

ngành kiểm sát; chuyên viên cao cấp, nghiên cứu viên cao cấp, giảng viên pháp
luật cao cấp.

Các trường hợp được miễn đào tạo hành nghề công chứng vẫn phải tham
gia khóa bồi dưỡng kỹ năng hành nghề công chứng và quy tắc đạo đức hành
nghề công chứng tại Học viện Tư pháp trong 03 tháng và tập sự hành nghề.
Người đã hoàn thành khóa đào tạo hành nghề công chứng hoặc khóa học
bồi dưỡng hành nghề công chứng đăng ký việc tập sự hành nghề với Sở Tư pháp
nơi có Phòng công chứng hoặc Văn phòng công chứng nhận tập sự. Trường hợp
không tìm được tổ chức hành nghề công chứng để tập sự hoặc gặp khó khăn
trong việc tự liên lạc, người tập sự có thể liên hệ với Sở Tư pháp đại phương nơi
mình muốn tập sự để được bố trí phù hợp (Khoản 1, Điều 11 Luật Công chứng
2014) [40]. Thời gian thực tập hành nghề công chứng là 12 tháng đối với những
người tốt nghiệp khóa đào tạo hành nghề công chứng, 03 tháng đối với người tốt
nghiệp khóa bồi dưỡng nghề công chứng. Người có nguyện vọng được quyền
thay đổi nơi tập sự nhưng phải đảm bảo tổng thời gian tập sự tối thiểu tại mỗi tổ
chức hành nghề là 03 tháng (Khoản 2, Điều 3, Thông tư 04/2015/TT-BTP).
Việc đăng ký kiểm tra kết quả tập sự có thể được thực hiện tại Sở Tư pháp
nơi đăng ký tập sự khi có kỳ kiểm tra do Bộ Tư pháp tổ chức hoặc ngay khi
người tâp sự nộp báo cáo kết quả tập sự. Một năm, Bộ Tư pháp tổ chức 02 kỳ
kiểm tra kết quả tập sự hành nghề công chứng. Trong trường hợp không đạt yêu
cầu trong kỳ kiểm tra trước, người tập sự được phép đăng ký kiểm tra lại trong
đợt sau nhưng tổng số lần kiểm tra tối đa chỉ 03 lần (Điều 16, Điều 17, Thông tư
04/2015/TT-BTP). Người đạt yêu cầu kiểm tra kết quả tập sự hành nghề công
chứng được cấp giấy chứng nhận kết quả kiểm tra tập sự hành nghề công chứng.
Khi đạt tiêu chuẩn hành nghề và đã tham gia các khóa đào tạo, bồi dưỡng
chuyên môn, có giấy chứng nhận hoàn thành tập sự hành nghề công chứng, người
có nguyện vọng đủ điều kiện nộp hồ sơ xin bổ nhiệm công chứng viên theo quy

17


định tại Điều 12 của Luật Công chứng 2014. Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày

nhận được văn bản và hồ sơ đề nghị bổ nhiệm công chứng viên của Sở Tư pháp,
Bộ trưởng Bộ Tư pháp xem xét, quyết định bổ nhiệm công chứng viên. Đây là
thời điểm xác định một người chính thức trở thành công chứng viên.
Khoản 1 Điều 7 Luật Công chứng năm 2014 [40] quy định về việc nghiêm
cấm tổ chức hành nghề công chứng và công chứng viên có các hành vị như sau: Tiết
lộ thông tin về nội dung công chứng, trừ trường hợp được người yêu cầu công
chứng đồng ý bằng văn bản hoặc pháp luật có quy định khác; sử dụng thông tin về
nội dung công chứng để xâm hại quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức;
Thực hiện công chứng trong trường hợp mục đích và nội dung của hợp đồng, giao
dịch, nội dung bản dịch vi phạm pháp luật, trái đạo đức xã hội; xúi giục, tạo điều
kiện cho người tham gia hợp đồng, giao dịch thực hiện giao dịch giả tạo hoặc hành
vi gian dối khác; Công chứng hợp đồng, giao dịch, bản dịch có liên quan đến tài

sản, lợi ích của bản thân mình hoặc của những người thân thích là vợ hoặc chồng;
cha mẹ đẻ, cha mẹ nuôi; cha mẹ đẻ, cha mẹ nuôi của vợ hoặc chồng; con đẻ, con
nuôi, con dâu, con rể; ông, bà; anh chị em ruột, anh chị em ruột của vợ hoặc chồng;
cháu là con của con đẻ, con nuôi; Từ chối yêu cầu công chứng mà không có lý do
chính đáng; sách nhiễu, gây khó khăn cho người yêu cầu công chứng; Nhận, đòi hỏi
tiền hoặc lợi ích khác từ người yêu cầu công chứng ngoài phí công chứng, thù lao
công chứng và chi phí khác đã được xác định, thỏa thuận; nhận, đòi hỏi tiền hoặc lợi
ích khác từ người thứ ba để thực hiện hoặc không thực hiện việc công chứng gây
thiệt hại cho người yêu cầu công chứng và cá nhân, tổ chức có liên quan; Ép buộc
người khác sử dụng dịch vụ của mình; cấu kết, thông đồng với người yêu cầu công
chứng và những người có liên quan làm sai lệch nội dung của văn bản công chứng,
hồ sơ công chứng; Gây áp lực, đe dọa hoặc thực hiện hành vi vi phạm pháp luật, trái
đạo đức xã hội để giành lợi thế cho mình hoặc cho tổ chức mình trong việc hành
nghề công chứng; Quảng cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng về công
chứng viên và tổ chức mình; Tổ chức hành nghề công chứng mở chi nhánh, văn

18



phòng đại diện, cơ sở, địa điểm giao dịch khác ngoài trụ sở của tổ chức hành
nghề công chứng; thực hiện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ ngoài
phạm vi hoạt động đã đăng ký; Công chứng viên đồng thời hành nghề tại hai tổ
chức hành nghề công chứng trở lên hoặc kiêm nhiệm công việc thường xuyên
khác; Công chứng viên tham gia quản lý doanh nghiệp ngoài tổ chức hành nghề
công chứng; thực hiện hoạt động môi giới, đại lý; tham gia chia lợi nhuận trong
hợp đồng, giao dịch mà mình nhận công chứng; Vi phạm pháp luật, vi phạm quy
tắc đạo đức hành nghề công chứng.
1.3.2. Quyền và nghĩa vụ của Công chứng viên
Hoạt động công chứng bao gồm toàn bộ các hoạt động pháp lý ngoài tố
tụng, nhằm đảm bảo an toàn pháp lý cho các chủ thể pháp luật, phòng ngừa các
tranh chấp có thể phát sinh mà công chứng viên có thể giải quyết được bằng việc
thực hiện nhiệm vụ trung gian pháp lý và là một công cụ không thể thiếu được để
quản lý một nền tư pháp hiệu quả. Các văn bản công chứng về các giao dịch pháp lý
khác nhau là những văn bản mà công chứng viên xác thực. Tính xác thực của những
văn bản này dựa trên chữ ký, nội dung và ngày tháng trên văn bản đó. Những văn
bản này do chính công chứng viên lưu giữ và sắp xếp thành các sổ bộ công chứng.
Luôn tuân thủ pháp luật, khi soạn thảo các văn bản công chứng, công chứng viên
hiểu rõ ý chí của các bên liên quan và thể hiện ý chí đó theo đúng các quy định pháp
luật. Công chứng viên kiểm tra nhân thân, năng lực và trong trường hợp cần thiết,
công chứng viên kiểm tra cả quyền của các bên. Công chứng viên kiểm tra tính hợp
pháp của các văn bản và đảm bảo rằng ý chí của các bên đã được thể hiện một cách
tự do trước công chứng viên mà không ảnh hưởng bởi cách thức thể hiện ý chí trong
các văn bản mà công chứng viên soạn thảo. Công chứng viên hoàn toàn chủ động
trong việc soạn thảo các văn bản. Công chứng viên có toàn quyền chấp nhận hoặc từ
chối các dự thảo văn bản mà các bên đề xuất, hoặc có thể có những sửa đổi, bổ sung
phù hợp trên cơ sở thỏa thuận với các bên. Các bên của văn bản đã được công
chứng có quyền có bản sao y bản gốc do công chứng viên


19


lưu trữ. Các bản sao công chứng có giá trị pháp lý như bản gốc. Công chứng viên có
thể cấp các bản sao cho các đối tượng có quyền lợi chính đáng liên quan theo quy
định của pháp luật. Các văn bản công chứng có hiệu lực hợp pháp và chính xác và
chỉ có thể phản bác theo trình tự tố tụng tư pháp. Văn bản công chứng có giá trị
chứng cứ và hiệu lực thi hành. Công chứng viên cũng có thẩm quyền xác nhận chữ
ký của các cá nhân tại các tài liệu tư chứng thư, chứng thực bản sao y bản gốc và
thực hiện tất cả các hoạt động khác do pháp luật của quốc gia quy định. Các văn bản
công chứng tuân thủ các nguyên tắc nêu trên cần phải được thừa nhận tại tất cả các
quốc gia và có giá trị chứng cứ cũng như hiệu lực thi hành, xác lập các quyền và
nghĩa vụ như tại quốc gia gốc nơi văn bản công chứng đó đã được ban hành. Luật
quốc gia xác định phạm vi về thẩm quyền theo địa hạt lãnh thổ của mỗi công chứng
viên cũng như là ấn định số lượng công chứng viên để đảm bảo đáp ứng nhu cầu
cung cấp dịch vụ công chứng. Luật quốc gia cũng xác định địa điểm đặt của mỗi
văn phòng công chứng đồng thời đảm bảo việc phân bổ đồng đều các văn phòng
công chứng trên toàn bộ lãnh thổ quốc gia đó. Các công chứng viên đều phải trực
thuộc một hiệp hội công chứng. Một cơ quan duy nhất bao gồm các công chứng
viên thực hiện chức năng đại diện ngành công chứng của quốc gia. Luật quốc gia
xác định các điều kiện hành nghề công chứng và điều kiện thực hiện chức năng
công chứng nhà nước. Để thực hiện điều này, Luật quốc gia quy định các kỳ thi,
môn thi cần thiết để đánh giá các ứng viên về kiến thức pháp luật và các phẩm chất
cần thiết để được hành nghề công chứng. Điều 17 Luật công chứng năm 2014 quy
định rõ quyền và nghĩa vụ của công chứng viên nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ
công chứng viên, từ đó nâng cao chất lượng hoạt động công chứng, trong đó có các
quyền và nghĩa vụ mới như quyền được pháp luật bảo đảm quyền hành nghề công
chứng, quyền tham gia thành lập Văn phòng công chứng hoặc làm việc theo chế độ
hợp đồng cho tổ chức hành nghề công chứng, được từ chối công chứng hợp đồng,

giao dịch, bản dịch vi phạm pháp luật, trái đạo đức xã hội, công chứng hợp đồng,
giao dịch, bản dịch theo quy định của Luật này và các nghĩa vụ mới như giải thích

20


×