Tải bản đầy đủ (.doc) (166 trang)

TÍCH hợp ĐÔNG tây TRONG THƠ mới NHÌN từ yếu tố TƯỢNG TRƯNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (847.54 KB, 166 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI

TRẦN THỊ KIM HẠNH

TÍCH HỢP ĐÔNG - TÂY TRONG THƠ MỚI
NHÌN TỪ YẾU TỐ TƯỢNG TRƯNG

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN

HÀ NỘI - 2019


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI

TRẦN THỊ KIM HẠNH

TÍCH HỢP ĐÔNG - TÂY TRONG THƠ MỚI
NHÌN TỪ YẾU TỐ TƯỢNG TRƯNG

Chuyên ngành:

Văn học Việt Nam

Mã số:

9.22.01.21

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN
Người hướng dẫn khoa học:


1: TS. CHU VĂN SƠN
2: PGS.TS. LÝ HOÀI THU

HÀ NỘI - 2019


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU....................................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài.......................................................................................................1
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.............................................................................3
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu..............................................................................4
4. Phương pháp nghiên cứu...........................................................................................5
5. Đóng góp mới của luận án.........................................................................................6
6. Cấu trúc luận án.........................................................................................................6
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU..................................7
1.1 Giới thuyết các khái niệm cơ bản.........................................................................7
1.1.1. Khái niệm, sự hình thành và đặc trưng thẩm mỹ của Thơ mới............................7
1.1.2. Khái niệm tích hợp Đông - Tây trong nghiên cứu văn hóa, văn học....................9
1.1.3. Khái niệm thơ tượng trưng và yếu tố tượng trưng trong thơ...............................9
1.2. Lịch sử nghiên cứu..............................................................................................16
1.2.1. Lược thuật lịch sử nghiên cứu về Thơ mới.........................................................16
1.2.2. Lịch sử nghiên cứu về dấu ấn của chủ nghĩa tượng trưng Pháp trong Thơ mới 18
1.2.3. Lịch sử nghiên cứu về ảnh hưởng của thơ Đường trong Thơ mới.....................26
1.2.4. Lịch sử nghiên cứu về sự tích hợp yếu tố tượng trưng của thơ Đường, thơ tượng
trưng Pháp trong Thơ mới...........................................................................................28
Tiểu kết.......................................................................................................................32
CHƯƠNG 2: CƠ SỞ TIẾP BIẾN VÀ SỰ HÌNH THÀNH KHUYNH
HƯỚNG TƯỢNG TRƯNG TRONG THƠ MỚI............................................33
2.1.Tiền đề dẫn đến sự hình thành khuynh hướng tượng trưng trong Thơ mới với
sự giao thoa Đông - Tây.............................................................................................33

2.1.1. Cơ sở thực tiễn..................................................................................................33
2.1.1. Cơ sở lý thuyết...................................................................................................36


2.2. Cuộc gặp gỡ Đông - Tây trong cảm quan tượng trưng về thế giới..................40
2.2.1. Nét tương hợp trong cảm nhận về thế giới tự nhiên...........................................40
2.2.2.Nét tương hợp trong cảm nhận và biểu đạt thế giới dựa vào trực giác..........42
2.2.3. Nét tương hợp trong cách thức xây dựng hình ảnh, hình tượng thơ..............44
2.3. Khái lược về khuynh hướng tượng trưng trong Thơ mới........53
2.3.1. Sự hình thành khuynh hướng tượng trưng trong Thơ mới..............................53
2.3.2. Sự hiện diện của các tác giả thơ mới theo khuynh hướng tượng trưng.........55
Tiểu kết.......................................................................................................................63
CHƯƠNG 3: TÍCH HỢP ĐÔNG - TÂY TRONG KIẾN TẠO THI ẢNH TƯỢNG
TRƯNG...................................................................................................................... 64
3.1. Những thi liệu tượng trưng của thơ phương Đông và phương Tây................64
3.1.1. Thi liệu tượng trưng phổ biến của thơ Đường...................................................64
3.1.2. Thi liệu phổ biến trong thơ tượng trưng Pháp...................................................67
3.2. Phương thức kiến tạo thi ảnh tượng trưng của thơ phương
Đông và phương Tây..........................................................................................72
3.2.1. Phương thức kiến tạo thi ảnh của thơ Đường....................................................72
3.2.2. Phương thức kiến tạo thi ảnh của thơ Pháp......................................................74
3.3. Thơ mới tích hợp Đông – Tây trong kiến tạo thi ảnh tượng trưng.................80
3.3.1. Tiếp thu các yếu tố tượng trưng của thơ Đường................................................80
3.3.2. Tiếp nhận yếu tố tượng trưng của thơ Pháp......................................................88
3.3.3. Tích hợp Đông - Tây trong kiến tạo thi ảnh tượng trưng.................................105
Tiểu kết......................................................................................................................113
CHƯƠNG 4: TÍCH HỢP ĐÔNG - TÂY TRONG TỔ CHỨC VĂN BẢN
THƠ.......................................................................................................................... 114
4.1. Tổ chức văn bản của thơ cổ điển phương Đông..............................................114
4.1.1. Tổ chức văn bản theo tứ thơ............................................................................114

4.1.2. Tổ chức văn bản theo kết cấu không - thời gian..............................................116


4.2. Tổ chức văn bản của thơ tượng trưng phương Tây.......................................118
4.2.1. Tổ chức văn bản qua mạng lưới biểu tượng.....................................................118
4.2.2. Tổ chức văn bản theo nhạc tính.......................................................................120
4.3. Dấu ấn tượng trưng Đông - Tây trong tổ chức tứ - hình - nhạc của văn bản
Thơ mới....................................................................................................................122
4.3.1. Tổ chức văn bản theo lối kết hợp giữa tứ thơ và những liên tưởng mang tính
ngẫu hứng..............................................................................................................................122
4.3.2. Tổ chức văn bản theo sự liên kết của hệ thống hình ảnh - biểu tượng...............128
4.3.3. Tổ chức văn bản theo nhạc tính.......................................................................133
4.3.4. Tổ chức văn bản theo sự phối hợp tứ - hình - nhạc.........................................141
Tiểu kết.....................................................................................................................147
KẾT LUẬN..............................................................................................................148
NHỮNG CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN TRỰC TIẾP ĐỀ
TÀI............................................................................................................................ 151
TÀI LIỆU THAM KHẢO..........................................................................................152


1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. “Thơ mới” là tên gọi của một trào lưu sáng tác thơ, chịu ảnh hưởng của
nguyên tắc thẩm mỹ và cấu trúc biểu đạt của thơ hiện đại phương Tây. Thơ mới xuất
hiện ở Việt Nam đầu thế kỷ XX và đạt đến đỉnh cao ở giai đoạn 1932 - 1945. Điều này
đã được Hoài Thanh diễn tả “… một cơn gió mạnh bỗng từ xa thổi đến. Cả nền tảng
xưa bị một phen đảo điên, lung lay. Sự gặp gỡ phương Tây là cuộc biến thiên lớn nhất
trong lịch sử Việt Nam từ mấy mươi thế kỷ”[127]. Nhưng chính tác giả lại xác nhận:“

Không có Thơ mới. Có điều các anh gọi là Thơ mới, hơn ngàn năm trước đã có
rồi”[127]. Từ đó tác giả đi đền nhận định: “Hôm nay đã phôi thai từ hôm qua và trong
cái mới vẫn còn lại ít nhiều cái cũ. Các thời đại vẫn liên tiếp cùng nhau…”( Một thời
đại trong thi ca). Như vậy ngay từ khi phong trào Thơ mới đang diễn ra ở đỉnh cao sôi
nổi người ta đã tìm hiểu và tìm cách lý giải hiện tượng văn hóa, văn học này. Từ đó
đến nay, Thơ mới đã được nghiên cứu nhiều, tuy nhiên, không phải mọi vấn đề đã
được khai thác cạn kiệt. Do là một hiện tượng văn học chứa đựng nhiều giá trị thẩm
mỹ, phong trào văn học này vẫn là một hiện tượng độc đáo của thơ Việt rất cần được
quan tâm và tiếp tục xem xét. Có thể nói ảnh hưởng của nó bao trùm lên thơ ca dân tộc
ở cả nửa sau thế kỷ XX. Đó là cuộc chạy nước rút của thơ Việt để bắt kịp thơ hiện đại
thế giới với hình mẫu là thơ - lãng mạn Pháp thế kỷ XIX và đã vượt qua chủ nghĩa
lãng mạn để tiến tới chủ nghĩa tượng trưng và chạm vào bờ siêu thực. Những cách tân
táo bạo đã đưa Thơ mới thoát khỏi sự ràng buộc của những công thức tồn tại hàng
nghìn năm theo mô hình phương Đông, đồng thời tiếp nhận phương Tây, nhanh chóng
tạo nên một bước ngoặt đưa thơ ca Việt Nam bước vào thời hiện đại. Với phong trào
Thơ mới, thơ ca Việt Nam từ một nền thơ nặng tính khu vực đã được quốc tế hóa và
hội nhập vào quỹ đạo thơ ca hiện đại thế giới.
1.2. Tiếp nhận và tiếp biến văn học là hiện tượng tất yếu trong đời sống văn học
nghệ thuật, nhất là đối với các nước có quan hệ ảnh hưởng, tác động từ lịch sử đến văn
hóa xã hội. Thơ mới không chỉ là một hiện tượng độc đáo của văn học dân tộc giai đoạn
đầu thế kỷ XX mà còn là một hiện tượng văn hóa của dân tộc. Quy luật biện chứng của
sáng tạo nghệ thuật là kế thừa giao thoa và tiếp biến. Thơ tượng trưng ra đời ở Pháp vào


2

thập niên 60- 70 của thế kỷ XIX. Khi vừa xuất hiện, nó lập tức tạo nên một cơn địa chấn
làm xôn xao văn đàn, các nhà thơ tượng trưng bằng cả lý luận lẫn thực tiễn sáng tác sinh
động của mình đã từng bước khẳng định con đường thi ca mà họ lựa chọn phù hợp với
quy luật phát triển của văn học. Vào nửa sau thế kỉ XIX, thơ tượng trưng rất được ưa

chuộng, tạo thành một trào lưu, dòng chính trong nền thơ Pháp. Sang thế kỉ XX, nó tiếp
tục mở rộng tầm ảnh hưởng lên toàn thế giới, đồng thời, thiết lập thành công vị thế của
mình ở nền thơ hiện đại phương Đông, trong đó có Việt Nam. Gần tám mươi năm hiện
tồn trong nền thi ca Việt Nam, thơ tượng trưng không ngừng biến chuyển. Qua mỗi giai
đoạn, ở mỗi nhà thơ, việc tiếp biến các đặc trưng thẩm mỹ, thi học tượng trưng diễn ra
tùy vào mỗi người, và việc kết hợp các yếu tố tượng trưng phương Đông và phương Tây
(thơ Pháp và thơ Đường) tạo nên tính đa sắc độ cho thơ tượng trưng Việt Nam. Như một
cuộc cách mạng, Thơ mới Việt Nam (1932-1945) đã đi vào lộ trình hiện đại, hội tụ
được những tinh hoa văn hóa Đông - Tây trong cốt cách, tâm hồn Việt. Ngay từ 1941
khi viết Thi nhân Việt Nam, Hoài Thanh đã phân chia Thơ mới thành 3 dòng: Thuần
Việt, Đường thi và dòng chịu ảnh hưởng của thơ Pháp đồng thời có nhận xét đặc biệt
tinh tế: “Nếu ví những dòng thơ trên là dòng sông thì đó là dòng sông mà nước luôn
tràn bờ” [127]. Việc tiếp nhận Thơ mới (1932 - 1945) được dấy lên từ sau 1986, từ đó
đến nay, phong trào thơ này được phục dựng trong nhiều công trình nghiên cứu. Thơ
mới và các tác giả trong phong trào Thơ mới được nghiên cứu rất nhiều, rất kỹ, đã có
nhiều công trình nghiên cứu về ảnh hưởng của thơ Pháp đến Thơ mới, về âm vang của
Đường thi trong Thơ mới. Tuy nhiên để giải quyết vấn đề tích hợp yếu tố tượng trưng
của thơ Pháp và thơ Đường trong Thơ mới vẫn cần một công trình hệ thống, chuyên
sâu. Luận án nghiên cứu yếu tố tượng trưng để khẳng định Thơ mới như là sự tích hợp
tinh hoa của cả thơ Đường và thơ Pháp. Đây là việc làm cần thiết góp phần cung cấp
cái nhìn toàn diện hơn về Thơ mới trong sự tiếp nhận và tiếp biến các yếu tố ngoại
nhập.
1.3. Yếu tố tượng trưng và khuynh hướng tượng trưng là đặc điểm nổi bật của
Thơ mới. Việc khảo sát, phân tích, kiến giải và nhận định Tích hợp Đông - Tây trong
Thơ mới nhìn từ yếu tố tượng trưng là một vấn đề mới mẻ và lý thú nhưng cũng đầy
khó khăn, thách thức, bởi vì cái mới thực sự trong các tiếp xúc nghệ thuật ở bất cứ đâu


3


trên thế giới đều hiện diện như một hợp kim chứa đựng căn cước nghệ thuật của nó,
cùng với những giá trị tân kỳ từ phương xa đem đến. Tuy nhiên, chúng tôi vẫn mạnh
dạn chọn đề tài này với mong muốn bằng kết quả nghiên cứu của mình, một mặt
chúng tôi muốn tìm hiểu rõ hơn về yếu tố tượng trưng - một yếu tố được sử dụng phổ
biến trong Thơ mới, sự kế thừa và sáng tạo của các nhà thơ mới trong việc tiếp biến
của thơ phương Đông và phương Tây. Mặt khác, tìm hiểu, nghiên cứu văn học theo
hướng này cũng đang là hướng nghiên cứu có nhiều ý nghĩa khoa học và thực tiễn
trong việc lý giải những thành công của một phong trào thơ được gọi là một cuộc cách
mạng trong tiến trình thơ hiện đại Việt Nam, qua đó hiểu rõ hơn về sự ảnh hưởng giao
lưu, tiếp biến văn học Việt Nam và văn học Pháp, văn học Trung Quốc.
Ngoài ra, chúng tôi tập trung vào Tích hợp Đông - Tây trong Thơ mới nhìn từ yếu
tố tượng trưng làm đề tài luận án còn là vì vấn đề được đặt ra có ý nghĩa thiết thực đối
với nghiên cứu và giảng dạy văn học Việt Nam. Đây không chỉ là nhiệm vụ của người
làm công tác nghiên cứu giảng dạy văn học mà còn là con đường để phát huy những
giá trị mang tính đổi mới độc đáo của tiền nhân, góp phần tôn vinh giá trị văn học đặc
sắc của Việt Nam trong bối cảnh hiện nay.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Luận án làm rõ một phương diện cơ bản và đặc sắc của phong trào Thơ mới là tích
hợp tinh hoa của thơ phương Đông (chủ yếu là thơ Đường) và thơ phương Tây (chủ yếu
là thơ theo trường phái tượng trưng thế kỷ XIX của Pháp) nhìn từ yếu tố tượng trưng.
Xem tượng trưng là điểm quan trọng, nhưng không có nghĩa chỉ có tích hợp yếu tố tượng
trưng mới làm nên Thơ mới. Thơ mới vừa tiếp thu yếu tố nước ngoài một cách hợp lý vừa
tự làm mới mình trên căn bản những vận động nội sinh của thơ Việt. Sự tiếp nhận yếu tố
bên ngoài, do đó, chỉ làm giàu thêm cho chính chủ thể thơ Việt. Tìm hiểu yếu tố tượng
trưng và nhận diện nó trong Thơ mới còn để thấy sự ảnh hưởng, tác động của quá trình
giao lưu văn hóa thế giới với văn học Việt Nam.


4


2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Thực hiện đề tài Tích hợp Đông - Tây trong Thơ mới nhìn từ yếu tố tượng trưng luận
án đặt ra những nhiệm vụ sau:
- Thuyết minh các khái niệm cơ bản, các thuật ngữ có liên quan đến nội dung cần
triển khai như Thơ mới, Tích hợp, yếu tố tượng trưng…
- Nhìn lại, đánh giá tình hình nghiên cứu về sự tích hợp Đông - Tây trong Thơ
mới xoay quanh yếu tố tượng trưng.
- Chỉ ra cơ sở về mặt xã hội, văn hóa tạo ra sự tiếp biến trong Thơ mới và sự hình
thành khuynh hướng tượng trưng trong Thơ mới.
- Phân tích làm rõ những biểu hiện của sự tích hợp yếu tố tượng
trưng Đông - Tây trong Thơ mới trên các bình diện: Kiến tạo thi ảnh và tổ
chức văn bản thơ.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Thơ mới là hiện tượng nổi bật của quá trình hiện đại hóa. Nó, tất nhiên, chịu
tác động và ảnh hưởng thơ Pháp, nhưng đồng thời cũng không tách rời nền tảng thơ
ca dân tộc mà thơ ca dân tộc có tiếp nhận ảnh hưởng sâu sắc từ thơ Đường. Việc
nghiên cứu sự tiếp biến, tích hợp là để soi sáng đầy đủ quá trình hình thành, tồn tại phát
triển của Thơ mới.
Thơ mới tích hợp nhiều yếu tố như cổ điển, lãng mạn, siêu thực…Tuy nhiên
nghiên cứu tất cả các yếu tố tích hợp trên thì rất rộng, vượt quá khả năng của luận án.
Ở đây, luận án chỉ dừng lại việc tìm hiểu khía cạnh tích hợp Đông -Tây trong Thơ
mới qua một phương diện cụ thể là yếu tố tượng trưng. Chúng tôi xác định đối tượng
nghiên cứu của đề tài là: Nghiên cứu sự tích hợp Đông - Tây trong Thơ mới thông
qua yếu tố tượng trưng.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Sự tích hợp Đông - Tây diễn ra trong nhiều lĩnh vực, nhưng trong giới hạn
của luận án, chúng tôi tập trung vào yếu tố tượng trưng trong Thơ mới. Ảnh hưởng
tượng trưng phương Đông phương Tây được Thơ mới tiếp biến có thể tìm thấy ở

nhiều hiện tượng thơ phương Đông và phương Tây, nhưng các nhà nghiên cứu đã


5

chỉ ra nguồn ảnh hưởng trực tiếp nổi trội là thơ Đường và thơ Pháp. Vì vậy trong
luận án chúng tôi chỉ tập trung vào yếu tố tượng trưng của thơ Đường và thơ Pháp
trong Thơ mới.
Luận án tìm hiểu sự tích hợp các yếu tố tượng trưng Đông - Tây qua các tác
phẩm của phong trào Thơ mới (1932 -1945), chú trọng đi sâu vào các tác giả tiêu
biểu như: Xuân Diệu, Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, Bích Khê, Lưu Trọng Lư, Vũ
Hoàng Chương, Đinh Hùng, nhóm Xuân Thu nhã tập và nhóm Dạ Đài.
4. Phương pháp nghiên cứu
Thơ mới thành công trong việc tích hợp thơ tượng trưng Pháp và thơ Đường.
Nghiên cứu Tích hợp Đông - Tây trong Thơ mới nhìn từ yếu tố tượng trưng, chúng tôi
sẽ phối hợp nhiều phương pháp nghiên cứu. Trong đó, sẽ thường xuyên sử dụng một
số phương pháp chính sau đây:
4.1. Phương pháp hệ thống - cấu trúc

Luận án ý thức đặt các yếu tố trong một chỉnh thể thống nhất, toàn vẹn để làm rõ
mối quan hệ nội tại của nó. Cụ thể ở đây, chúng tôi sẽ luận giải yếu tố tượng trưng của
Thơ mới trong sự liên hệ đa chiều với thi phái tượng trưng Pháp và thơ ca phương
Đông (thơ Đường). Bên cạnh đó, khi bình giá các vấn đề về tác giả, tác phẩm và
những biểu hiện của yếu tố tượng trưng, người viết không xem xét một cách cô lập mà
đặt nó trong một hệ thống để xác định các sắc độ tiếp biến nghệ thuật tượng trưng ở
mỗi nhà thơ.
4.2. Phương pháp tiếp cận thi pháp học
Dùng phương pháp này luận án khảo sát yếu tố tượng trưng trong Thơ mới tiếp
cận từ góc độ quan niệm nghệ thuật, đặc trưng nghệ thuật, tư duy nghệ thuật, tổ chức
văn bản, liên văn bản…

4.3. Phương pháp liên ngành
Luận án sẽ vận dụng phương pháp nghiên cứu của các ngành khoa học khác như:
lịch sử, xã hội học, phân tâm học, nhân học văn hóa,...khi cần, nhằm phân tích và lý
giải các hành vi và sản phẩm sáng tạo mới mẻ, phức tạp xuất hiện trong luận án.
4.4. Phương pháp so sánh - đối chiếu
Phương pháp này giúp luận án chỉ ra những điểm tương đồng và khác biệt,


6

tiếp biến và cách tân giữa thơ tượng trưng Pháp và tượng trưng phương Đông (thơ
Đường), giữa khuynh hướng thơ tượng trưng và các khuynh hướng thơ khác, giữa
các nhà thơ theo khuynh hướng tượng trưng; qua đó, làm nổi bật yếu tố tượng trưng
các nhà thơ mới.
4.5. Phương pháp phân tích tổng hợp
Luận án sử dụng phương pháp này để phân tích tác giả, tác phẩm văn học. Trên
cơ sở ấy, chúng tôi rút ra những kết luận mang tính tổng hợp, khái quát về đặc trưng
thẩm mỹ và thi học của yếu tố tượng trưng trong phong trào Thơ mới.
5. Đóng góp mới của luận án
Nghiên cứu Tích hợp Đông - Tây trong Thơ mới, nhìn từ yếu tố tượng trưng,
luận án có những đóng góp mới sau:
- Một là, luận án là công trình chuyên biệt lần đầu tiên nghiên cứu trực diện
những biểu hiện tích hợp các yếu tố tượng trưng Đông - Tây trong Thơ mới.
- Hai là, thuyết minh ngắn gọn, sáng rõ các khái niệm cơ bản như Tích hợp, Thơ
mới, Yếu tố tượng trưng… lý giải sự tiếp biến và khẳng định sự hiện diện của yếu tố
tượng trưng trong Thơ mới.
- Ba là, chỉ ra Thơ mới tích hợp Đông - Tây trong kiến tạo thi ảnh tượng trưng.
- Bốn là, tìm ra dấu ấn tượng trưng Đông - Tây trong tổ chức tứ - hình - nhạc của
văn bản Thơ mới.
- Năm là, khẳng định quá trình tích hợp Đông - Tây chính là qui luật của sự

giao lưu và tiếp biến làm cho thơ Việt đạt tới thành tựu tư duy nghệ thuật mới ,
góp phần lý giải một trong những nguyên nhân quan trọng nhất làm nên giá trị và
thành công của phong trào Thơ mới Việt Nam 1932 - 1945, bằng góc nhìn tích hợp,
luận án vận dụng những kiến thức của thơ tượng trưng, soi chiếu vào Thơ mới để từ đó
nhận diện những chân dung thơ góp công đắc lực vào quá trình hiện đại hóa văn học.
6. Cấu trúc luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo nội dung luận án được cấu trúc
gồm bốn chương:
Chương 1. Tổng quan vấn đề nghiên cứu
Chương 2. Cơ sở tiếp biến và sự hình thành khuynh hướng tượng trưng trong Thơ mới
Chương 3. Tích hợp Đông - Tây trong kiến tạo thi ảnh tượng trưng


7

Chương 4: Tích hợp Đông - Tây trong tổ chức văn bản thơ


8

CHƯƠNG 1

TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1 Giới thuyết các khái niệm cơ bản
1.1.1. Khái niệm, sự hình thành và đặc trưng thẩm mỹ của Thơ mới
Hiện nay giới học thuật có hai cách hiểu Thơ mới. Thứ nhất, Thơ mới được dùng
để chỉ toàn bộ thơ của quá trình hiện đại hóa, trong đó bao gồm cả nhà thơ “hiện thực”
như Tú Mỡ, Đồ Phồn… Thậm chí, ngay cả những nhà thơ cách mạng, tiêu biểu là Tố
Hữu. Thứ hai, Thơ mới là loại hình thơ gắn với khuynh hướng thơ lãng mạn để phân
biệt hai khuynh hướng còn lại là cách mạng và hiện thực, đồng thời phân biệt các thi

phái thơ ca như tượng trưng, siêu thực…
Ở đây, luận án tiếp cận cách hiểu thứ hai: Thơ mới là loại hình thơ gắn với
khuynh hướng lãng mạn chứ không phải toàn bộ thơ trong quá trình hiện đại hóa văn
học. Nhìn trên phương diện khuynh hướng, tổ chức, đội ngũ thì Thơ mới là cả một
phong trào thơ rộng lớn. Do các tác giả theo khuynh hướng lãng mạn chiếm số lượng
áp đảo và sáng tác của họ là nền tảng cơ bản, nên lâu nay nhiều khuynh hướng nghiên
cứu vẫn quen nhìn nhận Thơ mới là phong trào thơ ca lãng mạn. Ngoài ra, trong thơ
một số nhà thơ, nhóm Thơ mới còn mang ít nhiều dấu ấn của khuynh hướng tượng
trưng, siêu thực(Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử, Bích Khê, nhóm “Xuân Thu nhã tập”…).
Vậy, có thể khẳng định: Phong trào Thơ mới là một hiện tượng thơ lôi cuốn đông đảo
người làm thơ, yêu thơ hưởng ứng. Trong đó, khuynh hướng chủ yếu là lãng mạn, thể
hiện tiếng nói của cái tôi cá nhân cá thể với nhiều biểu hiện mới lạ, phong phú. Ngày
nay, khi nhìn lại Thơ mới, có thể quả quyết đây là một sự kiện thiết yếu đồng thời đánh
dấu bước đột khởi trong lịch sử thơ ca và văn học dân tộc. Công lao lớn nhất của nó
cần được ghi nhận là đã thực hiện thành công cuộc cách tân sâu sắc có ý nghĩa quyết
định trong công cuộc hiện đại hóa thơ ca và văn học nước nhà, từ đó mở ra một thời
đại trong thi ca, mở đầu cho một hành trình mới của thơ Việt Nam hiện đại.
Về phương diện văn bản, Thơ mới là một loại hình thơ ca, là hiện tượng thơ lớn
nhất ở thời kỳ nửa đầu thế kỷ XX. Cuộc xung đột và gặp gỡ với phương Tây trên
nhiều phương diện đã tạo nên những biến thiên lớn trong đời sống dân tộc, nhất là
trên lĩnh vực ý thức hệ tư tưởng, văn hóa, văn học. Sự bừng tỉnh của cái tôi cá nhân
và nhu cầu khẳng định cá thể một cách bức thiết, yêu cầu hiện đại hóa văn học nảy
sinh trên những tiền đề lịch sử văn hóa, xã hội những năm đầu thế kỷ chính là


9

nguyên nhân đặc thù trực tiếp thôi thúc buộc Thơ mới phải ra đời như một tất yếu
lịch sử, giải phóng thơ Việt thoát khỏi những khuôn khổ mang tính quy phạm chặt
chẽ của loại hình thơ trung đại để bước sang phạm trù hiện đại với một loại hình thơ

mang tinh thần tự do, tự do về biểu hiện tư tưởng, cảm hứng, tự do về cách thức thể
hiện, nghĩa là không còn bị ràng buộc bởi một quy phạm không cần thiết nào. Sự giải
phóng tinh thần trong Thơ mới đòi hỏi những cách thức biểu hiện phù hợp cùng với sự
ra đời của cái tôi cá nhân, nó đồng thời đưa lại một quan niệm hoàn toàn mới về thơ,
sáng tạo ra một hệ thống thi pháp mới cho phép thay thế hệ thống thi pháp thơ trung
đại ngự trị hàng nghìn năm, trong đó đặc biệt đề cao quan điểm cá nhân, mang lại cho
thơ một nhãn quan ngôn ngữ mới, cách thức thể hiện mới, và một hệ thống thể thơ
mới. Thơ mới đã có công giải phóng thơ ra khỏi chức năng tải đạo, ngôn chí của quan
niệm thơ ca truyền thống, đưa lại một quan niệm mới về thơ: thơ trước hết là của cái
đẹp, của cảm xúc thành thực và tự do. Nhìn chung, các nhà thơ mới tôn thờ cái đẹp
thuần túy, một cái đẹp nếu thoạt nhìn có vẻ xa lạ với lí trí và lợi ích, đặc biệt chú trọng
đề cao rung cảm trong sáng tạo thơ ca. Thơ mới đã làm một cuộc tổng duyệt đánh giá
lại các thể thơ tiếng Việt, tiếp thu cái tốt đẹp trong thơ truyền thống đồng thời học tập
một cách có sáng tạo thơ ca nước ngoài nhất là thơ Pháp, tìm những hình thức mới lạ,
phong phú cho thơ. Quan niệm mới về nghệ thuật, con người, nhãn quan ngôn ngữ
mới, cách thức thể hiện mới,…với chừng ấy đổi thay, Thơ mới đã thực sự thuộc loại
hình thơ trong tiến trình thơ Việt Nam. Thơ mới cũng là một sự kiện lớn trong lịch sử
văn học dân tộc, là cuộc biến đổi lớn lao về thi pháp và tư duy thơ, nhất là thể thơ.
Nhưng cuộc biến đổi không phải là một sự thay thế hoàn toàn cái cũ bằng cái mới mà
dựa trên cơ sở tiếp thu có sáng tạo những tinh hoa văn học truyền thống. Thơ mới đi
vào quỹ đạo hiện đại mà không thoát li nguồn mạch dân tộc và văn chương nước nhà,
vừa mang nội dung đổi mới vừa bao hàm ý nghĩa kế thừa truyền thống. Trong khi chờ
đợi một thế hệ trẻ được đào luyện trong các trường Pháp - Việt thực thi cuộc cách tân
thể thơ, thế hệ các nhà thơ trong hai thập kỷ đầu có gắn bó với cái học cũ đã tích cực
thể nghiệm các thể thơ truyền thống nhằm cách tân nền thơ ca nói chung.
Với tư cách là một loại hình thơ ca, Thơ mới còn đòi hỏi được chú ý một cách cụ
thể, đa dạng hơn nữa. Phong trào văn học này xứng đáng là cuộc cách tân thơ ca lớn,
triệt để và toàn diện từ nội dung, cảm hứng đến hình thức nghệ thuật.



10

1.1.2. Khái niệm tích hợp Đông - Tây trong nghiên cứu văn hóa, văn học
Các nhà thơ mới đã tiếp nhận thơ tượng trưng trong sự dung hợp yếu tố tượng
trưng phương Tây với yếu tố tượng trưng của truyền thống thi ca phương Đông, làm
nên một khuynh hướng thơ mang bản sắc Việt Nam. Theo định vị của luận án,
phương Tây được dùng để chỉ văn học phương Tây (chủ yếu là thơ theo trường phái
tượng trưng thế kỷ XIX của Pháp), còn phương Đông được dùng để chỉ văn học
phương Đông chủ yếu là thơ Đường, (các bài thơ của các tác giả sống, sáng tác trong
khoảng gần 300 năm dưới thời nhà Đường (618 - 907).
Về từ nguyên, tích hợp (Integration) có nguồn gốc từ tiếng La tinh với nghĩa là
xác lập cái chung, cái toàn thể, cái thống nhất trên cơ sở các bộ phận riêng lẻ, tức là
kết hợp các phần, các bộ phận với nhau trong một tổng thể. Ở đây cũng cần phân biệt
các khái niệm Tích hợp, hỗn hợp và kết hợp. “Tích hợp là lắp ráp kết nối các thành
phần của một hệ thống theo quan điểm tạo nên một hệ thống toàn bộ” [99]. Hỗn hợp là
hai hay nhiều chất trộn lẫn với nhau có thể tạo thành một hỗn hợp, trong hỗn hợp, mỗi
chất giữ nguyên tính chất của nó. Còn kết hợp là các yếu tố gắn kết với nhau để bổ
sung, hỗ trợ cho nhau, là sự cộng ghép có tính chất cơ học. Tích hợp không phải là
phép tính cộng cơ học của các yếu tố như hỗn hợp và kết hợp mà ở đó các yếu tố hòa
trộn vào nhau thành một thể mới, các yếu tố không còn giữ nguyên mà có sự thay đổi
hoàn toàn về chất, chúng hòa hợp với nhau đan xen và chuyển hóa vào nhau để tạo ra
một sản phẩm khác, mang tính chất khác. Đó chính là sự hấp thu, kết hợp nhuần
nhuyễn nhiều nguồn khác nhau, đặc điểm của tích hợp là tính nhiều nguồn.
Trong văn hóa, văn học, chúng ta hiểu các khái niệm “Đông” và “Tây” mang
nghĩa khu vực văn hóa. Giữa hai khu vực này trong lịch sử đã có sự giao lưu tiếp nhận
chuyển hóa đặc biệt trong thời kỳ có sự biến động về lịch sử. Tích hợp Đông - Tây
trong Thơ mới là sự hòa hợp, hóa hợp các yếu tố với nhau, đan xen, chuyển hóa vào
nhau để tạo ra một sản phẩm mới, thực chất là sự giao thoa, tiếp biến văn hóa rồi đến
văn chương, sự hấp thu nhuần nhuyễn các yếu tố phương Đông (thơ Đường) và
phương Tây ( thơ Pháp).

1.1.3. Khái niệm thơ tượng trưng và yếu tố tượng trưng trong thơ
1.1.3.1. Nghĩa hẹp: Yếu tố tượng trưng - đặc tính của một trào lưu văn học
Người ta biết khái niệm chủ nghĩa tượng trưng (Symbolisme), bắt đầu từ tờ báo
Le Figaro ra ngày 18/9/1886, khi Jean Moreas, một trong những nhà thơ tượng trưng
đăng Tuyên ngôn thơ tượng trưng công bố với người đọc sự ra đời của một thời đại


11

mới trong thơ ca Pháp. Đi gần hết chặng đường đầu tích cực, trong cái nhìn của các
nhà tượng trưng, thi ca lãng mạn cả hình thức và nội dung đã nặng nề không diễn đạt
nổi những giá trị cao cả thuần túy của thơ nữa.
Khái niệm tượng trưng (symbol), chủ nghĩa tượng trưng (symbolisme), là một
chủ nghĩa thẩm mĩ mới đi xa hơn chủ nghĩa lãng mạn (romantisme). Nó muốn đi vào
lĩnh vực siêu hình, đi tìm bề sâu của cái tôi (le Moi) và cái tôi đa ngã (le Moi multiple)
hoặc cái tôi chưa biết (le Moi inconnu). Nó muốn khám phá và phát hiện về bề khác
của sự vật. Nó còn được coi là một hình thức luyện kim thơ …Nó quan niệm cái đẹp
khác hẳn chủ nghĩa cổ điển và lãng mạn. Với thi phái tượng trưng, thơ là hòa điệu của
âm thanh, màu sắc và hương thơm (Correspondence - Baudelaire) và nhạc là trước hết
(Verlaine). Thơ tượng trưng là một nghệ thuật thuần túy, nó không đề cập đến các vấn
đề chính trị và xã hội, mà là một thẩm mĩ phẩm, đôi khi người ta tiếp cận nó như nhạc
và tranh. Ngoài ra nó chống lại chủ nghĩa lý tính, duy thực, nó diễn tả về cái chưa biết
hoặc khó nắm bắt được một cách cụ thể, rõ ràng, nó nói về cái mơ hồ, về thân xác hoặc
cái huyền bí. Tượng trưng là cách diễn tả một cái gì lớn hơn sự vật, sâu sắc hơn sự vật
(với thơ Đường là sư uyên bác, cô đúc, kín đáo, thâm thúy), với thơ tượng trưng Pháp
là cái mới lạ, khác thường thậm chí dị thường. Chủ nghĩa tượng trưng có ý thức phản
đề lại thơ lãng mạn. Thơ lãng mạn là bước tiến quan trọng của giải phóng cá nhân. Cá
nhân đứng ở trung tâm cảm nhận, khám phá thế giới và lần đầu được công khai thành
thực với chính mình. Đó là thứ thơ chú trọng tình cảm. Sức mạnh của nó là ở sự
đồng cảm, đồng điệu. Thơ tượng trưng lại khai thác thế giới tâm linh (cái phi lý, cái

chủ quan, cái không nhất thiết, cái vô thường…).Thơ vì thế chú trọng những biểu
hiện của trực giác linh thiêng. “Thơ tượng trưng là tiếng nói của thế giới, là khát
vọng tìm kiếm cái bí ẩn đằng sau, bao gồm bản chất của thế giới, các hiện tượng tâm
linh con người, thế giới cảm giác và vô thức” [115, tr. 68]. Đó là điểm nổi bật của sự
khác biệt của thơ tượng trưng với thơ lãng mạn. Đồng thời chính vì đi sâu vào vô
thức, những nhà tượng trưng chủ nghĩa cho rằng giữa con người - vũ trụ có những
mối tương giao thần bí mà mọi sự mô tả đều vô nghĩa. Tuy nhiên, sự mở đầu của thi
phái tượng trưng sớm hơn nhiều, tiếp ngay sau sự kết thúc thời kỳ thịnh vượng của
trào lưu lãng mạn của Lamartine, Vigny, Musset… bắt đầu cùng với sự xuất hiện của
tập thơ Những bông hoa ác, của Baudelaire, năm 1857. Tuy chủ nghĩa tượng trưng
không có cuộc đời dài như một số trường phái nghệ thuật khác nhưng nó có một vận
mệnh văn học đặc biệt. Thơ tượng trưng đã mở ra cho thơ Pháp nói riêng và rộng


12

hơn là châu Âu một thời kỳ mới - thơ hiện đại, với cảm xúc mới, ngôn ngữ mới và
những khả năng thể hiện mới của thế giới đời sống và tâm hồn muôn mặt của con
người hiện đại. Chủ nghĩa tượng trưng khởi phát từ Pháp nhưng với ưu thế và những
nét riêng trong nhận thức thế giới và đời sống, với những tiềm năng thẩm mỹ mới mẻ
trong thực tế nó đã trở thành khuynh hướng chủ đạo của thơ châu Âu ở thập niên
cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, mở rộng từ châu Âu ra châu Á trong đó có nền
văn học Việt Nam.
Về cơ sở thời đại: Sau sự thành công của cách mạng tư sản Pháp 1789, hầu hết
các nhà văn lãng mạn bị cuốn hút bởi cơn lốc lịch sử, họ kỳ vọng lịch sử sẽ có một
hướng đi đúng về miền ánh sáng và đẹp đẽ. Sau cuộc chính biến của Napoléon tiểu đế
(Napoléon petit), năm 1851 nước Pháp bước vào thời kỳ đế quốc chủ nghĩa, tính chất
thù địch của hiện thực đời sống với nghệ thuật bộc lộ rõ hơn bao giờ hết. Nhìn vào
nước Pháp thế kỷ XIX, ta thấy đầy đủ hơn lý do thời đại dẫn đến sự ra đời của thơ
tượng trưng. Chủ nghĩa tượng trưng nảy sinh trên cơ sở ý thức được nỗi đau khổ về tự

do tinh thần của các nghệ sĩ, mọi giá trị tinh thần bị băng hoại chìm trong thời kỳ nước
Pháp đế quốc. Chống lại chủ nghĩa tôn thờ vật chất và sự cằn cỗi về vật chất, những
triệu chứng phản ứng xã hội nảy sinh. Những năm 70, 80 của thế kỷ XIX, tại thủ đô
Paris xuất hiện ngày càng nhiều các nhà văn, nhà thơ phản ứng lại thực tại tư sản. Họ
nhận ra sự trì trệ, ngưng đọng và cần lối thoát, bất mãn với hiện thực, tư tưởng sùng
bái các thần tượng như văn học đầu thế kỷ XIX bị lung lay dữ dội. Một làn sóng xã hội
đầy tính nổi loạn từ ăn mặc sinh hoạt đến thái độ đối với các giá trị tinh thần truyền
thống. Họ nhận ra nền văn minh đang bị suy thoái, những gì hàn lâm, cũ kĩ cần phải
phá bỏ để làm lại. Những phản ứng như vậy thoạt đầu có vẻ phá phách, nổi loạn, vô
chính phủ, nhưng chiều sâu vấn đề có một lôgic khác, đó là nhu cầu về sự đổi mới,
trong đó có đổi mới về nghệ thuật - cốt lõi trong đời sống tinh thần của nước Pháp.
Cuối thế kỷ XIX, bước ngoặt của văn học Pháp thực sự có tính nổi loạn để bước ra
khỏi tình trạng u ám của hiện thực. Sự nổi loạn đó là bi kịch của một thế hệ các nghệ sĩ
vô vọng trong ảo tưởng về những điều tốt lành của hiện thực mà nhiều thế hệ đã theo
đuổi. Từ đó có thể hiểu rằng tại sao sự nổi loạn phá phách, thậm chí là suy đồi của các
nhà thơ tượng trưng vẫn thường được giới phê bình phương Tây đánh giá với một thái
độ trân trọng.
Về cơ sở đời sống văn học: Chủ nghĩa tượng trưng là thi phái ra đời trên cơ sở
vừa tiếp thu vừa phủ nhận thơ lãng mạn và thơ của phái Thi sơn (Parnasse). Các nhà


13

thơ tượng trưng cho rằng, thơ đối với họ không phải chỉ là sự mô tả sự vật với hình
dáng, màu sắc, đường nét rõ ràng mà cần phải đem lại cái gì đó mơ hồ, bí ẩn. Chính
điều đó mới tạo ra niềm vui thú và sự sáng tạo. Các nhà thơ tượng trưng chống chủ
nghĩa hình thức của trường phái vị nghệ thuật nhưng lại thấy đối với thơ thực sự phải
có những yêu cầu khắt khe về cách thức biểu hiện. Nhiều nhà thơ tượng trưng, trước
hết là nhà thơ Baudelaire trân trọng, đồng cảm với phái Thi sơn, vì họ nhận ra các nhà
thơ này một điều rất quan trọng, đằng sau quan điểm nghệ thuật vị nghệ thuật là thái

độ phản ứng, bất mãn trước tình thế hiện thực đang bị thống trị bởi chủ nghĩa vị lợi.
Thái độ của các nhà thơ tượng trưng đối với các trường phái thơ khác như lãng mạn,
Thi sơn là lối ứng xử nghệ thuật hợp lý, có nhiều điểm tích cực. Đứng trên phương
diện nội dung “Tượng trưng xuất phát từ quan niệm nhìn nhận thế giới như một thể
thống nhất âm u và sâu xa” (Baudelaire). Theo đó, mọi vật trong vũ trụ đều là những
biểu tượng đa nghĩa. Với chủ nghĩa tượng trưng, vũ trụ là một khu rừng biểu tượng,
ở đó diễn ra những tương ứng, những mối liên hệ đột khởi của ý thức và vô thức, phù
du và vĩnh cửu. Và tượng trưng chính là một thi pháp để biểu hiện cách nhìn thế giới
độc đáo đó. Tượng trưng còn được tạo ra bởi các thao tác nghệ thuật đơn thuần trong
kĩ thuật làm thơ như việc sử dụng các biện pháp tu từ ẩn dụ, so sánh tượng trưng mà
theo Baudelaire, là sản phẩm siêu việt ở trạng thái thăng hoa của toàn bộ con người
tinh thần của người nghệ sĩ. Tức là muốn đạt đến tượng trưng, người nghệ sĩ phải
huy động toàn bộ con người cảm xúc, con người cảm giác luôn hòa nhập với thế giới
tâm linh ở cõi siêu nghiệm, để đạt đến trạng thái siêu thăng, người nghệ sĩ phải là
nhà thấu thị xây dựng lên những biểu tượng tượng trưng từ đó mang đến cho văn học
năng lực thẩm thấu thế giới từ mọi góc độ và nhiều bình diện cùng một lúc.
Thơ tượng trưng đem lại một cách nhìn mới về thế giới. Với những điều đã làm
được, chủ nghĩa tượng trưng trở thành một hiện tượng thơ đầy quyến rũ. Đó là một
hiện tượng thơ mà tiềm năng thẩm mỹ dường như không bao giờ vơi cạn. Những nhà
thơ mới Việt Nam trong buổi chuyển giao mới - cũ cũng đã nhìn thấy từ nguồn thơ
tượng trưng những gợi dẫn vô cùng có ý nghĩa, từ đó họ sáng tạo góp phần nâng cao
thơ dân tộc lên một tầm mới: Thơ hiện đại.
1.1.3.2. Nghĩa rộng: Yếu tố tượng trưng- thủ pháp biểu nghĩa
Trong lĩnh vực ngôn ngữ học, tượng trưng có thể coi là một biện pháp tu từ, qua
đấy sự vật được biểu hiện bằng những ước lệ, thường là những ẩn dụ cố định: hoa


14

hồng, ong bướm, tùng, cúc, trúc, mai…“hình tượng nghệ thuật cũng chính là một

tượng trưng vì một mặt vừa cho thấy đặc điểm của nó, mặt khác lại bộc lộ một ý nghĩa
phổ biến, sâu rộng hơn cái sự vật, cá biệt được miêu tả” [115, tr.60]. Tính tượng trưng
là một đặc tính cơ bản có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc biểu đạt, nó tạo nên
những cách liên tưởng độc đáo và góp phần tạo nên hiệu quả nghệ thuật của tác phẩm.
Bản thân ngôn từ đã mang nghĩa tượng trưng. Ngôn từ khi đi vào hoạt động giao tiếp
trong những hoàn cảnh nhất định thì lại tạo ra những nét nghĩa mới. Quá trình tạo
nghĩa là quá trình đi từ cái cụ thể đến cái trừu tượng, đi từ nghĩa đen đến nghĩa bóng
hay còn gọi là nghĩa tượng trưng. Những loại hình ảnh thường được dùng làm chất liệu
tượng trưng trong thơ ca là: thiên nhiên, con người…Chẳng hạn như mượn các dấu
hiệu trong thiên nhiên (natural symbols) để biểu đạt nội dung, ví dụ như ngôi sao
tượng trưng cho hi vọng, mặt trời mọc gợi lên một cái gì mới bắt đầu… Các loại hình
này qua cơ chế liên tưởng, tương đồng đã tạo nên tính tượng trưng của thơ ca.
Trong phong cách học, tượng trưng là tên gọi chung cho những hình ảnh ẩn dụ và
hoán dụ có tính chất tương đối bền vững, phổ biến. Tượng trưng cũng là nguyên lí
chung cho cả ẩn dụ và hoán dụ trong ngôn ngữ nghệ thuật và trong các loại hình hoạt
động nghệ thuật, hơn thế, hoạt động xã hội của con người nói chung: lấy một hình thức
cảm tính nhất định để biểu đạt một đối tượng khác, không đồng nhất với hình thức
cảm tính đó nhưng có một mối quan hệ chặt chẽ về một góc độ nào đó. Giá trị của
tượng trưng là ở chỗ lặp đi, lặp lại nhưng không sáo mòn do người sử dụng đặt đúng
văn cảnh của nó. Tượng trưng thông qua quá trình miêu tả một sự vật cụ thể, tạo nên
một hình ảnh sinh động, mới mẻ, coi đó là hình thức tượng trưng, có tác dụng gợi sự
liên tưởng từ phía người đọc, nhằm gửi gắm một cách trực tiếp hoặc ám thị ra những
khái niệm, tình cảm mang tính trừu tượng; cách làm này vừa khiến hình ảnh cụ thể do
có thêm nét nghĩa tượng trưng nên sinh động, mới mẻ và sâu sắc thêm, vừa khiến ý
nghĩa tượng trưng nhờ có hình ảnh cụ thể nên biến thành cụ thể hơn, dễ cảm hơn; nhờ
đó không chỉ tính biểu cảm của nghệ thuật được tăng lên, mà tư tưởng của tác phẩm
cũng trở nên sâu sắc hơn. Trên thực tế, tượng trưng thường được cấu thành bởi hai yếu
tố: Một là cần thiết phải có một sự vật, (trong thơ ca dùng thuật ngữ hình ảnh) cụ thể;
hai là, cần thiết phải có một nội dung hoặc ý nghĩa trừu tượng. Thông qua việc dùng
(sự vật hoặc hình ảnh) cụ thể, ám thị nội dung hoặc ý nghĩa trừu tượng, cái mà chúng

ta có được chính là tượng trưng. Có thể nói, đặc trưng ám thị chính là bản chất của
tượng trưng.


15

Trong lĩnh vực văn học, tượng trưng chính là một dạng chuyển nghĩa. Tượng
trưng khác với kí hiệu đơn giản, tượng trưng mang tính hàm súc và đa nghĩa. Sự tiếp
hợp của hai bình diện nội dung của hình tượng và nghĩa bóng của nó, khi đó sẽ mang ý
nghĩa tượng trưng. Ở mức giới hạn mỗi yếu tố của hệ thống nghệ thuật, thậm chí cả
nhân vật, nhan đề tác phẩm đều có thể trở thành tượng trưng. Theo từ điển tiếng Việt:
“Tượng trưng là dùng một sự vật cụ thể có tính hình thức hoặc tính chất thích hợp để
gọi ra sự liên tưởng đến cái trừu tượng nào đó. Ví dụ chim bồ câu tượng trưng cho hòa
bình, sư tử tượng trưng cho sức mạnh, xiềng xích tượng trưng cho nô lệ, hoa tượng
trưng cho cái đẹp” [99, tr.1046]. Ví dụ: Hình ảnh cụ thể mặt trời ngoài bản thân mang
nghĩa là một vật phát sáng, nó còn hàm nghĩa quang minh, đồng thời còn hàm ý nguồn
gốc của sự sống. Như vậy, trước hết cần thiết phải có mặt trời với tư cách vật tượng
trưng mang hình ảnh cụ thể, sau đó tính ám thị mới có thể sản sinh. Tượng trưng tất
yếu phải thể hiện ra kết quả của ám thị, đó chính là ý nghĩa, và ý nghĩa này lại có mối
quan hệ nội tại với vật dùng để ám thị. Ví dụ: Sông Hoàng Hà với tư cách vật tượng
trưng, ý nghĩa nhất định mà nó thể hiện chính là nền văn minh lâu đời của dân tộc
Trung Hoa, nhưng chúng ta đều biết từ bao đời nay, mọi hoạt động, sinh hoạt của dân
tộc Trung Hoa đều diễn ra tại lưu vực sông Hoàng Hà, thế nên Hoàng Hà được xem là
“cái nôi” nâng đỡ và nuôi lớn nền văn minh Trung Hoa. Hiểu theo nghĩa trên có thể
thấy, tượng trưng chính là một kiểu ngôn ngữ của đời sống. Đồng thời tượng trưng
cũng là thứ ngôn ngữ thứ hai của các lĩnh vực nghệ thuật: hội họa, âm nhạc, điêu
khắc, vũ đạo…“Khái niệm tượng trưng vừa mang nghĩa rộng là một phạm trù thẩm
mĩ, vừa được giới hạn lại để chỉ một phương thức chuyển nghĩa trong ngôn từ nghệ
thuật” [94, tr.1998].
Tóm lại: Tượng trưng về bản chất là một kiểu ám thị, nên bất kì lúc nào cũng đều

cần đến sự tồn tại của vật (dùng để ám thị) còn gọi là vật tượng trưng. Ở đây, vật ám
thị dùng để tượng trưng tất yếu phải là một vật cụ thể, đầy đủ hình ảnh, nó cần thiết
dùng khái niệm để thuyết minh, hơn nữa, từ sự vật hình ảnh cụ thể, có thể đạt tới khá
nhiều nét nghĩa, như vậy, khả năng hàm nghĩa của nó là hết sức phong phú. Như vậy,
tượng trưng là dùng sự vật này để ám gợi sự vật kia, trong đó sự vật kia được ẩn đi,
chính vì vậy nội hàm của sự vật được gợi mở với nhiều tầng ý nghĩa, khơi dậy
tưởng tượng của người tiếp nhận.


16

1.1.3.3. Cách tiếp cận yếu tố tượng trưng của luận án:
Yếu tố tượng trưng trong thơ là sự kết hợp của cả nghĩa rộng và nghĩa hẹp như đã
trình bày ở trên. Luận án cũng phân biệt yếu tố tượng trưng và biểu tượng: Tựơng
trưng là thủ pháp tư duy, tượng trưng và biểu tượng có lúc đồng nhất với nhau khi
người ta dùng để phân biệt với các thủ pháp khác. Tuy nhiên ở nghĩa hẹp tượng
trưng là thủ pháp của tư duy, còn biểu tượng là kết quả của quá trình tư duy, là sản
phẩm của quá trình tư duy ấy. Từ nhiều hình ảnh sẽ dẫn đến biểu tượng, nhưng không
phải bất cứ trường hợp nào có hình ảnh là có biểu tượng. Tự bản thân chúng, các hình
ảnh không được sử dụng như biểu tượng; chúng trở thành biểu tượng khi được đặt
trong môi trường phù hợp. Một hòn đảo cũng chỉ là một phần đất liền được bao quanh
bởi nước, cho đến khi John Donne nói “không ai là một hòn đảo”, nó đã trở thành biểu
tượng cho sự cô độc, tự cung tự cấp. Như vậy một hình ảnh có thể mang nhiều ý nghĩa
biểu tượng, cũng như nhiều hình ảnh khác nhau có thể được sử dụng để chuyển tải một
ý nghĩa biểu tượng giống nhau.
Thơ lãng mạn biểu hiện bằng hình tượng còn thơ tượng trưng biểu đạt cái tinh thần của
thế giới đầy bí ẩn. Ngôn từ của chủ nghĩa lãng mạn là ngôn từ diễn cảm, còn với chủ
nghĩa tượng trưng ngôn từ là sự tương hợp của những mối quan hệ giữa con người và sự
vật, nghệ thuật của cái bên trong, cái tinh thần của khát vọng cái vô tận, nó khai thác giấc
mơ vô thức. Nó biểu đạt bằng ngôn từ hiện đại, những nhịp thơ siêu tự nhiên, những im

lặng tạo âm vang, những câu thơ đứt nối không ăn khớp. Các nhà thơ mới chịu ảnh hưởng
sâu sắc các nhà thơ tượng trưng Pháp như Baudelaire, Rimbaud, Verlaine, Mallarmé, tiếp
nhận chung cái thế giới bên trong. Mỗi nhà thơ cảm nhận một góc độ riêng: Xuân Diệu
hương hoa, màu sắc, âm thanh tương ứng, Huy Thông với tiếng ca vũ trụ, Vũ Hoàng
Chương với tính đô thị, Lưu Trọng Lư với âm nhạc mơ hồ, huyền ảo…Tượng trưng trong
Thơ mới là thành quả của sự giao lưu, tiếp nhận, tiếp biến từ nhiều phía: phương Tây và
phương Đông (thơ Pháp và thơ Đường), tiếp cận yếu tố tượng trưng là cánh cửa để đi vào
tìm hiểu thế giới nghệ thuật của tác phẩm. Yếu tố tượng trưng thuộc về thành phẩm sáng
tạo chủ động gặp gỡ, giao lưu trong quá trình lao động nghệ thuật của các nhà thơ mới.
Không phải đợi đến khi ra đời chủ nghĩa tượng trưng thì mới có yếu tố tượng trưng, yếu
tố tượng trưng là thủ pháp tư duy mà văn học thời nào cũng có, nhưng nó được kết tinh ở
chủ nghĩa tượng trưng, đến chủ nghĩa tượng trưng thì yếu tố tượng trưng được đẩy lên cao
hơn, tập trung hơn.


17

1.2. Lịch sử nghiên cứu
1.2.1. Lược thuật lịch sử nghiên cứu về Thơ mới
Trước Cách mạng tháng 8 năm 1945
Vấn đề nghiên cứu phong trào Thơ mới đã được đề cập từ rất sớm. Ngay từ khi
mới ra đời, Thơ mới được hiểu là thơ tự do nhằm phân biệt, đối lập với những bài thơ
làm theo hình thức thơ luật Đường một cách gò bó, khuôn sáo. Nhìn chung, các công
trình nổi bật là cuốn Việt Nam văn học sử yếu (1941) của Dương Quảng Hàm [42] và
công trình Thi nghệ: Lược luận về thơ và nghệ thuật làm thơ của tác giả Lê Văn Hòe,
do NXB Quốc học thư xã ấn hành năm 1941 đã đề cập tới Thơ mới và yêu cầu đối với
Thơ mới. Ở đó ông có trích dẫn một số bài thơ mới tiêu biểu.
Thi nhân Việt Nam (1942) của Hoài Thanh - Hoài Chân [127], đến nay đã được
tái bản nhiều lần. Đây là hợp tuyển thơ đầu tiên của thời kỳ Thơ mới, phác họa đôi nét
nhận xét, đánh giá về thời đại và phong trào Thơ mới, ghi nhận lại tên tuổi nhà thơ và

những bài thơ chọn lọc có giá trị của các nhà thơ đó trong khoảng 1932 - 1941. Các tác
giả đã tỏ ra rất nhạy cảm, xác đáng trong tinh tuyển, tổng duyệt, tổng luận thế nào là
Thơ mới, những ý kiến của các ông rất có ý nghĩa. Cuốn sách bình luận theo phương
pháp chủ quan, được nhiều thế hệ cầm bút đánh giá rất cao.
Nhà văn hiện đại của Vũ Ngọc Phan[98]; Công trình Hàn Mặc Tử, thân thế và
thi văn của Trần Thanh Mại [73] là những chuyên khảo lớn, bề thế đề cao các tác giả
thơ mới, tiêu biểu như Hàn Mặc Tử…
Từ sau Cách mạng tháng 8 năm 1945
Việc nghiên cứu Thơ mới trải nhiều thăng trầm. Ở miền Bắc, do thực tiễn, nhiệm
vụ cách mạng đặt ra cho văn nghệ nói chung và cái nhìn về văn học lãng mạn chưa
được cởi trói, việc nghiên cứu Thơ mới còn ít, chưa thỏa đáng, nhất là về nội dung tư
tưởng. Đội ngũ có phần vắng vẻ, việc đánh giá Thơ mới còn dè dặt. Những chuyên
khảo lớn vắng bóng. Thành tựu nghiên cứu trong thời gian này, đáng chú ý nhất là công
trình Phong trào Thơ mới của Phan Cự Đệ [25] cũng khẳng định những đóng góp to lớn
về nghệ thuật của Thơ mới.
Trong giai đoạn này, ở miền Nam, Thơ mới được đánh giá cao, được đưa vào
giảng dạy trong nhà trường. Các công trình: Việt Nam văn học sử giản ước tân biên
(tập III, 1961) của Phạm Thế Ngũ, Những bước đầu của báo chí, tiểu thuyết và Thơ
mới của Bùi Đức Tịnh; một số công trình nghiên cứu các tác giả thơ mới của Võ Long


18

Tê, Thái Văn Kiểm, Huỳnh Phan Anh, Nguyễn Mộng Giác, Quách Tấn, Đặng Tiến,
Thanh Lãng, Nguyễn Tấn Long, Nguyễn Hữu Trọng, Nguyễn Văn Trung…các tác giả
chủ yếu nghiêng về miêu tả những biểu hiện, chứ chưa đi sâu tìm hiểu tính đặc thù về
chức năng, nội dung và thi pháp của Thơ mới.
Từ 1975 - 1985 sau ngày đất nước thống nhất, vấn đề đánh giá Thơ mới vẫn trượt
theo quán tính phủ định. Từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đến nay, trong bối cảnh
thời kỳ đổi mới, hội nhập (với thế giới), Thơ mới và nhiều hiện tượng văn học tiền

chiến được nhìn nhận lại, đánh giá một cách khách quan và khoa học hơn. Tiêu biểu
là các công trình: Công việc làm thơ, Xuân Diệu [13] ; Thơ mới - bình minh thơ Việt
Nam hiện đại (Nguyễn Quốc Túy) [151], Văn học lãng mạn Việt Nam 1930 - 1945
(Phan Cự Đệ) [26], Thơ Xuân Diệu trước Cách mạng tháng Tám 1945 của Lý Hoài
Thu [141], Tìm hiểu thơ (Mã Giang Lân) [61], Lịch sử văn học Việt Nam 1930 - 1945
(Giáo trình lịch sử văn học - Nguyễn Đăng Mạnh) [76],…
Ngoài ra, còn có dạng các công trình đi vào phong cách riêng của các nhà thơ,
như: Đỗ Lai Thúy trong chuyên luận Con mắt thơ [145] đã đi sâu khám phá thế giới
nghệ thuật Thơ mới. Với một năng lực cảm thụ văn chương tinh tế kết hợp với tư duy
khoa học tác giả đã chỉ ra những phong cách độc đáo của từng cái Tôi trong làng Thơ
mới: Thế Lữ, người bộ hành phiêu lãng; Xuân Diệu sự ám ảnh thời gian; Huy Cận,
nỗi khắc khoải không gian; Nguyễn Bính, đường về chân quê; Vũ Hoàng Chương,
Đào nguyên lạc lối; Hàn Mặc Tử, một tư duy độc đáo; Bích Khê, sự nhận thức ngôn
từ… Tất cả hòa quyện tạo nên cái Tôi thơ mới, làm nên một thời đại trong thi ca.
Trong cuốn Ba đỉnh cao Thơ mới Xuân Diệu - Nguyễn Bính - Hàn Mặc Tử của Chu
Văn Sơn [111], người viết đã chỉ ra phong cách đặc thù của mỗi tác giả. Dù mỗi người
một vẻ nhưng các tác giả đều thấy cái Tôi qua mỗi áng thơ.
Các nhà nghiên cứu, những người quan tâm có thể tìm thấy nhiều công trình
nghiên cứu ở mọi cấp độ về Thơ mới. Gần đây, tác giả Nguyễn Bá Thành (2012) với
cuốn Giáo trình tư duy thơ hiện đại Việt Nam [131] và cuốn Toàn cảnh thơ Việt Nam
[132], đã xem xét Thơ mới từ lý thuyết tư duy thơ với một hệ nguyên tắc nhận diện có
sự đổi khác. Công trình nghiên cứu Thơ mới, quy luật sáng tạo của loại hình thơ này,
một loại hình thơ phát triển rực rỡ bậc nhất trong lịch sử thơ trữ tình Việt Nam giúp
chúng ta có cái nhìn chân xác hơn sự vận động của thơ ca dân tộc, từ đó hình thành
những nhận thức có tính nguyên lý về mỹ học của loại hình thơ trữ tình nói chung.
Gần đây cuốn Loại hình Thơ mới Việt Nam (1932 -1945) của tác giả Nguyễn


19


Thanh Tâm [125] là chuyên luận giới thuyết về lý thuyết loại hình trong nghiên cứu
văn học và thơ ca hướng đến việc mô tả, lý giải và khẳng định: Thơ mới là một loại
hình thơ trong tiến trình thơ trữ tình Việt Nam từ khởi thủy đến hiện đại, mô tả lịch sử
nghiên cứu vấn đề Loại hình Thơ mới, đồng thời chuyên luận cũng mở ra hướng
nghiên cứu loại hình Thơ mới như một hiện tượng có tính quy luật trên phạm vi Đông
Á đầu thế kỷ XX. Để khẳng định Thơ mới là một loại hình thơ, chuyên luận hình
thành một trục nghiên cứu có tính chất quy chiếu: Kiểu tư duy Thơ mới. Từ kiểu tư
duy Thơ mới, các vấn đề: quan niệm về thơ, hình thức tổ chức văn bản ngôn từ nghệ
thuật đặc thù của Thơ mới được tác giả đặc biệt chú ý.
Các tiểu luận - phê bình giảng bình tác phẩm Thơ mới có các công trình của Lê
Trí Viễn, Nguyễn Đăng Mạnh, Hoàng Ngọc Hiến, Hoàng Trinh, Phan Cự Đệ, Văn
Tâm, Vương Trí Nhàn, Lại Nguyên Ân, La Khắc Hòa, Lê Bá Hán, Mã Giang Lân, Vũ
Quần Phương, Trần Đăng Xuyền, Lê Quang Hưng, Phạm Xuân Nguyên, Hồ Thế Hà,
Phạm Hổ, Ngô Văn Phú, Cao Xuân Thứ, Văn Giá, Phan Quỳnh Nga…
Trên đây chúng tôi lược thuật tình hình nghiên cứu Thơ mới hơn bảy mươi năm
qua và nhận thấy rằng phong trào văn học này có một lịch sử nghiên cứu tranh luận
kéo dài và sôi nổi nhất trong lịch sử văn học Việt Nam. Cũng vì thế mà thành tựu rất
lớn, đa dạng và có những phát hiện mới. Ở đây chúng tôi xem lịch sử nghiên cứu là
một bài học về phương pháp cũng như quan điểm đánh giá, để có cái nhìn khách quan,
hợp lý về phong trào Thơ mới - một hiện tượng thơ có giá trị. Nhìn chung, nghiên cứu
Thơ mới đã có một bề dày lịch sử, phân tích, đánh giá và ngày càng có thêm nhiều
thành tựu. Tuy nhiên, do mục đích khoa học cụ thể của từng tác giả đề tài là khác nhau
việc nghiên cứu phong trào văn học này còn không ít những vấn đề bỏ ngỏ, cần khám
phá, luận giải thêm.
1.2.2. Lịch sử nghiên cứu về dấu ấn của chủ nghĩa tượng trưng Pháp trong Thơ
mới
Các nhà nghiên cứu phê bình đã nhìn nhận thấy mối giao lưu tiếp biến giữa Thơ
mới với chủ nghĩa tượng trưng phương Tây, đặc biệt là Baudelaire trong sáng tác của
các nhà thơ mới trước cách mạng Tháng Tám. Những ý kiến đánh giá quy tụ lại khẳng
định: Sự gặp gỡ của Thơ mới với văn học phương Tây, nhiều hơn cả là với Baudelaire

đã mang lại cho Thơ mới một gương mặt thơ hiện đại.
Năm 1941, Trần Thanh Mại hoàn thành tập sách Hàn Mặc Tử - thân thế và thi
văn, công trình chuyên khảo đầu tiên về thơ Hàn Mặc Tử. Cũng như Xuân Diệu, ban


20

đầu Trần Thanh Mại mỉa mai, công kích Hàn Mặc Tử khi nói về âm hưởng thơ tượng
trưng trong sáng tác của Hàn, nhưng về sau khẳng định “Thiên tài của Hàn Mặc Tử
cao hơn tất cả các thiên tài trên thế giới” [73, tr. 55]. Công trình là nén tâm hương của
Trần Thanh Mại dâng lên một thi tài vừa quá cố. Cuốn sách có ít nhiều nhắc đến mối
quan hệ giữa Hàn Mặc Tử và Baudelaire, và điều quan trọng hơn, Trần Thanh Mại đã
thấy được ở Hàn Mặc Tử một hồn thơ mới lạ độc đáo, hiếm có, là một trong những
người có công “trong thế kỉ XX, mở ra một cuộc cải cách lớn cho văn chương Việt
Nam và thành công một cách vinh quang rực rỡ” [73,Tr. 230].
Thi nhân Việt Nam (1942), Hoài Thanh - Hoài Chân có những đánh giá khá cẩn
trọng về thơ tượng trưng Pháp, cũng như sự ảnh hưởng của nó trong phong trào Thơ
mới. Ông cho rằng “mỗi nhà thơ Việt mang trên đầu năm bảy nhà thơ Pháp”. Tác
phẩm tổng kết thành quả của phong trào Thơ mới với 45 nhà thơ tiêu biểu mà theo tác
giả “không nhiều thì ít, ở mức độ đậm nhạt khác nhau, đều bị ám ảnh bởi Baudelaire,
người đã khơi nguồn thơ tượng trưng ”[127, tr.34]. Họ cho rằng: Xuân Diệu học được
ở C.Baudelaire "một nghệ thuật tinh vi", Huy Cận chịu "ảnh hưởng Verlaine", Hàn
Mặc Tử và Chế Lan Viên "chịu rất nặng ảnh hưởng của Baudelaire", còn Bích Khê và
Nguyễn Xuân Sanh "muốn đi đến chỗ người ta thường cho là cao nhất trong thơ tượng
trưng: Mallarmé, Valéry" [127, tr.33]. Nhận xét tổng quát trên đã cho thấy, thơ tượng
trưng dành được một vị thế ảnh hưởng đáng kể trong thơ hiện đại Việt Nam. Nhiều tác
giả đã học tập thơ tượng trưng phương Tây tạo ra tiếng nói mới lạ, đóng góp có ý
nghĩa vào sự phong phú về phong cách nghệ thuật Thơ mới. Các tác giả thi nhân Việt
Nam cũng chỉ ra những nhà thơ trong phong trào Thơ mới chịu ảnh hưởng của thơ
tượng trưng ở mức độ không đồng đều, có đậm, nhạt khác nhau. Có thể nói, bằng lối

cảm nhận tinh tế, cái nhìn cởi mở, Thi nhân Việt Nam của Hoài Thanh - Hoài Chân
nhằm tổng kết một phong trào thơ, nên vấn đề ảnh hưởng của thơ tượng trưng có được
các tác giả đặt ra nhưng chưa phân tích kĩ. Có thể nói, bằng lối cảm nhận tinh tế, cái
nhìn toàn diện cởi mở, công trình đã góp phần quan trọng trong gợi mở cách tiếp cận
với Thơ mới cho độc giả.
Phan Cự Đệ trong Phong trào Thơ mới 1932 - 1945, dành nhiều tâm huyết
nghiên cứu ảnh hưởng của thơ ca tượng trưng Pháp đến Thơ mới. Tác giả cho rằng:
“Nhìn chung từ 1936 trở về sau, trường phái tượng trưng được người ta chú ý hơn cả.
Tại sao đây?…Cái chính vẫn là sự gặp nhau của những tâm hồn trí thức bất mãn với
xã hội, đau buồn, chán nản, u uất khi phong trào cách mạng của quần chúng bị thất bại


×