PHÁN QUYẾT CỦA TRỌNG TÀI QUỐC TẾ
TRANH CHẤP VỀ VIỆC GIAO HÀNG CHẬM
TRONG HỢP ĐỒNG GIA CÔNG GĂNG TAY
Các bên:
Nguyên đơn : Bên gia công Trung Quốc
Bị đơn: Bên thuê gia công Hồng Kông
Các vấn đề được đề cập:
Giao hàng theo lô và giao hàng chậm
Từ chối thực hiện nghĩa vụ cung cấp nguyên liệu gia công do bên kia vi
phạm hợp đồng
Tóm tắt vụ việc:
Ngày 26 tháng 2 năm 1988, Nguyên đơn và Bị đơn ký một hợp đồng gia công
găng tay cao su y tế ở Shenzhen bằng cao su nhập khẩu. Điều 1 của hợp đồng qui định Bị
đơn phải cung cấp 500 tấn cao su 60% ly tâm tự nhiên loại một (first class 60% natural
centrifugal latex) không tính phí trong khoảng thời gian từ tháng 3 năm 1988 đến tháng 1
năm 1989. Điều 2 Hợp đồng qui định Nguyên đơn phải chuyển cho Bị đơn 30.000.000
găng tay cao su y tế đóng trong các thùng hàng vào khoảng giữa tháng 5 năm 1988 và
tháng 3 năm 1989. Phí gia công là 29 USD cho một tấn găng tay, tổng số là 870.000
USD, bốc hàng ở Shanghai. Phí vận chuyển do Bị đơn chịu, kể cả phí vận chuyển từ nhà
máy đến cảng Shanghai. Thanh toán bằng thư tín dụng giáp lưng (back-to-back L/C).
Mỗi lần giao hàng Nguyên đơn phát hành một thư tín dụng và thư tín dụng này chỉ có
hiệu lực khi Bị đơn phát hành trở lại một thư tín dụng trả tiền ngay (time letter of credit).
Điều 11 Hợp đồng qui định bên vi phạm hợp đồng phải bồi thường 20% tổng trị giá các
sản phẩm đã gia công hoặc 20% trị giá các sản phẩm chưa được gia công cộng với các
thiệt hại về nguyên vật liệu hoặc thiệt hại về nhân công cho bên kia. Khoản bồi thường sẽ
phải trả một lần.
Sau khi hợp đồng được ký kết, Bị đơn đã cung cấp 175,89 tấn cao su thành bốn lần
trong khoảng thời gian từ tháng 2 đến tháng 5 năm 1988. Sau khi nhận được nguyên vật
liệu, Nguyên đơn đã tiến hành sản xuất.
Do Bị đơn muốn thay đổi phương thức đóng gói và vì các lý do khác, Nguyên đơn
đã hoãn thời gian giao hàng trước khi có sự chấp thuận của Bị đơn. Trong thời gian từ
tháng 7 đến ngày 4 tháng 11 năm 1988 Nguyên đơn đã chuyển cho Bị đơn tổng cộng là
8.000.000 găng cao su, tính cả 1.000.000 găng chuyển ngày 4 tháng 11 năm 1988 mà Bị
đơn đã từ chối khi số hàng này đến Hồng Kông và bị trả lại cho Nguyên đơn ngày 5
tháng 5 năm 1989.
Từ tháng 5 năm 1988, Bị đơn đã ngừng cung cấp cao su cho Nguyên đơn và từ
chối phát hành thư tín dụng cho số găng đã gia công đó.
Sau một thời gian dài đàm phán không thành công, ngày 23 tháng 8 năm 1989
Nguyên đơn đã khởi kiện Bị đơn ra trọng tài với những lập luận như sau:
Lô găng cao su thứ tám do Nguyên đơn xếp lên tàu đã được chuyển đến Hồng Kông sau
khi đã được đại diện của Bị đơn ở Shanghai chấp nhận qua điện thoại. Do đó việc Bị đơn
từ chối không nhận hàng ở Hồng Kông vì lý do hàng bị giao chậm hơn so với ngày giao
hàng ghi trong thư tín dụng là không hợp lý. Trên thực tế, Bị đơn đã từ chối nhận số hàng
này để tránh tổn thất vì mặt hàng này trên thị trường đang bị mất giá. Bị đơn phải chịu
trách nhiệm do vi phạm hợp đồng và phải bồi thường thiệt hại cho Nguyên đơn.
Nguyên đơn phải chịu các tổn thất về kinh tế vì phải lưu kho số găng này do Bị đơn
không nhận hàng và không phát hành thư tín dụng.
Sau tháng 5 năm 1988 Bị đơn đơn phương ngừng cung cấp cao su theo hợp đồng. Do đó
nhà máy của Nguyên đơn phải ngừng sản xuất, gây thiệt hại nặng nề cho Nguyên đơn.
Ngày 29 tháng 7 năm 1988 Nguyên đơn đã phát hành thư tín dụng chấp thuận (time letter
of credit) với trị giá 191.880 USD nhưng Bị đơn chỉ phát hành thư tín dụng giáp lưng trả
tiền ngay(back-to-back sight letter of credit) theo từng lô hàng. Ngày 24 tháng 6 và ngày
25 tháng 7 năm 1988 Bị đơn chỉ phát hành hai thư tín dụng với tổng trị giá 243.920 USD
trong đó có 116.000 USD phí gia công, các thư tín dụng này còn thiếu tổng cộng là
121.960 USD trong đó có 58.000 USD phí gia công. Sau đó Nguyên đơn liên tục nhắc
nhở Bị đơn mở thư tín dụng nhưng Bị đơn đã không thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng và
Bị đơn còn sử dụng các phương thức không hợp thức khác để rút 95.940 USD còn lại
trong thư tín dụng chấp thuận của Nguyên đơn mà không thông báo gì cho Nguyên đơn.
Vì vậy Nguyên đơn còn phải chịu thêm nhiều thiệt hại kinh tế khác.
Vì những lý do nêu trên, Nguyên đơn yêu cầu:
Bị đơn bồi thường cho Nguyên đơn tiền thiệt hại 306.666 USD, tức 20% khoản tiền còn
lại chưa trả, phù hợp với hợp đồng;
Bị đơn phải trả 102.950 USD cho 3.550.000 găng đã gia công;
Bị đơn phải trả lại 95.940 USD bị rút một cách bất hợp pháp từ thư tín dụng chấp thuận
của Nguyên đơn, cộng với 17.269,20 USD tiền lãi (tính theo lãi suất 1,2%/tháng).
Bị đơn phải hoàn trả tiền cước vận chuyển nội địa mà Nguyên đơn đã trả nhân danh Bị
đơn: 6.057,6 Rmb + 5.600 Rmb = 11.657 Rmb, tức là 3.142,21 USD (tỷ lệ qui đổi: 1USD
= 3,71 Rmb); và hoàn trả lại tiền phí vận chuyển đường biển và phí lưu hàng tại cảng
40.780 HK$ (5.228USD);
Bị đơn phải hoàn trả cho Nguyên đơn phí lưu kho, cộng với tiền lãi là 1.325,03 Rmb
(357,15USD);
Phí luật sư 18.800 Rmb (5.067,38 USD) do Bị đơn chịu;
Phí trọng tài do bên thua kiện chịu.
Bị đơn giải trình như sau:
Thư tín dụng chấp thuận do Nguyên đơn phát hành chỉ có hiệu lực khi Bị đơn phát hành
thư tín dụng giáp lưng trả tiền ngay, vì vậy Bị đơn có quyền quyết định có nên tiếp tục
cung cấp cao su và phát hành tín dụng giáp lưng cho găng cao su đã gia công phù hợp với
việc thực hiện hợp đồng hàng tháng của Nguyên đơn. Nếu Bị đơn không cung cấp cao su
và phát hành tín dụng giáp lưng thì Nguyên đơn có quyền quyết định có tiếp tục gia công
găng cao su, giao hàng và phát hành thư tín dụng giáp lưng hay không. Bị đơn đã cung
cấp 175,89 tấn cao su phù hợp với hợp đồng, nhưng Nguyên đơn lại không giao hàng
đúng thời hạn giao hàng qui định trong hợp đồng. Nguyên đơn đã giao chậm tất cả là
8.000.000 găng cao su, kể cả 1.000.000 đôi trong lần giao hàng cuối cùng, số hàng được
xếp lên tàu ngày 4 tháng 11 năm 1988 mà không được phép của đại diện của Bị đơn ở
Shanghai, và đã vượt quá thời gian xếp hàng trong thư tín dụng. Nguyên đơn phải tự chịu
trách nhiệm cho việc Bị đơn từ chối số hàng giao chậm. Để tránh những thiệt hại tiếp
theo căn cứ vào quá trình thực hiện hợp đồng trước đó của Nguyên đơn, Bị đơn tạm
ngừng cung cấp cao su và phát hành các thư tín dụng giáp lưng để chấp nhận số găng đã
gia công đó.
Do Nguyên đơn đã vi phạm hợp đồng, ba container cao su mà Bị đơn đã chuyển cho
Nguyên đơn đã không được thu hồi. Sau khi đàm phán với ngân hàng, Bị đơn rút lại
95.940 USD coi như tiền thanh toán cho số cao su nói trên. Vì Nguyên đơn đã nhận số
cao su trong ba container hàng này nên Bị đơn được quyền đòi tiền cao su.
Phán quyết của trọng tài:
1. Nguyên đơn đã không có đủ chứng cứ chứng minh cho lập luận rằng việc Bị đơn từ
chối hàng ở Hồng Kông là không có căn cứ và rằng đây là một vi phạm hợp đồng.
Nguyên đơn không chứng minh được rằng Bị đơn đã chấp nhận việc gửi lô hàng thứ
tám với 1.000.000 găng cao su bốc lên tàu ngày 4 tháng 11 năm 1988. Uỷ ban trọng
tài lưu ý rằng các bên đã chấp thuận hoãn việc gửi lô hàng đầu tiên. Do đó, thời gian
giao hàng tiếp theo cũng được sửa đổi và Bị đơn đã không phản đối những lần giao
hàng muộn ngoại trừ đối với lô hàng thứ tám mặc dù việc Nguyên đơn giao hàng sau
khi thư tín dụng đã hết hạn là vi phạm thoả thuận của các bên về thời gian giao hàng.
Vì vậy, Uỷ ban trọng tài quyết định bác yêu cầu của Nguyên đơn đòi bồi thường thiệt
hại liên quan đến lô hàng thứ tám.
2. Bị đơn lập luận rằng lý do khiến Bị đơn ngừng cung cấp cao su và phát hành thư tín
dụng đối ứng trả tiền ngay (opposite sight letter of credit) là để tránh những tổn thất
khác do việc giao muộn lô hàng thứ tám gây ra. Lập luận này của Bị đơn là không thể
chấp nhận được.
Uỷ ban trọng tài cho rằng
Việc Nguyên đơn giao muộn lô hàng thứ tám không phải là một vi phạm nghiêm
trọng đối với hợp đồng và do đó không giải phóng các bên khỏi các quyền và nghĩa vụ
trong hợp đồng.
Nếu số lượng hàng gửi được tính theo ngày gửi hàng trước khi sửa đổi, như Bị đơn
đề nghị, thì Bị đơn phải giao lô cao su mới muộn nhất là vào cuối tháng 8 năm 1988. Bị
đơn không thể coi việc giao hàng hồi tháng 11 là sự hoàn thành nghĩa vụ mà lẽ ra phải
được hoàn thành từ tháng 8. Do đó, Uỷ ban trọng tài quyết định Bị đơn phải trả tiền bồi
thường thiệt hại là 112.810 USD (tức 29USD/1 tấn hàng x (30.000.000 - 7.000.000 1.000.000 - 2.550.000) x 20%) và bồi thường cho 2.550.000 găng cao su đã gia công.
Hợp đồng qui định thư tín dụng chấp thuận do Nguyên đơn phát hành chỉ có hiệu
lực khi Bị đơn phát hành thư tín dụng giáp lưng trả tiền ngay. Việc Bị đơn đơn phương
rút 95.940 USD còn lại, trong đó có 31.980 USD tiền phải trả cho lô hàng thứ tám trong
thời gian thư tín dụng do Nguyên đơn mở đang có hiệu lực trong khi Bị đơn không phát
hành thư tín dụng giáp lưng trả tiền ngay trị giá 121.960 USD là không đúng. Từ thực tế
là Nguyên đơn đã gia công 3.550.000 găng cao su, trong đó có 1.000.000 găng giao chậm
nên Nguyên đơn phải tự mình chịu trách nhiệm về lô hàng giao chậm này, Bị đơn phải
bồi thường cho Nguyên đơn 73.950 USD cho 2.550.000 găng còn lại do Bị đơn đã không
phát hành thư tín dụng giáp lưng thanh toán ngay. Vì số găng này không chuyển cho Bị
đơn nữa nên yêu cầu đòi 95.940 USD của Nguyên đơn không được chấp thuận.
Phù hợp với điều khoản về vận chuyển của hợp đồng, Uỷ ban trọng tài chấp nhận
yêu cầu của Nguyên đơn về 8.142,21 USD phí vận chuyển nội địa mà Nguyên đơn đã trả
cho Bị đơn. Tuy nhiên, khoản tiền 1.884, 09 USD của lô hàng thứ tám gồm 1.000.000
găng phải được khấu trừ và phần thanh toán thực tế phải trả là 1.258,12 USD. Uỷ ban
trọng tài bác yêu cầu của Nguyên đơn về 5.228 USD tiền cước vận chuyển đi và về và
tiền phí lưu kho hàng hoá ở cảng cho lô hàng thứ tám này.
Uỷ ban trọng tài chấp nhận yêu cầu của Nguyên đơn đòi bồi thường 357,15 USD
tiền lưu kho và tiền lãi phát sinh mà Nguyên đơn đã phải trả nhân danh Bị đơn.
1. Phí luật sư của Nguyên đơn là 18.800 Rmb phải do Nguyên đơn chịu.
2. Phí trọng tài sẽ do cả hai bên chịu: Nguyên đơn chịu 30%, phần 70% còn lại do
Bị đơn chịu.
Phán quyết:
1. Bác yêu cầu của Nguyên đơn đòi bồi thường thiệt hại cho lô găng cao su thứ tám
do thiếu chứng cứ thực tế và chứng cứ về pháp luật;
2. Bị đơn phải bồi thường cho Nguyên đơn tiền thiệt hại 112.810 USD vì đã không
tiếp tục thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng của mình, và 73.950 USD tiền phí gia
công 2.550.000 găng;
3. Bác yêu cầu của Nguyên đơn đòi trả 95.940 USD mà Bị đơn đã rút lại, cộng với
tiền lãi 11.512, 8%;
4. Bị đơn phải hoàn trả 1.258, 12 USD phí vận chuyển nội địa cho Nguyên đơn;
5. Bị đơn phải bồi thường cho Nguyên đơn tiền lưu kho 357,15 USD mà Nguyên đơn
đã trả thay cho Bị đơn cộng với tiền lãi;
6. Phí trọng tài sẽ do cả hai bên chịu: Nguyên đơn chịu 30%, phần 70% còn lại do Bị
đơn chịu.