Tải bản đầy đủ (.pdf) (102 trang)

Nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh bảo hiểm phi nhân thọ của tổng công ty bảo hiểm bảo việt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.38 MB, 102 trang )

BỘ GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN THỊ TRỌN

NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG
KINH DOANH BẢO HIỂM PHI NHÂN THỌ
CỦA TỔNG CÔNG TY BẢO HIỂM BẢO VIỆT

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

TP. Hồ Chí Minh - Năm 2015


BỘ GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN THỊ TRỌN

NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG
KINH DOANH BẢO HIỂM PHI NHÂN THỌ
CỦA TỔNG CÔNG TY BẢO HIỂM BẢO VIỆT

Chuyên ngành: Tài chính - Ngân hàng
Mã số: 60340201

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS,TS. NGUYỄN VĂN SĨ


TP. Hồ Chí Minh - Năm 2015


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là đề tài do chính bản thân tôi tự nghiên cứu, các số liệu và kết
quả nghiên cứu trong đề tài này là trung thực. Tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm về nội
dung của đề tài nghiên cứu này.
Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Trọn


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

Chữ viết tắt

Stt

Diễn giải

1

Bảo Minh

Tổng Công ty cổ phần Bảo Minh

2

Bảo Việt


Tổng Công ty Bảo hiểm Bảo Việt

3

BH

Bảo hiểm

4

BHNT

Bảo hiểm nhân thọ

5

BHPNT

Bảo hiểm phi nhân thọ

6

BHTM

Bảo hiểm thương mại

7

DN


Doanh nghiệp

8

DNBH

Doanh nghiệp bảo hiểm

9

GDP

Tổng sản phẩm quốc nội

10

KDBH

Kinh doanh bảo hiểm

11

PJICO

Công ty Bảo hiểm Petrolimex

12

PTI


Công ty cổ phần bảo hiểm Bưu Điện

13

PVI

Tổng Công ty bảo hiểm Dầu khí Việt Nam

14

TNDS

Trách nhiệm dân sự

15

TSCĐ

Tài sản cố định

16

PNT

Phi nhân thọ


DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU, HÌNH VẼ
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 1.1 Kết quả tung con xúc sắc

Bảng 2.1 Thống kê doanh thu của Bảo Việt và thị trường
Bảng 2.2 Kết quả hoạt động kinh doanh của Tổng Công ty Bảo hiểm Bảo Việt
Bảng 2.3 Chỉ số tài chính cơ bản và qui mô
Bảng 2.4 Chi nhánh hoạt động và lượng nhân viên
Bảng 2.5 Năng suất lao động của Bảo Việt
DANH MỤC BIỂU ĐỒ, HÌNH VẼ
Hình 1.1. Mô hình 5 thế lực cạnh tranh
Biểu đồ 2.1 Tăng trưởng doanh thu của Bảo Việt và thị trường
Biểu đồ 2.2 Tỷ lệ bồi thường của Bảo Việt và thị trường
Biểu đồ 2.3 Tỷ lệ bồi thường bảo hiểm gốc của tốp 5 DNBH và thị trường
Biểu đồ 2.4 Thị phần doanh thu của tốp 5 DNBH đứng đầu thị trường
Biểu đồ 2.5. Thị phần doanh thu giữ lại của tốp 5 DNBH đứng đầu thị trường


MỤC LỤC
Trang
Lời cam đoan
Danh mục các chữ viết tắt
Danh mục các bảng biểu, hình vẽ
Lời mở đầu
Chương 1: Cơ sở lý luận về BH PNT

1
4

1.1. Các lý luận chung về bảo hiểm

4

1.1.1. Định nghĩa bảo hiểm


4

1.1.2. Phân loại bảo hiểm

4

1.1.3. Vai trò và sự cần thiết của bảo hiểm

7

1.1.4. Cơ sở kỹ thuật quan trọng và các nguyên tắc hoạt động cơ bản

9

1.1.4.1. Cơ sở kỹ thuật quan trọng của bảo hiểm

9

1.1.4.2. Các nguyên tắc hoạt động cơ bản của bảo hiểm

12

1.2. Những hoạt động cơ bản của BH PNT

13

1.2.1. Hoạt động khai thác bảo hiểm

13


1.2.2. Hoạt động tái bảo hiểm

14

1.2.3. Giải quyết quyền lợi chi trả bảo hiểm

14

1.2.4. Hoạt động quản lý quỹ và đầu tư vốn

15

1.3. Một số chỉ tiêu đánh giá hoạt động của các DNBH PNT

16

1.3.1. Khái niệm về hiệu quả kinh doanh

16

1.3.2. Một số nhân tố cơ bản tác động đến hiệu quả kinh doanh của DNBH PNT 17
1.3.3. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động của DNBH PNT

19

1.4. Một số công cụ hỗ trợ phân tích hoạt động DN

23


1.4.1. Sử dụng mô hình PEST để phân tích môi trường vĩ mô

23

1.4.2. Sử dụng mô hình 5 thế lực cạnh tranh để phân tích môi trường ngành

23

1.4.3. Phân tích SWOT của DN

24

Chương 2: Phân tích hoạt động kinh doanh bảo hiểm phi nhân thọ của Tổng
Công ty Bảo hiểm Bảo Việt

25


2.1. Giới thiệu về Tập đoàn tài chính- bảo hiểm Bảo Việt và Tổng Công ty Bảo
hiểm Bảo Việt

25

2.1.1. Vài nét về Tập đoàn

25

2.1.2. Vài nét về Tổng Công ty Bảo hiểm Bảo Việt

29


2.2. Hoạt động KDBH PNT của Bảo Việt

30

2.2.1. Về doanh thu bảo hiểm gốc

30

2.2.2. Bồi thường bảo hiểm

33

2.3. Phân tích môi trường ngành BHPNT

36

2.2.3.1. Phân tích môi trường vĩ mô

36

2.2.3.2. Định vị vị trí cạnh tranh của Bảo Việt

37

2.2.3.3.Phân tích nguồn lực doanh nghiệp

41

2.4. Đánh giá hiệu quả hoạt động của Tổng Công ty Bảo hiểm Bảo Việt


45

2.4.1. Kết quả hoạt động chung của Tổng Công ty Bảo hiểm Bảo Việt

45

2.4.2.Đánh giá các chỉ số tài chính của các DNBH tốp đầu

46

2.4.3. Chỉ tiêu năng suất lao động

48

2.4.4. Đánh giá của khách hàng về thương hiệu và sản phẩm/dịch vụ

49

2.4.5. Độ hài lòng của khách hàng về sản phẩm, dịch vụ của Bảo Việt

49

2.4.6.Những tồn tại, hạn chế của Tổng Công ty Bảo hiểm Bảo Việt

50

Chương 3: KIẾN NGHỊ, GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG
KINH DOANH BẢO HIỂM PHI NHÂN THỌ TẠI TỔNG CÔNG TY BẢO
HIỂM BẢO VIỆT

3.1. Định hướng phát triển của Tổng Công ty Bảo hiểm Bảo Việt

54

3.1.1. Mục tiêu chiến lược

54

3.1.2. Về chỉ tiêu tài chính

54

3.2. Giải pháp kiến nghị với DN để nâng cao hiệu quả hoạt động KDBH PNT

54

3.2.1. Mô hình quản lý

54

3.2.2. Thu hút và giữ chân nguồn lao động chất lượng

55

3.2.3. Ứng dụng công nghệ thông tin

55

3.2.4. Đa dạng hóa sản phẩm


57

3.2.5. Phát triển kênh phân phối sản phẩm

58


3.2.6. Nâng cao chất lượng dịch vụ khách hàng

58

3.2.7. Nâng cao chất lượng dịch vụ khách hàng và công tác giám định, bồi thường

59

3.2.8. Về phía khách hàng

60

3.3. Kiến nghị với cơ quan quản lý nhà nước

60

3.3. Kiến nghị với Hiệp hội bảo hiểm Việt Nam

62

KẾT LUẬN

63


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


1

LỜI MỞ ĐẦU
1.Lý do chọn đề tài:
Hiện nay toàn thị trường có 29 công ty và 01 chi nhánh công ty bảo hiểm
nước ngoài hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm phi nhân thọ (xem phụ
lục 1). Mỗi công ty lại có mạng lưới hoạt động trên các tỉnh, thành, nên việc cạnh
tranh sẽ không chỉ dừng lại giữa 29 công ty mà thực chất là giữa trên 600 chi
nhánh/công ty thành viên,chưa kể các doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài không có
trụ sở tại Việt Nam được phép khai thác bảo hiểm qua biên giới.
Môi trường cạnh tranh trên thị trường bảo hiểm Việt Nam sẽ ngày càng
khốc liệt hơn, không chỉ trong nội bộ khối DN nội mà còn vươn ra giữa nhà bảo
hiểm nội với nhà bảo hiểm ngoại. Thị trường bảo hiểm vẫn tồn tại khá phổ biến các
vấn đề về cạnh tranh không lành mạnh gây tác động không tốt đến thị trường, các
DNBH cố giành lấy doanh thu bằng mọi giá nên đã bỏ qua mục tiêu lợi nhuận và
cạnh tranh phi phi kỹ thuật như tăng chi phí, tăng hoa hồng, tăng quyền lợi có thể
được bảo hiểm,..., dù càng hoạt động càng lỗ nhưng họ vẫn chấp nhận để có thị
phần .Đại đa số các doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ tại thị trường bảo hiểm
Việt Nam không đạt được lợi nhuận từ hoạt động chính của mình là hoạt động kinh
doanh bảo hiểm phi nhân thọ hoặc hiệu quả kinh doanh kém.Đây chính là vấn đề
trăn trở của lĩnh vực bảo hiểm phi nhân thọ và là lý do tôi chọn đề tài phân tích hoạt
động kinh doanh bảo hiểm phi nhân thọ tại Tổng Công ty Bảo hiểm Bảo Việt nhằm
mục đích tìm giải pháp cho sự phát triển bền vững của Bảo Việt trong lĩnh vực hoạt
động kinh doanh bảo hiểm phi nhân thọ.
2.Mục tiêu nghiên cứu:

Hệ thống hóa và làm rõ các vấn đề về cơ sở lý luận thuộc lĩnh vực kinh
doanh bảo hiểm phi nhân thọ. Phân tích hiệu quả hoạt động kinh doanh phi nhân thọ
tại Tổng Công ty Bảo hiểm Bảo Việt, nhằm chỉ ra điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và
thách thức của DN để DN phát huy điểm mạnh vốn có của mình, hạn chế điểm yếu,
tận dụng các cơ hội để vượt qua các thách thức mà doanh nghiệp phải đối mặt trong
quá trình hoạt động.


2

Trên cơ sở đó kiến nghị các giải pháp nhằm gia tăng mở rộng thị phần,
tăng lợi nhuận cho DN,...góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh tại
Tổng Công ty Bảo hiểm Bảo Việt.
3. Tổng quan về các nghiên cứu có liên quan:
Liên quan đến các nghiên cứu thuộc lĩnh vực bảo hiểm thương mại gồm
có:
- Nghiên cứu sinh Phí Trọng Thảo, năm 2004 đã nghiên cứu đề tài "Giải
pháp thỏa mãn nhu cầu tiềm năng về bảo hiểm nhân thọ ở Việt Nam".
- Nghiên cứu sinh Phạm Thị Định, năm 2004 đã nghiên cứu đề tài "Hoạt
động đầu tư của các doanh nghiệp bảo hiểm nhà nước ở Việt Nam".
- Nghiên cứu sinh Đoàn Minh Phụng, năm 2006 với đề tài nghiên cứu
"Giải pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh bảo hiểm phi nhân thọ của các DNBH nhà
nước Việt Nam trong điều kiện mở cửa và hội nhập".
- Nghiên cứu sinh Nguyễn Quốc Trị, năm 2006 đã nghiên cứu đề tài
"Hoàn thiện cơ chế quản lý tài chính đối với Tổng công ty bảo hiểm Việt Nam theo
mô hình Tập đoàn kinh doanh".
- Nghiên cứu sinh Trần Hùng Dũng, năm 2007 đã nghiên cứu đề tài "Giải
pháp nâng cao hiệu quả sử dụng phí bảo hiểm của doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân
thọ Việt Nam;....
Tuy nhiên, đề tài "Nâng cao hiệu quả hoạt động KDBH PNT tại Tổng

Công ty Bảo hiểm Bảo Việt" mà luận văn tập trung nghiên cứu được tiếp cận theo
hướng khác biệt so với các tác giả khác và rất cần thiết cho doanh nghiệp trong điều
kiện tái cấu trúc mô hình quản lý. Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ là cơ sở lý luận
và thực tiễn để doanh nghiệp xem xét, nghiên cứu và ứng dụng trong thực tiễn nhằm
mục đích nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp.
4.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu: luận văn tập trung nghiên cứu thực trạng hoạt
động kinh doanh bảo hiểm, phân tích điểm mạnh điểm yếu của Tổng Công ty Bảo
hiểm Bảo Việt, trong mối liên hệ phân tích so sánh với thị trường bảo hiểm Việt


3

Nam và các doanh nghiệp bảo hiểm chiếm thị phần lớn trên thị trường bảo hiểm phi
nhân thọ tại Việt Nam. Phạm vi nghiên cứu: chủ yếu trong giai đoạn năm 20092014.
5. Phương pháp nghiên cứu:
Phương pháp nghiên cứu trong đề tài này là phương pháp duy vật biện
chứng kết hợp với các phương pháp thống kê, so sánh, đánh giá, phân tích tổng hợp
các số liệu , các văn bản luật về hoạt động bảo hiểm,...để đưa ra các giải pháp mang
tính thực tiễn thuộc lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm phi nhân thọ.
Về tài liệu thứ cấp tác giả đã thu thập một số tài liệu chuyên ngành về bảo
hiểm từ các giáo trình giảng dạy bộ môn bảo hiểm, trang web của Cục giám sát bảo
hiểm, trang web của công ty và các đối thủ cạnh tranh, các báo cáo tài chính đã
được các DNBH phát hành công khai, tổng hợp các ý kiến đánh giá của chuyên gia
trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng, bảo hiểm,...
Trong quá trình nghiên cứu đề tài này, tác giả đã sử dụng phương pháp
phân tích, đánh giá, so sánh, thống kê, phương pháp chuyên gia để phân tích hoạt
động của DN kết hợp sử dụng các công cụ hỗ trợ trực tiếp : kỹ thuật phân tích
SWOT, mô hình PEST, mô hình 5 thế lực cạnh tranh của M.POSTER để phân tích
môi trường ngành, đối thủ cạnh tranh, cơ hội, thách thức của doanh nghiệp. Từ đó,

kiến nghị các giải pháp phù hợp cho việc nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh
của doanh nghiệp trong thời gian tới.
6. Kết cấu đề tài:
Ngoài phần mở đầu và kết luận, đề tài được trình bày gồm 03 phần:
Chương 1: Cơ sở lý thuyết về BHPNT và hiệu quả hoạt động kinh doanh
trong DNBH PNT
Chương 2: Phân tích hiệu quả hoạt động kinh doanh bảo hiểm phi nhân
thọ của Tổng Công ty Bảo hiểm Bảo Việt
Chương 3: Kiến nghị, giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh
bảo hiểm phi nhân thọ tại Tổng Công ty Bảo hiểm Bảo Việt


4

Chương 1
CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ BẢO HIỂM VÀ HIỆU QUẢ
HOẠT ĐỘNG KINH DOANH TRONG DNBH PNT
1.1. Các lý luận chung về bảo hiểm:
1.1.1 Định nghĩa bảo hiểm:
Có rất nhiều định nghĩa khác nhau về bảo hiểm được xây dựng dựa trên từng
góc độ nghiên cứu xã hội, pháp lý, kinh tế, kỹ thuật, nghiệp vụ,...tuy nhiên trong
phạm vi bài nghiên cứu này đưa ra hai khái niệm cơ bản về bảo hiểm thương mại
như sau:
Luật Kinh doanh bảo hiểm của Việt Nam (2000): kinh doanh bảo hiểm là
hoạt động của doanh nghiệp bảo hiểm nhằm mục đích sinh lợi, theo đó doanh
nghiệp bảo hiểm chấp nhận rủi ro của người được bảo hiểm, trên cơ sở bên mua bảo
hiểm đóng phí bảo hiểm để doanh nghiệp bảo hiểm trả tiền bảo hiểm cho người thụ
hưởng hoặc bồi thường cho người được bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm.
Tập đoàn bảo hiểm AIG Mỹ định nghĩa: bảo hiểm là một cơ chế, theo cơ chế
này, một người, một doanh nghiệp hay một tổ chức chuyển nhượng rủi ro cho công

ty bảo hiểm, công ty đó sẽ bồi thường cho người được bảo hiểm các tổn thất thuộc
phạm vi bảo hiểm và phân chia giá trị thiệt hại giữa tất cả những người được bảo
hiểm.
1.1.2. Phân loại bảo hiểm:
Ngoài loại hình BHTM, còn có bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất
nghiệp. Ở gốc độ bài nghiên cứu này chỉ đề cập đến loại hình BHTM, giới hạn
trong phạm vi lĩnh vực BHPNT.
Căn cứ vào đối tượng được bảo hiểm, BHTM được chia thành ba loại: bảo
hiểm tài sản, bảo hiểm trách nhiệm và bảo hiểm con người. Mỗi loại có một đối
tượng bảo hiểm cụ thể và có những quy tắc bảo hiểm đặc trưng riêng cho từng loại
bảo hiểm cụ thể.


5

Căn cứ vào hình thức bảo hiểm, BHTM được chia thành hai loại: bảo hiểm
bắt buộc và bảo hiểm tự nguyện.
Căn cứ vào lĩnh vực kinh doanh, BHTM được chia thành hai loại: bảo hiểm
nhân thọ và bảo hiểm phi nhân thọ
a.

Bảo hiểm nhân thọ:

BHNT là loại bảo hiểm qua đó công ty bảo hiểm cam kết sẽ trả một số tiền
thỏa thuận khi có sự kiện quy định xảy ra liên quan đến sinh mạng và sức khỏe của
con người. BHNT là loại hình bảo hiểm cho hai sự kiện trái ngược nhau đó là sống
và chết. BHNT còn được chia ra thành: BHNT tử vong, bảo hiểm sinh kỳ, BHNT
hỗn hợp. Bên cạnh đó, khi triển khai BHNT các DNBH còn kết hợp triển khai các
điều khoản bảo hiểm bổ sung nhằm mục đích đan dạng hóa sản phẩm và mở rộng
phạm vi bảo hiểm để thu hút khách hàng.

b.

Bảo hiểm phi nhân thọ:

BHPNT là loại bảo hiểm mà các nghiệp vụ được quản lý theo kỹ thuật phân
chia, có đối tượng là tài sản, trách nhiệm dân sự, tính mạng và tình trạng sức khỏe
của con người.
BHPNT có một số đặc trưng cơ bản như sau:
-

Thời hạn của hợp đồng bảo hiểm phi nhân thọ thường là một năm

hoặc ngắn hơn (chuyến, khác với BHNT là dài hạn trên một năm).
-

Chỉ bồi thường và chi trả tiền bảo hiểm khi có rủi ro được bảo hiểm

xảy ra (BHNT mang tính tích lũy, tiết kiệm,...)
-

Phí bảo hiểm phụ thuộc vào thời hạn bảo hiểm và mức độ rủi ro của

đối tượng bảo hiểm.
-

Cung cấp dịch vụ đảm bảo không chỉ cho các rủi ro bản thân người

được bảo hiểm mà còn cho cả rủi ro về tài sản và trách nhiệm dân sự đối với bên
thứ ba ngoài hợp đồng bảo hiểm.
-


Có mối quan hệ về quyền lợi, trách nhiệm bồi thường giữa người bảo

hiểm, người được bảo hiểm và người thứ ba (trừ bảo hiểm con người).


6

Về hình thức bảo hiểm: BHPNT có hai hình thức bảo hiểm đó là bảo hiểm
bắt buộc và bảo hiểm tự nguyện. Hình thức bảo hiểm bắt buộc trong bảo hiểm phi
nhân thọ chỉ được áp dụng đối với loại hình bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ giới đối
với người thứ ba, một số đối tượng có nguy cơ cháy, nổ cao và mức độ ảnh hưởng
lớn thuộc diện bắt buộc tham gia bảo hiểm cháy, nổ,...
Bảo hiểm phi nhân thọ được phân loại như sau:
b.1. Phân loại theo đối tượng bảo hiểm:
Căn cứ vào nhóm đối tượng bảo hiểm, BHPNT được chia thành ba nhóm chủ
yếu sau:
- Nhóm bảo hiểm tài sản: đây là nhóm có đối tượng được bảo hiểm là tài sản.
Khi xảy ra sự kiện bảo hiểm do mất mát, hư hỏng người bảo hiểm có trách nhiệm
bồi thường cho bên được bảo hiểm căn cứ vào mức độ thiệt hại của tài sản và các
thỏa thuận đã ký kết giữa hai bên.
- Nhóm bảo hiểm con người: có đối tượng bảo hiểm là tính mạnh, sức khỏe,
thương tật thân thể của người được bảo hiểm. Khi xảy ra sự kiện thuộc phạm vi bảo
hiểm theo thỏa thuận của hợp đồng bảo hiểm, bên bảo hiểm sẽ chi trả bảo hiểm theo
nguyên tắc khoán cho người được bảo hiểm hoặc người thụ hưởng hợp pháp.
- Nhóm bảo hiểm trách nhiệm dân sự: đối tượng bảo hiểm của nhóm này là
trách nhiệm dân sự đối với bên thứ ba, ngoài bên bảo hiểm và bên mua bảo hiểm
theo hợp đồng. Trách nhiệm phát sinh do ràng buộc của pháp luật dân sự, theo đó
người được bảo hiểm phái có trách nhiệm bồi thường thiệt hại về vật chất, tính
mạng, sức khỏe cho người khác từ hành vi của mình hoặc do sự vận hành, hoạt

động của tài sản thuộc quyền quản lý, sử dụng của mình gây ra và bên bảo hiểm có
trách nhiệm thay mặt bên mua bảo hiểm để bồi thường cho bên bị thiệt hại.
b.2. Phân loại quy định của luật:
Theo quy định của Luật KDBH , các loại hình bảo hiểm phi nhân thọ được
phép triển khai trên lãnh thổ Việt Nam bao gồm: Bảo hiểm sức khỏe và bảo hiểm tai
nạn con người, bảo hiểm tài sản và bảo hiểm thiệt hại, bảo hiểm hàng hóa vận
chuyển đường bộ, đường biển, đường sông, đường sắt và đường không, bảo hiểm


7

hàng không, bảo hiểm xe cơ giới, bảo hiểm cháy nổ, bảo hiểm thân tàu và trách
nhiệm dân sự chủ tàu, bảo hiểm trách nhiệm chung, bảo hiểm tín dụng và rủi ro tài
chính, bảo hiểm thiệt hại kinh doanh, bảo hiểm nông nghiệp và các nghiệp vụ bảo
hiểm phi nhân thọ khác do Chính phủ quy định.
Bảo hiểm thương mại nói chung và bảo hiểm phi nhân thọ nói riêng là ngành
nghề kinh doanh có điều kiện. Các điều kiện mà luật pháp quy định để các DNBH
thực hiện rất chặt chẽ. Chẳng hạn như về vốn pháp định đủ lớn để đảm bảo khả
năng thanh toán và phát triển kinh doanh của doanh nghiệp. Điều kiện phải ký quỹ
để đảm bảo cho DNBH thanh toán tiền bồi thường trong tình huống xấu nhất có thể
xảy ra. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ còn phải trích lập quỹ
dự trữ, trong đó có quỹ dự trữ bắt buộc để đảm bảo khả năng thanh toán tiền bồi
thường và bổ sung vốn điều lệ. Quỹ dự trữ bắt buộc được trích lập từ lời nhuận sau
thuế. Loại quỹ này còn làm tăng khả năng tài chính cho doanh nghiệp và là một
trong những tiêu chí quan trọng để đánh giá năng lực tài chính của doanh nghiệp,…
1.1.3. Vai trò và sự cần thiết của bảo hiểm:
Hoạt động kinh doanh bảo hiểm dựa trên cơ sở trên cơ sở cam kết bồi thường
của DNBH đối với tổ chức, cá nhân tham gia bảo hiểm và những thiệt hại, mất mát
do những rủi ro gây ra. Với vai trò là tấm lá chắn của nền kinh tế xã hội trước các
rủi ro xảy ra. Khi phát sinh rủi ro, DNBH chi trả bồi thường cho khách hàng để kịp

thời bù đắp tổn thất, góp phần đảm bảo an ninh kinh tế, phúc lợi, an sinh xã hội. Chỉ
tính riêng năm 2013, năm 2014 các DNBH đã giải quyết bồi thường cho người
tham gia bảo hiểm lần lượt là 18,163 tỷ đồng và 19,752 tỷ đồng. Trong trường hợp
không có số tiền trên để bù đắp thiệt hại khi có rủi ro xảy ra thì không ít doanh
nghiệp, tổ chức kinh tế và người dân sẽ gặp khó khăn trong việc khắc phục các thiệt
hại lớn, tạo gánh nặng cho ngân sách nhà nước.
Tạo tâm lý an tâm trong kinh doanh, trong cuộc sống: khi kinh doanh ngày
càng phát triển, đời sống xã hội ngày càng được nâng cao thì người ta càng có nhu
cầu được đảm bảo an toàn cho tương lai. Môi trường kinh doanh cũng như môi
trường xã hội đang dần xuất hiện những rủi ro mới. Những rủi ro do thiên nhiên như


8

bão lũ, hạn hán, sóng thần, cháy rừng tự nhiên... đang trở nên hết sức phức tạp, khó
dự đoán do môi trường thế giới đang thay đổi theo chiều hướng xấu đi. Như vậy,
bảo hiểm chính là một giải pháp hữu hiệu, góp phần tích cực tạo ra tâm lý an tâm
trong kinh doanh, trong cuộc sống cho con người.
Bên cạnh việc giải quyết các hậu quả của rủi ro, bảo hiểm còn góp phần thực
hiện một nội dung trong các biện pháp kiểm soát rủi ro. Đó là đề phòng và hạn chế
tới mức thấp nhất những tổn thất có thể xảy ra. Nhờ đó, những thiệt hại đáng tiếc về
người và tài sản được giảm thiểu và những hậu quả về kinh tế - xã hội cũng được
chủ động phòng tránh. Dựa trên cơ sở các rủi ro xảy ra hàng năm, các tổ chức kinh
doanh bảo hiểm tiến hành nghiên cứu các rủi ro, thống kê các tai nạn, tổn thất, từ đó
xác định các nguyên nhân chủ quan và khách quan dẫn đến thiệt hại. Những nghiên
cứu này giúp các công ty bảo hiểm có thể thực hiện hoặc phối hợp, hướng dẫn
khách hàng thực hiện các biện pháp kiểm soát ngăn ngừa rủi ro hữu hiệu nhất nhằm
giảm đến mức thấp nhất tổn thất có thể xảy ra, góp phần đảm bảo an toàn, hạn chế
tai nạn, tổn thất trong phạm vi toàn xã hội.
Với vai trò trung gian tài chính, bảo hiểm là kênh huy động vốn để đầu tư,

thúc đẩy kinh tế xã hội phát triển. Từ nguồn thu phí bảo hiểm, phần lớn được các
DNBH trích lập quỹ dự phòng để đảm bảo khả năng chi trả cho khách hàng. Số tiền
này tạm thời được nhàn rỗi và đầu tư trở lại cho nền kinh tế.Khoản tiền đầu tư của
DNBH cho nền kinh tế liên tục tăng qua các năm, đạt 105,265 tỷ đồng vào năm
2013 và đạt 131,679 tỷ đồng vào năm 2014. Nguồn vốn này khá lớn và ổn định qua
các năm , chủ yếu được đầu tư vào trái phiếu Chính phủ (trên 50%) đóng góp tích
cực vào sự phát triển của nền kinh tế. Đặc biệt ở các nước phát triển, các nhà bảo
hiểm còn bảo hiểm cho trái phiếu, nhất là trái phiếu đô thị, làm tăng tính an toàn của
trái phiếu đô thị, giúp cho chính quyền địa phương và trung ương thu hút vốn từ dân
cư, đầu tư cho các dự án y tế, giáo dục, cơ sở hạ tầng và các công trình phúc lợi xã
hội.Thực tế cũng cho thấy, sự tồn tại của một thị trường bảo hiểm mạnh là một
trong những yếu tố cơ bản của bất cứ nền kinh tế thành công nào. Trong cuốn các
nguyên tắc bảo hiểm, hai tác giả người Mỹ là Mehr và Commack đã viết: Việc Anh


9

Quốc nổi lên như một cường quốc thương mại và đồng thời loại hình bảo hiểm hoả
hoạn cũng phát triển trong cùng một thời kỳ không phải là một sự trùng hợp ngẫu
nhiên.
Thúc đẩy quan hệ hợp tác: hoạt động bảo hiểm phát triển góp phần cải thiện
môi trường đầu tư, giảm thiểu rủi ro trong đầu tư, tạo ra môi trường thuận lợi cho
việc hợp tác kinh tế, kỹ thuật, thương mại và thu hút vốn đầu tư nước ngoài, thúc
đẩy quan hệ hợp tác quốc tế thông qua các hoạt động tái bảo hiểm.
1.1.4. Cơ sở kỹ thuật quan trọng và các nguyên tắc hoạt động cơ bản của
bảo hiểm
Không riêng ở Việt Nam mà ở nhiều nước trên thế giới, mặc dù hoạt động
kinh doanh bảo hiểm ngày nay đã đạt đến trình độ phát triển cao, với rất nhiều loại
hình, cũng như đối tượng được bảo hiểm ngày càng rộng mở và đa dạng.Tuy nhiên,
hoạt động bảo hiểm vẫn được tiến hành trên cơ sở kỹ thuật và các nguyên tắc cơ

bản của nó.
1.1.4.1 Cơ sở kỹ thuật quan trọng của bảo hiểm:
* Quy luật số lớn:
Hoạt động bảo hiểm thương mại vận dụng cơ sở Lý thuyết về xác suất của
nhà toán học người Pháp, Pascal và Quy luật số lớn của Iacop Bernoulli, một nhà
toán học người Thụy sỹ. Luật số lớn là kết quả của quá trình thực nghiệm (tiếp nối
nghiên cứu của Pascal): tung một con xúc sắc 6 mặt đồng chất, quan sát và ghi lại
kết quả sau mỗi lần thực nghiệm (phép thử). Nếu số phép thử là ít, kết quả thu được
về số lần xuất hiện của các mặt (từ mặt 1 chấm đến mặt 6 chấm) có sự chênh lệch
rất lớn. Chẳng hạn, kết quả thu được về sự xuất hiện của mặt 3 chấm và 6 chấm như
sau:


10

Bảng 1.1. Kết quả tung con xúc sắc

Số lần tung xúc
sắc

Mặt 3 chấm
Số lần xuất
hiện

Mặt 6 chấm

Tần suất

Số lần xuất
hiện


Tần suất

20

2

0,100

5

0,050

100

12

0,120

8

0,080

1000

175

0,175

200


0,200

Nếu số phép thử đủ lớn sẽ cho một kết quả với số lần xuất hiện mặt 3 chấm
cũng tương đương với số lần xuất hiện của tất cả các mặt còn lại. Chẳng hạn, nếu
tung con xúc sắc đến 60.000 lần thì số lần xuất hiện của các mặt đều xấp xỉ bằng
nhau và = 10.000 lần. Như vậy, nếu thực hiện được 60.000 lần thử thì tần suất của
biến cố xuất hiện bất cứ mặt nào cũng xấp xỉ bằng 1/6.
Trong trò chơi con xúc sắc, nếu người chơi xem xét sự xuất hiện một mặt
nào đó, mặt 6 chấm chẳng hạn thì sự xuất hiện mặt 6 chấm được coi là biến cố
thuận lợi; sự xuất hiện của các mặt còn lại (từ mặt 1 chấm đến mặt 5 chấm) là
những biến cố xung khắc. Mỗi lần chơi đều có thể xuất hiện bất kỳ một mặt nào, do
đó, trong mỗi lần chơi số trường hợp có thể xảy ra là 6 trong khi số trường hợp
thuận lợi chỉ là 1. Như vậy, khả năng xuất hiện mặt 6 chấm (biến cố thuận lợi) trong
một lần chơi bằng 1/6. Người ta gọi khả năng xuất hiện biến cố thuận lợi là xác suất
của biến cố đó.
Khi nghiên cứu xác suất của một biến cố nào đó, nếu khả năng xuất hiện
trường hợp thuận lợi là chắc chắn thì xác xuất của biến cố đó = 1, nếu không thể
xảy ra trường hợp thuận lợi thì xác suất của biến cố đó = 0. Xác suất của mọi biến
cố đều nằm trong khoảng từ 0 đến 1. Trở lại thử nghiệm với con xúc sắc, kết quả đã
cho thấy: nếu số phép thử đủ lớn, tần suất biến cố sẽ xích gần lại với xác suất lý
thuyết của biến cố đang xem xét. Như vậy, để tính xác suất của một biến cố, nếu
thống kê được một số lượng đủ lớn các trường hợp đã xuất hiện biến cố đó trong


11

thực tế, có thể xấp xỉ xác suất của biến cố bằng tần suất biến cố - kết quả tính được
từ số liệu thống kê.
Quy luật số lớn là cơ sở kỹ thuật then chốt của bảo hiểm, được phát biểu như

sau: "Khi số lớn các đơn vị rủi ro tương tự nhau và độc lập với nhau tăng lên thì
tính chính xác tương đối của các dự đoán về những kết quả tương lai dựa vào các
đơn vị rủi ro đó cũng tăng lên".
Người bảo hiểm chấp nhận bảo hiểm cho các sự kiện ngẫu nhiên, nếu xét
riêng từng hợp đồng bảo hiểm đơn lẻ có thể giống như "trò chơi may rủi", song xét
trên tổng thể nhiều hợp đồng bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm hoàn toàn có thể dự
đoán được về khả năng xảy ra sự kiện bảo hiểm ở mức độ chính xác có thể chấp
nhận được. Ví dụ : trong bảo hiểm xe cơ giới, không thể dự đoán chính xác về tai
nạn gây ra đối với một cá thể ô tô, song người bảo hiểm có thể dự đoán được số vụ
tai nạn và thiệt hại xảy ra hàng năm cho toàn bộ số ô tô được bảo hiểm trong phạm
vi sai sót rất nhỏ.
* Thống kê tần suất xảy ra rủi ro: Công tác thống kê giúp các nhà bảo hiểm
thu thập được dữ liệu quá khứ về con số rủi ro, mức độ tổn thất, giá trị tổn
thất,...giúp xác định được tần suất xảy ra rủi ro và giá phí trung bình một rủi ro.Qua
đây, nhà bảo hiểm biết độ mức độ chi trả bảo hiểm và làm cơ sở điều chỉnh tăng
hoặc giảm phí bảo hiểm cho phù hợp trong niên độ bảo hiểm kế tiếp cho khách
hàng.
Tại các nước có thị trường bảo hiểm phát triển, việc tổ chức thống kê không
thực hiện và sử dụng riêng lẻ cho từng DNBH mà số liệu thống kê được cung cấp
bởi các tổ chức thống kê nghề nghiệp hoặc tổ chức chung của kinh tế - xã hội, số
liệu thống kê càng chính xác, càng có phạm vi rộng sẽ đảm bảo cho sự thống nhất
về mặt kỹ thuật giữa các nhà bảo hiểm trong cùng thị trường, tạo điều kiện thuận lợi
và nền tảng cho sự phát triển của thị trường. Tuy nhiên, tại thị trường bảo hiểm Việt
Nam, hiện tại các DNBH chưa có sự liên kết và chia sẻ dữ liệu liên quan đến số liệu
thống kê tổn thất một cách đầy đủ và kịp thời. Mặt khác, đại đa số các DNBH chưa
triển khai các chương trình phần mềm hiện đại để quản lý, thống kê chuẩn xác


12


nghiệp vụ, các doanh nghiệp còn sao chép, "bắt chước" sản phẩm và phí bảo hiểm
lẫn nhau, giảm phí bảo hiểm đơn thuần chỉ để lôi kéo khách hàng chưa dựa trên các
nền tảng về mặt kỹ thuật.
1.1.4.2 Các nguyên tắc hoạt động cơ bản của bảo hiểm:
* Nguyên tắc sàng lọc: Đặc trưng của nghề nhận chuyển gia rủi ro, thực tế
kinh doanh cho thấy DNBH luôn phải đối mặt với những "lựa chọn bất lợi", do đó
nhà bảo hiểm phải đánh giá cân nhắc trước và trong khi thực hiện bất kỳ một quyết
định nào. Trước những nhu cầu bảo hiểm rất đa dạng của nhiều loại khách hàng như
:có yêu cầu bảo hiểm cho rủi ro ở mức trung bình, có yêu cầu bảo hiểm với mức độ
rủi ro cao hơn thậm chí là rất xấu. Liệu DNBH có thể chấp nhận mọi yêu cầu bảo
hiểm của người mua bảo hiểm hay không? Câu trả lời sẽ là "có" nếu người mua bảo
hiểm sẵn sàng chấp nhận giá mà người bảo hiểm yêu cầu. Điều đó có nghĩa là mức
độ rủi ro tỷ lệ thuận với phí bảo hiểm. Sàng lọc đòi hỏi người bảo hiểm phải từ chối
những trường hợp mức độ rủi ro quá lớn; phân nhóm các đối tượng bảo hiểm, rủi ro
được bảo hiểm theo những tiêu thức phù hợp để có thể sắp xếp được các rủi ro có
tính đồng nhất trong cùng một nhóm và định phí bảo hiểm theo từng nhóm đó . Quá
trình đánh giá rủi ro trước khi nhận bảo hiểm cho phép DNBH sàng lọc được rủi ro,
hạn chế sự lựa chọn bất lợi và có được quyết định đúng để đảm bảo hiệu quả kinh
doanh cho doanh nghiệp.
* Nguyên tắc trung thực tuyệt đối: Tất cả các giao dịch kinh doanh cần được
thực hiện trên cơ sở tin cậy lẫn nhau, công khai và minh bạch. Tuy nhiên, trong bảo
hiểm, điều này được thể hiện trên một nguyên tắc chặt chẽ hơn, và ràng buộc cao
hơn về mặt trách nhiệm. Theo nguyên tắc này, hai bên trong mối quan hệ bảo hiểm
(người bảo hiểm và người được bảo hiểm) phải tuyệt đối trung thực với nhau, tin
tuởng lẫn nhau, không được lừa dối nhau. Các bên chịu trách nhiệm về tính chính
xác, trung thực của thông tin cung cấp cho bên kia. Doanh nghiệp bảo hiểm có trách
nhiệm giữ bí mật về thông tin do bên mua bảo hiểm cung cấp. Nếu một bên vi phạm
thì hợp đồng bảo hiểm trở nên không có hiệu lực hoặc vô hiệu từng phần.



13

* Nguyên tắc phân tán, phân chia rủi ro: Hoạt động của BHTM là kinh doanh
rủi ro, bán sự an toàn cho khách hàng và vì thế lại tiềm ẩn không ít rủi ro nguy
hiểm. Các phương pháp phân chia, phân tán rủi ro với mục đích "không để tất cả
trứng vào trong một giỏ" mà người bảo hiểm cần phải sử dụng để giảm thiểu hậu
quả bất lợi của những trường hợp đột biến của rủi ro; của hiện tuợng tích tụ, tập
trung nguy cơ tổn thất quá lớn trong KDBH, khó có thể kiểm soát được.
- Phân tán rủi ro: là phương pháp mà người bảo hiểm sử dụng để đối phó với
hiện tượng tích tụ, tập trung rủi ro trong một khu vực địa lý.
- Phân chia rủi ro: là kỹ thuật mà người bảo hiểm sử dụng trong những
trường hợp cần thiết nhằm tránh khả năng phải tự mình gánh chịu một tổn thất quá
lớn, tránh trường hợp không đủ khả năng thanh toán trong một năm kinh doanh xấu,
nhiều tổn thất lớn, liên tiếp xảy ra hoặc tránh trường hợp tích tụ rủi ro trong cùng
một sự cố. Hai kỹ thuật phân chia rủi ro có thể được sử dụng là đồng bảo hiểm và
tái bảo hiểm.
1.2. Các hoạt động trong DNBH PNT:
1.2.1 Hoạt động khai thác bảo hiểm:
Công tác khai thác bảo hiểm bao gồm việc đánh giá rủi ro cho các đối tượng
trước khi nhận bảo hiểm.Sau khi đã đánh giá rủi ro và chấp nhận rủi ro ở mức phí
bảo hiểm tương ứng, DNBH sẽ tiến hành cấp đơn bảo hiểm cho khách hàng. Việc
định phí bảo hiểm dựa trên mức độ rủi ro và số tiền bảo hiểm. Số tiền bảo hiểm
chính là hạn mức bồi thường tối đa mà DNBH sẽ phải bồi thường cho người được
bảo hiểm tương ứng với thiệt hại toàn bộ. Riêng đối với các nghiệp vụ bảo hiểm bắt
buộc thì quy tắc, điều khoản bảo hiểm, đối tượng bảo hiểm, phí bảo hiểm, số tiền
bảo hiểm do Bộ Tài chính quy định.
Ngành bảo hiểm không giống như những ngành sản xuất khác. Khi một hợp
đồng bảo hiểm được ký kết, người bảo hiểm sẽ tiến hành thu phí trước. Sau đó mới
thực hiện các nghĩa vụ phát sinh cam kết theo hợp đồng khi xảy ra sự kiện được bảo
hiểm. Như vậy DNBH kinh doanh theo chu trình sản xuất ngược, giá bán được xác

định trước giá thành sản phẩm. Đối với các ngành sản xuất khác thì giá bán được


14

tính trên cơ sở giá thành sản phẩm trong khi đó phí bảo hiểm hay giá bán của sản
phẩm bảo hiểm chỉ được ước tính trên cơ sở thống kê các dữ liệu trong quá khứ, giá
thành được xác định chính xác khi kết thúc năm bảo hiểm.
1.2.2. Hoạt động tái bảo hiểm:
Hoạt động nhận tái bảo hiểm nhằm mục đích tăng doanh thu, lợi nhuận và
tăng cường sự hợp tác giữa các nhà bảo hiểm. Hoạt động nhượng tái bảo hiểm nhằm
phân tái rủi ro, đảm bảo sự an toàn cho DNBH trong các vụ tổn thất có qui mô lớn,
thiên tai, địch hoa,…
Theo quy định của Bộ Tài chính DNBH có thể chuyển một phần trách nhiệm
bảo hiểm cho một hoặc nhiều doanh nghiệp bảo hiểm khác nhưng không được
nhượng toàn bộ trách nhiệm đã nhận trong một hợp đồng bảo hiểm cho DNBH khác
để hưởng hoa hồng tái bảo hiểm.
DNBH có thể nhận tái bảo hiểm trách nhiệm mà DNBH khác đã nhận bảo
hiểm. Khi nhận tái bảo hiểm, DNBH phải đánh giá rủi ro để đảm bảo được khả
năng tài chính của doanh nghiệp.Tái bảo hiểm có thể cho phép DNBH có thể chấp
nhận bảo hiểm tài sản hoặc bảo hiểm trách nhiệm với số tiền bảo hiểm lớn hơn khả
năng tài chính của mình bằng cách chia sẻ rủi ro cho nhà bảo hiểm nhận tái. Tái bảo
hiểm thực chất là sự chia sẻ rủi ro và trách nhiệm giữa các DNDH với nhau. Tuy
nhiên, nếu tái bảo hiểm cho doanh nghiệp có khả năng tài chính yếu khi tổn thất lớn
xãy ra, doanh nghiệp nhận tái bảo hiểm có thể phá sản sẽ làm ảnh hưởng đến doanh
nghiệp đã nhượng tái vì doanh nghiệp này vẫn có nghĩa vụ bồi thường đầy đủ cho
khách hàng. Để hạn chế điều này, Bộ Tài chính quy định rõ chỉ tái bảo hiểm cho
công ty bảo hiểm nước ngoài đạt tiêu chuẩn xếp hạng từ BBB theo xếp hạng của
quốc tế.
1.2.3. Giải quyết quyền lợi chi trả bảo hiểm:

Khi tiếp nhận thông báo tổn thất và/hoặc hồ sơ yêu cầu giải quyết chi trả
quyền lợi bảo hiểm, DNBH sẽ tiến hành thu thập hồ sơ, xác minh, giám định thiệt
hại thực tế và giải quyết chi trả bảo hiểm trong phạm vi trách nhiệm như đã cam kết
theo hợp đồng với khách hàng.


15

Công tác giám định là khâu trung gian có vai trò hết sức quan trọng trong
hoạt động kinh doanh bảo hiểm, nó là cơ sở để DNBH tiến hành bồi thường. Việc
bồi thường có được tiến hành nhanh chóng, chính xác và hợp lý hay không chủ yếu
phụ thuộc vào công tác giám định nhanh hay chậm, chính xác hay không chính xác.
Nội dung công tác giám định thường bao gồm các hoạt động chính sau đây: Thị sát
hiện trường nơi xảy ra rủi ro, tổn thất để tìm hiểu nguyên nhân để từ đó xác định
trách nhiệm của DNBH; Phối hợp với các bên có liên quan lập biên bản giám
định...; Xác định mức độ thiệt hại thực tế và mức độ lỗi của người thứ ba (nếu có)
liên quan đến đối tượng bảo hiểm;Tính toán số tiền phải bồi thường thực tế.
Căn cứ vào biên bản giám định và các tài liệu khác có liên quan, DNBH tiến
hành bồi thường trực tiếp cho khách hàng tham gia bảo hiểm. Trong bảo hiểm phi
nhân thọ, như đã đề cập ở phần trên, thuật ngữ bồi thường được sử dụng trong loại
hình bảo hiểm thiệt hại, còn thuật ngữ trả tiền bảo hiểm chủ yếu sử dụng trong các
nghiệp vụ bảo hiểm con người phi nhân thọ. Số tiền bồi thường hay chi trả được
tính toán trên cơ sở thiệt hại thực tế và số tiền bảo hiểm hay giá trị bảo hiểm. Số tiền
này sẽ giúp khách hàng nhanh chóng khắc phục hậu quả rủi ro để ổn định cuộc sống
và sản xuất kinh doanh. Bởi vậy, hoạt động giám định và bồi thường là một trong
những tiêu chí đánh giá chất lượng sản phẩm bảo hiểm và hoạt động kinh doanh bảo
hiểm. Hoạt động này nếu thực hiện tốt sẽ trực tiếp góp phần nâng cao uy tín cho
DNBH và từ đó giúp DNBH thực hiện cạnh tranh và mở rộng thị trường. Ngoài ra,
DNBH còn có thể làm đại lý giám định cho các DNBH khác để thu phí giám định
và ngược lại.

1.2.4. Hoạt động quản lý quỹ và đầu tư vốn:
Do đặc thù của hoạt động KDBH là phí bảo hiểm được thu trước còn trách
nhiệm bồi thường, trả tiền bảo hiểm của DNBH phát sinh sau thời điểm thu phí. Vì
đặc điểm này mà trong quá trình kinh doanh, DNBH luôn có nguồn vốn lớn tạm
thời nhàn rỗi chưa sử dụng đến. Để bảo toàn và phát triển vốn, các DNBH sử dụng
các nguồn vốn nhàn rỗi tạm thời để đầu tư.


16

Nguồn vốn đầu tư của DNBH bao gồm: vốn điều lệ, quỹ dự trữ bắt buộc, quỹ
dự trữ tự nguyện, các khoản lãi chưa sử dụng, các quỹ hình thành từ lợi tức được sử
dụng để đầu tư và nguồn vốn nhàn rỗi từ dự phòng nghiệp vụ. Thông thường, nguồn
vốn từ dự phòng nghiệp vụ chiếm tỷ trọng lớn nhất. Các quỹ dự phòng nghiệp vụ
chính là khoản nợ của DNBH đối với người được bảo hiểm, do vậy việc sử dụng
nguồn vốn này trong hoạt động đầu tư được quản lý và giám sát chặt chẽ. Hoạt
động đầu tư vốn chịu sự điều chỉnh của các quy định pháp lý, bắt buộc các DNBH
sử dụng an toàn, hiệu quả nguồn vốn này là bảo vệ một cách gián tiếp quyền lợi của
người tham gia bảo hiểm.
Ngoài các hoạt động nêu trên, DNBH còn thực hiện các hoạt động đề phòng
hạn chế tổn thất; trích lập dự phòng phí, dự phòng bồi thường, dự phòng dao động
lớn và một số hoạt động khác theo quy định của pháp luật, như đào tạo và tư vấn;
xây dựng các phương án quản lý rủi ro cho khách hàng; tổ chức các hoạt động dịch
vụ khác có liên quan,...
1.3. Một số chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động của các DNBH PNT:
1.3.1. Khái niệm về hiệu quả kinh doanh:
Hiệu quả kinh doanh của DNBH là thước đo sự phát triển của bản thân
doanh nghiệp và phản ánh trình độ sử dụng chi phí trong việc tạo ra những kết quả
kinh doanh nhất định, nhằm đạt được các mục tiêu đã đề ra.
- Với tư cách là thước đo sự phát triển của DNBH, hiệu quả kinh doanh thể

hiện các chỉ tiêu đặc trưng kinh tế, xã hội khác nhau. Nhưng không phải tất cả các
chỉ tiêu kinh tế, xã hội đều là chỉ tiêu hiệu quả. Các chỉ tiêu phản ánh chi phí (chẳng
hạn tiền lương so với tổng chi phí) và cơ cấu kết quả kinh doanh (chẳng hạn lợi
nhuận so với doanh thu) đều không phải là chỉ tiêu hiệu quả. Các chỉ tiêu hiệu quả
kinh doanh chỉ có thể xác định bằng tỷ lệ so sánh giữa kết quả và chi phí. Nếu lấy
mỗi chỉ tiêu phản ánh kết quả kinh doanh so với một chỉ tiêu phản ánh chi phí, ta
được một chỉ tiêu hiệu quả kinh doanh.Khi đánh giá tốc độ phát triển kinh doanh
của DNBH có thể dùng nhiều chỉ tiêu để phản ánh như: tốc độ tăng trưởng doanh
thu, tốc độ tăng trưởng lợi nhuận, tình hình sử dụng chi phí kinh doanh,...


17

- Việc phản ánh tình hình sử dụng các loại chi phí trong việc tạo ra những kết
quả kinh doanh là nội dung cơ bản của hiệu quả kinh tế nói chung và hiệu quả
KDBH nói riêng. Nội dung này được phản ánh bởi nhiều chỉ tiêu. Mỗi chỉ tiêu hiệu
quả biểu thị một mặt, một yếu tố hay một loại chi phí nào đó. Xu hướng biến động
nhanh hay chậm cho thấy sự tốt lên hay xấu đi trong quá trình sử dụng chi phí hoặc
các nguồn lực.
- Hiệu quả kinh doanh của DNBH luôn gắn liền với những mục tiêu kinh tếxã hội. Trước hết là những mục tiêu của doanh nghiệp, sau đó là của ngành bảo
hiểm và toàn bộ nền kinh tế- xã hội. Theo nguyên tắc hoạt động "lấy số đông bù số
ít", bảo hiểm không chỉ mang tính kinh tế mà còn mang tính xã hội. Hiệu quả xã
hội của DNBH phản ảnh trình độ sử dụng chi phí tạo ra những kết quả phục vụ xã
hội của doanh nghiệp.
- Mỗi DNBH không chỉ đơn thuần là KDBH mà còn kinh doanh nhiều lĩnh
vực khác nhằm sử dụng có hiệu quả nguồn vốn nhàn rỗi của mình.Những doanh
nghiệp hoạt động lâu năm, quy mô lớn thì nguồn vốn nhàn rỗi thường rất lớn (thực
chất là quỹ dự trữ, dự phòng, quỹ chi trả bảo hiểm chưa dùng đến). Việc đưa số vốn
này vào đầu tư là cần thiết để khắc phục tình trạng lạm phát, tạo thêm lợi nhuận,
góp phần làm tăng trưởng quỹ dự trữ và quỹ chi trả. Ngoài ra, với việc sử dụng có

hiệu quả nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi này, góp phần đáng kể vào việc tăng lợi
nhuận cho doanh nghiệp, tăng thu nhập cho người lao động, thậm chí có thể dùng
để thưởng cho người tham gia bảo hiểm liên tục với số tiền bảo hiểm lớn, tạo điều
kiện thuận lợi cho công tác khai thác bảo hiểm sau này.
1.3.2. Một số nhân tố cơ bản tác động đến hiệu quả kinh doanh của
DNBH PNT:
1.3.2.1. Các nhân tố khách quan:
- Sự phát triển và tăng trưởng của nền kinh tế. Nếu một nền kinh tế có tốc độ
phát triển nhanh và ổn định, kéo theo là trình độ dân trí và mức sống của người dân
ngày càng cao sẽ làm tăng cầu tham gia bảo hiểm của người dân và các tổ chức kinh
tế, xã hội.


×