Tải bản đầy đủ (.pdf) (90 trang)

QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI RỪNG SẢN XUẤT TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN HIỆP ĐỨC, TỈNH QUẢNG NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (898.03 KB, 90 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

HUỲNH HỮU CƯỜNG

QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI RỪNG SẢN XUẤT
TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN HIỆP ĐỨC,
TỈNH QUẢNG NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ KINH TẾ

HÀ NỘI, năm 2019


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

HUỲNH HỮU CƯỜNG

QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI RỪNG SẢN XUẤT
TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN HIỆP ĐỨC,
TỈNH QUẢNG NAM

Ngành : Quản lý kinh tế
Mã số : 8 34 04 10

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. BÙI QUANG BÌNH

HÀ NỘI, năm 2019



LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai
công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Tác giả

HUỲNH HỮU CƯỜNG


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
ĐỐI VỚI RỪNG TRỒNG TRÊN ĐỊA BÀN MỘT HUYỆN ................................8
1.1. Khái niệm, đặc điểm và mục tiêu Quản lý Nhà nước đối với rừng sản xuất .......8
1.2. Nội dung Quản lý Nhà nước của địa phương đối với rừng sản xuất trên địa bàn
một huyện ..................................................................................................................11
1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến Quản lý Nhà nước của địa phương đối với rừng sản
xuất trên địa bàn một huyện ......................................................................................27
1.4. Kinh nghiệm của một số địa phương trong quản lý Nhà nước đối với rừng sản
xuất và rút ra những bài học cho huyện Hiệp Đức ...................................................33
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI RỪNG SẢN
XUẤT HUYỆN HIỆP ĐỨC, TỈNH QUẢNG NAM ............................................37
2.1. Khái quát về đặc điểm tự nhiên, tình hình kinh tế - xã hội của huyện Hiệp Đức,
tỉnh Quảng Nam ........................................................................................................37
2.2. Phân tích thực trạng Quản lý Nhà nước đối với rừng sản xuất huyện Hiệp Đức.
...................................................................................................................................41
2.3. Thực trạng bộ máy và cán bộ Quản lý Nhà nước đối với rừng sản xuất ở huyện
Hiệp Đức ...................................................................................................................61

2.4. Đánh giá chung về Quản lý Nhà nước đối với rừng sản xuất huyện Hiệp Đức 63
CHƯƠNG 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP TIẾP TỤC ĐỔI MỚI
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI RỪNG SẢN XUẤT HUYỆN HIỆP ĐỨC 68
3.1. Phương hướng tiếp tục đổi mới Quản lý Nhà nước đối với rừng sản xuất huyện
Hiệp Đức ...................................................................................................................68
3.2. Giải pháp tiếp tục đổi mới Quản lý Nhà nước đối với rừng sản xuất huyện Hiệp
Đức ............................................................................................................................69
KẾT LUẬN ..............................................................................................................81
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
STT

Nghĩa đầy đủ

Từ viết tắt

1

BQLDA

Ban quản lý dự án

2

HĐND

Hội đồng nhân dân


3

KHCN

Khoa học công nghệ

4

KT-XH

Kinh tế xã hội

5

QLNN

Quản lý nhà nước

6

TN&MT

Tài nguyên và Môi trường

7

UBND

Ủy ban nhân dân



DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ

Số hiệu biểu đồ

Tên biểu đồ

Trang

2.1

Thực trạng rừng sản xuất huyện Hiệp Đức 2014 - 2018

39


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đất đai vừa là tư liệu sản xuất, vừa là địa bàn sống của cư dân, vừa là quê
hương, đất nước của dân tộc, con người. Vì thế, dù các quốc gia có chế độ chính trị
và chế độ sở hữu đất đai khác nhau, nhưng không có nước nào, mà ở đó nhà nước
không tham gia quản lý đất đai nói chung và quản lý rừng sản xuất nói riêng. Trong
những năm qua, quản lý Nhà nước đối với rừng sản xuất ở Việt Nam đã có nhiều
thay đổi, đóng góp vào thành tựu phát triển đất nước. Tuy nhiên, so với yêu cầu,
quản lý Nhà nước đối với rừng sản xuất vẫn còn một số hạn chế cần khắc phục như
tổ chức sử dụng đất ở quy mô nhỏ, manh mún, quy hoạch sử dụng rừng sản xuất
chưa được tuân thủ chặt chẽ, hệ thống thông tin về rừng sản xuất chưa hoàn thiện…
kết cục là hiệu quả phát huy nguồn lực rừng sản xuất chưa cao.
Hiệp Đức là một huyện miền núi của tỉnh Quảng Nam, đa phần diện tích đất
rừng trên địa bàn có chất đất màu mỡ, thích hợp với phát triển nhiều loại cây trồng,

nhất là cây công nghiệp, cây ăn trái. Từ khi tiến hành đổi mới cơ chế quản lý rừng
sản xuất theo Luật đất đai năm 2013 đến nay, chính quyền huyện Hiệp Đức đã từng
bước đổi mới quản lý Nhà nước đối với rừng sản xuất và đã thu được một số thành
tựu. Dân cư sống trên địa bàn hầu hết là dân cư nghèo, trình độ thấp. Việc phá rừng
làm rẫy để mưu sinh cho cuộc sống của người dân vẫn thường xuyên xảy ra, diện
tích đất có rừng ngày càng giảm, diện tích đất chưa có rừng ngày càng tăng, diện
tích đất rừng được đưa vào sử dụng hàng năm ít, diện tích rừng sản xuất chưa được
được quản lý chặt chẽ, hiệu quả trên đơn vị diện tích đất thấp (cơ cấu cây trồng đơn
điệu, việc sử dụng giống, phương pháp canh tác truyền thống đang là chủ yếu), mức
sống người dân còn thấp.
Nếu không có những chính sách, giải pháp quyết liệt và hữu hiệu thì các mục
tiêu để phát triển rừng sản xuất khó lòng đạt được, do tiến trình quản lý rừng bền
vững ở Việt Nam hiện gặp rất nhiều khó khăn. Trong đó, khó khăn lớn nhất là Việt
Nam vẫn chưa ban hành các nguyên tắc, tiêu chí, trình tự quản lý rừng bền vững
chuẩn mực hài hòa quy định của quốc tế. Thêm vào đó, tình trạng thiếu nguồn nhân

1


lực về quản lý, tổ chức trong quản lý rừng bền vững; thiếu kiến thức về kinh tế và
kỹ thuật cũng khiến việc áp dụng chứng chỉ rừng bền vững khó đạt được mục tiêu
như kỳ vọng. Hiện có nhiều đơn vị chủ rừng còn lúng túng trong việc triển khai
thực hiện các nguyên tắc của quản lý rừng sản xuất bền vững. Chi phí cho việc đánh
giá để cấp chứng chỉ cũng là một cản trở lớn, trong khi các chủ rừng buộc phải có
những bằng chứng về quyền sử dụng đất hợp pháp cho toàn bộ diện tích rừng và đất
rừng sản xuất đang quản lý. Điều đó đã tạo ra nhiều vấn đề về nguồn tài nguyên
thiên nhiên và góp phần gây ra tình trạng ô nhiễm môi trường, suy thoái đất, đời
sống nhân dân chưa được cải thiện. Xuất phát từ những yêu cầu cấp bách trên, nên
tôi nghiên cứu đề tài: “Quản lý nhà nước đối với rừng sản xuất trên địa bàn
huyện Hiệp Đức, tỉnh Quảng Nam”.

2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Nghiên cứu về vai trò, chức năng của Nhà nước vào lĩnh vực tài nguyên rừng
nói chung, rừng sản xuất nói riêng được các tác giả trong và ngoài nước đề cập đến
qua một số khía cạnh thể hiện ở một số công trình sau:
Luận văn Thạc sỹ Luật học “Một số vấn đề pháp luật bảo vệ rừng Việt Nam
hiện nay” Nguyễn Thanh Huyền (2005), Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh;
tác giả nghiên cứu một số vấn đề pháp luật bảo vệ rừng, đề xuất giải pháp đổi mới,
hoàn thiện pháp luật bảo vệ rừng;
Luận án Tiến sĩ Luật học “Quản lý Nhà nước pháp luật lĩnh vực bảo vệ rừng
Việt Nam hiện nay” Hà Công Tuấn (2006) Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh; tác giả nhấn mạnh công cụ quản lý Nhà nước nói chung, quản lý bảo vệ rừng
nói riêng, công cụ pháp luật đóng vài trò quan trọng;
Luận văn Tiến sĩ ngành Luật kinh tế “Hoàn thiện pháp luật quản lý bảo vệ tài
nguyên rừng Việt Nam hiện nay” Nguyễn Thanh Huyền (2012), Học viện chính trị
quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội; tác giả làm sáng tỏ vấn đề lý luận, vai trò, điều
chỉnh pháp luật quản lý bải vệ rừng Việt Nam, nêu bật yêu cầu đặt ra, xây dựng hệ
thống nguyên tắc điều chỉnh pháp luật quản lý bảo vệ rừng.
Võ Đại Hải (2004) khi tiến hành nghiên cứu về thị trường lâm sản rừng trồng
ở các tỉnh miền núi phía Bắc cho biết sản phẩm rừng trồng gồm có gỗ Số hóa bởi

2


Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên và lâm sản ngoài gỗ. Tác giả đã chỉ ra
các kênh tiêu thụ gỗ rừng trồng sản xuất và lâm sản ngoài gỗ cho thấy để phát triển
thị trường lâm sản rừng trồng cần phát triển công nghệ chế biến lâm sản và hình
thành được phương thức liên doanh, liên kết giữa người dân và công ty sản xuất và
chế biến lâm sản;
Ngô Văn Hải (2004) đã nghiên cứu về yếu tố đầu vào và đầu ra trong sản
xuất nông lâm sản hàng hóa ở miền núi phía Bắc. Tác giả đã phân tích những lợi

thế, bất lợi và hiệu quả của sản xuất nông sản hàng hóa ở miền núi; Ngô Đình Quế,
Đỗ Đình Sâm và các cộng sự (2001) đã nghiên cứu xác định tiêu chuẩn phân chia
lập địa vi mô cho rừng trồng công nghiệp tại một số vùng sinh thái ở Việt Nam với
các chỉ tiêu đá mẹ và loại đất; độ dốc; độ dày tầng đất; thảm thực vật và chỉ thị. Kết
quả đã xác định được các loài cây trồng rừng chính theo thứ tự ưu tiên cho từng
nhóm dạng lập địa ở nhiều vùng khác nhau đây là cơ sở quan trọng cho việc phát
triển trồng rừng kinh tế có hiệu quả và ổn định;
Cao Liêm, Trần Đức Viêm (1990) Sinh thái học Nông nghiệp và bảo vệ môi
trường, Nxb Đại học và giáo dục chuyên nghiệp, Hà Nội; Phạm Minh Nguyệt, “
Lửa rừng và biện pháp phòng chống cháy rừng”. Tổng luận chuyên khoa học kỹ
thuật Lâm Nghiệp;
Brown A.A (1979) Forest Fire control and use, new york- Toronto; Mac.
Arthur A.G, Luke R.H.(1986), Bushfire in Australia, Canberra; Laslo Pancel (ED)
(1993), Tropical, forestry handbook- Volum 2, springer- Verlag Berlin Heidelberg;
Narong Mahannop (năm 2004) ở Thái Lan các tác giả cho biết ở các nước Đông
Nam Á các vấn đề được xem là quan trọng, khuyến khích người dân tham gia trồng
rừng là: Quy định rõ ràng về quyền sử dụng đất; Quy định rõ đối tượng hưởng lợi từ
rừng trồng; Nâng cao hiểu biết và nắm bắt kỹ thuật của người dân; Giống Keo lai
tự nhiên này được phát hiện đầu tiên bởi Messir Herbern và Shim vào năm 1972
trong số các cây Keo tai tượng trồng ven đường ở Sook Telupid thuộc bang Sabah,
Malaysia. Năm 1976, M.Tham đã kết luận thông qua việc thụ phấn chéo giữa Keo
Tai tượng và Keo lá tràm tạo ra cây Keo lai có sức sinh trưởng nhanh hơn giống bố mẹ.
Đến tháng 7 năm 1978, kết luận trên cũng đã được Pedley xác nhận sau khi

3


xem xét các mẫu tiêu bản tại phòng tiêu bản thực vật ở Queensland - Australia (Lê
Đình Khả, 1999). Ngoài ra, Keo lai tự nhiên còn được phát hiện ở vùng Balamuk và
Old Tonda của Papua New Guinea (Turnbull, 1986, Gun và cộng sự, 1987, Griffin,

1988), ở một số nơi khác tại Sabah (Rufelds, 1987) và Ulu Kukut (Darus và Rasip,
1989) của Malaysia, ở Muak-Lek thuộc tỉnh Saraburi của Thái Lan (Kijkar, 1992).
Giống lai tự nhiên giữa Keo tai tượng với Keo lá tràm đã được phát hiện ở cả rừng
tự nhiên lẫn rừng trồng và đều có một số đặc tính vượt trội so Số hóa bởi Trung tâm
Học liệu – Đại học Thái Nguyên 15 với bố mẹ, sinh trưởng nhanh, cành nhánh nhỏ,
thân đơn trục với đoạn thân dưới cành lớn (Lê Đình Khả, 2006). Nghiên cứu về
hình thái cây Keo lai có thể kể đến các công trình nghiên cứu của Rufelds (1988);
Gan.E và Sim Boom Liang (1991) các tác giả đã chỉ ra rằng: Keo lai xuất hiện lá giả
(Phyllode) sớm hơn Keo tai tượng nhưng muộn hơn Keo lá tràm. Ở cây con lá giả
đầu tiên của Keo lá tràm thường xuất hiện ở lá thứ 4-5, Keo tai tượng thường xuất
hiện ở lá thứ 8-9 còn ở Keo lai thì thường xuất hiện ở lá thứ 5-6. Các tính trạng của
chúng đều thể hiện tính trung gian giữa hai loài bố mẹ mà không có ưu thế lai thật
sự. Tác giả đã chỉ ra rằng Keo lai hơn Keo tai tượng về độ tròn đều của thân, có
đường kính cành nhỏ hơn và khả năng tỉa cành tự nhiên khá hơn Keo tai tượng,
song độ thẳng thân, hình dạng tán lá và chiều cao dưới cành lại kém hơn Keo tai
tượng.
Có thể nói, nội dung được nhiều công trình đề cập đến nhất đối với QLNN
về rừng sản xuất vẫn là nghĩa vụ và trách nhiệm của nhà nước trong việc nâng cao
hiệu quả sử dụng tài nguyên rừng.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
Mục đích nghiên cứu đề tài là làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của quản lý
rừng sản xuất của chính quyền huyện Hiệp Đức trong điều kiện pháp luật hiện hành
của Việt Nam, từ đó đề xuất giải pháp tiếp tục đổi mới quản lý rừng sản xuất của
Hiệp Đức trong những năm sắp tới. Để hoàn thành mục đích trên, quá trình nghiên
cứu đề tài đã hoàn thành các nhiệm vụ sau:
+ Hệ thống hóa cơ sở lý luận và xây dựng khung phân tích về QLNN của
chính quyền địa phương đối với rừng sản xuất trên địa bàn một tỉnh trong điều kiện

4



pháp luật hiện hành của Việt Nam.
+ Tổng hợp có phân tích kinh nghiệm QLNN đối với rừng sản xuất ở một số
tỉnh, rút ra bài học cho chính quyền huyện Hiệp Đức.
+ Phân tích thực trạng QLNN đối với rừng sản xuất ở huyện Hiệp Đức, tỉnh
Quảng Nam từ năm 2010 đến 2019, làm rõ thành công, hạn chế và nguyên nhân.
+ Đề xuất định hướng và giải pháp tiếp tục đổi mới QLNN đối với rừng sản
xuất ở huyện Hiệp Đức giai đoạn đến năm 2025.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu đề tài
4.1. Đối tượng nghiên cứu đề tài
Đối tượng nghiên cứu đề tài luận văn là những vấn đề lý luận và thực tiễn về
QLNN đối với rừng sản xuất của chính quyền huyện Hiệp Đức.
4.2. Phạm vi nghiên cứu đề tài
* Phạm vi về nội dung:
QLNN đối với rừng sản xuất sẽ được tiếp cận theo hai khía cạnh: nội dung
và bộ máy QLNN đối với rừng sản xuất; Nội dung QLNN đối với rừng sản xuất
được giới hạn ở thẩm quyền của chính quyền địa phương (bao gồm ba cấp: tỉnh,
huyện, xã) phù hợp với phân cấp QLNN về đất rừng và về đất đai theo pháp luật
hiện hành của Việt Nam. Bộ máy QLNN đối với rừng sản xuất được bao gồm
HĐND, UBND và các cơ quan tham mưu cho UBND trong QLNN đối với rừng sản
xuất (bao gồm các cơ quan quản lý Kiểm lâm, Nông nghiệp, TN&MT ở ba cấp và
các cơ quan nhà nước phối hợp khác như cơ quan tài chính, kế hoạch đầu tư …)
* Phạm vi về đối tượng quản lý:
Rừng sản xuất phân loại theo quy định của Luật Lâm nghiệp 2017 và Nghị
định số 156/2018/NĐ-CP ngày 16/11/2018 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành
một số điều của Luật Lâm nghiệp; Quyết định số 390/QĐ-TTg ngày 11/04/2018,
quyết định ban hành kế hoạch triển khai thi hành Luật lâm nghiệp, Luật thủy sản;
trong phạm vi địa giới hành chính một tỉnh. Rừng sản xuất được xem xét trên 2 góc
độ: tài nguyên và quá trình sử dụng, trao đổi.
* Về thời gian: Thời gian khảo sát được giới hạn trong giai đoạn từ năm

2010 đến năm 2019. Định hướng và giải pháp đề xuất cho giai đoạn đến năm 2025.

5


5. Phương pháp nghiên cứu đề tài
5.1. Phương pháp tiếp cận
Phù hợp với chuyên ngành quản lý kinh tế, cách tiếp cận để giải quyết các
vấn đề theo yêu cầu của đề tài chủ yếu là tiếp cận kinh tế học, quản lý học, tiếp cận
hệ thống và lịch sử.
5.2. Phương pháp thu thập dữ liệu
Luận văn tiến hành thu thập dữ liệu sơ cấp từ khảo sát thực tiễn cơ sở trên
địa bàn huyện Hiệp Đức, tài liệu thứ cấp từ các báo cáo từ cơ quan địa phương (Cục
Thống kê, Sở Tài nguyên và Môi trường, Sở Nông nghiệp và phát triển nông thôn,
Trung tâm phát triển quỹ đất, …) liên quan đến QLNN đối với rừng sản xuất để
nghiên cứu phân tích đề tài.
5.3. Phương pháp xử lý thông tin và số liệu
- Các dữ liệu sau khi thu thập được chuẩn hóa, phân tích và tổng hợp, phân
tổ thành bộ cơ sở dữ liệu và xử lý bằng phần mềm Excel.
- Việc lựa chọn xử lý số liệu và các dữ liệu khác được phân tích, tổng hợp,
khái quát hóa theo các phương pháp thống kê mô tả, thống kê so sánh, quy nạp và
diễn dịch… để làm rõ vấn đề quản lý nhà nước đối với rừng sản xuất trên địa bàn
huyện Hiệp Đức.
6. Điểm mới của luận văn
- Xây dựng khung phân tích lý thuyết về quản lý nhà nước của chính quyền
địa phương đối với rừng sản xuất trên địa bàn một tỉnh phù hợp với kinh tế thị
trường và pháp luật hiện hành ở Việt Nam.
- Tập hợp có phân tích kinh nghiệm QLNN đối với rừng sản xuất của hai
huyện và rút ra những bài học cho huyện Hiệp Đức.
- Mô tả thực trạng QLNN đối với rừng sản xuất ở Hiệp Đức trong giai đoạn

2010 - 2019, rút ra những thành công, tác động tích cực và những yếu kém, những
chỉ tiêu chưa hoàn thành và hai nhóm nguyên nhân của tình trạng yếu kém trong
QLNN đối với rừng sản xuất trên địa bàn huyện Hiệp Đức.
- Đề xuất hệ thống 5 định hướng, 8 nhóm giải pháp tiếp tục đổi mới QLNN

6


đối với rừng sản xuất ở huyện Hiệp Đức trong giai đoạn tới năm 2025.
6. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung luận
văn được trình bày trong 3 chương.
Chương 1. Cơ sở lý luận và thực tiễn về Quản lý Nhà nước đối với rừng
trồng trên địa bàn một huyện.
Chương 2. Thực trạng Quản lý Nhà nước đối với rừng sản xuất huyện Hiệp
Đức, tỉnh Quảng Nam.
Chương 3. Phương hướng và giải pháp tiếp tục đổi mới Quản lý Nhà nước
đối với rừng sản xuất huyện Hiệp Đức

7


CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
ĐỐI VỚI RỪNG TRỒNG TRÊN ĐỊA BÀN MỘT HUYỆN
1.1. Khái niệm, đặc điểm và mục tiêu Quản lý Nhà nước đối với rừng
sản xuất
1.1.1. Khái quát về rừng sản xuất
- Khái niệm rừng sản xuất
Rừng sản xuất là rừng được sử dụng chủ yếu để sản xuất, kinh doanh gỗ, các

lâm sản ngoài gỗ và kết hợp phòng hộ, góp phần bảo vệ môi trường. Căn cứ vào
nguồn gốc hình thành, rừng sản xuất được phân loại theo các đối tượng sau:
- Rừng sản xuất là rừng tự nhiên gồm có: Rừng tự nhiên và rừng được phục
hồi bằng biện pháp khoanh nuôi xúc tiến tái sinh tự nhiên; căn cứ vào trữ lượng
bình quân trên một hecta rừng tự nhiên được phân loại thành: Rừng giàu, rừng trung
bình, rừng nghèo, rừng nghèo kiệt và rừng chưa có trữ lượng.
- Rừng sản xuất là rừng trồng gồm có: Rừng trồng bằng vốn ngân sách nhà
nước, rừng trồng bằng vốn chủ rừng tự đầu tư (vốn tự có, vốn vay, vốn liên doanh,
liên kết không có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước) hoặc có hỗ trợ của nhà nước và
các nguồn vốn khác.
- Đặc điểm rừng sản xuất
Căn cứ vào điều kiện sinh thái, thành phần, cấu trúc, đặc điểm sinh trưởng và
sản lượng, rừng được chia thành các loại sau:
 Rừng lá kim hay rừng Taiga ở các vùng khí hậu lạnh hai cực
 Rừng hỗn giao của vùng khí hậu ôn đới bao gồm các loại rừng lá kim và lá
rộng
 Rừng ẩm vùng khí hậu nóng, có các loại rừng lá rộng và lá kim
 Rừng mưa xích đạo
 Rừng các vùng khô được gọi là rừng thưa hạn sinh.
1.1.2. Khái niệm Quản lý Nhà nước của chính quyền địa phương đối với
rừng trên địa bàn một huyện
8


Bàn luận về phân quyền trong Quản lý tài nguyên rừng hiện nay và Quản lý
Nhà nước của chính quyền địa phương đối với rừng sản xuất trên địa bàn một
huyện, trước hết phải hiểu rằng, là chủ sở hữu nên Nhà nước có đủ 3 quyền đối với
rừng, đó là quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt. Với quyền chiếm
hữu, chủ sở hữu nhà nước được nắm giữ, quản lý và thực hiện mọi hành vi theo ý
chí của mình để nắm giữ tài sản hoặc uỷ quyền cho người khác chiếm hữu tài sản

đó. Quyền sử dụng là quyền khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản.
Quyền định đoạt là quyền chuyển giao quyền sở hữu tài sản hoặc từ bỏ quyền sở
hữu tài sản đó qua các hình thức bán, trao đổi, tặng cho, cho vay, cho thừa kế, từ bỏ
hoặc thực hiện các hình thức định đoạt khác phù hợp với quy định của pháp luật.
Quản lý Nhà nước của chính quyền địa phương đối với rừng sản xuất trên địa
bàn một huyện là tổng hợp các hoạt động của các cơ quan cấp tỉnh, cấp huyện và
cấp xã có chức năng theo phân cấp trong Luật lâm nghiệp, Luật Đất đai đối với
rừng sản xuất và quá trình sử dụng, giao dịch rừng sản xuất trong địa giới hành
chính của huyện.
1.1.3. Mục tiêu Quản lý Nhà nước của chính quyền địa phương đối với
rừng sản xuất trên địa bàn một huyện
Khuyến khích sử dụng rừng sản xuất hiệu quả
Là đối tượng được pháp luật công nhận là chủ rừng, người dân và hộ gia
đình có nhu cầu sử dụng và phát triển rừng hiệu quả là chính đáng. Nhưng theo các
chuyên gia, để khuyến khích công việc này, còn phụ thuộc rất nhiều vào sự linh
hoạt chính sách.
Thực tế cho thấy kế hoạch quản lý sử dụng rừng sản xuất là rừng tự nhiên
của các hộ gia đình ở một số địa phương, nắm trong tay nhiều diện tích đất trống
hoặc dây leo bụi rậm, cây bụi rậm nằm rải rác trong các diện tích rừng đã được
giao, họ có nguyện vọng đầu tư kinh phí và công sức trồng từng kinh tế để kết hợp
lấy ngắn nuôi dài và cải tạo rừng nhưng không được phép của kiểm lâm sở tại mặc
dù đơn xin phép được UBND xã xác nhận và gửi đi nhiều lần. Chính quyền và cơ
quan quản lý Nhà nước, các cơ quan chức năng lý giải sự việc này là do lo ngại khi
hộ gia đình phát thực bì để trồng rừng thì họ sẽ phát thêm các phần rừng khác gây

9


nguy cơ xâm hại đến diện tích rừng tự nhiên đã giao.
Tạo điều kiện cho phát triển bền vững trên địa bàn huyện

Các địa phương có nhiều lợi thế về đất đai, thời tiết khí hậu - đó là những
điều kiện thuận lợi cho việc phát triển rừng nguyên liệu và rừng kinh tế. Thủ tướng
Chính phủ phê duyệt Chương trình mục tiêu phát triển lâm nghiệp bền vững giai
đoạn 2016 - 2020, theo đó cơ chế chính sách hỗ trợ có một số thay đổi so với trước
đây. Đây là tín hiệu vui để các cấp, ngành chức năng tập trung chỉ đạo phát triển
rừng sản xuất, khuyến khích người dân sống bằng nghề rừng; rừng kinh tế của các
địa phương có bước phát triển đáng kể, một số bộ phận người dân đã có thu nhập từ
bảo vệ và phát triển rừng. Người dân và các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực
lâm nghiệp ngày càng tích cực đầu tư, khoanh nuôi bảo vệ và trồng rừng sản xuất,
nhất là phát triển rừng sản xuất. Đó cũng là quan điểm phát triển lâm nghiệp phải
phù hợp với đường lối phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước, của quốc
gia theo cơ chế thị trường, sớm chuyển việc trồng rừng thành ngành kinh tế sản xuất
hàng hoá, hiệu quả và bền vững, góp phần đa dạng hoá kinh tế nông thôn, tạo việc
làm và thu nhập, nâng cao mức sống cho những người làm nghề rừng.
Để góp phần thúc đẩy phát triển rừng sản xuất, cùng với nguồn lực hỗ trợ
của Nhà nước thì các địa phương cần ban hành các chính sách khuyến khích các
thành phần kinh tế tham gia đầu tư phát triển rừng sản xuất, đầu tư xây dựng các
phân xưởng chế biến. Hoàn thiện quy hoạch vùng nguyên liệu tập trung, ổn định,
đảm bảo cung cấp nguyên liệu ổn định lâu dài trên nguyên tắc gắn vùng nguyên liệu
với các nhà máy chế biến lâm sản. Rà soát, đánh giá hiệu quả quy hoạch vùng
nguyên liệu cho các nhà máy đang hoạt động ổn định, đẩy mạnh việc liên doanh
liên kết nhằm thúc đẩy sản xuất phát triển. Triển khai việc rà soát giao đất, giao
rừng và tiếp tục thực hiện giao rừng, cho thuê rừng gắn với giao đất, cho thuê đất.
Với những giải pháp cụ thể được thực thi, trong thời gian tới, kinh tế lâm nghiệp sẽ
trở thành ngành kinh tế quan trọng, người dân có thu nhập cao và làm giàu từ sản
phẩm rừng, góp phần bảo vệ môi trường sinh thái, khai thác được tiềm năng, thế
mạnh, đồng thời tạo điều kiện cho phát triển bền vững ở các địa phương.
Bảo đảm phân phối lợi ích từ rừng sản xuất một cách công bằng

10



Đối với đất lâm nghiệp, rừng có ý nghĩa vô cùng quan trọng, rừng và đất có
một mối quan hệ chặt chẽ và gắn liền với nhau, rừng suy tàn thì kéo theo đất bị suy
thoái bạc màu. Đồng thời, rừng là một loại tài nguyên đặc biệt có khả năng tự tái
tạo, có vai trò cân bằng môi trường sinh thái, nâng cao đời sống KT-XH. Nước ta có
một diện tích rừng nhiệt đới vô cùng phong phú và đa dạng. Đó là một kho tàng vô
cùng quý giá, cung cấp nhiều loại gỗ, lâm sản có giá trị cao, gắn bó với cuộc sống
của người dân.
Thời gian gần đây, con người đã khai thác triệt để tài nguyên quý giá này
làm cho rừng trở nên cạn kiệt và nghèo chất dinh dưỡng; ảnh hưởng chất độc màu
da cam của chiến tranh, quá trình công nghiệp hóa diện tích rừng nhanh chóng giảm
đi. Vì vậy, công tác bảo vệ phát triển rừng là vấn đề có tính chiến lược, trong những
năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành các chủ trương, chính sách nhằm bảo
vệ diện tích rừng tự nhiên hiện có và đẩy mạnh các hoạt động xây dựng, phát triển
vốn rừng, khuyến khích người dân sử dụng hợp lý và hiệu quả nguồn tài nguyên đất
lâm nghiệp, đề ra những chính sách sử dụng đất đai hợp lý, phù hợp với từng thời
kỳ phát triển của đất nước. Và một trong những chính sách đúng đắn đó là chính
sách bảo đảm phân phối lợi ích từ rừng sản xuất một cách công bằng.
1.2. Nội dung Quản lý Nhà nước của địa phương đối với rừng sản xuất
trên địa bàn một huyện
1.2.1. Ban hành văn bản hướng dẫn thực hiện pháp luật đối với rừng sản
xuất thuộc địa bàn huyện
Ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về quản
lý sử dụng rừng sản xuất
Hệ thống các cơ quan chính quyền địa phương có một vai trò rất quan trọng
trong việc thi hành các quy định của Hiến pháp, Luật và các văn bản của cơ quan
nhà nước cấp trên; Tổ chức, động viên nhân dân thực hiện pháp luật và đưa Nghị
quyết của Đảng vào cuộc sống. Những năm gần đây, hoạt động của các cơ quan
Nhà nước ở địa phương đã đổi mới và có nhiều tiến bộ trong việc thi hành Hiến

pháp, pháp luật.
Xuất phát từ những nhiệm vụ quan trọng đó, việc ban hành các văn bản quy

11


phạm pháp luật về quản lý sử dụng rừng sản xuất ở các địa phương là hết sức cần
thiết. Chính quyền địa phương không chỉ ngồi đó chỉ tay năm ngón mà cần phải cụ
thể hóa các văn bản quy định để triển khai thực hiện, hướng dẫn cụ thể các quy
trình, trình tự, thủ tục, các chính sách liên quan đến tài nguyên rừng, phát triển và
bảo vệ rừng sản xuất, giúp cho các cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp được giao và sử
dụng rừng sản xuất có hiệu quả nhất tại địa phương.
Phổ biến, tập huấn quản lý theo pháp luật về rừng sản xuất cho cán bộ
quản lý lâm nghiệp và người sử dụng rừng sản xuất
Nhằm đẩy mạnh công tác quản lý, bảo vệ và phát triển rừng, triển khai thực
hiện có hiệu quả Luật Lâm nghiệp 2017, các địa phương thường xuyên tăng cường
công tác tuyên truyền chính sách, pháp luật của Nhà nước về bảo vệ và phát triển
rừng; ngăn chặn và hạn chế tới mức thấp nhất tình trạng phá rừng và nạn khai thác
rừng trái pháp luật xảy. Đồng thời qua đó tăng cường quản lý Nhà nước về bảo vệ
và phát triển rừng, phát triển lâm nghiệp, trong đó chủ yếu là quản lý Nhà nước về
bảo vệ và phát triển rừng sản xuất.
Với mục đích chính là tuyên truyền phổ biến pháp luật trong lĩnh vực Quản
lý bảo vệ rừng cho các chủ rừng, các cán bộ quản lý lâm nghiệp, người dân phụ
trách các tổ địa bàn dân cư ở các xã ven rừng, gần rừng, nâng cao hơn nhận thức về
vai trò, chức năng và giá trị của rừng sản xuất, giúp họ nhận thức rõ hơn lợi ích kinh
tế, quốc gia từ việc bảo vệ và phát triển rừng sản xuất. Với các văn bản pháp luật
như Luật Lâm nghiệp 2017, Luật đất đai 2013, Nghị định 157/2013/NĐ-CP ngày
11/11/2013 quy định xử phạt vi phạm hành chính về quản lý rừng, phát triển rừng,
bảo vệ rừng và quản lý lâm sản; Nghị định 97/2017/NĐ-CP ngày 18/8/2017 sửa đổi,
bổ sung một số điều của Nghị định số 81/2013/NĐ-CP ngày 19/7/2013 của Chính

phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật xử lý vi phạm hành
chính... Qua tập huấn, tuyên truyền pháp luật về rừng sản xuất góp phần nâng cao
vai trò trách nhiệm của mọi người trong việc tham gia bảo vệ và phát triển rừng;
ngăn chặn và hạn chế tới mức thấp nhất tình trạng phá rừng và nạn khai thác rừng
trái pháp luật xảy ra tại địa phương.

12


1.2.2. Xây dựng và giám sát thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng rừng
sản xuất
Thống kê, kiểm kê rừng sản xuất
Theo Điều 34, Luật Lâm nghiệp 2017 quy định kiểm kê rừng thực hiện theo
cấp chính quyền gắn với chủ quản lý cụ thể trên phạm vi toàn quốc để xác định hiện
trạng diện tích, trữ lượng rừng, đất chưa có rừng quy hoạch lâm nghiệp; điều chỉnh,
bổ sung cơ sở dữ liệu rừng và đất chưa có rừng…
Công tác điều tra, thống kê, kiểm kê rừng nói chung và rừng sản xuất nói
riêng hàng năm đã tạo được bộ dữ liệu đầy đủ nhất về rừng, chủ rừng, rừng sản xuất
ở các địa phương, tích hợp đồng bộ với cơ sở dữ liệu của cả nước, chi tiết đến từng
lô rừng với các đặc điểm như: diện tích, trữ lượng, loại đất, loại rừng, chủ rừng, đơn
vị hành chính và đơn vị quản lý rừng, tình trạng sở hữu, sử dụng rừng, tranh chấp
đất đai...; thống nhất giữa bản đồ và số liệu, giữa ngành nông nghiệp và phát triển
nông thôn với ngành tài nguyên môi trường trên cơ sở kết hợp thông tin thu được từ
ảnh vệ tinh độ phân giải cao với điều tra thực địa.
Đồng thời còn tạo được cơ sở dữ liệu trong hệ thống quản lý thông tin ngành
lâm nghiệp (FORMIS), là tiền đề cho quy hoạch rừng sản xuất, theo dõi diễn biến
rừng sản xuất, nghiệm thu và thanh toán chi trả dịch vụ môi trường rừng, tổ chức
phòng cháy chữa cháy rừng, phòng trừ dịch bệnh cây rừng, thực hiện giao đất giao,
thuê rừng sản xuất. Bên cạnh đó, đã phát hiện, giải quyết nhiều bất cập của dữ liệu
về rừng và rừng sản xuất đã tồn đọng trong lịch sử giao đất, giao rừng..., qua đó tiếp

tục giải quyết những vấn đề phức tạp của quản lý rừng và đất lâm nghiệp ở các địa
phương như rà soát quy hoạch 3 loại rừng, giao đất, giao rừng, xử lý tranh chấp về
rừng và đất rừng.
Xây dựng quy hoạch sử dụng rừng sản xuất
Theo quy định tại điểm c, khoản 1, Điều 10, Luật Lâm nghiệp 2017, rừng tự
nhiên phải được đưa vào quy hoạch rừng đặc dụng, rừng phòng hộ, rừng sản xuất.
Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định 124/QĐ-TTg, ngày 02/02/2012 phê
duyệt quy hoạch tổng thể phát triển sản xuất ngành nông nghiệp đến năm 2020 và
tầm nhìn đến 2030, theo đó định hướng quy hoạch đất lâm nghiệp đến năm 2020 là

13


16,2 - 16,5 triệu ha, tăng thêm 879 ngàn ha so với năm 2010; bao gồm rừng sản
xuất 8,132 triệu ha, rừng phòng hộ 5,842 triệu ha, rừng đặc dụng 2,271 triệu ha.
Đề án “Trồng rừng thay thế” của Bộ NN&PTNT diện tích trồng rừng thay
thế là 22.340 ha để xây dựng nhà máy thủy điện. Nhưng thực tế, diện tích rừng bị
tàn phá lớn hơn nhiều lần con số này. Nhiều tính toán của các chuyên gia cho thấy
bình quân diện tích rừng mất cho 1 MW thủy điện là 4 ha. Chương trình quốc gia về
giảm phát thải khí nhà kính thông qua hạn chế mất rừng và suy thoái rừng; bảo tồn,
nâng cao trữ lượng các-bon và quản lý bền vững tài nguyên rừng (REDD+) đến
năm 2030 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định 419/QĐ-TTg ngày
5/4/2017. Trong đó, mục tiêu cụ thể giai đoạn 2017-2020, đến năm 2020, góp phần
giảm phát thải khí nhà kính thông qua các hoạt động REDD+, nâng cao độ che phủ
rừng toàn quốc lên 42% và diện tích các loại rừng đạt 14,4 triệu ha. Chính vì vậy
cần xây dựng quy hoạch sử dụng rừng sản xuất cho phù hợp đồng thời để hài hòa
các lợi ích phát triển kinh tế (thủy điện, khai khoáng…) với bảo vệ môi trường sinh
thái, biến đổi khí hậu, bảo vệ và phát triển rừng sản xuất tại các địa phương đang là
nhiệm vụ quan trọng, thách thức lớn cho các cấp, các ngành.
Xây dựng kế hoạch sử dụng rừng sản xuất

Theo Điều 48, Luật Lâm nghiệp 2017 quy định phát triển rừng sản xuất, duy
trì diện tích rừng sản xuất là rừng tự nhiên hiện có; phục hồi rừng tự nhiên…, hình
thành vùng rừng trồng tập trung, áp dụng công nghệ sinh học hiện đại…., khuyến
khích trồng rừng hỗn loài, lâm sản ngoài gỗ…
Về sử dụng rừng sản xuất, tại các Điều 58. 59. 60 Luật Lâm nghiệp 2017 quy
định khai thác lâm sản trong rừng sản xuất là rừng tự nhiên, rừng trồng; sản xuất
lâm, nông, ngư nghiệp kết hợp, nghiên cứu khoa học, giảng dạy, thực tập, kinh
doanh du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng, giải trí trong rừng sản xuất…
Thông tư 23/2017/TT-BNNPTNT, ngày 15/11/2017 của Bộ NN&PTNT quy
định: đối với diện tích rừng sản xuất của hộ gia đình được hỗ trợ trồng từ kinh phí
trồng rừng thay thế, hộ gia đình có trách nhiệm quản lý, bảo vệ, phát triển, sử dụng
rừng; được hưởng lợi và thực hiện các nghĩa vụ theo quy định của pháp luật đối với
rừng sản xuất.

14


Giám sát thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng rừng sản xuất
Khoản 3 Điều 7 Thông tư 28/2018/TT-BNNPTNT quy định: việc xác định
kế hoạch quản lý, bảo vệ, phát triển, sử dụng rừng và thương mại lâm sản đối với
rừng sản xuất. Nên cần giám sát đầy đủ nội dung kế hoạch liên quan rừng sản xuất.
Các địa phương chủ động thu hồi đất theo quy hoạch và kế hoạch, trong đó
cần phải thu hồi cả phần diện tích đất bên cạnh công trình kết cấu hạ tầng, vùng phụ
cận để tạo nguồn vốn cho phát triển, tạo quỹ đất đầu tư công trình hạ tầng kỹ thuật
và xã hội. Đồng thời, ưu tiên cho người bị thu hồi đất được giao đất hoặc mua nhà
trên diện tích đất đã thu hồi mở rộng theo quy định của pháp luật.
Tăng cường quản lý, giám sát sử dụng đất rừng sản xuất theo đúng quy
hoạch, kế hoạch sử dụng đất nhất là khu vực sẽ chuyển mục đích sử dụng đất; tổ
chức quản lý, giám sát chặt chẽ quy hoạch phát triển các khu đô thị, khu công
nghiệp, cụm công nghiệp, đất sản xuất kinh doanh phi nông nghiệp; thanh tra, kiểm

tra việc quản lý, sử dụng đất theo quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất rừng để ngăn
chặn và xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất
rừng sản xuất, các trường hợp đã được giao đất, cho thuê đất nhưng không sử dụng.
1.2.3. Bảo hộ quyền sử dụng đất lâm nghiệp
Giao, cho thuê rừng sản xuất và chuyển mục đích sử dụng rừng sản xuất
Nguyên tắc giao rừng, cho thuê rừng, thu hồi rừng, chuyển mục đích sử dụng
rừng sang mục đích khác được quy định tại Điều 14 Luật Lâm nghiệp 2017. Điều
15 Luật Lâm nghiệp 2017, căn cứ để giao rừng, cho thuê rừng, chuyển mục đích sử
dụng rừng sang mục đích khác, đó là: Kế hoạch giao rừng, cho thuê rừng, chuyển
mục đích sử dụng rừng sang mục đích khác ....Diện tích rừng, đất quy hoạch để
trồng rừng. Nhu cầu sử dụng rừng thể hiện trong dự án đầu tư đối với tổ chức; đề
nghị giao rừng, thuê rừng, chuyển mục đích sử dụng rừng sang mục đích khác đối
với hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư...
Đất rừng sản xuất được Nhà nước giao, cho thuê thu tiền thuê đất hàng năm
đối với tổ chức kinh tế, hộ gia đình, cá nhân để sử dụng vào mục đích sản xuất lâm
nghiệp. Đất rừng sản xuất được Nhà nước giao, cho thuê thu tiền thuê đất một lần
cho cả thời gian thuê hoặc thu tiền thuê đất hàng năm đối với người Việt Nam định

15


cư ở nước ngoài để thực hiện dự án đầu tư sản xuất lâm nghiệp.
Đất rừng sản xuất được Nhà nước cho thuê thu tiền thuê đất một lần cho cả
thời gian thuê hoặc thu tiền thuê đất hàng năm đối với tổ chức, cá nhân nước ngoài
để thực hiện dự án đầu tư sản xuất lâm nghiệp... Các trường hợp chuyển mục đích
sử dụng đất phải được phép của cơ quan nhà nước có thẩm quyền còn được quy
định tại Khoản 1 Điều 57 Luật đất đai 2013.
Thu hồi rừng sản xuất và bồi thường, hỗ trợ tái định cư cho người dân
khi thu hồi rừng sản xuất
Thu hồi đất rừng sản xuất chỉ được tiến hành khi thuộc các trường hợp thu

hồi theo quy định của pháp luật đất đai như sau: vì mục đích quốc phòng, an ninh;
để phát triển kinh tế – xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng; vì mục đích quốc
phòng, an ninh; phát triển kinh tế – xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng; Thu hồi
đất do vi phạm pháp luật về đất đai; do chấm dứt việc sử dụng đất theo pháp luật, tự
nguyện trả lại đất, có nguy cơ đe dọa tính mạng con người.
Người sử dụng đất rừng sản xuất khi Nhà nước thu hồi đất nếu có đủ điều
kiện được bồi thường thì được bồi thường ( Điều 75 Luật đất đai 2013). Điều kiện
đủ đất phải có Giấy chứng nhận hoặc có đủ điều kiện để được cấp Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất theo quy
định của Luật này mà chưa được cấp.
Khi đất rừng sản xuất bị thu hồi sẽ được bồi thường theo Điều 76 Luật đất
đai 2013: Được bồi thường chi phí đầu tư vào đất còn lại khi Nhà nước thu hồi đất
rừng sản xuất vì mục đích quốc phòng, an ninh; phát triển kinh tế – xã hội vì lợi ích
quốc gia, công cộng.
Theo Điều 75 của Luật đất đai 2013, tổ chức kinh tế đang sử dụng đất nông
nghiệp được Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất, cho thuê đất trả tiền thuê
đất một lần cho cả thời gian thuê, nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất khi Nhà
nước thu hồi đất, nếu có đủ điều kiện được bồi thường đất; mức bồi thường về đất
được xác định theo thời hạn sử dụng đất còn lại. Cộng đồng dân cư, cơ sở tôn giáo
đang sử dụng đất nông nghiệp khi Nhà nước thu hồi đất mà có đủ điều kiện được
bồi thường thì được bồi thường về đất theo quy định của Chính phủ (Điều 75 của

16


Luật đất đai).
Đăng ký và cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng rừng sản xuất
Chứng nhận quyền sở hữu rừng sản xuất là rừng trồng được quy định và
hướng dẫn chi tiết tại Nghị định 43/2014/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số
điều của Luật Đất đai, cụ thể như sau:

Chủ sở hữu rừng sản xuất là rừng trồng mà vốn để trồng rừng, tiền đã trả cho
việc nhận chuyển nhượng rừng hoặc tiền nộp cho Nhà nước khi được giao rừng có
thu tiền không có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước và có một trong các giấy tờ sau
đây thì được chứng nhận quyền sở hữu: Giấy chứng nhận hoặc một trong các giấy
tờ quy định tại Điều 100 của Luật Đất đai; Giấy tờ về giao rừng sản xuất là rừng
trồng; Hợp đồng hoặc văn bản về việc mua bán hoặc tặng cho hoặc thừa kế đối với
rừng sản xuất là rừng trồng đã được công chứng hoặc chứng thực theo quy định của
pháp luật; Bản án, quyết định của Tòa án nhân dân hoặc giấy tờ của cơ quan nhà
nước có thẩm quyền giải quyết được quyền sở hữu rừng sản xuất là rừng trồng đã
có hiệu lực pháp luật...
Theo Điều 19, Nghị định 43/2014/NĐ-CP quy định có 7 trường hợp không
cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn
liền với đất.
Hạn mức nhận chuyển quyền sử dụng đất nông nghiệp
Hạn mức nhận chuyển quyền sử dụng đất trồng cây hàng năm, đất trồng cây
lâu năm, đất rừng sản xuất là rừng trồng, đất nuôi trồng thuỷ sản và đất làm muối
của mỗi hộ gia đình, cá nhân để sử dụng vào mục đích nông nghiệp được áp dụng
đối với các hình thức nhận chuyển nhượng, nhận tặng cho quyền sử dụng đất, xử lý
nợ theo thoả thuận trong hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất.
Với đất trồng cây lâu năm, không quá 100 héc ta đối với các xã, phường, thị
trấn ở đồng bằng; không quá 300 héc ta đối với các xã, phường, thị trấn ở trung du,
miền núi.
Còn với đất rừng sản xuất là rừng trồng, không quá 150 héc ta đối với các xã,
phường, thị trấn ở đồng bằng; không quá 300 héc ta đối với các xã, phường, thị trấn
ở trung du, miền núi.

17


Trường hợp hộ gia đình, cá nhân nhận chuyển quyền sử dụng đất nông

nghiệp trên địa bàn nhiều tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thì tổng diện tích
được nhận chuyển quyền trong hạn mức đối với mỗi loại đất (đất trồng cây hàng
năm, đất trồng cây lâu năm, đất rừng sản xuất là rừng trồng, đất nuôi trồng thuỷ sản
và đất làm muối) bằng hạn mức nhận chuyển quyền sử dụng đất tại tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương có hạn mức nhận chuyển quyền sử dụng đất cao nhất.
Trường hợp hộ gia đình, cá nhân nhận chuyển quyền sử dụng đất nông
nghiệp bao gồm nhiều loại đất (đất trồng cây hàng năm, đất trồng cây lâu năm, đất
rừng sản xuất là rừng trồng, đất nuôi trồng thuỷ sản và đất làm muối) thì hạn mức
nhận chuyển quyền sử dụng đất nông nghiệp của hộ gia đình, cá nhân đó được xác
định theo từng loại đất quy định nêu trên.
Hộ gia đình, cá nhân đã sử dụng đất nông nghiệp vượt hạn mức nhận chuyển
quyền quy định mà đã đăng ký chuyển quyền sử dụng đất từ ngày 1/7/2007 đến
trước ngày 1/7/2014 thì hộ gia đình, cá nhân được tiếp tục sử dụng đất và chỉ phải
chuyển sang thuê đất của Nhà nước đối với phần diện tích vượt hạn mức nhận
chuyển quyền.
1.2.4. Quản lý tài chính đối với rừng sản xuất
Thu ngân sách nhà nước từ rừng sản xuất
Ngân sách Nhà nước (NSNN) được xem là khâu chủ đạo của hệ thống tài
chính thể hiện những quan hệ tài chính giữa Nhà nước với các chủ thể trong xã hội
và gắn liền với việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước như điều tiết
kinh tế vĩ mô, ổn định trật tự xã hội và các hoạt động an sinh xã hội khác. Thu ngân
sách Nhà nước là một hình thức phân phối nguồn tài chính quốc gia giữa Nhà nước
với chủ thể trong xã hội dựa trên quyền lực Nhà nước nhằm giải quyết hài hòa các
mối quan hệ về lợi ích kinh tế. Sự phân phối này là một tất yếu khách quan xuất
phát từ yêu cầu tồn tại và phát triển của bộ máy Nhà nước cũng như yêu cầu thực
hiện các chức năng của bộ máy Nhà nước. Thu ngân sách nhà nước gắn chặt với
thực trạng kinh tế và sự vận động của các phạm trù giá trị khác nhau như giá cả, thu
nhập, lãi suất,… trong đó, chỉ tiêu quan trọng biểu hiện thực trạng của nền kinh tế
có ảnh hưởng đến quy mô và mức độ động viên của thu ngân sách Nhà nước là tổng


18


sản phẩm quốc nội. Sự vận động của các phạm trù giá trị này vừa tác động đến sự
tăng giảm mức thu, vừa đặt ra yêu cầu nâng cao tác dụng điều tiết các công cụ thu
ngân sách Nhà nước.
Vai trò của các nguyên nhiên liệu có nguồn gốc từ tài nguyên thiên nhiên rất
quan trọng đối với cuộc sống của mỗi con người, của từng địa phương và quốc gia,
là lực đẩy và đóng góp lớn vào tăng trưởng, sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo công
ăn việc làm, định vị và củng cố nền kinh tế của đất nước trong mối quan hệ của khu
vực và quốc tế. Tổ chức bộ máy gọn nhẹ đạt hiệu quả cao, chống được thất thu do
chốn lậu thuế sẽ là nhân tố tích cực làm giảm tỉ suất thu mà vẫn thỏa mãn được nhu
cầu chi của NSNN. Thu NSNN đang đứng trước vấn đề thâm hụt trầm trọng, nhiều
yếu tố giảm thu NSNN đang xuất hiện làm cho khả năng mất cân đối thu chi NSNN
cả năm trở thành thách thức lớn nhất đối với nền kinh tế. Chính sách tài khóa của
Việt Nam chưa thực sự nuôi dưỡng nguồn thu một cách hợp lí. Việt Nam mới xây
dựng chính sách thu nhưng làm thế nào để có nguồn thu thì chính sách chưa đề cập
đến một cách thỏa đáng nên nguồn thu giảm sụt cũng có phần do chính sách tài
khóa tạo ra.
Nguồn thu từ dịch vụ môi trường
Tổng cục Lâm nghiệp, Quỹ Bảo vệ và Phát triển rừng Việt Nam phối hợp
các đơn vị triển khai rà soát, nghiên cứu, thí điểm nhằm thể chế hóa đưa vào Nghị
định quy định đối tượng phải chi trả, mức chi trả, phương thức chi trả dịch… đối
với các cơ sở sản xuất công nghiệp và các cơ sở nuôi trồng thủy sản.
Dự kiến, khi triển khai chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng đối với
các cơ sở sản xuất công nghiệp và cơ sở nuôi trồng thủy sản, tổng thu tiền dịch vụ
môi trường rừng trên toàn quốc hàng năm sẽ thêm trên 65 tỷ đồng. Nguồn thu này
sẽ góp phần nâng cao giá trị sản xuất của ngành lâm nghiệp, gia tăng đóng góp của
ngành lâm nghiệp trong nền kinh tế quốc dân, tạo ra động lực phát triển bền vững
cho các chủ rừng.

Khi triển khai toàn quốc, với mức chi trả 50 đồng/m3, dự kiến tiền thu được
từ cơ sở sản xuất công nghiệp là trên 63,7 tỷ đồng/năm, chiếm khoảng 3.6% tổng
thu tiền dịch vụ môi trường rừng của cả nước. Như vậy, đề xuất quy định mức chi

19


×