Tải bản đầy đủ (.doc) (94 trang)

HOẠT ĐỘNG THU HÚT ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI VÀO TỈNH BẮC NINH GIAI ĐOẠN 1997 ĐẾN NAY THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.31 MB, 94 trang )

MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU

3

CHƯƠNG 1

6

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM THỰC TIỄN THU HÚT ĐẦU TƯ TRỰC
TIẾP NƯỚC NGOÀI
6
1.1. Khái niệm đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI).........................................................6
1.2. Các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)...................................................8
1.3. Vai trò của FDI đối với các nền kinh tế đang phát triển.......................................11
1.3.1.Tác động tích cực của FDI

12

1.3.2. Tác động tiêu cực của FDI

16

1.4. Những yếu tố tác động đối với việc thu hút FDI...................................................18
1.5. Kinh nghiệm thu hút FDI của một số địa phương ở Việt Nam..............................20
1.5.1. Thu hút FDI của Thành phố Hồ Chí Minh và thành phố Hà Nội

20

1.5.2. Một số kinh nghiệm thực tiễn về thu hút FDI


30

CHƯƠNG 2

32

THỰC TRẠNG THU HÚT ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI VÀO TỈNH
BẮC NINH GIAI ĐOẠN 1997- NAY
32
2.1. Khái quát điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của tỉnh Bắc Ninh..........................32
2.2. Chủ trương, chính sách của Nhà nước và tỉnh Bắc Ninh về thu hút FDI..............35
2.2.1. Chủ trương, chính sách của Nhà nước về thu hút FDI

35

2.2.2. Chủ trương, chính sách của Bắc Ninh về thu hút FDI

44

2.2.2.1. Cải cách thủ tục hành chính, cải thiện môi trường đầu tư

46

2.2.2.2. Đẩy mạnh xúc tiến đầu tư

48

2.2.2.3. Xây dựng và nâng cấp cơ sở hạ tầng

49


2.2.2.4. Hỗ trợ doanh nghiệp

51

2.3. Kết quả thu hút FDI vào tỉnh Bắc Ninh (Thời kỳ 1997-2008)...............................52
2.3.1. Vốn đầu tư FDI

52

2.3.2. Lĩnh vực đầu tư FDI

54

2.3.3. Các hình thức đầu tư FDI

54

2.3.4. FDI phân theo quốc gia và vùng lãnh thổ

55

2.3.5. Quy mô vốn đầu tư

56

2.4. Tác động của FDI đối với phát triển kinh tế-xã hội tỉnh Bắc Ninh.......................56
1



2.4.1. Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế

56

2.4.2. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế

56

2.4.3. Thúc đẩy xuất khẩu

59

2.4.4. Tạo việc làm, tăng thu nhập và nâng cao kỹ năng chuyên môn cho người
lao động
60
2.4.5. Đóng góp vào nguồn thu ngân sách nhà nước

61

2.4.6. Thúc đẩy đầu tư xây dựng các khu công nghiệp tập trung

63

2.5. Một số hạn chế trong hoạt động thu hút FDI của tỉnh Bắc Ninh..........................65
2.5.1. Hạn chế

65

2.5.2. Nguyên nhân của những hạn chế


67

CHƯƠNG 3

70

ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP THU HÚT ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC
NGOÀI VÀO TỈNH BẮC NINH GIAI ĐOẠN 2008-2015

70

3.1. Quan điểm, mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội tỉnh Bắc Ninh đến năm 2015........72
3.2. Định hướng thu hút FDI vào tỉnh Bắc Ninh..........................................................75
3.2.1. Định hướng cơ cấu vốn

75

3.2.2. Định hướng ngành.

76

3.2.3. Định hướng địa bàn đầu tư.

78

3.2.4. Định hướng đối tác.

78

3.2.5. Phát triển các Khu, Cụm công nghiệp


81

3.3. Mục tiêu thu hút FDI.............................................................................................81
3.4. Giải pháp thu hút FDI...........................................................................................82
3.4.1. Tạo lập môi trường kinh doanh ổn định, cải thiện môi trường đầu tư, đa
dạng hoá các hình thức thu hút đầu tư.
82
3.4.2. Xây dựng quy hoạch tổng thể thu hút FDI

83

3.4.3. Tích cực đổi mới công tác vận động xúc tiến đầu tư

85

3.4.4. Tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính

87

3.4.5. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực địa phương

88

3.4.6. Cải tạo, nâng cấp cơ sở hạ tầng

89

KẾT LUẬN


90

TÀI LIỆU THAM KHẢO

92

2


LỜI MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Trong thời kỳ đổi mới, mở cửa, thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
được coi là một trong những biện pháp khai thác ngoại lực nhằm thúc đẩy nội lực để
phát triển kinh tế-xã hội. FDI là một bộ phận quan trọng trong chính sách kinh tế đối
ngoại của Đảng và Nhà nước Việt Nam. Mở rộng và nâng cao hiệu quả hoạt động
thu hút vốn FDI là nhiệm vụ có tính lâu dài, gắn liền với công cuộc công nghiệp hoá
- hiện đại hoá đất nước.
Sau khi Việt Nam gia nhập WTO, hoạt động đầu tư nước ngoài diễn ra trong
bối cảnh tình hình trong nước và quốc tế có những yếu tố thuận lợi mới tác động tích
cực đến việc thu hút và triển khai dự án nguồn vốn FDI, đồng thời cũng đã xuất hiện
một số khó khăn, thách thức cần được tháo gỡ nhằm tạo đà tăng trưởng trong các
năm tới.
Kể từ khi tái lập tỉnh Bắc Ninh (01/01/1997), hoạt động đầu tư trực tiếp nước
ngoài (FDI) của Bắc Ninh đã đạt được nhiều kết quả quan trọng, góp phần tích cực
vào việc thực hiện thắng lợi những mục tiêu kinh tế - xã hội của tỉnh. Tuy nhiên, hoạt
động đầu tư trực tiếp nước ngoài những năm qua còn bộc lộ những mặt hạn chế. Đó
là: Nhận thức và quan điểm về đầu tư trực tiếp nước ngoài chưa được quán triệt đầy
đủ ở các cấp, các ngành; cơ cấu đầu tư trực tiếp nước ngoài có mặt còn bất hợp lý;
hiệu quả tổng thể về kinh tế - xã hội của hoạt động FDI còn chưa cao; môi trường
đầu tư chưa thực sự hấp dẫn; công tác cán bộ, công tác quản lý nhà nước về FDI còn

những bất cập; thủ tục hành chính chưa thực sự thông thoáng.
Nhằm tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư, củng cố niềm tin của các nhà đầu
tư nước ngoài, tạo điều kiện để thành phần kinh tế này phát triển, đóng góp nhiều
hơn vào sự nghiệp phát triển kinh tế-xã hội của tỉnh; xuất phát từ thực tiễn của địa
phương, học viên lựa chọn đề tài “ HOẠT ĐỘNG THU HÚT ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP
NƯỚC NGOÀI VÀO TỈNH BẮC NINH GIAI ĐOẠN 1997 ĐẾN NAY- THỰC TRẠNG VÀ
GIẢI PHÁP” làm nội dung nghiên cứu.

3


2. Mục đích nghiên cứu:
Trên cơ sở thực trạng thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào tỉnh Bắc
Ninh những năm qua, đánh giá tiềm năng, lợi thế so sánh của tỉnh và môi trường đầu
tư kinh doanh của nước ta tiếp tục được cải thiện; ngoài việc triển khai Luật Đầu tư,
Luật Doanh nghiệp cùng các Nghị định hướng dẫn được ban hành đã tạo môi trường
pháp lý thuận lợi hơn cho hoạt động đầu tư. Việc thực hiện Chương trình hành động
sáng kiến chung Việt Nam - Nhật Bản, Chương trình kết nối hai nền kinh tế Việt
Nam – Singapore, Hợp tác phát triển “hai hành lang một vành đai kinh tê” Việt Nam
– Trung Quốc đã góp phần làm cho môi trường đầu tư nước ta trở lên thông thoáng
và hấp dẫn hơn. Dòng vốn đầu tư nước ngoài tiếp tục có xu hướng chuyển mạnh
sang các nước đang phát triển, nhất là các nền kinh tế mới nổi, có tốc độ tăng trưởng
cao, có lợi thế về lao động và chính sách đầu tư thông thoáng, trong đó có Việt Nam.
Phân tích thực trạng và các nhân tố ảnh hưởng đến thu hút đầu tư trực tiếp nước
ngoài qua các giai đoạn, Luận văn đề xuất một số giải pháp nhằm đẩy mạnh hoạt
động thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào tỉnh Bắc Ninh.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
+ Đối tượng nghiên cứu: đầu tư trực tiếp nước ngoài vào tỉnh Bắc Ninh.
+ Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu toàn bộ tình hình, thực trạng thu hút đầu
tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào tỉnh Bắc Ninh từ khi tái lập tỉnh (1997) đến nay.

4. Phương pháp nghiên cứu:
Kết hợp giữa phương pháp lịch sử và phương pháp logic; tổng hợp nghiên
cứu, sử dụng tài liệu, số liệu báo cáo và sử dụng phương pháp thống kê, tổng
hợp, tính toán các chỉ tiêu phân tích thực tế rồi cuối cùng đưa ra các giải pháp.
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài:
- Luận văn hệ thống hóa và làm rõ thêm một số vấn đề lý luận về đầu tư
trực tiếp nước ngoài (FDI) và kinh nghiệm thu hút FDI của một số địa phương ở
Việt Nam.
4


- Phân tích thực trạng thu hút vốn FDI và tác động của FDI đối với sự
phát triển kinh tế - xã hội của Bắc Ninh trong thời kỳ từ năm 1997 đến nay.
- Nghiên cứu định hướng và giải pháp nhằm tăng cường thu hút hơn nữa
nguồn vốn FDI vào Bắc Ninh trong những năm tới.
6. Kết cấu của Luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, mục lục và tài liệu tham khảo, Luận văn
bao gồm 3 chương:
Chương I: Cơ sở lý luận và kinh nghiệm thực tiễn thu hút đầu tư trực tiếp
nước ngoài
Chương II: Thực trạng thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào tỉnh
Bắc Ninh giai đoạn 1997-nay
Chương III: Định hướng và giải pháp thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài
vào tỉnh Bắc Ninh giai đoạn 2008-2015

5


CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM THỰC TIỄN THU HÚT ĐẦU TƯ

TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI
1.1. Khái niệm đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
Đầu tư nước ngoài nói chung là hoạt động di chuyển vốn từ nước này sang
nước khác nhằm thực hiện những mục đích nhất định. Vốn đầu tư nước ngoài được
thể hiện dưới dạng tiền mặt, vật thể hữu hình, các giá trị vô hình hoặc các phương
tiện đầu tư khác như trái phiếu, cổ phiếu, các chứng khoán cổ phần khác. Người bỏ
vốn đầu tư gọi là nhà đầu tư hay chủ đầu tư. Nhà đầu tư có thể là một cá nhân, một
doanh nghiệp, hay một tổ chức trong đó kể cả Nhà nước.
Có hai hình thức đầu tư nước ngoài chủ yếu là đầu tư trực tiếp và đầu tư gián
tiếp. Trong đó, đầu tư trực tiếp của nước ngoài là hình thức phổ biến và quan trọng.
Có nhiều định nghĩa khác nhau về đầu tư trực tiếp nước ngoài. Có nhiều ý
kiến cho rằng, đầu tư trực tiếp của nước ngoài (FDI – Foreign Direct Investment) là
việc các công ty đa quốc gia tiến hành đầu tư ở nước sở tại thông qua việc thiết lập
liên doanh với các công ty của nước sở tại, mua các công ty của nước sở tại, và có
thể thông qua việc thiết lập chi nhánh của mình tại nước sở tại.
Tại Việt Nam, khái niệm đầu tư trực tiếp nước ngoài hiểu theo quy định của
Luật Đầu tư như sau: “Đầu tư trực tiếp nước ngoài là việc nhà đầu tư nước ngoài
đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền hoặc bất kỳ tài sản nào để tiến hành hoạt động đầu
tư theo quy định của Luật Đầu tư tại Việt Nam”.
Như vậy, có thể hiểu khái quát về đầu tư trực tiếp nước ngoài như sau: đầu tư
trực tiếp nước ngoài là sự di chuyển vốn quốc tế dưới hình thức vốn sản xuất thông
qua việc nhà đầu tư ở một nước đưa vốn vào một nước khác để đầu tư, đồng thời
trực tiếp tham gia quản lý, điều hành, tổ chức sản xuất, tận dụng ưu thế về vốn, trình
độ công nghệ, kinh nghiệm quản lý… nhằm mục đích thu lợi nhuận.
Với cách hiểu khái niệm FDI như trên ta có thể thấy các hoạt động FDI có
những đặc điểm sau:

6



Thứ nhất, về vốn góp: Các chủ đầu tư góp một lượng vốn tối thiểu tuỳ theo
quy định của mỗi nước nhận đầu tư để họ có quyền trực tiếp tham gia điều phối,
quản lý quá trình sản xuất kinh doanh. Ở Việt Nam, Luật Đầu tư cũng đã đưa ra điều
kiện “phần vốn góp của bên nước ngoài hoặc các bên nước ngoài vào vốn pháp
định của doanh nghiệp liên doanh không bị hạn chế về mức cao nhất theo sự thoả
thuận của các bên, nhưng không dưới 30% vốn pháp định, trừ những trường hợp do
Chính phủ quy định”.
Thứ hai, về quyền điều hành, quản lý doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
phụ thuộc vào mức vốn góp. Nếu nhà đầu tư nước ngoài đầu tư 100% vốn thì quyền
điều hành hoàn toàn thuộc về nhà đầu tư nước ngoài, có thể trực tiếp hoặc thuê người
quản lý.
Thứ ba, về phần chia lợi nhuận: dựa trên kết quả sản xuất kinh doanh, lãi lỗ,
phân chia theo tỷ lệ vốn góp trong vốn pháp định sau khi đã trừ các khoản đóng góp
với nước chủ nhà và các khoản nợ khác.
Có thể nói, hoạt động FDI là một tất yếu khách quan đối với cả phía nhà đầu
tư cũng như đối với phía tiếp nhận đầu tư. Các nhà đầu tư, mà chủ yếu là các công ty
đa quốc gia thuộc các nước phát triển hoặc các nền kinh tế mới nổi, do yêu cầu mở
rộng kinh doanh và nâng cao khả năng cạnh tranh, do sự chi phối của quy luật lợi
nhuận và tỷ suất lợi nhuận giảm dần, nhằm tận dụng các lợi thế vốn có của mình,
đang phải vươn tầm hoạt động ra khắp thế giới. Họ trở thành nguồn cung cấp vốn
chính cho nền kinh tế thế giới. Về phía các nước đang phát triển, do thu nhập thấp
nên khả năng tiêu dùng cũng như tích luỹ còn ở mức thấp. Phần lớn thu nhập được
dùng để đảm bảo tiêu dùng ở mức tối thiểu cần thiết, do đó phần dành cho tiết kiệm
rất nhỏ. Nói cách khác, tỷ lệ tiết kiệm trên GDP khá thấp, trong khi đó lại cần một
khoảng đầu tư tương đối lớn để phát triển kinh tế. Mặt khác, ở các nước này do công
nghiệp chưa phát triển nên hàng xuất khẩu chủ yếu là nguyên liệu sơ chế hoặc những
mặt hàng có giá trị gia tăng thấp. Trong khi hàng nhập khẩu chủ yếu là máy móc
thiết bị có giá trị gia tăng cao. Vì thế, cán cân thương mại có tình trạng nhập siêu lớn,
7



gây thiếu hụt ngoại tệ trầm trọng. Vì vậy, việc du nhập tư bản từ nước ngoài là một
tất yếu khách quan.
1.2. Các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
Hình thức doanh nghiệp liên doanh: Đây là hình thức đầu tư trực tiếp nước
ngoài, qua đó pháp nhân mới được thành lập gọi là doanh nghiệp liên doanh. Doanh
nghiệp mới này do hai hoặc nhiều bên hợp tác thành lập tại nước chủ nhà trên cơ sở
hợp đồng liên doanh. Hình thức này có các đặc trưng: pháp nhân mới được thành lập
theo hình thức công ty, có tư cách pháp nhân theo pháp luật của nước chủ nhà. Mỗi
bên tham gia vào doanh nghiệp liên doanh là một pháp nhân riêng. Nhưng doanh
nghiệp liên doanh là một pháp nhân độc lập với các bên tham gia. Khi các bên đã
đóng góp đủ số vốn đã quy định vào liên doanh thì dù một bên có phá sản, doanh
nghiệp liên doanh vẫn tồn tại. Mỗi bên liên doanh chịu trách nhiệm với bên kia, với
doanh nghiệp liên doanh trong phạm vi phần vốn góp của mình vào vốn pháp định.
Doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài: đây là doanh nghiệp thuộc
quyền sở hữu của tổ chức hoặc cá nhân nước ngoài, được hình thành bằng toàn bộ
vốn nước ngoài và do tổ chức hoặc cá nhân nước ngoài thành lập, tự quản lý điều
hành và hoàn toàn chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh. Doanh nghiệp này được
thành lập dưới dạng các công ty trách nhiệm hữu hạn, là pháp nhân Việt Nam và chịu
sự điều chỉnh của Luật Đầu tư và Luật Doanh nghiệp Việt Nam.
Hình thức hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hợp tác kinh doanh: đây là
hình thức đầu tư trực tiếp trong đó hợp đồng hợp tác kinh doanh được ký kết giữa hai
hay nhiều bên (gọi là các bên hợp tác kinh doanh) để tiến hành một hoặc nhiều hoạt
động kinh doanh ở nước nhận đầu tư trong đó quy định trách nhiệm và phân chia kết
quả kinh doanh cho mỗi bên tham gia mà không cần thành lập pháp nhân mới. Hình
thức này không làm hình thành một công ty hay một xí nghiệp mới. Một bên vẫn
hoạt động với tư cách pháp nhân độc lập của mình và thực hiện các nghĩa vụ của
mình trước nhà nước.

8



Ngoài ba hình thức cơ bản trên, theo nhu cầu đầu tư về hạ tầng, các công trình
xây dựng còn có hình thức:
Hợp đồng xây dựng – kinh doanh - chuyển giao (BOT): là một phương thức
đầu tư trực tiếp được thực hiện trên cơ sở văn bản được ký kết giữa nhà đầu tư nước
ngoài (có thể là tổ chức, cá nhân nước ngoài) với cơ quan nhà nước có thẩm quyền
để xây dựng kinh doanh công trình kết cấu hạ tầng trong một thời gian nhất định, hết
thời hạn nhà đầu tư nước ngoài chuyển giao không bồi hoàn công trình đó cho nước
chủ nhà. Hình thức BOT thường được thực hiện bằng 100% vốn nước ngoài, cũng
có thể được thực hiện bằng vốn nước ngoài và phần vốn góp của chính phủ hoặc các
tổ chức, cá nhân của nước chủ nhà. Nhà đầu tư nước ngoài có toàn quyền tổ chức
xây dựng, kinh doanh công trình trong một thời gian đủ thu hồi vốn đầu tư và có lợi
nhuận hợp lý, sau đó có nghĩa vụ chuyển giao cho nước chủ nhà mà không được bồi
hoàn bất kỳ khoản tiền nào.
Hợp đồng xây dựng - chuyển giao – kinh doanh (BTO): Là hình thức đầu tư
dựa trên văn bản ký kết giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền của nước chủ nhà và
nhà đầu tư nước ngoài để xây dựng, kinh doanh công trình kết cấu hạ tầng. Sau khi
xây dựng xong, nhà đầu tư nước ngoài chuyển giao công trình cho nước chủ nhà.
Nước chủ nhà có thể sẽ dành cho nhà đầu tư quyền kinh doanh công trình đó trong
một thời hạn nhất định để thu hồi vốn đầu tư và lợi nhuận hợp lý.
Hợp đồng xây dựng - chuyển giao: là một phương thức đầu tư nước ngoài
trên cơ sở văn bản ký kết giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền của nước chủ nhà và
nhà đầu tư nước ngoài để xây dựng công trình kết cấu hạ tầng. Sau khi xây dựng
xong, nhà đầu tư nước ngoài chuyển giao công trình đó cho nước chủ nhà. Chính
phủ nước chủ nhà tạo điều kiện cho nhà đầu tư nước ngoài thực hiện dự án khác để
thu hồi vốn đầu tư và lợi nhuận hợp lý.
Ngoài các hình thức kể trên, một số nước, nhằm đa dạng hoá và tạo thuận lợi
cho việc thu hút vốn đầu tư còn áp dụng một số hình thức FDI khác như thành lập
công ty quản lý vốn, đa mục tiêu, đa dự án (Holding Company), thành lập văn phòng

9


đại diện hoặc chi nhánh công ty nước ngoài tại nước chủ nhà. Có thể nói, mỗi hình
thức đầu tư đều có những hấp dẫn riêng đối với các nhà đầu tư. Vì thế, việc đa dạng
hoá các hình thức đầu tư sẽ góp phần đáng kể vào việc tăng cường khả năng thu hút
FDI cả về số lượng cũng như chất lượng.
Bảng 1: Cơ cấu FDI vào các nước đang phát triển (%)
Khu vực

1975

1985

1990

1994

1996

1997

1. Trung đông&Bắc Phi
2. Châu Á & Trung Á
3. Đông, Nam & Đ.Nam Á
4. Châu Phi (cận Sahara)
5. Mỹ - Latinh& Caribê
Tổng cộng

23

2
16
15
44
100

17
5
30
8
40
100

11
8
47
3
31
100

5
10
56
4
26
100

4
9
57

3
27
100

2
11
53
2
32
100

Nguồn: (1975-1994): World Bank, (1996-1997) World Investment Report, 1998 FDI phục vụ CNH ở Malaixia,
NXB Thế giới, 2000.

Bảng 2: Chuyển giao công nghệ cho các nước đang phát triển.
Đơn vị: hạng mục
Hạng mục công nghệ
1. Tiến bộ công nghệ
2. Sản phẩm công nghệ
3. Công nghệ thiết kế và xây dựng
4. Công nghệ kiểm tra chất lượng
5. Công nghệ quản lý
6. Công nghệ Marketing

Tổng cộng

Đông

Mỹ -


Các nước

Nam Á

Latinh

khác

135
150
87
135
110
63
680

154
158
111
105
75
57
660

141
152
96
131
101
65

686

Tổng cộng

430
460
294
371
286
185
2.026

Nguồn: Small and medium-Size Transational Corporations, UN 1993
Các nền kinh tế Châu Á, nhất là khu vực Đông Nam Á được coi là phát triển
năng động, đồng thời cũng là khu vực thu hút nhiều vốn FDI nhất trong thời gian gần
đây do có nhiều điểm hấp dẫn đối với các nhà đầu tư như giá nhân công rẻ, tài
nguyên thiên nhiên phong phú, môi trường đầu tư hấp dẫn.
Năm 1997, dòng vốn FDI vào các nước đang phát triển Châu Á đã đạt 86 tỷ
USD, tăng 1% so với năm 1996, chiếm khoảng trên 50% tổng FDI của các nước
đang phát triển và xếp vị trí thứ hai trong số các nước nhận FDI nhiều nhất trên thế
10


giới. Từ năm 1992, Trung Quốc nổi lên là một trong số các nước thu hút FDI lớn
nhất và đã làm đảo chiểu về tỷ trọng đầu tư nước ngoài trong khu vực. Đầu năm
1990, hơn 70% đầu tư nước ngoài ở khu vực châu Á là đầu tư vào các nước Đông
Nam Á, Trung Quốc chỉ nhận dưới 30% thì hiện nay Trung Quốc chiếm tới 35%
tổng vốn đầu tư vào khu vực.
Do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ châu Á, vốn FDI thực
hiện ở các nước khu vực này đã bị giảm từ năm 1997, đến nay đang có những cải

thiện nhưng nhìn chung còn thấp, nguyên nhân là cải cách tài chính của khu vực diễn
ra chậm. Bên cạnh đó, tình hình chính trị một số nước chưa được ổn định như
Indonexia, Philipin.
1.3. Vai trò của FDI đối với các nền kinh tế đang phát triển
Để có một đánh giá đầy đủ về vai trò của FDI, cần nhìn nhận vấn đề từ cả
giác độ của nhà đầu tư lẫn giác độ của người tiếp nhận đầu tư. Các nhà đầu tư
không phải là những nhà từ thiện, họ chỉ tiến hành đầu tư ở những đâu mà họ đạt
được những lợi ích nhất định của mình, mà mục đích cuối cùng của các công ty
đa quốc gia là không ngừng nâng cao giá trị tài sản và sự giàu có của các cổ
đông. Nhưng biểu hiện của những lợi ích này trong mỗi dự án, ở mỗi quốc gia,
trong mỗi thời kỳ nhất định là khá phức tạp và nó phụ thuộc rất nhiều vào chính
sách và thái độ của nước chủ nhà.
Mặc dù đánh giá về ảnh hưởng của FDI đối với các nền kinh tế đang phát
triển còn nhiều ý kiến khác nhau, nhưng cũng không thể phủ nhận được tác dụng
tích cực của FDI. Ở Việt Nam, FDI thực tế đã trở thành một bộ phận của nền
kinh tế quốc dân. Đại hội đại biểu lần thứ IX của Đảng ta đã khẳng định: “ kinh
tế có vốn đầu tư nước ngoài là một trong sáu thành phần kinh tế của cơ cấu kinh
tế nước ta”. Đó là một minh chứng khẳng định vai trò quan trọng của FDI đối với sự
phát triển nền kinh tế- xã hội Việt Nam.
1.3.1.Tác động tích cực của FDI

11


Thứ nhất, FDI bổ sung nguồn vốn đầu tư, thúc đẩy phát triển kinh tế, cải
thiện cán cân thanh toán của quốc gia.
Với bất kỳ quốc gia nào muốn phát triển đều cần vốn đầu tư, không có
đầu tư không thể phát triển và tăng trưởng kinh tế. Để có nguồn vốn đầu tư, các
quốc gia đều dựa vào hai nguồn: vốn tích luỹ trong nước và vốn nước ngoài.
Thu hút FDI là dùng vốn nước ngoài đầu tư vào sản xuất kinh doanh của nước

chủ nhà, bởi vậy nó có ý nghĩa tạo vốn cho nền kinh tế quốc dân. Nó không chỉ
dừng ở đồng vốn trực tiếp được đưa vào, mà nguồn vốn FDI này còn khơi dậy,
sử dụng các nguồn lực trong nước cùng vận hành như đất đai, tài nguyên, vốn
của các doanh nghiệp trong nước trực tiếp tham gia đầu tư. FDI kéo theo hoạt
động các doanh nghiệp trong nước như xây dựng, vận tải, cung ứng, dịch vụ.
Cán cân thanh toán có vai trò quan trọng đối với phát triển kinh tế của
nước đang phát triển, là một chỉ tiêu mà các nhà hoạch định chính sách luôn
theo dõi chặt chẽ. Đối với những nước đang phát triển, trong quá trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá thì việc thâm hụt cán cân thanh toán là không đáng báo
động, bởi vì những nước này đang có thay đổi lớn về cấu trúc của ngành công
nghiệp thông qua nhập khẩu những thiết bị, dây chuyền công nghệ, nên dẫn đến
nhập khẩu nhiều hơn xuất khẩu.
Hoạt động đầu tư nước ngoài với tính chất là nguồn vốn đầu tư ổn định đã
góp phần quan trọng duy trì, cải thiện cán cân thanh toán thông qua hoạt động
xuất khẩu và thay thế nhập khẩu. Xuất khẩu được đẩy mạnh sẽ mang lại nguồn
thu ngoại tệ cho nước tiếp nhận đầu tư, đồng thời các doanh nghiệp nước ngoài
đầu tư vào sản xuất những mặt hàng mà nước tiếp nhận đầu tư trước đây chưa có
khả năng sản xuất đã giúp cho nước này không phải nhập khẩu những hàng hóa
đó, giảm lượng ngoại tệ phải thanh toán và dẫn đến cải thiện cán cân thanh toán.
Thứ hai, FDI góp phần tạo việc làm, tăng thu nhập và đào tạo nguồn
nhân lực.

12


FDI có vai trò quan trọng trong việc nâng cao năng lực quản lý, trình độ
công nghệ, tạo thêm việc làm và thu nhập cho người lao động. Nhờ FDI, có thể
tiếp cận, học hỏi, đúc kết được nhiều kinh nghiệm quản lý kinh tế, quản lý
doanh nghiệp. Nhiều doanh nghiệp có vốn FDI đã tạo cho lao động Việt Nam có
điều kiện được đào tạo nâng cao tay nghề, tiếp cận với kỹ năng, công nghệ và

kinh nghiệm quản lý tiên tiến ngay tại doanh nghiệp hoặc gửi đi đào tạo ở nước
ngoài. Thu hút vốn FDI, đồng nghĩa với nó là giải quyết việc làm cho người lao
động. Thậm chí, đối với một số nước có dân số lớn, thu hút FDI được coi là giải
pháp cơ bản trong chiến lược giải quyết việc làm cho người lao động. Thông qua
làm việc trong các doanh nghiệp có vốn FDI, nhờ việc tiếp cận với máy móc,
thiết bị mới, công nghệ hiện đại mà người lao động có điều kiện nâng cao trình
độ chuyên môn, ngoại ngữ, kỷ luật lao động, phương thức sản xuất tiên tiến.
Theo số liệu thống kê của UNCTAD thì số lượng lao động làm việc trong
các công ty xuyên quốc gia xấp xỉ 17 triệu người vào năm 1998 và 26 triệu
người vào đầu năm 2000. Trong các ngành sản xuất công nghiệp, số lượng lao
động làm việc trong các doanh nghiệp FDI tại các nước đang phát triển chiếm tỷ
lệ phần trăm cao nhất trong tổng số lao động của các quốc gia này và con số này
liên tục tăng lên. Ngoài ra, FDI còn gián tiếp tạo việc làm thông qua việc hình
thành các doanh nghiệp vệ tinh cung cấp hàng hoá và dịch vụ cho các doanh
nghiệp FDI khác.
Thư ba, FDI góp phần nâng cao trình độ khoa học công nghệ
FDI có vai trò quan trọng trong việc nâng cao trình độ khoa học – công
nghệ. Để tăng sức cạnh tranh trên thị trường, nâng cao hiệu quả đầu tư, các nhà
đầu tư về nguyên tắc đều phải trang bị các loại máy móc thiết bị kỹ thuật, công
nghệ tiên tiến, phương pháp quản lý hiện đại. Kinh nghiệm của các nước công
nghiệp mới (NICs) cho thấy, đầu tư FDI là một trong những giải pháp nhanh
nhất để nâng cao trình độ kỹ thuật, công nghệ, quản lý, sớm tiếp cận với những
thành tựu khoa học mới trong hoạt động sản xuất kinh doanh.

13


Thư tư, FDI góp phần thúc đẩy xuất khẩu, mở rộng hợp tác quốc tế
Đầu tư trực tiếp nước ngoài góp phần phát triển kinh tế đối ngoại, mở
rộng thị trường xuất khẩu, tạo điều kiện thuận lợi chủ động hội nhập kinh tế

quốc tế.
Với các nước đang phát triển, việc thâm nhập và chiến lĩnh thị trường
quốc tế là một trong những việc cần thiết nhưng vô cùng khó khăn, do chưa có
kinh nghiệm trên thương trường quốc tế, sản phẩm chất lượng chưa tốt, bạn
hàng ít. Bởi vậy, để mở rộng thị trường, có thể thông qua nhà đầu tư nước ngoài
để tiêu thụ sản phẩm. Các nhà đầu tư tiến hành đầu tư ở các nước khác để tận
dụng những lợi thế so sánh về nguyên liệu, lao động để hạ giá thành sản phẩm,
tăng sức cạnh tranh trên thị trường. Việc hợp tác với các nhà đầu tư nước ngoài
có thể tận dụng những kinh nghiệm, uy tín của chính công ty đó để bán sản
phẩm, thâm nhập thị trường là một yêu cầu quan trọng và tất yếu đối với nước
mới mở cửa và hội nhập.
Quan hệ đầu tư quốc tế xuất hiện từ thế kỷ XVIII, thời kỳ này được coi là
quá trình hội nhập nông (sallow-integration) trong lĩnh vực đầu tư. Các nước
quan hệ đầu tư với nhau trên cơ sở tự nguyện, có lợi ích và chưa đặt ra cho nhau
các nghĩa vụ phải thực hiện. Hiện nay, quan điểm về hội nhập kinh tế quốc tế
trong phạm vi giữa các quốc gia, khu vực và trên toàn thế giới biểu hiện tự do
hoá trong bốn lĩnh vực: Thương mại hàng hoá, sở hữu trí tuệ, đầu tư và thương
mại dịch vụ.
Như vậy, đầu tư cũng là một trong bốn lĩnh vực được các quốc gia xem
xét tự do hoá. Đầu tư trực tiếp nước ngoài đóng vai trò quan trọng trong việc
gắn kết giữa các quốc gia thực hiện đầu tư và tiếp nhận đầu tư, làm cho quá trình
phân công lao động quốc tế diễn ra theo chiều sâu. Những cam kết về tự do hoá
đầu tư nước ngoài được coi như là những quan điểm về hội nhập kinh tế quốc tế
của từng quốc gia. Ngày nay, cùng với xu thế hội nhập kinh tế khu vực và thế

14


giới diễn ra theo chiều sâu và rộng, các nước đã có nhiều hình thức thực hiện các
cam kết nhằm tự do hoá lĩnh vực đầu tư gắn với tự do hoá thương mại.

Từ các phân tích trên cho thấy, hoạt động FDI, với tư cách là một bộ phận
cấu thành quan trọng của hoạt động kinh tế đối ngoại nói chung, đóng một vai
trò đáng kể trong quá trình phát triển kinh tế của các quốc gia. Đối với nước ta,
xuất phát từ yêu cầu của công cuộc công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước,
FDI sẽ là một bộ phận quan trọng của cơ cấu kinh tế quốc dân và đóng một vai
trò quan trọng trong tăng trưởng kinh tế. Chính vì vậy, tại Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ IX của Đảng ta đã chỉ rõ: “Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài là một
bộ phận của nền kinh tế Việt Nam, được khuyến khích phát triển, hướng mạnh
vào sản xuất, kinh doanh hàng hoá và dịch vụ xuất khẩu, hàng hoá và dịch vụ
có công nghệ cao, xây dựng kết cấu hạ tầng”. Nói cách khác, hoạt động FDI
ngày nay cần gắn chặt với chính sách chung của đất nước và có vai trò thúc đẩy
quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Cụ thể là, bên cạnh những mục tiêu thu hút vốn đầu tư phát triển, tạo việc làm,
tăng thu nhập, tăng giá trị xuất khẩu, hoạt động FDI còn hướng vào những mục
tiêu đổi mới kỹ thuật, công nghệ, lĩnh vực sản xuất các loại hàng hoá có hàm
lượng khoa học, công nghệ cao, đủ sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế.
Rõ ràng, tăng cường thu hút đầu tư và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn
FDI là một trong các giải pháp đưa nước ta ra khỏi nghèo nàn, lạc hậu, đạt tốc
độ tăng trưởng và phát triển kinh tế - xã hội cao, tạo đà cho sự phát triển ở các
giai đoạn tiếp theo.
Thứ năm, FDI góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế của nước tiếp nhận
đầu tư.
Cơ cấu kinh tế của một quốc gia là cấu trúc của nền kinh tế. Đứng trên
góc độ khác nhau người ta có thể chia thành cơ cấu ngành kinh tế, cơ cấu thành
phần kinh tế và cơ cấu vùng kinh tế. FDI có thể ảnh hưởng đến sự chuyển dịch
cơ cấu kinh tế của mỗi nước trên cả ba góc độ cơ cấu trên trong đó, cơ cấu

15



ngành đóng vai trò quan trọng quyết định hình thức của các loại cơ cấu kinh tế
khác. Do vậy, việc thay đổi cơ cấu ngành kinh tế sẽ làm thay đổi cơ cấu kinh tế
của một quốc gia. Đầu tư trực tiếp nước ngoài góp phần thay đổi cơ cấu ngành
kinh tế các nước tiếp nhận đầu tư, cụ thể như sau:
- Chuyển đổi từ ngành sản xuất nông nghiệp truyền thống sang sản xuất
công nghiệp và sau là sang ngành dịch vụ.
- Thay đổi cơ cấu bên trong một ngành sản xuất ngành công nghiệp
chuyển từ năng suất thấp, công nghệ lạc hậu nhiều lao động sang sản xuất có
năng suất cao, công nghệ hiện đại, sử dụng ít lao động.
- Thay đổi cơ cấu bên trong của mỗi lĩnh vực sản xuất thông qua quá trình
chuyển từ việc áp dụng công nghệ lạc hậu, giá trị hàng hoá và dịch vụ có hàm
lượng công nghệ thấp sang ngành sản xuất áp dụng công nghệ tiên tiến, giá trị
hàng hoá có hàm lượng khoa học công nghệ cao.
1.3.2. Tác động tiêu cực của FDI
Bên cạnh những mặt tích cực, FDI có thể gây ra những bất lợi cho nước tiếp
nhận, cần phải lưu ý.
Một là, việc sử dụng nhiều vốn đầu tư nước ngoài nói chung và FDI nói riêng
có thể dẫn đến việc thiếu chú trọng huy động và sử dụng tối đa vốn trong nước, gây
ra sự mất cân đối trong cơ cấu đầu tư (giữa vốn trong nước và vốn nước ngoài); có
thể gây nên sự phụ thuộc của nền kinh tế vào vốn nước ngoài, vào nhà đầu tư nước
ngoài (kể cả bí quyết kỹ thuật, công nghệ, đầu mối cung cấp vật tư, nguyên liệu, tiêu
thụ sản phẩm). Do đó, nếu tỷ trọng FDI chiếm quá lớn trong tổng vốn đầu tư phát
triển thì tính độc lập tự chủ bị ảnh hưởng, nền kinh tế phát triển có tính lệ thuộc bên
ngoài, thiếu vững chắc, nhất là khi dòng vốn FDI có sự biến động, giảm sút lớn.
Hai là, các nhà đầu tư nước ngoài thường sử dụng lợi thế của mình đối với
doanh nghiệp nước tiếp nhận trong trường hợp liên doanh để thực hiện biện pháp
“chuyển giá” thông qua cung ứng nguyên vật liệu, chi tiết, linh kiện, sản phẩm dở
dang với giá cao, thu lợi ngay từ khâu này làm cho giá sản phẩm cao một cách giả
16



tạo, giảm lợi nhuận, thậm chí “lỗ giả, lãi thật” gây thiệt hại cho người tiêu dùng và
giảm thu ngân sách của nước sở tại. Đôi khi, doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài
thực hiện chính sách cạnh tranh bằng con đường bán phá giá, chịu lỗ trong giai đoạn
đầu và các hình thức cạnh tranh không bình đẳng khác để loại trừ đối thủ cạnh tranh,
độc chiếm hoặc khống chế thị trường, lấn át các doanh nghiệp trong nước, làm cho
một ngành hoặc một số ngành sản xuất trong nước không phát triển được.
Ba là, Lợi dụng trình độ công nghệ thấp và quản lý yếu kém của nước chủ
nhà, một số nhà đầu tư nước ngoài thông qua con đường FDI để tiêu thụ những máy
móc, thiết bị lạc hậu, đã thải loại sang nước tiếp nhận FDI.
Bốn là, Thông qua sức mạnh hơn hẳn về tiềm lực tài chính, các doanh nghiệp
có vốn nước ngoài, các công ty xuyên quốc gia có khả năng gây ra một số ảnh hưởng
bất lợi về kinh tế - xã hội như làm tăng chênh lệch về thu nhập, làm gia tăng sự phân
hoá trong các tầng lớp nhân dân, tăng mức độ chênh lệch phát triển trong một số
vùng hoặc giữa các vùng. Nước chủ nhà khó chủ động trong việc điều phối, phân bổ
sử dụng nguồn vốn FDI vì về cơ bản quyết định đầu tư thuộc về nhà đầu tư.
Tuy nhiên, những mặt bất lợi của FDI gây ảnh hưởng như thế nào còn phụ
thuộc vào yếu tố chủ quan của nước chủ nhà như quan điểm, nhận thức, chiến lược,
thể chế, chính sách, công tác quản lý nhà nước đối với lĩnh vực này. Nếu có sự chuẩn
bị kỹ lưỡng, đầy đủ và có các biện pháp phù hợp, nước tiếp nhận FDI có thể hạn chế,
giảm thiểu được những tác động tiêu cực, bất lợi, xử lý hài hoà mối quan hệ giữa lợi
ích của nhà đầu tư nước ngoài và lợi ích quốc gia, tạo ra lợi ích tổng thể tích cực của
việc tiếp nhận FDI cho tiến trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước theo mục
tiêu, định hướng của mình.

1.4. Những yếu tố tác động đối với việc thu hút FDI
Trước hết, đó là sự ổn định của thể chế chính trị - xã hội ở quốc gia thu
hút vốn FDI. Đây là một trong những điều kiện quan trọng nhất đối với nhà đầu

17



tư. Bất cứ sự bất ổn nào của thể chế chính trị - xã hội đều có thể dẫn đến rủi ro
và tổn thất, thậm chí cả nguy cơ phá sản. Hiện nay, trên 70% dòng vốn FDI trên
thế giới được chuyển dịch giữa các nước tư bản phát triển, ngoài các yếu tố quan
trọng khác như những yếu tố về thị trường, sự ổn định về thể chế chính trị - xã
hội cũng là một nhân tố có sức hấp dẫn cao.
Thứ hai, sự ổn định và tính minh bạch của hệ thống chính sách kinh tế,
chính sách quản lý và các chính sách có liên quan. Một hệ thống chính sách ổn
định, rõ ràng sẽ giúp cho nhà đầu tư hoạch định chiến lược đầu tư và kinh doanh
dài hạn trên cơ sở luận cứ khoa học. Nếu hệ thống chính sách thường xuyên bị
điều chỉnh, không ổn định chắc chắn sẽ gây sự lo ngại cho nhà đầu tư, do họ
không thể dự báo được tương lai, do đó không hoạch định được kế hoạch, bước
đi cụ thể cả ngắn hạn cũng như dài hạn. Trong các hệ thống chính sách cần được
ổn định lâu dài và minh bạch thì những chính sách tài chính, thuế khoá, chính
sách thương mại quốc tế và những chính sách trực tiếp tác động đến khả năng
thu lợi nhuận của nhà đầu tư giữ vai trò quan trọng và quyết định đối với việc
thu hút vốn FDI.
Thứ ba, Về vị trí địa lý, tính phong phú, đa dạng của các nguồn lực tự
nhiên và các lợi thế của quốc gia muốn thu hút FDI, đặc biệt là đối với các nước
đang phát triển. Chính những quốc gia đang phát triển có nhiều tài nguyên, hoặc
có lợi thế về địa lý, dân số là những quốc gia thu hút được mạnh nhất dòng vốn
FDI. Bản chất tìm kiếm lợi nhuận của nhà đầu tư nước ngoài là khai thác được
các yếu tố đầu vào với giá rẻ.
Thứ tư, nguồn nhân lực dồi dào. Nguồn nhân lực ở đây không chỉ đơn
thuần hiểu về số lượng, mà các nhà đầu tư quan tâm đặc biệt tới nguồn nhân lực
có trình độ tay nghề cao, có ý thức kỷ luật lao động tốt, đặc biệt đối với những
ngành kinh tế có hàm lượng tri thức cao. Không phải ngẫu nhiên dòng vốn FDI
dịch chuyển chủ yếu giữa 3 trung tâm kinh tế phát triển nhất là Tây Âu, Nhật
Bản, Bắc Mỹ (chiếm 70%). Chỉ một số ngành công nghiệp hoặc chỉ một số công


18


đoạn cần nhiều nhân công lao động phổ thông là đặc biệt quan tâm đến các nước
đang phát triển có nguồn lao động phổ thông rẻ và dồi dào.
Thứ năm, Trình độ phát triển của nền kinh tế (điều kiện hạ tầng, chất
lượng cung cấp các dịch vụ) và đặc điểm phát triển của nền văn hoá xã hội được
coi là yếu tố quản lý vĩ mô. Sự thuận lợi hay không thuận lợi về ngôn ngữ, tôn
giáo, phong tục tập quán đều có thể trở thành sự khuyến khích hay kìm hãm việc
thu hút các nhà đầu tư nước ngoài.
Thứ sáu, môi trường pháp lý và nền hành chính quốc gia. Nếu có ổn định
chính trị - xã hội, tài nguyên phong phú, nhưng môi trường pháp lý không ổn
định, rõ ràng thì cũng làm cho các nhà đầu tư e ngại. Thủ tục hành chính rườm
rà làm cho các nhà đầu tư mất đi cơ hội kinh doanh. Do đó vấn đề hoàn thiện
môi trường pháp lý và cải cách hành chính luôn là yếu tố khuyến khích các nhà
đầu tư mạnh dạn bỏ vốn đầu tư.
Ngoài những nhân tố trên, xuất phát từ mục tiêu của các nhà đầu tư nước
ngoài là tìm kiếm lợi nhuận, do đó bất cứ nhân tố nào có tác dụng tăng khả năng thu
lợi nhuận từ hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài cũng sẽ được nhà đầu tư quan tâm
đó là:
Yếu tố lãi suất: Lãi suất càng cao thì lợi nhuận thu được từ hoạt động đầu tư
càng giảm, đương nhiên là sẽ không khuyến khích được các nhà đầu tư bỏ vốn đầu
tư vào sản xuất kinh doanh.
Chi phí sản xuất: bao gồm chi phí nguyên nhiên vật liệu, chi phí nhân công và
chi phí cho các dịch vụ hỗ trợ sản xuất của doanh nghiệp. Chi phí sản xuất càng cao
thì lợi nhuận càng thấp điều này không khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài.
Tỷ giá hối đoái: là yếu tố quan trọng trong việc thu hút FDI. Nếu đồng
tiền của nước sở tại tăng giá thì đồng nghĩa với chi phí đầu tư tăng lên và ngược
lại. Đây là yếu tố khá nhậy cảm trong việc thu hút FDI của mỗi quốc gia.

1.5. Kinh nghiệm thu hút FDI của một số địa phương ở Việt Nam

19


1.5.1. Thu hút FDI của Thành phố Hồ Chí Minh và thành phố Hà Nội
Thành phố Hồ Chí Minh
Thành phố Hồ Chí Minh do có những lợi thế về vị trí địa lý, cơ sở hạ tầng
và môi trường kinh doanh cùng với sự quan tâm của lãnh đạo thành phố trong
việc tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài nên đã sớm thu hút
được nguồn đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI so với các địa phương khác trong
phạm vi cả nước. Từ 1988 – 1994, ngay sau khi Luật đầu tư nước ngoài năm
1987 được ban hành và có hiệu lực, thành phố đã bắt đầu thu hút nguồn vốn FDI
nhưng số dự án còn ít và hiệu quả hoạt động chưa cao. Năm 1995, thành phố thu
hút được 155 dự án với tổng vốn đầu tư là 2.498 triệu USD (mức thu hút cao
nhất trong cả giai đoạn 1988-2006). Sau khi đạt mức đỉnh điểm vào năm 1995,
trong 2 năm tiếp theo, do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu
vực Đông Nam Á bộc phát ở Thái Lan vào năm 1997, số dự án và số vốn đầu tư
trực tiếp nước ngoài vào TP HCM có sự giảm đáng kể và tổng vốn FDI thu hút
vào thành phố tiếp tục giảm dần, đạt thấp nhất vào năm 2000 với mức thu hút rất
khiêm tốn, chỉ đạt 224 triệu USD.
Trong giai đoạn 2000 – 2005, thành phố thực hiện quá trình chuyển đổi cơ
cấu kinh tế theo hướng ưu tiên thu hút các dự án làm tăng tỷ trọng ngành dịch vụ
cao cấp, vừa đảm bảo tốc độ tăng trưởng kinh tế, vừa khắc phục tình trạng đất
đai ngày càng khan hiếm ở khu vực nội thành. Đây là nguyên nhân khiến thành
phố khó thu hút được các dự án FDI có qui mô lớn, đòi hỏi mặt bằng rộng. Các
dự án FDI quy mô lớn, đòi hỏi diện tích đất rộng đã chuyển hướng sang các địa
phương khác. Mặc dù vậy, nguồn vốn FDI thu hút vào thành phố cũng tăng dần
qua các năm tuy vẫn còn ở mức thấp, chỉ ở hàng trăm triệu USD mỗi năm. Tổng
vốn FDI đã tăng đột biến trở lại ngay sau khi Việt Nam gia nhập tổ chức WTO.

Vào cuối năm 2006; số dự án FDI thu hút mới đạt 283 dự án với tổng vốn đầu tư
đạt 1,627 tỉ USD. Nếu tính cả vốn tăng thêm của các dự án đang hoạt động thì
tổng vốn FDI vào thành phố tiếp tục tăng, đặc biệt năm 2007.

20


Bảng 3: Dự án FDI phân theo năm cấp phép của TP HCM

Năm
1988-1994
1995
1996
1997
1998
1999
2000
2001
2002
2003
2004
2005
2006

Số dự án
465
155
114
89
90

109
122
182
223
203
247
314
283

Vốn đầu tư
(triệu USD)
5.748
2.498
2.376
1.179
707
471
224
619
314
315
459
641
1.627

Vốn
bình
Tốc độ phát
quân dự án
triển vốn (%)

(triệu USD)
158,6
95,1
49,6
59,9
66,6
47,6
276,3
50,7
100,3
145,7
139,7
253,8

16,12
20,84
13,25
7,86
4,32
1,84
3,40
1,41
1,55
1,86
2,04
5,75

(Nguồn: Niên giám thống kê TP HCM năm 2004, 2005, 2006)
Năm đầu tiên Việt Nam bắt đầu thực hiện cam kết gia nhập WTO, tổng
vốn FDI đạt mức kỷ lục 2,5 tỷ USD, tăng 11,9% so với năm 2006. Tính đến cuối

tháng 11/2007, số dự án còn hiệu lực hoạt động là 2.510 dự án với tổng vốn đầu
tư là 16,04 tỷ USD, chiếm 22% vốn FDI của cả nước. FDI là nguồn vốn bổ sung
rất quan trọng cho đầu tư phát triển kinh tế thành phố, đặc biệt là cho khu công
nghiệp và dịch vụ.
(1) FDI phân theo ngành kinh tế:
Số dự án FDI tập trung khá nhiều vào lĩnh vực công nghiệp giai đoạn
1988 – 2005 khu vực công nghiệp – xây dựng trên địa bàn đã thu hút 1.201 dự
án FDI với tổng số vốn đầu tư trên 6 tỷ USD. Khu vực dịch vụ tuy chỉ thu hút
702 dự án FDI nhưng số lượng vốn đầu tư cũng đạt trên 6 tỉ USD. Khu vực dịch
vụ tuy chỉ thu hút 702 dự án FDI nhưng số lượng vốn đầu tư cũng đạt trên 6 tỉ
USD. Do đó số vốn trung bình trên mỗi dự án khu vực dịch vụ cao hơn nhiều sơ
21


với khu vực khác. Những năm gần đây mục tiêu phát triển kinh tế thành phố là
tăng tỷ trọng các ngành dịch vụ, trong đó tập trung vào các ngành tài chính –
ngân hàng, bưu chính viễn thông, vận tải kho bãi, y tế, giáo dục, tư vấn, bảo
hiểm, những ngành có giá trị gia tăng cao, phù hợp với cơ sở hạ tầng kỹ thuật và
xã hội của TP HCM.
Biểu 4: Vốn FDI mới và tăng thêm trên địa bàn TP HCM (2000-2007)

(Nguồn: Sở Kế hoạch và Đầu tư thành phố Hồ Chí Minh)

(2) Phân theo hình thức đầu tư:
Hình thức liên doanh chiếm 41%; Hình thức 100% vốn nước ngoài chiếm
51%; Hình thức hợp tác kinh doanh chiếm 8%.
Biểu 5: Cơ cấu vốn phân theo hình thức đầu tư trên địa bàn TP HCM

22



(Nguồn: Sở Kế hoạch và Đầu tư thành phố Hồ Chí Minh)

Số lượng dự án và tổng vốn đầu tư còn hiệu lực trên địa bàn thành phố Hồ
Chí Minh là rất lớn, năm 2000 số dự án còn hiệu lực là 900 với tổng vốn đầu là
10,232 tỷ USD đến năm 2007 số dự án là 2.110 dự án với tổng vốn đầu tư là
16,04 tỷ USD.
Bảng 6: Dự án FDI còn hiệu lực trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh
Năm

Số dự án

1996
1997
1998
1999
2000
2001
2002
2003
2004
2005
2006
2007

505
677
742
816
900

1.604
1.249
1.415
1.644
1.914
2.168
2.510

Tổng vốn đầu tư
(triệu USD)
8.181
10.093
9.868
10.232
10.519
11.098
11.305
11.636
12.315
12.348
14.469
16.040

Tổng vốn pháp định
(triệu USD)
3.718
4.896
4.878
5.065
5.203

5.498
5.547
5.747
6.028
6.126
6.687

Nguồn: Niên giám thống kê TP HCM năm 2006

(3) Các ngành nghề đầu tư chủ yếu: Nguồn vốn FDI tập trung vào các lĩnh
vực sản xuất, gia công hàng may mặc, giày da, chế biến gỗ, sản xuất hóa chất,
dự án xây dựng nhà ở, khu đô thị mới, khu vui chơi giải trí, các dịch vụ như vận
tải, giao nhận hàng hóa, các hoạt động liên quan đến bất động sản, các dịch vụ
23


tư vấn pháp luật, kiểm toán, nghiên cứu thị trường, kiến trúc, tư vấn thiết kế …
đặc biệt từ năm 2006 luồng vốn FDI chuyển hướng đầu tư vào công nghệ cao
như ngành viễn thông và chế tạo chip
Thành phố Hà Nội
Đầu tư trực tiếp nước ngoài ngày càng trở thành một bộ phận quan trọng, hữu
cơ, năng động và có tốc độ tăng trưởng cao trong các thành phần kinh tế của Thủ đô.
Tổng số dự án đăng ký từ năm 1987 đến năm 2007 là 1253 dự án với tổng vốn đầu tư
đăng ký là 14.589 triệu USD. Trong đó vốn đầu tư thực hiện là 5.038 triệu USD, bằng
34,5% tổng vốn đầu tư đăng ký. Khu vực ĐTNN chiếm khoảng 41% tổng vốn đầu tư
toàn xã hội, 35% giá trị sản xuất công nghiệp, tạo ra trên 15% nguồn thu ngân sách,
46% tổng kim ngạch xuất khẩu, tạo việc làm cho hơn 90.000 lao động của Hà Nội.
- Giai đoạn 1997-2004: đây là thời kỳ khủng hoảng và sau khủng hoảng tài
chính khu vực, vốn FDI vào Hà Nội đăng ký ở giai đoạn này là 426 dự án với tổng
vốn đầu tư đăng ký là 3.048 triệu USD.

Giai đoạn từ 2005 đến nay tình hình đầu tư nước ngoài vào Hà Nội đã khởi
sắc: năm 2005 số vốn đăng ký là 1.585 triệu USD với 166 dự án kể cả cấp mới và
tăng vốn. Năm 2006 số vốn đăng ký là 1.106 triệu USD và năm 2007 đạt mức tăng
trưởng cao về thu hút FDI, gấp 2,3 lần năm 2006 với tổng vốn đăng ký đạt 2.535
triệu USD. Tổng cộng từ năm 2005 đến hết năm 2007 số dự án đăng ký là 567 dự án
và 5.226 triệu USD vốn đầu tư đăng ký.
Vốn FDI đăng ký và thực hiện tại Thành phố Hà Nội giai đoạn 1997-2007 và
số dự án còn hiệu lực chia theo hình thức đầu tư được thể hiện tại Bảng 7 và Bảng 8.

Biểu 7: Vốn FDI đăng ký và thực hiện tại Hà Nội giai đoạn 1997-2007

24


Bảng 8: Các dự án còn hiệu lực tại Hà Nội chia theo hình thức đầu tư
(Tính đến tháng 6/2007)
STT

1
2
3
4

Chỉ tiêu

- Dự án 100% vốn NN
- Dự án liên doanh
- HĐHTKD
Tổng cộng


Số dự án

495
258
18
771

Tỷ lệ % theo

Tổng vốn đầu

Tỷ lệ % theo tổng

số dự án

tư (triệu USD)

vốn đầu tư

64,20%
33,46%
2,33%
100,00%

3054,573
5683,045
920,806
9658,424

31,63%

58,84%
9,53%
100,00%

Nguồn: Sở Kế hoạch và Đầu tư Thành phố Hà Nội.
- Tính đến cuối năm 2006 các dự án FDI đã tạo việc làm cho khoảng 78 nghìn
lao động, cuối năm 2007 con số này là gần 90 nghìn lao động. So sánh sau 5 năm
cho thấy số việc làm tạo mới trong các doanh nghiệp FDI đã tăng gần 7 lần. Đa số
trong số đó được đào tạo và tiếp cận với trình độ kỹ thuật và quản lý tiên tiến.
Biểu 9: Số lao động trong khu vực FDI tại Hà Nội qua các năm

25


×