Tải bản đầy đủ (.pdf) (82 trang)

Thực hiện pháp luật về đánh giá viên chức ngành giáo dục từ thực tiễn tỉnh Gia Lai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (917.05 KB, 82 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

BÙI PHẠM ANH TRIẾT

THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ ĐÁNH GIÁ
VIÊN CHỨC NGÀNH GIÁO DỤC TỪ
THỰC TIỄN TỈNH GIA LAI

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC

HÀ NỘI, năm 2019


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

BÙI PHẠM ANH TRIẾT

THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ ĐÁNH GIÁ
VIÊN CHỨC NGÀNH GIÁO DỤC TỪ
THỰC TIỄN TỈNH GIA LAI

Chuyên ngành : Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
Mã số

: 8 38 01 02

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. VÕ KHÁNH MINH


HÀ NỘI, năm 2019


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu
nêu trong Luận văn là trung thực. Những kết luận của Luận văn chưa được
công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Bùi Phạm Anh Triết


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT
ĐÁNH GIÁ VIÊN CHỨC NGÀNH GIÁO DỤC ................................................... 9
1.1. Một số vấn đề lý luận về viên chức ngành giáo dục ............................................ 9
1.2. Một số vấn đề lý luận về đánh giá viên chức giáo dục ...................................... 12
1.3. Pháp luật hiện hành về đánh giá viên chức giáo dục ......................................... 21
CHƯƠNG 2: THỰC TIỄN THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ ĐÁNH GIÁ VIÊN
CHỨC NGÀNH GIÁO DỤC TỈNH GIA LAI ..................................................... 32
2.1. Tình hình viên chức ngành giáo dục tỉnh Gia Lai.............................................. 32
2.2. Tình hình thực hiện pháp luật về đánh giá viên chức ngành giáo dục tỉnh Gia
Lai.............................................................................................................................. 36
2.3. Nguyên nhân của những hạn chế, vướng mắc còn tồn tại trong công tác đánh
giá viên chức ngành giáo dục .................................................................................... 42
CHƯƠNG 3: NHỮNG GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN
PHÁP LUẬT VỀ ĐÁNH GIÁ VIÊN CHỨC NGÀNH GIÁO DỤC .................. 51
3.1. Giải pháp hoàn thiện pháp luật........................................................................... 51
3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả đánh giá viên chức ngành giáo dục tỉnh Gia Lai . 60

KẾT LUẬN ......................................................................................................................... 72

TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

Từ viết tắt

Nghĩa của từ viết tắt

CBCCVC

Cán bộ, công chức, viên chức

CC

Công chức

CCVC

Công chức, viên chức

ĐG

Đánh giá

ĐGVC

Đánh giá viên chức


GD&ĐT

Giáo dục và Đào tạo

VC

Viên chức


DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU

Số hiệu

Tên bảng

bảng
1.1
2.1

Tiêu chí phân loại mức hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ
Cơ cấu viên chức ngành giáo dục theo dân tộc, đảng viên,
tôn giáo, ngạch viên chức

Trang
25
33

2.2


Cơ cấu viên chức ngành giáo dục theo trình độ đào tạo

34

2.3

Cơ cấu viên chức ngành giáo dục theo độ tuổi

35

2.4

Cơ cấu viên chức ngành giáo dục theo giới tính

36

2.5

2.6

3.1

3.2

3.3

Mức độ phân loại đánh giá viên chức tại các đơn vị trực
thuộc Sở GD&ĐT tỉnh Gia Lai
Tỷ lệ trung bình các mức độ phân loại đánh giá viên chức tại
các đơn vị trực thuộc Sở GD&ĐT tỉnh Gia Lai

Đề xuất thay đổi tên gọi nội dung đánh giá viên chức theo
Luật Viên chức đối với viên chức không giữ chức vụ
Đề xuất thay đổi tên gọi nội dung đánh giá viên chức theo
Luật Viên chức đối với viên chức quản lý
Bảng chi tiết các tiêu chí đánh giá viên chức ở một số
trường của tỉnh Gia Lai

37

37

53

54

62


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Giáo dục và đào tạo là lĩnh vực có vai trò rất quan trọng đối với tất cả các
quốc gia, dân tộc ở mọi thời đại. Trong xu thế phát triển tri thức ngày nay, ở nhiều
quốc gia trên thế giới giáo dục và đào tạo được xem là chính sách, biện pháp quan
trọng hàng đầu để phát triển và Việt Nam cũng không phải là ngoại lệ. Tầm quan
trọng của giáo dục và đào tạo đã được Đảng ta nhiều lần nhắc đến trong các văn
kiện. Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng tiếp tục nhấn
mạnh: “Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục, đào tạo; phát triển nguồn nhân lực,
nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao” là một trong ba đột phá chiến lược và khẳng
định trọng tâm “Phát huy nhân tố con người trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội;
tập trung xây dựng con người về đạo đức, nhân cách, lối sống, trí tuệ, năng lực làm

việc; xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh”. Với sứ mệnh cao cả trong sự
nghiệp trồng người, giáo dục và đào tạo đang từng ngày khẳng định tầm quan trọng
đối với sự tồn tại, phát triển của đất nước, trong đó không thể không nói đến vai trò
của các VC giáo dục. Truyền thống của dân tộc Việt Nam luôn coi giáo viên là hình
tượng mẫu mực, là người dạy học trò tri thức và nhân cách. Đó là trách nhiệm cao
quý mà mỗi người làm trong lĩnh vực giáo dục phải gánh vác, vì mỗi hành động của
họ dù nhỏ đến đâu đều có ảnh hưởng nhất định đến sự nghiệp trồng người. Nghị
quyết Hội nghị trung ương 8 khóa XI của Đảng về đổi mới căn bản, toàn diện giáo
dục đã đề ra nhiệm vụ: “Nâng cao nhận thức về vai trò quyết định chất lượng giáo
dục và đào tạo của đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục”.
Trong suốt quá trình xây dựng đất nước, ông cha ta đã ý thức được rằng, việc
dùng người là quốc sách, là mấu chốt để đi đến thành công. Điều này mặc dù không
phải là nguyên nhân duy nhất nhưng có tác dụng trực tiếp đến sự tồn vong của quốc
gia, sự trường tồn và phát triển của dân tộc. Việc dùng người trong xã hội ngày nay
lại càng có ý nghĩa quan trọng, nhất là trong công tác quản lý, sử dụng CCVC.
Việc sắp xếp, bố trí, sử dụng VC phải phù hợp với trình độ, năng lực, khả

1


năng, trí tuệ của họ, có như vậy công việc mới đạt được hiệu quả, đi đến thắng lợi.
Muốn bố trí đúng vị trí việc làm, sắp xếp hợp lý đội ngũ VC thì cần phải thực hiện
việc ĐGVC một cách thực chất và hiệu quả. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng từng căn dặn
muốn nắm và biết rõ cán bộ “phải thường xuyên xem xét cán bộ”, nếu không thường
xuyên xem xét cán bộ như Chủ tịch Hồ Chí Minh nói “là một khuyết điểm to”. Người
chỉ ra tác dụng của việc thường xuyên xem xét cán bộ là “mỗi lần xem xét nhân tài là
tìm thấy những nhân tài mới, một mặt khác những người hủ hoá cũng lòi ra” [20,
tr.279].
Nhận thức được tầm quan trọng và ý nghĩa to lớn của công tác ĐG
CBCCVC, Đảng ta ngày càng chú trọng nâng cao hiệu quả của công tác này. Nghị

quyết số 26-NQ/TW ngày 19/5/2018 của Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung
ương Đảng khóa XII về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến
lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ xác định: “ĐG cán bộ
vẫn là khâu yếu, chưa phản ánh đúng thực chất, chưa gắn với kết quả, sản phẩm cụ
thể, không ít trường hợp còn cảm tính, nể nang, dễ dãi hoặc định kiến” [2]. Nghị
quyết hội nghị lần thứ 4 Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về tăng cường
xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị,
đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội
bộ cũng đề ra mục tiêu: “Hoàn thiện quy chế ĐG cán bộ một cách khoa học, phù
hợp; quy định lấy phiếu tín nhiệm ở các cấp, các ngành định kỳ hoặc đột xuất …”.
Điều này thể hiện sự quan tâm đúng mức của Đảng đối với công tác ĐG CBCCVC, để
việc ĐG đội ngũ CBCCVC ngày càng hiệu quả và thực chất.
Tuy nhiên trên thực tế hiện nay, các quy định của pháp luật về công tác
ĐGVC cũng bộc lộ nhiều hạn chế, yếu kém. Cụ thể như: việc ĐG còn cảm tính, xuê
xoa, chiếu lệ, chưa thực sự đảm bảo tính công khai dân chủ; còn tình trạng những
người có trách nhiệm ĐGVC chưa thực sự công tâm và khách quan, có động cơ cá
nhân hoặc định kiến nên kết quả ĐG tùy thuộc vào ý chí chủ quan, cảm tính của
người có thẩm quyền do đó kết quả ĐGVC không chính xác; còn xảy ra trường hợp
ĐG mang tính hình thức, thực hiện qua loa, không đúng trình tự, thủ tục; còn xảy ra

2


tình trạng nể nang, nâng đỡ, cục bộ, bè cánh hay tư tưởng dĩ hòa vi quý, dễ người dễ
ta trong ĐGVC; tình trạng chạy theo thành tích cũng ảnh hưởng nhiều đến quá trình
ĐGVC. Những hạn chế, tiêu cực này đã dẫn đến việc ĐGVC chưa thực chất và
chưa đạt được hiệu quả như mong muốn, từ đó dẫn đến những hệ lụy nguy hiểm
cho đất nước và xã hội. Vì vậy, việc tìm hiểu, nghiên cứu nhằm tìm ra những giải
pháp, kiến nghị để hoàn thiện pháp luật về ĐGVC cũng như nâng cao hiệu quả công
tác ĐGVC trên thực tế, khắc phục những hạn chế, tồn tại, đáp ứng yêu cầu thể chế

hóa đường lối, chủ trương của Đảng là cần thiết.
Qua thời gian tìm hiểu thực tiễn công tác ĐGVC ngành giáo dục tại tỉnh Gia
Lai, tác giả nhận thấy còn nhiều điểm bất cập, hạn chế, vướng mắc trong việc thực
hiện pháp luật về ĐGVC trên địa bàn cần phải nghiên cứu để tìm ra giải pháp khắc
phục. Vì những lý do trên, tác giả đã chọn đề tài “Thực hiện pháp luật về đánh
giá viên chức ngành giáo dục từ thực tiễn tỉnh Gia Lai” để làm đề tài luận văn
thạc sỹ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Pháp luật về CC, VC là một lĩnh vực rất rộng, trong đó pháp luật về ĐGVC
được xem là một mảng đặc biệt quan trọng trong quá trình quản lý và sử dụng đội
ngũ VC. Cho đến nay, các công trình nghiên cứu về pháp luật CC, VC chủ yếu ở
các khía cạnh như tuyển dụng; đào tạo, bồi dưỡng; thi đua, khen thưởng, kỷ luật …
chưa có nhiều công trình nghiên cứu về ĐGVC nói chung và ĐGVC ngành giáo dục
nói riêng mang tính tổng quan cả về mặt lý luận và thực tiễn. Có thể kể đến một vài
công trình nghiên cứu liên quan đến ĐGCCVC sau đây:
- Bài viết: “Đôi điều về đánh giá công chức, viên chức” Tạp chí Xây dựng
Đảng số 6 năm 2014 của tác giả Trần Thanh Bình, Phó Vụ trưởng Vụ Tổ chức Cán bộ, Ban tổ chức Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam. Bài viết chỉ ra thực tiễn
triển khai việc ĐGCCVC và đề xuất một số phương hướng, giải pháp nâng cao chất
lượng hoạt động ĐGCCVC [4].
- Bài viết: “Điều kiện để thực hiện đánh giá công chức theo kết quả thực thi
nhiệm vụ” Tạp chí Lý luận Chính trị số 1 năm 2015 của ThS. Đào Thị Thanh Thủy,

3


Học viện Hành chính quốc gia. Bài viết chỉ ra ý nghĩa của ĐGCC theo kết quả thực
thi nhiệm vụ, các quy định về ĐGCC theo kết quả thực thi nhiệm vụ ở nước ta hiện
nay và nêu lên các điều kiện để áp dụng ĐGCC theo kết quả thực thi nhiệm vụ [26].
- Bài viết: “Đổi mới công tác đánh giá công chức ở Việt Nam” Tạp chí Tổ
chức Nhà nước số ra ngày 05/4/2017 của ThS. Trịnh Xuân Thắng, Học viện Chính trị

quốc gia Hồ Chí Minh khu vực IV. Bài viết nêu ra một số bất cập trong công tác
ĐGCC hiện nay và định hướng đổi mới công tác ĐGCC ở Việt Nam [25].
- Trần Văn Long (2018) Quản lý nhà nước về viên chức giáo dục từ thực tiễn
quận Lê Chân, tp Hải phòng, Luận văn thạc sĩ Luật Hiến pháp và luật Hành chính,
Học viện KHXH, Hà Nội. Đây là công trình nghiên cứu khoa học nghiên cứu những
vấn đề lý luận và thực tiễn về quản lý nhà nước về VC giáo dục nói chung, của quận
Lê Chân, thành phố Hải Phòng nói riêng, từ đó đề xuất các giải pháp nhằm thực
hiện tốt công tác quản lý nhà nước về VC giáo dục trong giai đoạn hiện nay [19].
- Hoàng Thị Giang (2018) Pháp luật về đánh giá công chức hành chính ở
Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ Luật Hiến pháp và luật Hành chính, Học viện
KHXH, Hà Nội. Đây là công trình nghiên cứu khoa học khảo sát các nghiên cứu
trong nước và nước ngoài liên quan đến pháp luật ĐG CC hành chính; làm rõ cơ sở
lý luận của pháp luật; phân tích thực tiễn pháp luật về ĐG CC hành chính ở Việt
Nam; xác định yêu cầu đòi hỏi, đề xuất quan điểm và giải pháp hoàn thiện pháp luật
về ĐG CC hành chính ở Việt Nam hiện nay [18].
Như vậy, có thể thấy rằng các công trình nghiên cứu về pháp luật VC chưa
nhiều, chủ yếu dừng lại ở các bài viết bình luận, đề xuất ý kiến, kiến nghị về quản lý
nhà nước. Hoặc các công trình, bài viết nghiên cứu về ĐG CC. Riêng các công trình
nghiên cứu một cách tổng quan về cả mặt lý luận và thực tiễn của hoạt động ĐGVC
ngành giáo dục còn rất hạn chế. Ngoài ra, theo tìm hiểu của tác giả thì cho đến hiện
tại vẫn chưa có công trình nghiên cứu cụ thể nào về ĐGVC ngành giáo dục nói
chung và ngành giáo dục tỉnh Gia Lai nói riêng. Tác giả luận văn sẽ tiếp thu có chọn
lọc kết quả các công trình nghiên cứu khoa học nêu trên và tập trung đi sâu nghiên
cứu các nội dung thuộc đề tài luận văn của mình.

4


3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu

Đề tài được nghiên cứu nhằm tìm ra các giải pháp để hoàn thiện pháp luật về
ĐGVC giáo dục và nâng cao hiệu quả ĐGVC giáo dục tại địa bàn tỉnh Gia Lai trên
cơ sở luận giải các vấn đề lý luận, quy định của pháp luật và thực tiễn thực hiện
pháp luật về ĐGVC giáo dục tại tỉnh Gia Lai.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Đề tài tập trung vào các nhiệm vụ cơ bản sau đây:
- Phân tích làm rõ một số vấn đề lý luận và quy định của pháp luật về
ĐGVC;
- Phân tích, ĐG thực tiễn thực hiện pháp luật về ĐGVC giáo dục tại tỉnh Gia
Lai, làm rõ những ưu điểm, hạn chế, vướng mắc và nguyên nhân của những hạn chế
vướng mắc trong công tác ĐGVC ngành giáo dục tại tỉnh Gia Lai;
- Đề xuất các giải pháp đề hoàn thiện pháp luật về ĐGVC và các giải pháp
nâng cao hiệu quả hoạt động ĐGVC ngành giáo dục tỉnh Gia Lai.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài bao gồm:
- Các vấn đề lý luận về VC, VC ngành giáo dục và ĐGVC;
- Quy định của pháp luật Việt Nam về ĐGVC ngành giáo dục;
- Thực tiễn thực hiện pháp luật về ĐGVC ngành giáo dục tỉnh Gia Lai.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi nội dung: Đề tài tập trung nghiên cứu các quy định của pháp luật
về ĐGVC, đồng thời nghiên cứu về thực tiễn thực hiện pháp luật về ĐGVC giáo
dục tại tỉnh Gia Lai; từ đó đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật về ĐGVC giáo
dục và các giải pháp nâng cao hiệu quả công tác ĐGVC ngành giáo dục tỉnh Gia
Lai;
- Phạm vi thời gian: Đề tài nghiên cứu trong giai đoạn từ năm học 2014-2015
đến năm học 2018-2019;

5



- Phạm vi không gian: Đề tài tập trung nghiên cứu tại các cơ sở giáo dục phổ
thông trực thuộc sự quản lý của Sở GD&ĐT tỉnh Gia Lai.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Đề tài được thực hiện dựa trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng của
chủ nghĩa Mác-Lênin để xem xét các mối quan hệ và cách thức ĐGVC.
Thứ nhất, dựa trên quan điểm biện chứng về sự phát triển của chủ nghĩa duy
vật cho phép tác giả từng bước lý giải về những hoạt động thực tiễn thực hiện pháp
luật về ĐGVC và xem xét nguyên nhân dẫn đến những bất cập trong ĐGVC giáo
dục tỉnh Gia Lai.
Thứ hai, dựa trên quan điểm lịch sử cụ thể tác giả phân tích thực trạng công
tác ĐGVC giáo dục qua nhiều năm tại tỉnh Gia Lai (từ năm học 2014-2015 đến năm
học 2018-2019) với sự thay đổi số lượng, tỷ lệ VC qua từng năm, nhằm lý giải sự phù
hợp về quy định của pháp luật đối với việc thực hiện ĐGVC trên thực tế. Từ đó, đề
xuất những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả ĐGVC giáo dục.
Do đó, các quan điểm về tính toàn diện, quan điểm phát triển và quan điểm
lịch sử cụ thể nói trên là cơ sở căn bản giúp tác giả định hướng nhận thức tư duy lý
luận, kiểm chứng thực tiễn, nhận diện khuynh hướng đổi mới và đề xuất thực hiện
cải cách trong ĐGVC.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Khi nghiên cứu đề tài này, tác giả sử dụng một số phương pháp nghiên cứu
chủ yếu sau đây:
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Nghiên cứu các tài liệu liên quan đến
công tác ĐGVC. Phương pháp này được sử dụng chủ yếu ở Chương 1: Một số vấn
đề lý luận và quy định của pháp luật về đánh giá viên chức. Phương pháp này được
sử dụng trong việc khảo cứu các công trình nghiên cứu liên quan tới đề tài, phân
tích những nội dung chính, các phương pháp được sử dụng và các kết luận đã đạt
được cũng như vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu. Qua việc sử dụng phương pháp này,
tác giả đã kế thừa được một số nội dung cơ bản về lý luận ĐGCCVC hiện nay và sử


6


dụng cho việc phân tích nội dung của các chương khác của luận văn. Để thực hiện
phương pháp này, tác giả đã tiến hành thu thập nhiều tài liệu liên quan và các tài
liệu được khai thác trên mạng internet.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp: Phương pháp này sử dụng phổ biến chủ
yếu ở Chương 2 và 3 của luận văn. Phương pháp phân tích được sử dụng để đánh
giá sâu sắc hơn từng khía cạnh khác nhau của pháp luật về ĐGVC, trong khi đó
phương pháp tổng hợp được sử dụng để khái quát hóa các kết quả từ việc phân tích
để đưa ra những nhận định và đánh giá chung về pháp luật ĐGVC. Tác giả sử dụng
phương pháp này nhằm phân tích, tổng hợp các vấn đề lý luận về ĐGVC như: khái
niệm, đặc điểm, mục đích, vai trò … cũng như phân tích các quy định của pháp luật
về ĐGVC nói chung từ đó đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả ĐGVC ngành
giáo dục nói riêng.
- Phương pháp thống kê: Phương pháp này được sử dụng chủ yếu ở Chương
1 và 2 của luận văn. Những thông tin thu thập được từ các tài liệu, các báo cáo
thống kê về pháp luật ĐGVC được xử lý, sắp xếp và mô phỏng dưới dạng bảng biểu
để minh chứng cho các bằng chứng định lượng về các phân tích hay nhận định về
ĐGVC. Phương pháp này được sử dụng để thống kê tình hình ĐGVC ngành giáo
dục tại tỉnh Gia Lai trong giai đoạn từ năm học 2014-2015 đến năm học 2018-2019.
- Phương pháp so sánh: Phương pháp này được sử dụng chủ yếu ở Chương 1
và 2 của luận văn. Phương pháp này được sử dụng để so sánh các quy định của luật
này với luật khác, so sánh pháp luật về ĐGCC với pháp luật về ĐGVC, từ đó rút ra
những kết luận, đề xuất những bài học kinh nghiệm cho việc hoàn thiện pháp luật
về ĐGVC.
6. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn của đề tài
Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần bổ sung các nội dung quan trọng
vào sự phát triển của lý luận về thể chế pháp luật, góp phần nâng cao nhận thức lý

luận về vai trò, giá trị của pháp luật về ĐGVC.
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được dùng làm tài liệu tham khảo
cho các cơ quản quản lý nhà nước về giáo dục trong việc đề xuất sửa đổi các quy

7


định của pháp luật về ĐGVC giáo dục và là nguồn tài liệu tham khảo cho sinh viên,
giảng viên trong việc nghiên cứu, học tập các nội dung liên quan đến Luật Viên
chức.
7. Kết cấu đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung đề tài
gồm có ba chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận và quy định của pháp luật về đánh giá viên
chức ngành giáo dục.
Chương 2: Thực tiễn thực hiện pháp luật về đánh giá viên chức ngành giáo
dục tỉnh Gia Lai.
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả đánh giá
viên chức ngành giáo dục tỉnh Gia Lai.

8


CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT ĐÁNH GIÁ
VIÊN CHỨC NGÀNH GIÁO DỤC
1.1. Một số vấn đề lý luận về viên chức ngành giáo dục
1.1.1. Khái niệm viên chức và viên chức ngành giáo dục
Trước đây, Nghị định số 116/2003/NĐ-CP ngày 10/01/2003 của Chính phủ
định nghĩa: “VC là công dân Việt Nam, trong biên chế, được tuyển dụng, bổ nhiệm

vào một ngạch VC hoặc giao giữ một nhiệm vụ thường xuyên trong đơn vị sự
nghiệp của Nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, hưởng lương từ
ngân sách nhà nước và các nguồn thu sự nghiệp theo quy định của pháp luật” [10].
Hiện nay, theo quy định tại Điều 2, Luật Viên chức năm 2010, khái niệm VC
được hiểu như sau: “VC là công dân Việt Nam được tuyển dụng theo vị trí việc làm,
làm việc tại đơn vị sự nghiệp công lập theo chế độ hợp đồng làm việc, hưởng lương
từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định của pháp luật” [22].
Như vậy, pháp luật hiện hành đã có những quy định cụ thể về thuật ngữ
“VC”, từ đó có thể dễ dàng xác định những đối tượng là VC để làm cơ sở cho việc
nghiên cứu pháp luật về VC. Có thể nhận thấy, VC có một số dấu hiệu nhận biết
như: là công dân Việt Nam; được tuyển dụng bởi Nhà nước; làm các công việc
mang tính chất thường xuyên trong các đơn vị sự nghiệp công lập; được ký hợp
đồng làm việc; được trả lương từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công lập; được
điều chỉnh bởi một luật riêng.
Có thể hiểu, VC nói chung là những người làm những công việc thuần túy về
chuyên môn, nghiệp vụ như giảng dạy, nghiên cứu khoa học, khám chữa bệnh, công
tác văn hóa xã hội ... tại các đơn vị sự nghiệp công lập, không trực tiếp tham gia vào
công tác quản lý nhà nước, không nhân danh quyền lực chính trị; hoạt động nghề
nghiệp của VC nhằm cung cấp các dịch vụ công thiết yếu, cung cấp cho người dân
các sản phẩm phi vật chất, dựa trên kỹ năng chuyên môn, mang tính nghiệp vụ cao.
VC giáo dục bao gồm các VC làm công tác quản lý, VC giáo viên và VC làm

9


công việc hỗ trợ, phục vụ trong các đơn vị sự nghiệp công lập. VC quản lý là người
được bổ nhiệm giữ chức vụ quản lý có thời hạn, chịu trách nhiệm điều hành, tổ
chức thực hiện một hoặc một số công việc trong đơn vị sự nghiệp công lập và được
hưởng phụ cấp chức vụ quản lý. VC giáo viên là những người chỉ thực hiện công
việc mang tính chuyên môn nghiệp vụ (giảng dạy) trong các cơ sở giáo dục công

lập. Ngoài ra, VC giáo dục còn có những nhân viên trong cơ sở giáo dục công lập
như: thủ quỹ, kế toán, phòng thí nghiệm, thư viện, văn thư…. VC giáo dục phần lớn
là giáo viên, nhân tố quyết định đến chất lượng giáo dục, đào tạo.
Trên cơ sở quan niệm chung về VC nói trên và các đặc điểm riêng của VC
ngành giáo dục tác giả khái quát khái niệm VC ngành giáo dục như sau:“VC ngành
giáo dục là công dân Việt Nam được tuyển dụng theo vị trí việc làm, làm việc tại
các cơ sở giáo dục công lập theo chế độ hợp đồng làm việc, hưởng lương từ quỹ
lương của cơ sở giáo dục công lập theo quy định của pháp luật”.
1.1.2. Phân loại viên chức ngành giáo dục
Việc phân loại VC nhằm xác định những chức năng, quyền hạn cũng như
nghĩa vụ, trách nhiệm và quyền lợi của VC. Tùy thuộc vào các căn cứ khác nhau mà
VC được phân thành các loại khác nhau. Hiện nay, có nhiều cách phân loại VC tuy
nhiên có hai cách phân loại VC phổ biến là căn cứ vào vị trí việc làm và căn cứ vào
chức danh nghề nghiệp.
Căn cứ theo vị trí việc làm, VC được phân loại như sau:
- VC quản lý là người được bổ nhiệm giữ chức vụ quản lý có thời hạn, chịu
trách nhiệm điều hành, tổ chức thực hiện một hoặc một số công việc trong đơn vị sự
nghiệp công lập và được hưởng phụ cấp chức vụ quản lý;
- VC không giữ chức vụ quản lý bao gồm những người chỉ thực hiện nhiệm
vụ mang tính chất chuyên môn nghiệp vụ theo chức danh nghề nghiệp trong đơn vị
sự nghiệp công lập.
Căn cứ theo chức danh nghề nghiệp, VC được phân loại trong từng lĩnh vực
hoạt động nghề nghiệp với các cấp độ từ cao xuống thấp như sau:
- VC giữ chức danh nghề nghiệp hạng I;

10


- VC giữ chức danh nghề nghiệp hạng II;
- VC giữ chức danh nghề nghiệp hạng III;

- VC giữ chức danh nghề nghiệp hạng IV.
Phân loại VC có ý nghĩa quan trọng trong xây dựng và quản lý đội ngũ VC
có hiệu quả: là cơ sở để đề ra những tiêu chuẩn khách quan trong việc tuyển chọn
người vào làm việc trong các đơn vị sự nghiệp công lập, đáp ứng yêu cầu của công
việc; giúp cho việc xác định tiền lương, các chế độ, chính sách một cách hợp lý,
chính xác; giúp cho việc xây dựng, quy hoạch đào tạo và bồi dưỡng VC đúng đối
tượng theo yêu cầu, nội dung công việc.
Đối với ngành giáo dục việc phân loại VC được thực hiện theo quy định tại
Thông tư số 16/2017/TT-BGDĐT ngày 12/7/2017 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và
Đào tạo hướng dẫn danh mục khung vị trí việc làm và định mức số lượng người làm
việc trong các cơ sở giáo dục phổ thông công lập, VC được phân thành 3 nhóm sau:
Nhóm công việc lãnh đạo, quản lý, điều hành; Nhóm công việc hoạt động nghề
nghiệp; Nhóm công việc hỗ trợ, phục vụ.
1.1.3. Tiêu chuẩn đối với viên chức ngành giáo dục
Kết quả hoạt động của đơn vị phụ thuộc chủ yếu vào chất lượng đội ngũ VC.
Chất lượng đội ngũ VC được hình thành dựa trên cơ sở tiêu chuẩn chức danh nghề
nghiệp VC và chịu ảnh hưởng của các nội dung quy định trong tiêu chuẩn chức
danh nghề nghiệp VC. Đó là cơ sở để tiến hành tổ chức, xem xét, ĐG, lựa chọn, bố
trí sắp xếp và sử dụng VC; đó cũng là cơ sở để bản thân mỗi VC phấn đấu, tự rèn
luyện, hoàn thiện mình.
Tiêu chuẩn VC bao gồm tiêu chuẩn chung và tiêu chuẩn cụ thể. Tiêu chuẩn
chung là điều kiện cần, mang tính chất “cứng” mà bất cứ công dân nào muốn tham
gia nhiệm vụ đều phải hội đủ. Tiêu chuẩn cụ thể là điều kiện đủ, gắn với từng vị trí
việc làm cụ thể. Nó thể hiện tính chất, đặc điểm riêng của ngành, lĩnh vực và mang
tính chuyên môn, nghiệp vụ cụ thể.
Hiện nay, theo nội dung của các thông tư liên tịch giữa Bộ Nội vụ - Bộ Giáo
dục và Đào tạo quy định mã số và tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp VC giảng dạy

11



trong các cơ sở giáo dục thì VC phải đảm bảo các tiêu chuẩn về trình độ đào tạo,
bồi dưỡng; tiêu chuẩn về năng lực chuyên môn, nghiệp vụ. Đối với nhóm VC làm
công việc hỗ trợ phục vụ các tiêu chuẩn được quy định theo từng vị trí việc làm do
các Bộ quản lý chuyên ngành quy định.
Ngoài tiêu chuẩn chung, tùy thuộc vào từng hạng VC khác nhau sẽ phải đáp
ứng các tiêu chuẩn cụ thể khác nhau, bao gồm tiêu chuẩn về năng lực chuyên môn,
nghiệp vụ và tiêu chuẩn về trình độ đào tạo, bồi dưỡng.
Trong bối cảnh đất nước đang thực hiện công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại
hóa cùng với quá trình hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng thì yêu cầu về tiêu
chuẩn năng lực chuyên môn, nghiệp vụ của đội ngũ VC là một vấn đề có ý nghĩa
quan trọng. Để có thể thực hiện tốt các nhiệm vụ được giao giúp đất nước phát triển
thì VC giáo dục nói chung trong thời đại ngày nay phải đáp ứng các yêu cầu sau: có
trình độ đào tạo, bồi dưỡng; có năng lực chuyên môn, nghiệp vụ tốt; nắm vững tình
hình và xu thế phát triển ngành, lĩnh vực công tác trong nước và thế giới; các quy
định của pháp luật có liên quan đến VC giáo dục.
Trong hoạt động thực tiễn, các cơ quan quản lý VC đều căn cứ vào tiêu
chuẩn VC để thực hiện việc tuyển dụng, sử dụng, bổ nhiệm, ĐG, quy hoạch, đào tạo,
bồi dưỡng và quản lý VC. Ở một mức độ nhất định có thể coi tiêu chuẩn VC là nền
móng để xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ VC, đồng thời nó cũng là một yếu
tố quan trọng trong hoạt động ĐGVC.
1.2. Một số vấn đề lý luận về đánh giá viên chức giáo dục
1.2.1. Khái niệm đánh giá viên chức giáo dục
ĐGVC được coi là một trong những khâu quan trọng, căn bản trong quá trình
quản lý và sử dụng VC, được tiến hành thường xuyên hàng năm hoặc trước khi xem
xét đề bạt, thay đổi vị trí công tác đối với VC. Việc ĐGVC có ý nghĩa đặc biệt quan
trọng, quyết định đến hiệu quả sử dụng VC, vì vậy việc nghiên cứu các vấn đề lý
luận về ĐGVC là điều hết sức cần thiết để làm cơ sở cho việc áp dụng các quy định
của pháp luật về ĐGVC, mà trước hết là phải làm rõ khái niệm ĐGVC.
Hiện nay, chưa có một văn bản quy phạm pháp luật nào đưa ra khái niệm về


12


ĐGVC. Do đó, để có thể hiểu được khái niệm ĐGVC cần phải cắt nghĩa, phân tích,
làm rõ nghĩa của các từ ngữ có trong thuật ngữ “ĐGVC”.
Thuật ngữ “ĐGVC” được cấu thành từ hai thành tố là “ĐG” và “VC”. Trong
đó, thành tố “VC” đã được làm rõ nên chỉ cần làm rõ thành tố “ĐG” để có thể hiểu
được nghĩa thuật ngữ “ĐGVC”.
Theo Từ điển tiếng Việt thì: “ĐG có nghĩa là nhận xét, bình phẩm về giá trị”
[31, tr.42]. Để hiểu rõ khái niệm ĐG cần tìm hiểu các khái niệm có liên quan như
nhận định, giá trị, nhận xét, xem xét. Trong Từ điển Tiếng Việt, nhận định nghĩa là:
“đưa ra ý kiến có tính chất ĐG, kết luận, dự đoán về một đối tượng, một tình hình
nào đó”; giá trị là: “cái làm cho một vật có lợi ích, có ý nghĩa, là đáng quý về một
mặt nào đó”; còn nhận xét là: “đưa ra ý kiến có xem xét và ĐG về một đối tượng
nào đó”; xem xét nghĩa là: “tìm hiểu, quan sát kĩ để ĐG, rút ra những nhận xét, kết
luận cần thiết”. Theo cách tiếp cận này, ĐG được hiểu là việc tìm hiểu, quan sát để
đưa ra ý kiến, kết luận, dự đoán về tác dụng, lợi ích, hiệu quả của một đối tượng hay
một tình hình nào đó.
Còn theo TS. Trần Xuân Cầu thì “ĐG là quá trình so sánh, đối chiếu thực tế
với những tiêu chuẩn đã định sẵn để rút ra mức độ phù hợp của các bộ phận, các mối
liên kết bên trong sự vật với những chuẩn mực, quy định của nó” [15, tr.7].
Qua những phân tích trên, có thể hiểu: ĐGVC giáo dục là hoạt động được
tiến hành thường xuyên nhằm xác định, kiểm tra, nhận xét việc thực hiện chức
năng, nhiệm vụ, năng lực, trình độ của VC dựa trên những nội dung theo quy
định của pháp luật thông qua việc so sánh, đối chiếu giữa kết quả thực hiện
nhiệm vụ của VC với một bộ tiêu chí xác định.
ĐGVC bao gồm ĐG con người (chính bản thân VC) và ĐG việc thực hiện
nhiệm vụ của họ. Nếu ĐG con người bao gồm các nội dung như: trình độ, quá trình
đào tạo, quá trình công tác, kinh nghiệm, tính cách, lối sống, phẩm chất, tiềm năng

phát triển… thì ĐG việc thực hiện nhiệm vụ tập trung vào kết quả công việc mà
người VC đảm nhiệm (nhiệm vụ), lấy kết quả thực hiện làm căn cứ chính để ĐG,
tập trung vào kết quả đầu ra của quá trình. Có nhiều nội dung ĐG khác nhau đối với

13


VC như: ĐG phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, tác phong và lề lối làm việc;
ĐG năng lực, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ; ĐG kết quả thực hiện nhiệm vụ; ĐG
tinh thần trách nhiệm.
1.2.2. Đặc điểm của đánh giá viên chức giáo dục
ĐGVC là một nội dung có ý nghĩa quan trọng trong hoạt động của bộ máy
nhà nước nói chung và hoạt động của các đơn vị sự nghiệp nói riêng. Từ sự phân
tích khái niệm ĐGVC có thể rút ra một số đặc điểm của ĐGVC như sau:
Thứ nhất, ĐGVC là một hoạt động chịu sự điều chỉnh bởi các quy định của
pháp luật. Hoạt động ĐGVC do pháp luật quy định, toàn bộ các quy định của pháp
luật về ĐGVC tạo thành một chế định quan trọng trong pháp luật về VC. Khi thực
hiện việc ĐGVC, tất cả các chủ thể có liên quan phải tuân theo quy định của pháp
luật như các quy định về: nguyên tắc ĐG, căn cứ ĐG, thời điểm ĐG, nội dung, thẩm
quyền, tiêu chí ĐG, trình tự thủ tục ĐGVC. Đồng thời, các chủ thể thực hiện các
quyền và nghĩa vụ đúng theo quy định của pháp luật. Đây là đặc điểm mang tính bắt
buộc trong hoạt động ĐGVC. Điều này nhằm bảo đảm sự lãnh đạo thống nhất của
Đảng Cộng sản Việt Nam, sự quản lý chặt chẽ của Nhà nước; bảo đảm nguyên tắc
tập trung dân chủ trong công tác ĐGVC; tránh xảy ra các tình trạng tiêu cực, ý chí
chủ quan, tùy tiện, bảo đảm sự công bằng, khách quan trong hoạt động ĐGVC ở tất
cả các cơ quan, đơn vị.
Thứ hai, ĐGVC giáo dục hướng đến hai đối tượng, một là VC và hai là công
việc được giao hoặc nhiệm vụ theo hợp đồng làm việc đã ký kết. Trong đó, VC giáo
dục mang các đặc điểm như: là công dân Việt Nam; được tuyển dụng bởi Nhà nước;
làm các công việc mang tính chất chuyên môn, nghiệp vụ trong các cơ sở giáo dục

công lập; được ký hợp đồng làm việc; được trả lương từ quỹ lương của cơ sở giáo
dục công lập; được điều chỉnh bởi một luật riêng. Còn nhiệm vụ của VC được hiểu
là: “việc thực hiện công việc hoặc nhiệm vụ có yêu cầu về trình độ, năng lực, kỹ
năng chuyên môn, nghiệp vụ trong đơn vị sự nghiệp công lập”. Hiểu theo một cách
đơn giản, nhiệm vụ chính là việc thực hiện chức năng, trách nhiệm của VC. Khi ĐG
đối tượng này, người ta thường tập trung vào ĐG tiến độ và kết quả thực hiện

14


nhiệm vụ, hiệu quả công việc của VC được giao.
Thứ ba, ĐGVC mang tính so sánh, đối chiếu. ĐGVC không phải là việc tổng
hợp, đúc kết các thành tích của VC mà thực chất là trên cơ sở kết quả tổng kết các
thành tích của VC để so sánh với các tiêu chí xác định để đưa ra những nhận xét,
kết luận nhất định. Kết quả thông tin thu thập trong quá trình ĐG được so sánh với
các tiêu chí cơ bản đã được xây dựng từ trước như: kết quả thực hiện công việc
hoặc nhiệm vụ theo hợp đồng làm việc đã ký kết; việc thực hiện quy định về đạo
đức nghề nghiệp; … Các tiêu chí này cũng được xây dựng khác nhau tùy theo từng
loại VC gồm: tiêu chí ĐGVC giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý và tiêu chí ĐGVC
không giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý. Dựa trên các tiêu chí này, kết quả công việc
của VC sẽ được đem ra so sánh, đối chiếu để xem xét về mức độ hoàn thành nhiệm
vụ của VC ở các mức độ khác nhau như: không hoàn thành nhiệm vụ, hoàn thành
nhiệm vụ, ... Quá trình so sánh, đối chiếu này cần bảo đảm tính khách quan, trung
thực thì kết quả của hoạt động ĐGVC mới có thể đạt được sự chính xác, minh bạch.
Thứ tư, ĐGVC mang tính thường xuyên, định kỳ. ĐGVC không diễn ra một
cách đột xuất, bất ngờ mà được tiến hành thường xuyên và vào các thời điểm nhất
định. Việc ĐGVC được thực hiện theo từng năm công tác phù hợp với kế hoạch,
chương trình hoạt động của đơn vị. Thời điểm ĐGVC thường rơi vào tháng cuối
năm, đối với VC ngành giáo dục là tháng 6 hoặc trước khi thực hiện việc bình xét
thi đua, khen thưởng hàng năm.

1.2.3. Mục đích của đánh giá viên chức giáo dục
ĐGVC để làm rõ phẩm chất chính trị, đạo đức, năng lực, trình độ chuyên
môn, nghiệp vụ, kết quả thực hiện nhiệm vụ được giao. Kết quả ĐG là căn cứ để bố
trí, sử dụng, bổ nhiệm, đào tạo, bồi dưỡng, khen thưởng, kỷ luật và thực hiện chính
sách đối với VC.
Tất cả các yếu tố như phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, tác phong, lề lối
làm việc; năng lực, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ; tinh thần trách nhiệm phối hợp
trong thực hiện nhiệm vụ; thái độ phục vụ nhân dân đều có những ảnh hưởng nhất
định đến hiệu quả thi hành nhiệm vụ của VC. Trong quá trình thực hiện chức năng,

15


nhiệm vụ, VC sẽ bộc lộ những phẩm chất, năng lực, trình độ của bản thân. Nếu
không tiến hành ĐG, tổng kết, xem xét thì những yếu tố này sẽ không được làm rõ,
không được so sánh, đối chiếu với các tiêu chí đã đề ra; từ đó sẽ không nhận định
được năng lực, trình độ của VC trong quá trình thi hành nhiệm vụ. Chỉ khi thực hiện
ĐG thì mới có thể biết được VC có những điểm mạnh, điểm yếu nào, mặt nào tốt,
mặt nào chưa tốt; họ đã thực sự nổ lực, phấn đấu hết mình để hoàn thành chức năng,
nhiệm vụ của mình hay chưa.
Bên cạnh đó, từ kết quả ĐGVC, các cơ quan, đơn vị sẽ lấy làm căn cứ cho
việc bố trí, sử dụng, bổ nhiệm, đào tạo, bồi dưỡng, khen thưởng, kỷ luật và thực
hiện chính sách đối với VC. Sau khi thực hiện ĐGVC, các cơ quan, đơn vị sẽ tiến
hành phân loại ĐGVC theo các mức độ khác nhau như: không hoàn thành nhiệm
vụ, hoàn thành nhiệm vụ, hoàn thành tốt nhiệm vụ, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.
Từ đó, các cơ quan, đơn vị sẽ biết được năng lực, trình độ thực sự của VC trong quá
trình thi hành nhiệm vụ để có thể xây dựng tốt kế hoạch bố trí, sử dụng VC sao cho
phù hợp với khả năng của từng người, nhằm phát huy những mặt tốt, hạn chế những
điểm yếu của VC, phù hợp với vị trí công tác và nhiệm vụ được giao. Đồng thời,
qua ĐG, các cơ quan, đơn vị sẽ có các kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng VC về các mặt

như phẩm chất chính trị, đạo đức, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ để phát triển đội
ngũ VC đáp ứng yêu cầu công việc. Ngoài ra, qua công tác ĐGVC sẽ phát hiện
những nhân tố tài năng, bản lĩnh, sáng tạo, nhiệt huyết để biểu dương, khen thưởng
kịp thời; cũng như phát hiện ra những VC yếu kém, chây lười để có các biện pháp
xử lý kỷ luật phù hợp hoặc bố trí công tác khác hay giải quyết thôi việc.
Đồng thời, hoạt động đánh giá VC sẽ cung cấp thông tin phản hồi để VC biết
rõ về năng lực và việc thực hiện công việc của bản thân hiện tại đang ở mức độ nào,
giúp họ phấn đấu tự hoàn thiện bản thân và hoàn thành tốt các nhiệm vụ được giao.
Như vậy, bên cạnh việc làm rõ phẩm chất chính trị, đạo đức, năng lực, trình
độ chuyên môn, nghiệp vụ, kết quả thực hiện nhiệm vụ được giao thì ĐGVC còn
nhằm mục đích để bố trí, sử dụng, bổ nhiệm, đào tạo, bồi dưỡng, khen thưởng, kỷ
luật và thực hiện chính sách đối với VC một cách hợp lý. Từ đó, nhằm nâng cao chất

16


lượng đội ngũ VC cũng như hiệu quả hoạt động nghề nghiệp.
1.2.4. Vai trò của đánh giá viên chức giáo dục
Quản lý nguồn nhân lực nói chung và quản lý VC nói riêng là một hoạt động
quản lý bao gồm nhiều nội dung: bố trí, sử dụng, phân công, điều động, khen
thưởng, kỷ luật … Mỗi nội dung có một vị trí nhất định và có mối quan hệ mật thiết
với nhau, trong đó ĐG là khâu tiền đề, có vai trò quan trọng và là cơ sở của các
khâu khác. Nếu không có ĐG sẽ không có cơ sở để thực hiện những khâu khác
trong quá trình quản lý và sử dụng VC. ĐGVC có vai trò quan trọng không chỉ đối
với cá nhân VC mà cả với cơ quan quản lý, sử dụng VC. Vai trò đó được thể hiện
qua các khía cạnh sau đây:
Thứ nhất, đối với cá nhân VC: ĐG giúp VC nhận thức và gắn bó nhiều hơn
với nhiệm vụ; định hướng và kích thích VC nổ lực hết sức để đạt thành tích cao
hơn; tự điều chỉnh, sửa chữa những sai lầm, yếu kém. Kết quả ĐG sẽ giúp VC nhìn
nhận được nhiệm vụ nào không hoàn thành, nhiệm vụ nào đã hoàn thành, mức độ

hoàn thành như thế nào; công việc nào thực hiện đúng tiến độ, công việc nào không
đúng tiến độ … Từ đó, xác định được mức độ thiếu hụt về kiến thức, kỹ năng của cá
nhân VC so với tiêu chuẩn đặt ra, tạo ra ý thức tự phấn đấu, tự đào tạo bồi dưỡng
nhằm đáp ứng được các tiêu chuẩn, cải thiện được kết quả hoạt động, phát triển nhu
cầu tự đào tạo trong đội ngũ VC khiến tinh thần nỗ lực phấn đấu không ngừng được
phát huy. Điều này sẽ tạo động lực thúc đẩy bản thân mỗi VC phải luôn phấn đấu,
trau dồi, hoàn thiện bản thân về mọi mặt để có thể hoàn thành tốt chức năng, nhiệm
vụ được giao. Qua những điều đó sẽ tạo nên văn hóa “tự phê bình” trong đội ngũ
VC, văn hóa tự học hỏi lẫn nhau và tinh thần, trách nhiệm giúp đỡ, phối hợp trong
thực hiện nhiệm vụ.
Thứ hai, đối với cơ quan quản lý VC: kết quả ĐGVC là căn cứ quan trọng để
bố trí, sử dụng, đào tạo, bồi dưỡng, nâng ngạch hoặc thăng hạng chức danh nghề
nghiệp, quy hoạch, bổ nhiệm, miễn nhiệm, điều động, luân chuyển, khen thưởng, kỷ
luật và thực hiện các chính sách khác đối với VC. ĐGVC giúp cơ quan tăng cường
kiểm soát đối với kết quả thực hiện công việc trên cơ sở so sánh, đối chiếu với hệ

17


thống các tiêu chí xác định; tăng khả năng dự báo về các nguy cơ trong thực thi;
khuyến khích người quản lý đưa ra các ý kiến phản hồi một cách đầy đủ cần thiết
hoặc thích đáng đối với VC, giúp cho họ có thể điều chỉnh kịp thời theo hướng tích
cực; đảm bảo tính công bằng khách quan trong khen thưởng, trả lương, bổ nhiệm,
luân chuyển hoặc giải quyết thôi việc do hạn chế sự chi phối của quan điểm cá nhân
trên cơ sở các tiêu chí đo lường cụ thể; xác định được nhu cầu đào tạo, tiềm năng
phát triển của VC để xây dựng kế hoạch quy hoạch đội ngũ VC kế cận; gắn kết và
huy động được các thế mạnh của tổ chức với nguồn nhân lực để đạt được mục tiêu;
theo dõi, ĐG được tiến độ thực hiện so với các mục tiêu đề ra; phát hiện được các
khiếm khuyết và có các biện pháp cải tiến điều chỉnh kịp thời trong thực thi chính
sách; cho phép thực hiện được các hoạt động để nâng cao chất lượng thực thi công

việc của VC; là công cụ phản hồi về quá trình thực thi nhiệm vụ của VC giúp tổ
chức điều chỉnh quá trình thực thi nhiệm vụ nhằm đạt mục tiêu đề ra; là cơ sở để
phân loại VC và áp dụng chế độ tiền lương và chính sách khuyến khích; kết nối chặt
chẽ giữa kết quả thực thi của cá nhân và mục tiêu chung của tổ chức; xây dựng hệ
thống thông tin thông suốt và cải thiện quá trình giao tiếp trong tổ chức; tăng cường
sự đoàn kết trong nội bộ cơ quan, từ đó thúc đẩy quá trình làm nhanh chóng và hiệu
quả hơn, nâng cao chất lượng hoạt động của cơ quan, đơn vị [27].
1.2.5. Yêu cầu đối với đánh giá viên chức giáo dục
ĐGVC giáo dục là một trong những biện pháp để quản lý và xây dựng một
đội ngũ VC chính quy, chuyên nghiệp. Hoạt động này mang tính chuyên môn, đặc
thù vì vậy phải đảm bảo một số yêu cầu nhất định sau đây:
- Bảo đảm đúng thẩm quyền: CC do cấp có thẩm quyền bổ nhiệm ĐG; VC
do người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị ĐG. Cấp nào, người nào thực hiện việc
ĐG thì đồng thời thực hiện việc phân loại và phải chịu trách nhiệm về quyết định
của mình.
- Việc ĐG phải căn cứ vào chức trách, nhiệm vụ được giao và kết quả thực
hiện nhiệm vụ. Việc ĐG cần làm rõ ưu điểm, khuyết điểm, tồn tại, hạn chế về phẩm
chất, năng lực, trình độ của CBCCVC.

18


- Bảo đảm khách quan, công bằng, chính xác và không nể nang, trù dập,
thiên vị, hình thức.
- Việc ĐG, phân loại VC quản lý phải dựa vào kết quả hoạt động của đơn vị
được giao quản lý, phụ trách. Mức độ hoàn thành nhiệm vụ của người đứng đầu không
được cao hơn mức độ hoàn thành nhiệm vụ của đơn vị.
Trường hợp CC, VC không hoàn thành nhiệm vụ do yếu tố khách quan, bất
khả kháng thì được xem xét trong quá trình ĐG, phân loại.
Đồng thời việc ĐGVC phải bảo đảm các nguyên tắc sau:

Thứ nhất, ĐGVC phải bảo đảm sự lãnh đạo thống nhất của Đảng và thực
hiện theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Những vấn đề về đường lối, phương hướng
và chính sách lớn đối với CBCC nói chung và đối với VC nói riêng đều do Đảng
quyết định. Đảng thống nhất quản lý, ĐG CBCC trên nguyên tắc: Đảng trực tiếp
quản lý, ĐG toàn diện cán bộ; phân cấp cho cấp uỷ Đảng và các tổ chức quản lý,
ĐG CBCC theo quy định của Trung ương; Đảng kiểm tra việc chấp hành đường lối,
chủ trương, chính sách CBCCVC ở tất cả các cấp, các ngành. Nguyên tắc tập trung
dân chủ vừa là một nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động của Đảng, nhưng
đồng thời cũng được áp dụng trong các cơ quan và tổ chức nhà nước theo quy định
của Hiến pháp. Việc ĐG, nhận xét phải công khai và người được ĐG có quyền tham
dự các cuộc họp, được trình bày ý kiến của mình về những nhận xét đó. Như vậy,
công tác ĐGVC cần đảm bảo sự lãnh đạo thống nhất của Đảng và tiến hành theo
nguyên tắc tập trung dân chủ.
Thứ hai, ĐGVC phải bảo đảm tính khách quan, công bằng, toàn diện, lịch sử.
Khi ĐGVC phải đứng trên quan điểm nhìn nhận thực chất công việc mà VC đã thực
hiện, không dựa vào ý chí chủ quan, cảm tính của người ĐG. Yêu cầu này đòi hỏi
khi xem xét, ĐGVC không được phiến diện, hời hợt, thiên vị, nể nang, định kiến,
trù dập, không được theo quan điểm “tĩnh” bất biến. Nếu không đảm bảo tính khách
quan, minh bạch thì kết quả ĐGVC sẽ không chính xác, thiếu công bằng. ĐGVC
cũng cần phân biệt hiện tượng với bản chất, phải nhìn từ nhiều phía, từ nhiều sự
việc cụ thể, không thể dừng lại ở những hiện tượng riêng rẽ, nhất thời. Mọi sự vật,

19


×