Tải bản đầy đủ (.docx) (103 trang)

Hoàn thiện công tác quản lý nhà nước về đất đai trên địa bàn huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (566.5 KB, 103 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH DOANH VÀ CÔNG NGHỆ HÀ NỘI
-----ooo----

BÙI ĐÌNH QUYẾT

HOÀN THIỆN CÔNG TÁC QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI
TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN NGA SƠN, TỈNH THANH HÓA

Chuyên ngành : QUẢN TRỊ KINH DOANH
Mã số

: 60.34.01.02

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS VŨ VĂN HÁN

Hà Nội - 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan bản luận văn này là công trình nghiên cứu khoa học, độc
lập của tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và có nguồn
gốc rõ ràng.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Bùi Đình Quyết


MỤC LỤC




DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
TT
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20

VIẾT TẮT
QLĐĐ
QSDĐ
SDĐ
GCN

GCNQSDĐ
BĐS
QLNN
CNH
HĐH
GDP
CQ
CNTT
HĐND
UBND
CP
TW

NĐ-CP
KT-XH
Nxb

NGHĨA
: Quản lý đất đai
: Quyền sử dụng đất
: Sử dụng đất
: Giấy chứng nhận
: Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
: Bất động sản
: Quản lý nhà nước
: Công nghiệp hóa
: Hiện đại hóa
: Tổng sản phẩm trong nước
: Chính quyền
: Công nghệ thông tin

: Hội đồng nhân dân
: Ủy ban nhân dân
: Chính phủ
: Trung Ương
: Quyết định
: Nghị định – Chính phủ
: Kinh tế - Xã hội
: Nhà xuất bản


DANH MỤC CÁC BẢNG, SƠ ĐỒ, BIỂU ĐỒ
DANH MỤC CÁC BẢNG

DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ, BIỂU ĐỒ
Sơ đồ 2.1. Sơ đồ vị trí huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đât đai là nguồn tài nguyên thiên nhiên vô cùng quý giá đối với mỗi quốc
gia, là điều kiện đầu tiên và là nền tảng tự nhiên của bất kỳ một quá trình sản
xuất nào đặc biệt là sản xuất nông nghiệp. Đất đai còn là thành phần quan trọng
nhất của môi trường sống, là địa bàn phân bố các khu dân cư, xây dựng các công
trình kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh và quốc phòng.
Đất đai là một nguồn lực khan hiếm, do đó trong quá trình sử dụng đòi hỏi
phải sử dụng tiết kiệm nhất nhưng cho hiệu quả cao nhất. Mặt khác, các quan hệ
đất đai luôn chứa đựng trong nó những vấn đề phức tạp, cần có sự giải quyết kịp
thời nhằm đảm bảo được các lợi ích của người sử dụng đất. Vệc quản lý và sử
dụng tài nguyên quý giá này một cách hợp lý không những có ý nghĩa quyết
định đến sự phát triển của nền kinh tế đất nước mà còn đảm bảo mục tiêu chính

trị và phát triển xã hội.
Năm 2016, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa có tổng diện tích tự nhiên
15.782,30 ha gồm ba nhóm chính: đất nông nghiệp 9.457,86 ha chiếm 59,93%;
đất phi nông nghiệp 4.692,41 ha chiếm 29,73% và đất chưa sử dụng 1.632,03 ha
chiếm 10,34%. Đất chưa sử dụng chỉ chiếm tỉ lệ nhỏ trong khi dân số và nhu cầu
sử dụng đất cho phát triển kinh tế - xã hội của huyện ngày càng tăng nhanh.
Điều này đòi hỏi công tác quản lý nhà nước về đất đai của chính quyền huyện
cần thực hiện có chất lượng và phù hợp với điều kiện của huyện Nga Sơn.
Trong những năm gần đây, tình hình quản lý và sử dụng đất đai của huyện
Nga Sơn đã đạt được những thành công nhất định. Tuy nhiên trong quá trình tổ
chức quản lý và sử dụng đất còn bộc lộ những tồn tại, nảy sinh một số vấn đề
mới nằm ngoài tầm kiểm soát của nhà nước như: sử dụng đất không đúng mục
đích, giao đất trái thẩm quyền, tranh chấp và lấn chiếm đất đai, quy hoạch sai
nguyên tắc, khiếu nại tố cáo các hành vi vi phạm pháp luật về đất đai ngày càng
nhiều...
6


Xuất phát từ thực tế trên, đồng thời nhận thức rõ yêu cầu cấp bách phải tìm
hiểu, đánh giá một cách chi tiết công tác quản lý đất đai ở huyện Nga Sơn, tác
giả đã chọn đề tài: “Hoàn thiện công tác quản lý nhà nước về đất đai trên địa
bàn huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa” để nghiên cứu trong luận văn này.
2.

Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài
Công tác quản lý đất đai đã thu hút không ít sự quan tâm các nhà quản lý,
các nhà khoa học, đặc biệt các nhà nghiên cứu, các viện các trường đại học …
Đã có rất nhiều công trình khoa học được công bố trên các sách báo, tạp chí và
hội thảo quốc gia, quốc tế, sách chuyên khảo, tham khảo. Một số các công trình
tiêu biểu sau:

- Cuốn sách của tác giả Nguyễn Khắc Thái Sơn (2007): “Quản lý nhà nước
về đất đai ”, Nhà xuất bản nông nghiệp Hà Nội đã cung cấp những kiến thức cơ
bản về quá trình phát triển của công tác quản lý nhà nước về đất đai ở Việt Nam;
chỉ rơ phương pháp, nội dung và công cụ quản lý nhà nước về đất đai. Tuy
nhiên, cuốn sách này đề cập đến nội dung cơ bản của luật đất đai năm 2003.
Thực tế hiện nay, khi luật đất đai năm 2013 đã được thực thi, cần có những
nghiên cứu thực tiễn trong điều kiện mới ở một địa phương cụ thể.
- “Nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước về đất đai" của Tiến sỹ Phạm Việt
Dũng, đăng trên Tạp chí Cộng sản điện tử, ngày 11 tháng 2 năm 2013. Tác giả
đã nêu ra được một số kêt quả trong quản lý đât đai những năm qua đồng thời
nêu lên được những hạn chê, bât cập trong quản lý nhà nước vê lĩnh vực này. Từ
đó đưa ra một số giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước vê đất đai.
- Nguyễn Thị Thái (2011), “Quản lý nhà nước đối với các dự án bất động
sản trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh”, luận văn thạc sỹ, Trường Đại học Thương mại.
Luận văn đã khái quát cơ sở lý luận về quản lý nhà nước đối với các dự án đầu
tư bất động sản trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh từ đó đưa ra những giải pháp quản lý
nhà nước địa phương đối với các dự án đầu tư bất động sản của tỉnh đến năm
2015, tầm nhìn 2020.

7


- Luận văn thạc sỹ: “Hoàn thiện công tác quản lý nhà nước về đất đai trên
địa bàn thị xã An Nhơn, tỉnh Bình Định”, Trường Đại học Đà Nẵng, tác giả Ngô
Văn Thanh đã phân tích thực trạng quản lý nhà nước về đất đai trên địa bàn thị
xã An Nhơn, nhận diện và chỉ ra những nguyên nhân của các vấn đề còn tồn tại,
đưa ra giải pháp để hoàn thiện công tác quản lý nhà nước về đất đai tốt hơn, góp
phần vào sự phát triển của thị xã An Nhơn nói riêng và tỉnh Bình Định nói
chung.
- Nguyễn Hữu Hoan (2014), “Quản lý nhà nước đối với quy hoạch sử dụng

đất đai trên địa bàn huyện Phúc Thọ, Hà Nội”. Luận văn thạc sỹ Trường Đại học
Thương mại của tác giả Nguyễn Đức Quý (2014), “Quản lý nhà nước về đất đai
trên địa bàn huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội”. Hai công trình đều tập trung
nghiên cứu về vấn đề quản lý nhà nước về đất đai trên địa bàn khác nhau thuộc
hai huyện của thành phố Hà Nội. Các tác giả đã chỉ rõ được thực trạng quản lý
nhà nước về đất đai, đánh giá được những thành tựu và hạn chế, nguyên nhân
của những hạn chế từ đó làm cơ sở cho định hướng và những giải pháp nhằm
hoàn thiện quản lý đất đai tại địa phương.
- Trịnh Thành Công (2015), “Quản lý nhà nước về đất đai trên địa bàn
thành phố Hà Giang”, Luận văn thạc sỹ, Trường đại học Quốc Gia Hà Nội, tác
giả đã phân tích thực trạng tình hình quản lý nhà nước về đất đai và đưa ra một
số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác quản lý đất đai của thành phố Hà Giang
Tóm lại, có rất nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề quản lý nhà nước về
đất đai ở nhiều địa phương khác nhau. Mỗi đề tài đều đề cập đến một địa
phương cụ thể, nhìn chung đều đã chỉ ra những bất cập nhất định trong công tác
quản lý đất đai và trên cơ sở đó tìm ra nguyên nhân và những giải pháp nhằm
tăng cường quản lý đất đai tại địa bàn nghiên cứu.
Như vậy, đề tài nghiên cứu về quản lý đất đai ở các địa phương có nhiều
tác giả đã đề cập, tuy nhiên các đề tài nghiên cứu trong những năm trước đây,
với điều kiện kinh tế chưa có nhiều đổi mới như hiện nay. Hơn nữa chưa có đề
tài nào đi sâu phân tích quản lý về đất đai trên địa bàn huyện Nga Sơn, tỉnh
8


Thanh Hóa. Vì vậy, trong luận văn này, tác giả đã tiếp tục kế thừa có chọn lọc
những nghiên cứu trước đó và tập trung vào vấn đề cơ bản trong công tác quản
lý nhà nước về đất đai trên địa bàn huyện Nga Sơn nhằm góp phần vào sự phát
triển chung của tỉnh Thanh Hóa.
3.


Mục tiêu nghiên cứu
- Phân tích cơ sở lý luận về quản lý nhà nước về đất đai, nội dung, các
công cụ quản lý đất đai.
- Phân tích, đánh giá thực trạng quản lý nhà nước về đất đai và tình hình
sử dụng đất tại huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa trong khoảng thời gian từ 2014
đến 2016; từ đó đánh giá những kết quả đạt được và những tồn tại trong quản lý
nhà nước về đất đai của chính quyền huyện Nga Sơn.
- Đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm hoàn thiện công tác quản lý nhà
nước về đất đai tại huyện Nga Sơn và kiến nghị một số vấn đề đối với chính
sách đất đai của Nhà nước.

4.

Đối tượng và Phạm vi nghiên cứu
4.1.

Đối tượng nghiên cứu: Công tác quản lý đất đai trên địa bàn huyện
Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa.

4.2.

Phạm vi nghiên cứu:

- Về mặt không gian: Trên địa bàn huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa.
- Về mặt thời gian: Thực trạng công tác quản lý đất đai của huyện Nga Sơn,
tỉnh Thanh Hóa được nghiên cứu trong giai đoạn năm 2014 - 2016, phần phương
hướng, giải pháp sẽ đề cập giai đoạn năm 2017-2022.
5.

Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài

Luận văn góp phần xây dựng các căn cứ khoa học cho việc hoàn thiện công
tác quản lý đất đai.
Cung cấp một số giải pháp để hoàn thiện công tác quản lý đất đai, góp phần
vào sự phát triển của huyện Nga Sơn nói riêng và tỉnh Thanh Hóa nói chung.
Cung cấp bài học kinh nghiệm cho các địa phương khác có điều kiện phát
triển tương tự.
9


6.

Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng chủ nghĩa duy vật biện chứng làm cơ sở phương pháp
luận, qua đó có thể đánh giá các hiện tượng, sự vật nghiên cứu một cách khách
quan khoa học nhất, cụ thể ở đây là đánh giá công tác quản lý đất đai trên địa
bàn huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa. Đề tài Quản lý nhà nước về đất đai trên địa
bàn huyện Nga Sơn thông qua duy vật biện chứng trình bày một cách có hệ
thống các phạm trù và những quy luật chung về sự phát triển của kinh tế xã hội
huyện Nga Sơn gắn với quản lý đất đai rút ra những giải pháp chỉ đạo hoạt động
của con người về vấn đề này. Ngoài ra, Luận văn còn sử dụng tổng hợp các
phương pháp nghiên cứu bao gồm:
- Phương pháp thống kê mô tả: phương pháp này sử dụng nhiều ở chương
1, chương 2 của luận văn. Chương 1, luận văn thống kê mô tả các công trình
nghiên cứu đã công bố có liên quan trực tiếp và gián tiếp đến đề tài, cơ sở lý
luận về công tác quản lý đất đai. Chương 2, sau khi thu thập số liệu, tiến hành
thống kê, mô tả và tổng hợp các số liệu, dữ liệu, luận văn đưa ra những đánh giá
về thực trạng quản lý đất đai trên địa bàn huyện Nga Sơn.
- Phương pháp phân tích và phương pháp tổng hợp: Phân tích và tổng hợp
là hai phương pháp gắn bó chặt chẽ quy định và bổ sung cho nhau trong nghiên
cứu và có cơ sở khách quan trong cấu tạo, trong tính quy luật của bản thân sự

vật. Phương pháp này được sử dụng trong quá trình thực hiện nghiên cứu nhằm
thu thập, tổng hợp thông tin, tài liệu, số liệu, đề tài, dự án có liên quan. Hai
Phương pháp tổng hợp được sử dụng chủ yếu trong chương 2 khi tổng hợp, đánh
giá những kết quả đạt được và những hạn chế, nguyên nhân hạn chế và những
vấn đề đặt ra cần giải quyết về vấn đền quản lý đất đai trên địa bàn huyện Nga
Sơn.
- Phương pháp logic - lịch sử: Phương pháp lịch sử dùng để nghiên cứu sự
phát triển của các văn bản quản lý đất đai nói chung và của chính quyền địa
phương nói riêng theo hướng nâng cao chất lượng quản lý đất đai phục vụ phát
triển kinh tế xã hội trên cơ sở đó đưa ra những giải pháp nhằm tiếp tục nâng cao
10


hơn nữa chất lượng của công tác quản lý đất đai. Phương pháp Logic để xem
xét, nghiên cứu các sự kiện lịch sử của vấn đề quản lý đất đai trên địa bàn huyện
Nga Sơn để từ đó rút ra kinh nghiệm trong quản lý đất đai phù hợp hơn với tình
hình thực tiễn thay đổi.
- Phương pháp kế thừa: Khai thác các nguồn tài liệu, số liệu từ Internet, kế
thừa kết quả, số liệu của các công trình nghiên cứu trước đây có liên quan đến
nội dung nghiên cứu của luận văn. Ngoài ra luận văn sử dụng kết hợp phương
pháp trao đổi, khảo sát thực tế để đánh giá cả về mặt chất và lượng của kết quả
nghiên cứu.
7.

Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục, danh mục viết tắt, danh mục bảng
biểu và danh mục tài liệu tham khảo, kết cấu luận văn chia làm 3 chương:
Chương 1. Cơ sở lý luận quản lý nhà nước về đất đai trên địa bàn huyện.
Chương 2. Thực trạng công tác quản lý nhà nước về đất đai trên địa bàn
huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa.

Chương 3. Một số giải pháp hoàn thiện công tác quản lý nhà nước về đất
đai trên địa bàn huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa.

11


CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ ĐẤT ĐAI
TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN
1.1 Một số vấn đề lý luận về đất đai và quản lý nhà nước về đất đai trên địa
bàn huyện.
1.1.1 Đất đai và quản lý nhà nước về đất đai
 Khái niệm đất đai

Đất đai là điều kiện vật chất mà mọi sản xuất và sinh hoạt đều cần tới.
Trong quá trình phát triển của xã hội loài người, sự hình thành và phát triển của
mọi nền văn minh đều xây dựng trên nền tảng cơ bản là đất đai.
Theo giáo trình kinh tế tài nguyên đất của Đỗ Thị Lan và Đỗ Anh Tài, Nhà
xuất bản nông nghiệp, 2007 “ Đất đai là nguồn của cải, là tài sản cố định hoặc
đầu tư cố định, là thước đo sự giàu có của mỗi quốc gia. Đất đai còn là sự bảo
hiểm cho cuộc sống, bảo hiểm về tài chính, như là sự chuyển nhượng của cải qua
các thế hệ và như là một nguồn lực cho các mục đích tiêu dùng”.
Đất đai về mặt thuật ngữ khoa học được hiểu theo nghĩa rộng như sau: "đất
đai là một diện tích cụ thể của bề mặt trái đất, boa gồm tất cả các cấu thành của
môi trường sinh thái ngay trên vỏ dưới bề mặt đó bao gồm: khí hậu, bề mặt, thổ
nhưỡng, dáng địa hình, mặt nước (hồ, sông, suối, đầm lầy,...). Các lớp trầm tích
sát bề mặt cùng với nước ngầm và khoáng sản trong lòng đất, tập đoàn thực vật
và động vật, trạng thái định cư của con người, những kết quả của con người
trong quá khứ và hiện tại để lại (san nền, hồ chứa nước hay hệ thống tiêu thoát
nước, đường xá, nhà cửa...)".

Như vậy, "đất đai" là khoảng không gian có giới hạn, theo chiều thẳng đứng
(gồm khí hậu của bầu khí quyển, lớp đất phủ bề mặt, thảm thực vật, động vật,
diện tích nước, tài nguyên nước ngầm và khóang sản trong lòng đất ), theo chiều
nằm ngang trên mặt đất (là sự kết hợp giữa thổ nhưỡng, đại hình, thuỷ văn,thảm
thực vật cùng các thành phần khác) giữ vai trò quan trọng và có ý nghĩa to lớn
12


đối với hoạt động sản xuất cũng như cuộc sống của xã hội loài người.
 Quản lý nhà nước về đất đai

*Khái niệm quản lý nhà nước (QLNN)
- Quản lý hiểu theo nghĩa chung nhất là một quá trình, trong đó chủ thể
quản lý tổ chức, điều hành, tác động có định hướng, có chủ đích một cách khoa
học và nghệ thuật vào khách thể quản lý nhằm đạt kết quả tối ưu theo mục tiêu
đã đề ra thông qua việc sử dụng các phương pháp và công cụ thích hợp.
Quản lý còn được hiểu là một hệ thống, bao gồm các thành tố: đầu vào, đầu
ra, quá trình biến đổi đầu vào thành đầu ra, môi trường và mục tiêu. Các yếu tố
trên luôn tác động qua lại lẫn nhau. Một mặt, chúng đặt ra các yêu cầu, những
vấn đề quản lý phải giải quyết. Mặt khác, chúng ảnh hưởng đến hiệu lực và hiệu
quả của quản lý.
Quản lý bao gồm các yếu tố: Chủ thể quản lý nắm quyền lực và sử dụng
quyền lực để tác động vào đối tượng quản lý; Đối tượng quản lý là những cá
nhân, tổ chức thực hiện các quyết định quản lý; Mục tiêu quản lý là cái đích mà
các chủ thể quản lý hướng tới; Quản lý muốn đạt được kết quả tối ưu phải đặt
trong một môi trường cụ thể, với những điều kiện và hoàn cảnh cụ thể.
- Quản lý nhà nước là dạng quản lý xã hội mang tính quyền lực nhà nước,
được sử dụng quyền lực nhà nước để điều chỉnh các quan hệ xã hội và hành vi
hoạt động của con người để duy trì, phát triển các mối quan hệ xã hội, trật tự
pháp luật nhằm thực hiện chức năng và nhiệm vụ của Nhà nước.

Chức năng, nhiệm vụ của nhà nước được thực hiện thông qua bộ máy nhà
nước. Bộ máy nhà nước là hệ thống các cơ quan nhà nước từ trung ương đến địa
phương, được tổ chức theo nguyên tắc thống nhất, tạo thành một chỉnh thể đồng
bộ để thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước. Quản lý nhà nước có thể
phân thành: Quản lý nhà nước trung ương và quản lý nhà nước địa phương.
Quản lý nhà nước trung ương là sự tác động có tổ chức và bằng pháp quyền
của cơ quan quản lý cấp trung ương lên các mặt đời sống xã hội của đất nước
nhằm sử dụng có hiệu quả các nguồn lực để đạt được các mục tiêu đề ra. Đây là
13


quản lý mang tính quyền lực cao nhất, làm cơ sở cho quản lý nhà nước địa
phương thực hiện theo.
Quản lý nhà nước địa phương là quá trình chính quyền (CQ) địa phương
triển khai thực hiện các quy định do cơ quan quản lý cấp trung ương ban hành,
đồng thời ban hành các văn bản quy định về cơ chế chính sách liên quan đến
hoạt động cần quản lý theo thẩm quyền sao cho phù hợp tình hình phát triển
kinh tế xã hội của địa phương.
* Quản lý nhà nước về đất đai
Xuất phát từ việc tìm hiểu khái niệm về quản lý, quản lý nhà nước, ta có
khái niệm quản lý nhà nước về đất đai như sau:
Quản lý nhà nước về đất đai là hoạt động tổ chức và điều chỉnh bằng quyền
lực nhà nước đối với các hành vi của các chủ thể tham gia vào quan hệ pháp luật
đất đai để thực hiện và bảo vệ quyền sở hữu về đất đai nhằm duy trì và phát
triển các quan hệ đất đai theo trật tự pháp luật quy định.
Như vậy quản lý nhà nước về đất đai là tổng hợp các hoạt động của cơ
quan Nhà nước về đất đai: Đó là các hoạt động trong việc nắm và quản lý tình
hình sử dụng đất đai; trong việc phân bố đất đai vào các mục đích sử dụng theo
chủ trương của Nhà nước; trong việc kiểm tra, giám sát quá trình sử dụng đất.
Quản lý nhà nước về đất đai là một công việc phức tạp, với sự tham gia

quản lý trực tiếp và gián tiếp bởi nhiều cơ quan quản lý khác nhau từ trung ương
đến địa phương:
Quản lý nhà nước cấp trung ương đối với đất đai là quản lý quyền lực cao
nhất, điều chỉnh mọi quan hệ trong quản lý đất đai.
Quản lý nhà nước địa phương đối với đất đai là hoạt động quản lý dựa theo
nguyên tắc phục tùng từ quản lý trung ương. Quản lý nhà nước địa phương đối
với đất đai là sự triển khai thực hiện các quy định quản lý từ trung ương sao cho
phù hợp với tình hình cụ thể của địa phương. Vì vậy, khái niệm quản lý nhà
nước địa phương về đất đai được hiểu như sau:
Quản lý nhà nước địa phương về đất đai là sự tác động có tổ chức và bằng
14


pháp quyền, trên cơ sở quyền lực lên các mối quan hệ về đất đai của chính
quyền địa phương dựa theo thẩm quyền được pháp luật quy định nhằm đảm bảo
đất đai được sử dụng hiệu quả, phù hợp với các mục tiêu phát triển kinh tế - xã
hội tại địa phương.
1.1.2 Nguyên tắc quản lý nhà nước về đất đai
Nguyên tắc QLNN về đất đai của chính quyền gồm các nguyên tắc chủ yếu
như:
Nguyên tắc thống nhất về quản lý nhà nước: đất đai thuộc sở hữu toàn dân,
do Nhà nước thống nhất quản lý, CQ thực hiện quyền đại diện chủ sở hữu và
QLNN về đất đai trên địa bàn được quy định bởi pháp luật. QLNN về đất đai
của CQ nhằm thực hiện việc Nhà nước giao đất, cho thuê đất đối với các tổ
chức, cơ quan, đơn vị kinh tế, hộ gia đình và cá nhân sử dụng ổn định và lâu dài.
Nhà nước tạo điều kiện cho người sử dụng đất (SDĐ) có thể phát huy tối đa các
quyền đối với đất đai. Vì có như vậy người SDĐ mới yên tâm, chủ động trong
dự liệu cuộc sống để đầu tư sản xuất, cũng như có ý thức trong sử dụng, tránh
hiện tượng khai thác kiệt quệ đất đai.
Nguyên tắc phân quyền gắn liền với các điều kiện bảo đảm hoàn thành

nhiệm vụ: cơ quan địa chính ở trung ương và địa phương chịu trách nhiệm trước
Chính phủ và cơ quan chính quyền cùng cấp trong QLNN về đất đai; Chính
quyền tỉnh thực hiện việc giao đất, cho thuê đất cũng như thu hồi đất đai thuộc
về doanh nghiệp và tổ chức và có trách nhiệm hỗ trợ, phối hợp, kiểm tra chặt
chẽ tình hình thực hiện nhiệm vụ của cấp quận; CQ có trách nhiệm kiểm tra,
giám sát, hỗ trợ chính quyền phường và thực hiện quyền giao đất, cho thuê đất
và thu hồi đất cho các hộ gia đình, cá nhân trên địa bàn.
Nguyên tắc tập trung dân chủ: quản lý nhà nước về đất đai của CQ phải
tuân thủ quy định của pháp luật và thực hiện quyền chủ sở hữu toàn dân về đất
đai, bằng việc tạo điều kiện để người dân có thể tham gia giám sát hoạt động
QLNN của CQ trực tiếp hoặc thông qua tổ chức HĐND và các tổ chức chính trịxã hội tại quận.
15


Nguyên tắc kết hợp quản lý theo ngành với địa phương và vùng lãnh thổ:
CQ thống nhất QLNN về đất đai theo địa giới hành chính, điều này có nghĩa là
có sự hài hoà giữa quản lý theo lãnh thổ và quản lý theo chuyên ngành và ngay
cả các cơ quan trung ương đóng tại địa bàn quận phải chịu sự quản lý của CQ.
CQ có trách nhiệm tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ quan trung ương hoạt
động, đồng thời có quyền giám sát kiểm tra các cơ quan này trong việc thực hiện
pháp luật đất đai, cũng như các quy định khác của Nhà nước, có quyền xử lý
hoặc kiến nghị xử lý nếu vi phạm.
Nguyên tắc kế thừa và tôn trọng lịch sử: Quản lý nhà nước của CQ tuân thủ
việc kế thừa các quy định của luật pháp của Nhà nước trước đây, cũng như tính
lịch sử trong QLĐĐ qua các thời kỳ của cách mạng được khẳng định bởi việc:
Nhà nước không thừa nhận việc đòi lại ðất ðã được giao theo quy định của
Nhà nước cho người khác sử dụng trong quá trình thực hiện chính sách đất đai
của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng
hoà miền nam Việt Nam và Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Điều này khẳng định lập trường trước sau như một của Nhà nước đối với

đất đai, tuy nhiên những vấn đề về lịch sử và những yếu kém trong QLĐĐ trước
đây cũng để lại không ít khó khăn cho QLNN về đất đai hiện nay và cần được
xem xét tháo gỡ một cách khoa học. Nguyên tắc QLNN về đất đai trên nhằm
đảm bảo nguyên tắc chủ đạo là:
Nhà nước thống nhất quản lý toàn bộ đất đai theo quy hoạch và pháp luật,
bảo đảm sử dụng đúng mục đích và có hiệu quả. Nhà nước giao đất cho các tổ
chức và cá nhân sử dụng ổn định và lâu dài. Tổ chức và cá nhân có trách nhiệm
bảo vệ, bồi bổ, khai thác hợp lý, sử dụng tiết kiệm đất, được chuyển quyền SDĐ
được Nhà nước giao theo quy định của pháp luật.
1.1.3 Vai trò quản lý nhà nước về đất đai
Cơ chế quản lý kinh tế mói hiện nay ở nước ta là cơ chế thị trường có sự
quản lý của nhà nước bằng các công cụ kế hoạch, pháp luật, chính sách...Nhà
nước đóng vai trò điều tiết vĩ mô nhằm phát huy những mặt tích cực hạn chế
16


những mặt tiêu cực của cơ chế thị trường. Cơ chế thị trường không làm giảm
nhẹ vai trò quản lý của nhà nước mà đòi hỏi tăng cường quản lý. Vấn đề đặt ra là
nhà nước phải có phương thức quản lý để phù hợp với sự vận động của năng lực
sản xuất và quan hệ sản xuất, phương thức quản lý như thế nào để có thể vận
dụng đầy đủ các quy luật khách quan của nền kinh tế như quy luật giá cả, quy
luật canh tranh, quy luật cung cầu.
Vai trò của nhà nước trong quản lý đất đai là một yêu cầu cần thiết để điều
hoà các mối quan hệ giữa chủ thể quản lý là nhà nước và người sử dụng đất. Vai
trò quản lý của nhà nước về đất đai như sau:
- Thông qua hoạch định chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phân bổ đất đai có
cơ sở khoa học nhằm phục vụ cho các mục đích kinh tế xã hội của đất nước.
Bằng các công cụ đó, nhà nước sẽ đảm bảo cho việc sử dụng đất đúng mực đích,
đạt hiệu quả cao, giúp cho nhà nước quản lý chặt chẽ đất đai, giúp cho người sử
dụng đất có biện pháp hữu hiệu để khai thác đất. Nhờ có quy hoạch, kế hoạch sử

dụng đất, từng miếng đất, lô đất sẽ được giao cho các đối tượng cụ thể để thực
hiện các mục tiêu quan trọng của nhà nước. Đó là mục đích được hoạch định từ
trước, thông qua quy hoạch, đất đai sẽ không bị bỏ hoang, xoá bỏ được các tụ
điểm tệ nạn xã hội để xây dựng thành khu vui chơi gải trí.
- Thông qua công tác đánh giá phân hạng đất, nhà nước nắm chắc toàn bộ
quỹ đất đai cả về số lượng và chất lượng làm căn cứ cho các bịên pháp kinh tế
xã hội có hệ thống, có căn cứ khoa học nhằm sử dụng đất đai hiệu quả và hợp lý.
- Thông qua việc ban hành và tổ chức thực hiện pháp luật đất đai, nhà nước
tạo cơ sở pháp lý để bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của các tổ chức kinh tế,
doanh nghiệp, cá nhân trong quan hệ về đất đai. Bằng hệ thống pháp luật và các
văn bản pháp quy, nhà nước xác định địa vị pháp lý cho các đối tượng sử dụng.
Trên cơ sở đó nhà nước điều chỉnh hành vi của các đối tượng sử dụng đất, hành
vi nào là hợp pháp, hành vi nào là không hợp pháp.
- Thông qua việc ban hành và thực hiện hệ thống chính sách về đất đai như
chính sách giá cả, chính sách thuế, đầu tư, chính sách tiền tệ, tín dụng... nhà
17


nước kích thích các chủ thể kinh tế, các cá nhân sử dụng đầy đủ hợp lý đất đai,
tiết kiệm đất nhằm nâng cao khả năng sinh lời của đất, để góp phần thực hiện
mục tiêu kinh tế xã hội của cả nước và để bảo vệ môi trường. Các chính sách đất
đai là những công cụ để nhà nước thực hiện vai trò quản lý trong từng giai đoạn
nhất định. Nhà nước tạo môi trường thông thoáng, cải cách các thủ tục đầu tư,
điều chỉnh các công cụ quản lý đó để tăng đầu tư vào đất.
- Thông qua việc kiểm tra, giám sát quản lý và sử dụng đất, nhà nước nắm
chắc tình hình diễn biến về sử dụng đất đai, phát hiện những vi phạm và giải
quyết những vi phạm đó. Với vai trò này, nhà nước đảm bảo cho các quan hệ sử
dụng đất đai được vận hành theo đúng quy định của nhà nước. Với việc kiểm tra
giám sát, nhà nước có nhiệm vụ phát hiện kịp thời các sai sót ách tắc, các vi
phạm trong sử dụng đất của tổ chức, hộ gia đình, cá nhân.

1.1.4 Sự cần thiết phải quản lý nhà nước về đất đai
Xuất phát từ vai trò vị trí của đất đai đối với sự sống và phát triển của xã
hội loài người nói chung, phát triển kinh tế xã hội của mỗi quốc gia nói riêng,
mà đất đai đòi hỏi phải có sự quản lý của nhà nước. Đất đai là tài sản quốc gia
thể hiện quyền lãnh thổ của quốc gia đó. Do đặc điểm đất đai có hạn về số
lượng, diện tích trên toàn cầu nói chung và từng vùng, từng quốc gia nói riêng;
nó có vị trí cố định; sự phân bố các loại đất rất đa dạng gắn liền với tính chất của
đất và điều kiện tự nhiên khác nhau…cho nên, đặc biệt mỗi quốc gia đều có sự
quản lý nhà nước đối với đất đai - nguồn tài nguyên quý giá có hạn này, nhằm sử
dụng hợp lý tiết kiệm hiệu quả cao trong việc khai thác mọi tiềm năng lợi thế
của quốc gia mình.
Vấn đề quản lý đất đai cần được xem xét trong mối quan hệ với chủ sở hữu
đất đai và người sử dụng đất đai nhằm đưa đến cho ta một cái nhìn, một quan
điểm rõ ràng xác đáng hơn về quan hệ hai chiều giữa quản lý nhà nước về đất
đai và việc thực hiện chấp hành các nội dung đó của cơ quan quản lý nhà nước
về đất đai và người sử dụng đất đai. Do tầm quan trọng của đất đai đối với sự
tồn tại, phát triển của xã hội và nó còn là sản phẩm của tự nhiên, cũng là sản
18


phẩm của xã hội, và cũng thể hiện ý chí quyền lực của bộ máy nhà nước của
mình, đại diện cho giai cấp mình cho cả quốc gia nói chung; nên là đất đai thuộc
sở hữu toàn dân do nhà nước làm đại diện sở hữu đứng ra quản lý đất đai trên
phạm vi quốc gia mình. Dù ở bất kỳ chế độ chính trị nào: Như chủ nghĩa tư bản
thì cho là đất đai thuộc sở hữu tư nhân nhưng sở hữu tư nhân đây là một phạm vi
giới hạn, không hoàn toàn mà nhà nước vẫn là người quản lý và quyết định cao
nhất nghĩa là nhà nước đại diện cho nhân dân sở hữu và quản lý đất đai. Đối với
chủ nghĩa xã hội như ở Việt Nam, Trung Quốc…thì quy định đất đai là sở hữu
toàn dân do nhà nước đứng ra làm đại diện sở hữu và quản lý; thực hiện giao đất
cho cá nhân, tổ chức, hộ gia đình sử dụng theo đúng quy định của pháp luật.

Trong nền kinh tế thị trường đất đai có giá trị- nó được coi là hàng hóa đem
ra mua bán trao đổi, một tài sản dùng để chuyển nhượng, thế chấp và thừa kế…
Cũng chính từ sự phong phú yêu cầu của cuộc sống trong đổi mới và phát triển
của nền kinh tế của đất nước đã và đang dẫn đến sự đa dạng về mục đích sử
dụng đất đai; đây là một biểu hiện tốt của việc sử dụng đất đai ngày càng có hiệu
quả hơn. Tuy vậy vẫn lẫn những vấn đề đáng quan tâm như một số cá nhân, tổ
chức lợi dụng chỗ hở của pháp luật hoặc vi phạm luật để thu lợi cho mình mà
làm thiệt hại lớn cho xã hội, cho cộng đồng, cũng như sử dụng không có hiệu
quả đất đai trên giác độ xã hội. Điều này đòi hỏi không ngừng tăng cường vai trò
quản lý nhà nước về đất đai và hoàn thiện pháp luật, đồng thời hướng dẫn thi
hành chi tiết tốt hơn pháp luật về đất đai nhằm sử dụng đất đai hợp lý hơn, tiết
kiệm hiệu quả góp phần đảm bảo xây dựng một xã hội công bằng dân chủ và
văn minh.
Như vậy nhà nước thực hiện chức năng quản lý là một đòi hỏi khách quan,
là nhu cầu tất yếu trong việc sử dụng đất đai. Nhà nước không chỉ quản lý bằng
công cụ pháp luật, các công cụ tài chính mà nhà nước còn kích thích khuyến
khích đối tượng sử dụng đất hiệu quả bằng biện pháp kinh tế. Biện pháp kinh tế
tác động trực tiếp đến lợi ích của ngưòi sử dụng đất và đây là một biện pháp hữu
hiệu trong cơ chế thị trường, nó làm cho các đối tượng sử dụng đất có hiệu quả
19


hơn, làm tốt công việc của mình, vừa bảo đảm được lợi ích cá nhân cũng như lợi
ích của toàn xã hội.
1.2 Nội dung quản lý nhà nước về đất đai.
1.2.1 Ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về quản lý, sử dụng đất đai
và tổ chức thực hiện các văn bản đó
Văn bản pháp luật về quản lý sử dụng đất là những văn bản không chỉ cung
cấp thông tin mà còn thể hiện ý chí mệnh lệnh của các cơ quan quản lý đối với
người sử dụng đất nhằm thực hiện các quy định luật lệ của Nhà nước.

Đến nay trong thực tế cho thấy bất kể việc gì trong công tác quản lý đất đai
đều phải tuân thủ theo quy định của pháp luật nên Luật Đất đai ở nhiều nước đều
đưa nội dung ban hành văn bản lên đầu tiên. Nội dung này thường bao gồm 2 vấn
đề là ban hành vản bản quy phạm pháp luật về quản lý và sử dụng đất đai (theo
thẩm quyền) và tổ chức thực hiện các văn bản đó.
Khi ban hành văn bản quy phạm pháp luật về quản lý và sử dụng đất đai, cơ
quan quản lý hành chính nhà nước về đất đai phải căn cứ vào thẩm quyền của
mình và tuân thủ theo quy định trong Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Khi tổ chức thực hiện các vản bản quy phạm pháp luật về quản lý và sử dụng
đất đai, cơ quan quản lý hành chính nhà nước về đất đai cũng phải căn cứ theo
thẩm quyền của mình mà tổ chức hướng dẫn cho các cấp quản lý bên dưới và các
chủ thể khác tham gia quan hệ pháp luật đất đai hiểu và thực hiện các văn bản đó
đạt hiệu quả cao.
Việc tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật còn phải tuyên truyền
pháp luật sử dụng đất đai cho người sử dụng hiểu và thực hiện đúng. Các cơ quan
quản lý nhà nước ngoài việc căn cứ chức năng, thẩm quyền của mình để ban hành
các văn bản hướng dẫn thực hiện mà còn phải tổ chức tập huấn, tuyên truyền các
quy định của pháp luật cho người dân trên địa bàn hiểu và thực hiện.
Như vậy, đây là nội dung quan trọng được xếp vị trí thứ nhất trong các nội
dung quản lý đất đai. Hơn ai hết người làm công tác quản lý nhà nước về đất đai
phải có ý thức rõ tầm quan trọng của nó. Để làm tốt nội dung này đòi hỏi người
20


cán bộ làm công tác quản lý nhà nước về đất đai ngoài việc theo chức năng, thẩm
quyền của minh ban hành các văn bản để cụ thể hóa và hướng dẫn thực hiện văn
bản quy phạm pháp luật về quản lý và sử dụng đất của các cấp trên còn phải chú ý
đến công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật đất đai đến người dân. Chỉ khi nào
người dân-Người chủ sử dụng đất nắm chắc được pháp luật đất đai, tức là khi sử
dụng đất họ biết được họ có những quyền gì và họ phải thực hiện những nghĩa vụ

gì? Theo quy định của pháp luật đất đai họ được làm gì và họ không được làm gì?
Khi đó, mới có thể tránh được các vi phạm pháp luật về đất đai do người sử dụng
đất không hiểu luật mắc phải.
1.2.2 Công tác kỹ thuật và nghiệp vụ địa chính
Công tác kỹ thuật và nghiệp vụ địa chính được quy định trong Chương III
từ điều 29 đến điều 34 trong Luật đất đai năm 2013
Công tác này bao gồm: xác định địa giới hành chính, lập và quản lý hồ sơ
địa giới hành chính, lập bản đồ hành chính; khảo sát, đo đạc, đánh giá, phân
hạng đất, bản đồ địa chính…đây là nội dung rất quan trọng là cơ sở để thực hiện
các nội dung sau, đồng thời nó phản ảnh hiện trạng sử dụng đất. Để nắm số
lượng, chất lượng đất đai Nhà nước phải tiến hành điều tra, khảo sát đo đạc để
nắm được quỹ đất theo từng loại đất và từng loại đối tượng sử dụng đất. Bản đồ
địa chính là bản đồ chi tiết phản ánh hiện trạng sử dụng đất, trên đó vừa thể hiện
các yếu tố kỹ thuật về thửa đất như hình thể, vị trí (tọa độ) diện tích, kích thước
các cạnh lại vừa thể hiện các yếu tố xã hội như chủ sử dụng đất, mục đích sử
dụng đất, tình trạng pháp lý về quyền sử dụng đối với thửa đất, tình trạng quy
hoạch,…Đây có thể coi là nguồn tài liệu gốc quan trọng nhất để từ đó thực hiện
các nhiệm vụ khác của công tác quản lý đất đai như thống kê đất đai, cấp giấy
chứng nhận quyền sở hữu đất (GCNQSDĐ), thu hồi đất, giải phóng mặt bằng
(GPMB),…
Công tác lập bản đồ địa chính được quy định trong điều 15 của luật đất đai.
Chính phủ chỉ đạo và tổ chức việc lập bản đồ địa chính thống nhất ứên phạm vi
cả nước. Cơ quan quản lý đất đai ở trung ương ban hành quy trinh kĩ thuật quy
21


phạm xây dựng bản đồ địa chính. UBND tỉnh trực thuộc trung ương chỉ đạo và
tổ chức việc lập bản đồ địa chính ở địa phương mình. Bản đồ địa chính đươc lập
theo đơn vị hành chính xã phường, thị trấn và là căn cứ để có thể hạn chế, ngăn
chặn các hiện tượng tranh chấp đất đai hiện nay.

1.2.3 Quản lý quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất
Quản lý quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất được quy định trong Chương IV
từ điều 35 đến điều 51 trong Luật đất đai năm 2013
Quy hoạch đất đai là sự tính toán, phân bổ đất đai một cách cụ thể về số
lượng, chất lượng, vị trí, không gian trên cơ sở khoa học nhằm phục vụ cho các
mục đích kinh tế, xã hội. Kế hoạch hóa đất đai là sự xác định các tiêu chí về sử
dụng đất đai, các biện pháp và thời hạn thực hiện quy hoạch đất đai. Trong công
tác quản lý đất đai, quy hoạch, kế hoạch hóa là một công cụ hết sức hữu hiệu,
nhất là trong nền kinh tế thị trường. Nó giúp cho việc sử dụng đất đai và các
nguồn tài nguyên thiên nhiên khác một cách tiết kiệm, có hiệu quả, giữ gìn cảnh
quan môi trường. Quy hoạch còn là công cụ phân bổ nguồn lực (kể cả vốn, lao
động, công nghệ) đồng đều ở các vùng miền trong cả nước. Quy hoạch dài hạn
về đất đai được công bố sẽ giúp các nhà đầu tư chủ động hơn trong việc hoạch
định chiến lược sản xuất kinh doanh của mình.
Quy hoạch sử dụng đất bao gồm quy hoạch tổng thể sử dụng đất trên phạm
vi cả nước, quy hoạch sử dụng đất cấp tỉnh, quy hoạch sử dụng đất cấp huyện và
quy hoạch sử dụng đất cấp xã. Quy hoạch sử dụng đất cấp trên là căn cứ để lập
quy hoạch sử dụng đất của cấp đơn vị hành chính cấp dưới trực tiếp. Nội dung
của công tác quy hoạch là: Khoanh định các loại đất trong từng địa phương và
trong phạm vi cả nước, điều chỉnh việc khoanh định nói trên cho phù hợp vói
giai doạn phát triển kinh tế xã hội. Vấn đề chú ý khi lập quy hoạch là quy hoạch
phải đảm bảo tính thống khoa học và dự báo, quy hoạch phải được công bố rộng
rãi cho công chúng biết.
Kết quả của công tác quy hoạch phải đảm bảo 3 điều kiện : Kỹ thuật, kinh
tế và pháp lý. Điều kiện về mặt kinh tế được thể hiện ở hiệu quả của việc sử
22


dụng đất, điều kiện về mặt kỹ thuật thể hiện ở các công việc chuyên môn như
điều tra, khảo sát đo đạc, xây dựng bản đồ dịa chính, điều kiện về mặt pháp lý là

quy hoạch phải tuân theo các quy định của pháp luật, theo sự phân công phân
cấp của nhà nước đối với công tác quy hoạch.
Về thẩm quyền lập quy hoạch: Chính phủ lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng
đất ừong cả nước trình quốc hội quyết định. UBND các cấp lập quy hoạch kế
hoạch sử dụng đất trong địa phương mình. Bộ quốc phòng, bộ Công an căn cứ
vào nhiệm vụ quyền hạn của mình lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất do bộ
mình phụ trách và trình chính phủ xét duyệt.
Kế hoạch sử dụng đất là chỉ tiêu cụ thể hoá quy hoạch. Công tác kế hoạch
tập trung những nguồn lực hạn hẹp vào giải quyết có hiệu những vấn đề trọng
tâm của kế hoạch trong từng thời kì. Nội dung của kế hoạch sử dụng đất là :
Khoanh định việc sử dụng từng loại đất trong từng thời kì kế hoạch và điều
chỉnh kế hoạch sử dụng đất cho phù hợp với quy hoạch.
1.2.4 Quản lý việc giao đất, cho thuê đất, thu hồi và chuyển mục đích sử dụng
đất
Quản lý việc giao đất, cho thuê đất và chuyển mục đích sử dụng đất, được
quy định trong Chương V từ điều 52 đến điều 60 trong Luật đất đai năm 2013.
Thu hồi đất được quy định trong Chương VI từ điều 61 đến điều 71 trong Luật
đất đai năm 2013
Giao đất và cho thuê đất là những hình thức nhà nước giao quyền sử dụng
đất cho người sử dụng đất. Chuyển đổi mục đích sử dụng đất và thu hồi đất là
việc nhà nước thực hiện quyền định đoạt của mình đối với đất đai, nhà nước cho
phép chuyển từ mục đích sử dụng này sang mục đích khác hoặc thu hồi của chủ
sử dụng này để giao cho chủ sử dụng khác hay sử dụng vào mục đích công
cộng. Việc giao quyền sử dụng đất được đi kèm với một số công cụ quản lý
khác, đó là hạn mức đất và thời hạn sử dụng đối với từng loại đất và từng nhóm
chủ thể sử dụng đất. Về bản chất giao đất và cho thuê đất không có gì khác biệt.
Hiện nay nhà nước ta đang áp dụng hình thức giao đất có và không thu tền sử
23



dụng đất. Trong giao đất có thu tiền sử dụng đất lại có thể thông qua hình thức
thu theo giá nhà nước quy định hoặc thông qua đấu giá đất (giá sàn không thấp
hơn giá nhà nước quy định). Đối với hình thức thuê đất thì có thể thuê đất trả
tiền thuê đất hàng năm hoặc trả tiền thuê một lần cho toàn bộ thời gian thuê.
Thu hồi đất: Nhà nước thu hồi toàn bộ hoặc một phần đất đã giao sử dụng
trong những trường hợp sau: Tổ chức sử dụng đất bị giải thể, phá sản chuyển đi
nơi khác giảm như cầu sử dụng đất; Cá nhân sử dụng đất bị chết mà không có
người được quyền tiếp tục sử dụng đất; Người sử dụng đất tự nguyện trả lại đất
được giao; Đất không được sử dụng trong 12 tháng liền mà không được cơ quan
Nhà nước có thẩm quyền giao đất cho phép; Người sử dụng đất cố ý không thực
hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước; Đất sử dụng không đúng mục đích đượcc giao;
Đất được giao không đúng thẩm quyền…Trong trường hợp Nhà nước thu hồi
đất đang sử dụng của người sử dụng đất để sử dụng vào mục đích quốc phòng an
ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng bị thu hồi đất được đền bù thiệt hại, còn
các trường hợp khác áp dụng hình thức tự thỏa thuận giữa các đối tượng sử dụng
đất (về bản chất là chuyển nhượng quyền sử dụng đất). Trong một số trường hợp
đặc biệt, khẩn cấp nhà nước có thể áp dụng hình thức trưng dụng đất. Cơ quan
nhà nước nào có thẩm quyền giao loại đất nào thì có thẩm quyền thu hồi loại đất
đó.
1.2.5 Đăng ký đất đai, lập và quản lý hồ sơ địa chính, cấp Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất;
Thống kê, kiểm kê đất đai
Đăng ký đất đai, lập và quản lý hồ sơ địa chính, cấp Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất, được
quy định trong Chương VII từ điều 95 đến điều 106 trong Luật đất đai năm
2013.
Công tác đăng ký đất đai, lập và quản lý hồ sơ địa chính, cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất là biện pháp Nhà nước nhằm theo dõi tình hình sử dụng
và biến động thường xuyên của đất đai, đồng thời thiết lập quyền sử dụng đất
24



hợp pháp của người sử dụng đất, tạo cơ sở pháp lý cần thiết để người sử dụng
đất và cơ quan quản lý đất đai thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của mình.
Công tác đăng ký quyền sử dụng đất được tiến hành đối với toàn bộ các chủ sử
dụng đất trên địa bàn, không phân biệt chủ sử dụng, mục đích và nguồn gốc sử
dụng đất. Nội dung công tác nhằm thống kê và quản lý toàn bộ quỹ đất hiện
đang được sử dụng của địa phương.
Đăng ký quyền sử dụng đất, lập và quản lý hồ sơ địa chính, cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất là một thủ tục pháp lý trong lĩnh vực quản lý đất đai,
nhằm thiết lập quyền sử dụng đất hợp pháp của người sử dụng đất, tạo cơ sở
pháp lý cần thiết để người sử dụng đất và cơ quan quản lý đất đai thực hiện đầy
đủ các quyền và nghĩa vụ của mình.
Đối với Nhà nước: đăng ký đất đai là một công cụ giúp Nhà nước nắm chắc
và quản lý chặt tài nguyên đất đã giao cho người sử dụng đất. Thông qua đó,
Nhà nước sẽ tiến hành các biện pháp quản lý đất đai có hiệu quả và bảo vệ
quyền lợi hợp pháp của người sử dụng đất.
Đối với người sử dụng đất: Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là chứng
thư pháp lý công nhận quyền sử dụng đất hợp pháp của người sử dụng đất, tạo
điều kiện để họ yên tâm sản xuất, khai thác sử dụng đất có hiệu quả cao và thực
hiện đầy đủ nghĩa vụ đối với Nhà nước theo pháp luật.
1.2.6 Quản lý tài chính về đất đai
Quản lý tài chính về đất đai, được quy định trong Chương VII từ điều 107
đến điều 119 trong Luật đất đai năm 2013.
Là việc sử dụng công cụ tài chính để quản lý đất đai, nó không chỉ đơn
thuần là quản lý giá đất, các khoản thu từ đất để tăng thu ngân sách mà còn là
công cụ để khuyến khích sử dụng đất một cách hợp lý, tiết kiệm và ngày càng
hiệu quả. Đồng thời điều tiết và quản lý quyền sử dụng đất nói riêng, thị trường
bất động sản nói chung nhằm phát triển thị trường này một cách lành mạnh, hiệu
quả và bền vững, góp phần ngăn chặn nạn đầu cơ đất đai, đảm bảo công bằng về

tài chính trong sử dụng đất và phân phối nguồn tài nguyên đất. Nhiệm vụ của
25


×