Tải bản đầy đủ (.doc) (114 trang)

luan van thac sy quan tri kinh doanh: giai phap nang cao hieu qua san xuat kinh doanh cua cong ty co phan xuat khau thuy san ii 1376096242

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (542.02 KB, 114 trang )

PHẦN I: MỞ ĐẦU
1.1 Tính cấp thiết đề tài :
Thủy sản là nguồn thực phẩm giầu vitamin, dễ tiêu hóa có giá trị dinh
dưỡng cao và có tính biệt dược nên từ lâu sản phẩm thủy sản luôn đóng vai
trò quan trọng trong thực đơn hàng ngày của mỗi gia đình người việt nói riêng
và tất cả các quốc gia nói chung. Để đáp ứng nhu cầu dinh dưỡng ngày càng
tăng của con người thì việc chế biến và xuất khẩu thủy sản đang là chiến lược
của mỗi quốc gia có tiềm năng phát triển ngành thủy sản.
Việt Nam co điều kiện tự nhiên rất thuận lợi để phát triển ngành thủy
sản. có bờ biển dài với tiền năng vô cùng dồi dào về mặt nước và tài nguyên
sinh vật biển rất đa dạng
Từ khi chuyển sang nền kinh tế thị trường nước ta đã đạt được những
thành tựu to lớn trong nhiều lĩnh vực và đặc biệt là trong việc phát triển kinh
tế - trong đó ngành thủy sản đóng vai trò quan trọng và có những bước phát
triển không ngừng. Các chỉ tiêu chủ yếu đề ra trong chiến lược phát triển kinh
tế xã hội đã hoàn thành vượt mức, được xếp vào ngành có tốc độ tăng trưởng
cao và có giai đoạn nó được Đảng và nhà nước xác định là ngành kinh tế mũi
nhọn của cả nước. Hàng năm ngành thủy sản đem lại cho nước ta một khoản
kim ngạch đáng kể và giá trị này tăng nhanh qua các năm góp phần giải quyết
việc làm đáng kể cho xã hội.
Công ty cổ phần xuất khẩu thủy sản II là doanh nghiệp nhà nước hách
toán độc lập, hoạt động theo cơ chế thị trường phương hướng hoạt động của
các doanh nghiệp là chế biến các sản phẩm thủy sản để phục vụ xuất khẩu là
chủ yếu. Trong những năm qua các doanh nghiệp đã đầu tư nâng cấp hệ thống
máy móc thiệt bị nhà xưởng lên tới hàng chục tỷ đồng để phục vụ cho sản

1


xuất. Đặc biệt công ty đã được đầu dây chuyễn công nghệ cao cho chế biến
thủy sản xuất khẩu tạo ra những sản phẩm có chất lượng tôt.


Tuy nhiên bên cạnh những kết quả đạt được đáng khích lệ trên hiện nay công
ty đang đứng trước sự cạnh tranh gay gắt với các doanh nghiệp cùng ngành
trong tỉnh và các địa phương lân cận. Muốn tạo ra nguồn nguyên liệu đầu vào
ổn định cung cấp cho chế biến xuất khẩu đòi hỏi phải có sự liên kết chặt chẽ
với các hộ nuôi, doanh nghiệp nuôi trồng và cả các ngư dân, doanh nghiệp
đánh bắt không chỉ ở trong tỉnh mà còn phải phát triển các các tỉnh miền trung
và miền nam. Bên cạnh đó doanh nghiệp phải phát triển thị trường tiêu thụ,
phát triển các mặt hàng có chất lượng cao cải tiến công tác quản lý. Áp dụng
kỹ thuật mới để giảm gía thành tăng sức cạnh tranh của sản phẩm.
Để các doanh nghiệp nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh thì việc
phân tích đánh giá đúng thực trạng, chỉ ra những tồn tại và các nhân tố ảnh
hưởng đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp nhằm giúp
các doanh nghiệp thấy được những điểm mạnh điểm yếu cơ sở đó đưa ra các
biện pháp giải pháp khắc phục điểm yếu và phát huy những điểm mạnh của
mình để đạt được hiệu quả cao hơn trong tương lai
Từ những thực tiễn trên và được sự đồng ý của doanh nghiệp chúng tôi tiến
hành nghiên cứu đề tài “Giải pháp nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh
của công ty cổ phần xuất khẩu thuỷ sản II”
1.2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
1.2.1 Mục tiên chung
Đánh giá đúng đắn kết quả và hiệu quả sản xuất kinh doanh tại công ty
cổ phần xuất khẩu thuỷ sản II để đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu
quả sản xuất kinh doanh của công ty.
1.2.2 Mục tiêu cụ thể
Góp phần hệ thống hoá cơ sở lý luận và thực tiễn về các hoạt động xuất
khẩu hàng hoá nói chung và xuất khẩu thuỷ sản nói riêng
2


* Góp phần hệ thống hoá cơ sở lý luận về hiệu quả sản xuất kinh

doanh trong ngành nói chung và hiệu quả sản xuất kinh doanh trong công ty
nói riêng.

* Đánh giá đúng thực trạng hiệu quả sản xuất kinh doanh của

công ty cổ phần xuất khẩu thuỷ sản II. Từ đó tìm những nguyên nhân ảnh
hưởng đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của công ty
+ Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất kinh doanh
của công ty cổ phần xuất khẩu thuỷ sản II.
+ Đinh hướng và đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả xuất khẩu
thuỷ sản đông lạnh tỉnh Quảng Ninh một cách bền vững.
1. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
* Đối tượng nghiên cứu của đề tài
Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận, thực tiễn về hiệu quả sản
xuất kinh doanh của công ty cổ phần xuất khẩu thuỷ sản II - Quảng Ninh.
* Phạm vị nghiên cứu của đề tài
+ Phạm vị về không gian : Công ty cổ phần xuất khẩu thuỷ sản II Quảng Ninh.
+ Phạm vị về nội dung: Hiệu quả sản xuất kinh doanh của Công ty cổ
phần xuất khẩu thuỷ sản II - Quảng Ninh.
+ Phạm vị về thời gian: Dự kiến ít nhất là 3 năm (2007 - 2009). Điều tra
thực trạng năm 2010 và dự báo năm đến năm 2015

3


PHẦN II: TỔNG QUAN TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU
2.1. Những vấn đề chung về hiệu quả kinh tế
2.1.1. Khái niệm về hiệu quả kinh tế
1.1.1.1. Khái niệm về hiệu quả kinh tế
Hiệu quả là một phạm trù trọng tâm cơ bản của khoa học kinh tế và

khoa học quản lý. Hiệu quả là phạm trù phản ánh trình độ lợi dụng các nguồn
lực để đạt được kết quả nhất định. Song việc phân tích, đánh giá nâng cao
hiệu quả là một vấn đề hết sức khó khăn và phức tạp mà nhiều vấn đề lý luận
và thực tiễn chưa giải quyết tốt. [5]
Hiệu quả kinh tế (HQKT) là một phạm trù phản ánh chất lượng của các
hoạt động kinh tế. Theo ngành thống kê định nghĩa thì HQKT là phạm trù
kinh tế, biểu hiện của sự tập trung phát triển theo chiều sâu, phản ánh trình độ
khai thác các nguồn lực và sự chi phí các nguồn lực trong quá trình sản xuất.
Nâng cao HQKT là một tất yếu của mọi nền sản xuất xã hội, yêu cầu của công
tác quản lý kinh tế buộc phải nâng cao chất lượng các hoạt động kinh tế làm
xuất hiện phạm trù HQKT. Nền kinh tế của mỗi quốc gia đều phát triển theo
hai chiều: chiều rộng và chiều sâu, phát triển theo chiều rộng là huy động mọi
nguồn lực vào sản xuất, tăng đầu tư chi phí vật chất, lao động, kỹ thuật, mở
mang thêm nhiều ngành nghề, xây dựng thêm nhiều nhà máy, xí nghiệp. Phát
triển theo chiều sâu là đẩy mạnh việc áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật
và công nghệ sản xuất, tiến hành hiện đại hoá, tăng cường chuyên môn hoá và
hợp tác hoá, nâng cao trình độ sử dụng các nguồn lực, chú trọng chất lượng
sản phẩm và dịch vụ. Phát triển theo chiều sâu là nhằm nâng cao HQKT.
HQKT là tiêu chuẩn cao nhất của mọi sự lựa chọn kinh tế của các tổ chức
kinh tế trong nền kinh tế thị trường có sự quản lý của NN. [6]

4


Khái niệm HQKT đã được các tác giả Đỗ Kim Chung, Phạm Vân Đình
[6]...bàn đến. Các tác giả này đều thống nhất cần phân biệt rõ 3 khái niệm cơ
bản về hiệu quả: hiệu quả kỹ thuật, hiệu quả phân bổ các nguồn lực, hiệu quả
kinh tế.
Hiệu quả kỹ thuật là số lượng sản phẩm có thể đạt được trên một đơn vị
chi phí đầu vào hay nguồn lực sử dụng cho sản xuất trong điều kiện cụ thể về

kỹ thuật hay công nghệ áp dụng và nông nghiệp. Hiệu quả kỹ thuật được áp
dụng phổ biến trong kinh tế vĩ mô để xem xét tình hình sử dụng các nguồn
lực cụ thể. Hiệu quả này thường được phản ánh trong quan hệ các hàm sản
xuất.
Hiệu quả phân bổ là chỉ tiêu hiệu quả trong đó các yếu tố giá sản phẩm
và giá đầu vào được tính để phản ánh giá trị sản phẩm thu thêm trên một đơn
vị chi phí tăng thêm về đầu vào hay nguồn lực. Thực chất của hiệu quả phân
bổ là hiệu quả kỹ thuật có tính đến các yếu tố về giá của đầu vào và giá của
đầu ra.
Hiệu quả kinh tế là phạm trù kinh tế trong đó sản xuất đạt cả hiệu quả
kỹ thuật và hiệu quả phân bổ. Có nghĩa là cả hai yếu tố hiện vật và giá trị phải
tính đến khi xem xét việc sử dụng các nguồn lực. Chỉ khi nào việc sử dụng
nguồn lực đạt cả chỉ tiêu hiệu quả kỹ thuật và hiệu quả phân bổ thì khi đó sản
xuất mới đạt hiệu quả kinh tế.
Như vậy: HQKT là những chỉ tiêu đánh giá kết quả của quá trình sử
dụng các nguồn lực tự nhiên và con người trong sản xuất kinh doanh của bất
kỳ một loại hình sản xuất nào. Trong nền kinh tế thị trường, người sản xuất
hàng hoá luôn luôn quan tâm làm gì và làm như thế nào để sản phẩm hàng
hoá làm ra có giá thành hạ, lợi nhuận thu về tối đa, chiếm lĩnh thị trường một
cách nhanh nhất.
2..1.1.2. Các quan điểm về hiệu quả kinh tế

5


Từ các góc độ nghiên cứu kinh tế khác nhau mà các nhà kinh tế đã đưa
ra nhiều quan điểm về hiệu quả.
- Quan điểm 1: Hiệu quả kinh tế là kết quả đạt được trong hoạt động kinh
tế là doanh thu trong tiêu thụ hàng hoá. Quan điểm này ngày nay không phù
hợp bởi vì nếu cùng một kết quả sản xuất nhưng hai mức chi phí khác nhau

thì hiệu quả cũng khác nhau.[5]
- Quan điểm 2: Hiệu quả kinh tế được xác định bằng nhịp độ tăng tổng
sản phẩm xã hội hoặc tổng sản phẩm quốc dân. Hiệu quả sẽ cao khi nhịp độ
tăng của các chỉ tiêu đó cao. Quan điểm này không thoả mãn vì trên thực tế
những yếu tố bên trong và bên ngoài của nền kinh tế có những ảnh hưởng
khác nhau.[5]
- Quan điểm 3: Hiệu quả kinh tế là thước đo độ hữu ích của sản phẩm
được sản xuất ra, tức là thước đo giá trị sử dụng chứ không phải là giá trị.
Quan điểm này không thuyết phục bởi vì giá trị sử dụng của mỗi sản phẩm
tuỷ thuộc vào công dụng sản phẩm và nhu cầu người sử dụng đối với sản
phẩm đó, mặt khác không thể so sánh được các sản phẩm khác nhau nếu chỉ
căn cứ vào giá trị sử dụng của sản phẩm.[5]
-Quan điểm 4: HQKT là mức độ thoả mãn yêu cầu của quy luật kinh tế
cơ bản của chủ nghĩa xã hội, cho rằng quỹ tiêu dùng với tính cách là chỉ tiêu
đại diện cho mức sống nhân dân là chỉ tiêu phản ánh hiệu quả của nền sản
xuất xã hội, quan điểm này có ưu điểm là bám sát mục tiêu của nền sản xuất
XHCN là không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.
Song khó khăn ở đầy là phương tiện đo lường thể hiện tư tưởng định hướng
đó. [7]
-Quan điểm 5: HQKT là một chỉ tiêu so sánh biểu hiện mức độ tiết
kiệm chi phí trong một đơn vị kết quả hữu ích và mức tăng khối lượng kết quả
hữu ích của hoạt động sản xuất vật chất trong cùng 1 thời kỳ, góp phần làm
tăng thêm lợi ích xã hội của nền kinh tế quốc dân. Quan điểm này đã gắn kết
6


quả với chi phí, coi hiệu quả là sự phản ánh trình độ sử dụng chi phí, nhưng
lại chưa rõ ràng và thiếu tính khả thi ở phương diện ấn định và tính toán. [7]
Có nhiều quan điểm về hiệu quả do đó việc xác định bản chất và khái
niệm hiệu quả cần xuất phát từ những quan điểm triết học Mác và những luận

điểm của lý thuyết hệ thống để có cách nhìn nhận và đánh giá đúng.
- Quan điểm Maxit cho rằng: bản chất của hiệu quả là thực hiện yêu cầu
của quy luật tiết kiệm thời gian, biểu hiện quy luật trình độ sử dụng nguồn lực
xã hội. Quy luật tiết kiệm thời gian là quy luật có tầm quan trọng đặc biệt, tồn
tại trong nhiều phương thức sản xuất, mọi hoạt động của con người đều tuân
theo quy luật đó, nó quyết định động lực phát triển của lực lượng sản xuất, tạo
điều kiện nâng cao đời sống con người và phát triển văn minh nhân loại. [5,7]
- Theo quan điểm của lý thuyết hệ thống thì nền sản xuất xã hội là một
hệ thống các yếu tố sản xuất và quan hệ sản vật chất hình thành giữa con
người với con người trong quá trình sản xuất. Bởi vì hệ thống sản xuất xã hội
bao gồm trong nó có các quá trình sản xuất mà mục tiêu khái quát của nó là
sản xuất các phương tiện bảo tồn và tiếp tục đời sống xã hội. Việc bảo tồn và
tiếp tục đời sống xã hội đáp ứng các nhu cầu xã hội, nhu cầu của con người là
những yêu cầu khách quan phản ánh mối liên hệ nhất định của con người với
môi trường bên ngoài, đó là quá trình trao đổi vật chất, năng lượng giữa sản
xuất xã hội và môi trường.[7]
- Hiệu quả là một phạm trù phản ánh yêu cầu của quy luật tiết kiệm thời
gian. Quy luật này hoạt động trong nhiều phương thức sản xuất vì phạm trù
này cũng tồn tại trong nhiều phương thức sản xuất. Ở đâu và lúc nào con
người cũng muốn hoạt động có hiệu quả. Trong kinh tế, hiệu quả là mục tiêu
không phải là mục tiêu cuối cùng mà là mục tiêu phương tiện, xuyên suốt mọi
hoạt động kinh tế. Trong kế hoạch hiệu quả là quan hệ so sánh tối ưu giữa đầu
ra và đầu vào,là lợi tích lớn nhất thu được với 1 chi phí nhất định hoặc một
kết quả nhất định với chi phí nhỏ nhất. Trong phân tích kinh tế, hiệu quả kinh
7


tế được phản ánh thông qua các chỉ tiêu đặc trưng kinh tế kỹ thuật xác định
bằng cách so sánh giữa đầu vào và đầu ra của hệ thống sản xuất xã hội phản
ánh trình độ sả dụng các nguồn lực vào việc tạo ra các lợi ích nhằm đạt được

các mục tiêu kinh tế xã hội.
Quan điểm hiệu quả trong điều kiện hiện nay là phải thoả mãn các vấn
đề về tiết kiệm thời gian lao động xã hội, tài nguyên, nguồn lực trong sản xuất
mang lại lợi ích xã hội và bảo vệ môi trường. Vì vậy hiệu quả của một quá
trình nào đó cần được đánh giá hoàn thiện cả 3 khía cạnh: hiệu quả kinh tế,
hiệu quả xã hội và hiệu quả môi trường.
Từ những quan điểm và luận điểm trên cho thấy quá trình sản xuất là sự
liên hệ mật thiết giữa các yếu tố nguồn lực đầu vào và lượng sản phẩm đầu ra,
kết quả của mối quan hệ này thể hiện tính hiệu quả của sản xuất. Với cách xem
xét này, hiện nay có nhiều ý kiến thống nhất với nhau. Như vậy HQKT ở trong
phương thức sản xuất khác nhau, ở các nền sản xuất khác nhau thì khác nhau,
tuỳ từng trường hợp cụ thể mà lựa chọn các chỉ tiêu phản ánh cho phù hợp.
2.1.2.Bản chất của hiệu quả kinh tế
Thực chất của hiệu quả kinh tế là vấn đề nâng cao hiệu quả sử dụng các
nguồn lực sản xuất kinh doanh và tiết kiệm chi phí các nguồn lực đó. Hay bản
chất của hiệu quả kinh tế là nâng cao năng suất lao động xã hội và tiết kiệm
lao động xã hội, hai mặt này có mối quan hệ mật thiết, gắn liền với hai quy
luật tương ứng của nền sản xuất xã hội, là quy luật tăng năng suất lao động và
quy luật tiết kiệm nguồn lực tài nguyên.
Cần phải phân biệt rõ sự khác nhau giữa kết quả và hiệu quả:
Kết quả phản ánh về mặt định lượng, mục tiêu đạt được bằng hệ thống
các chỉ tiêu kế hoạch đề ra, không đề cập đến cách thức, chi phí bỏ ra để đạt
được mục tiêu đó. Bản thân kết quả không thể hiện chất lượng.
Hiệu quả thể hiện một cách toàn diện trên mặt định lượng và định tính.
Về định lượng, hiệu quả thể hiện rõ mối tương quan giữa chi phí (đầu vào) và
8


kết quả (đầu ra). Về mặt định tính, hiệu quả không chỉ thể hiện các con số cụ
thể mà còn thể hiện các nguyên nhân mang tính định tính để đạt được con số

đó, phản ánh được sự nhất trí và khả năng đóng góp của các mục tiêu trên
thành phần vào mục tiêu chung.
Như vậy bản chất của hiệu quả chính là hiệu quả của lao động xã hội và
được xác định bằng tương quan so sánh giữa lượng kết quả hữu ích thu được
với lượng hao phí lao động xã hội. Thước đo hiệu quả là sự tiết kiệm hao phí
lao động xã hội, còn tiêu chuẩn của hiệu quả là sự tối đa hoá kết quả và tối
thiểu hoá chi phí trong điều kiện nguồn tài lực nhất định.
HQKT phản ánh trình độ thực hiện các nhu cầu của xã hội còn mục
đích cuối cùng của sản xuất là đáp ứng những nhu cầu vật chất, tinh thần cho
xã hội. Do đó, hiệu quả không phải là mục đích cuối cùng của sản xuất vì vậy
việc nghiên cứu HQKT không những để đánh giá mà còn là cơ sở để tìm ra
các giải pháp phát triển sản xuất với trình độ cao hơn.
2.1.3.Ý nghĩa của nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh
- Nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh không những là thước đo chất
lượng của sản xuất mà còn phản ánh trình độ tổ chức, trình độ quản lý kinh
doanh của doanh nghiệp. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường ngày càng
mở rộng, doanh nghiệp muốn tồn tại và tiếp tục vươn lên thì trước hết đòi hỏi
doanh nghiệp phải kinh doanh có hiệu quả. Hiệu quả kinh doanh càng cao thì
doanh nghiệp ngày càng có điều kiện mở mang và phát triển kinh tế, đầu tư
mua sắm máy móc thiết bị, phương tiện kỹ thuật và quy trình công nghệ mới,
cải thiện nâng cao đời sống của người lao động, thực hiện tốt nghĩa vụ đối với
ngân sách nhà nước. [4]
Không ngừng nâng cao hiệu quả không chỉ là mối quan tâm hàng đầu
của bất kỳ xã hội nào mà còn là mối quan tâm của bất kỳ ai khi làm bất kỳ
việc gì. Đó cũng là vấn đề bao trùm và xuyên suốt, thể hiện chất lượng công

9


tác quản lý kinh tế, bởi vì suy cho cùng quản lý kinh tế là để đảm bảo tạo ra

kết quả và hiệu quả cao nhất của mọi quá trình.
Mọi giai đoạn và mọi hoạt động kinh doanh. Tất cả những cải tiến,
những đổi mới về nội dung phương pháp và biện pháp áp dụng trong quản lý
thực sụ mang lại ý nghĩa khi và chỉ khi chúng làm tăng kết quả kinh doanh mà
qua đó làm tăng được hiệu qảu sản xuất cho doanh nghiệp.
- Mục tiêu phấn đấu của mỗi cá nhân, mỗi đơn vị là nâng cao năng
suất lao động, chất lượng và hiệu quả. Trong đó hiệu quả kinh doanh ngày
càng là biểu hiện trung tâm. Bởi lẽ hiệu quả kinh doanh chỉ có thể đạt được
trên cơ sở nâng cao năng suất lao động và chất lượng công tác. [4]
- Hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp phải được xem xét một cách
toàn diện cả về thời gian và khôn gian trong mối quan hệ với hiệu quả chung
toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Hiệu quả đó bao gồm hiệu quả kinh tế và hiệu
quả xã hội. [4]
2..1.4.Sự cần thiết nâng cao hiệu quả kinh tế
Hiệu quả hoạt động kinh doanh là công cụ hữu hiệu để các nhà quản trị
thực hiện chức năng của mình. Việc tính toán và xem xét hiệu quả hoạt động
sản xuất kinh doanh không những chỉ cho biết việc sản xuất đạt ở trình độ nào
mà còn cho phép các nhà quản trị phân tích, tìm ra các nhân tố để đưa ra các
biện pháp thích hợp trên cả hai phương diện tăng kết quả và giảm chi phí kinh
doanh nhằm nâng cao hiệu quả. [8]
Hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh còn là biểu hiện của sự lựa chọn
phương án sản xuất kinh doanh. Khi đứng trước mỗi quyết định kinh doanh,
các nhà quản trị thường phải đảm bảo mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận và phù
hợp với điều kiện hiện tại của doanh nghiệp có tính đến các yếu tố kinh tế xã
hội khác. Đây cũng chính là thước đo trình độ của các nhà quản trị. [8]
Ngoài những chức năng trên, sự cần thiết của nâng cao hiệu quả hoạt
động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp còn được thể hiện thông qua vai
10



trò quan trọng của nó đối với sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp trong
nền kinh tế thị trường:
Thứ nhất: Nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh là cơ sở cơ
bản để đảm bảo sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Do yêu cầu của sự
tồn tại và phát triển nên các doanh nghiệp phải đảm bảo có lợi nhuận và lợi
nhuận đó phải không ngừng tăng theo thời gian. Nhưng trong điều kiện các
nguồn lực ngày càng khan hiếm như hiện nay thì để tăng lợi nhuận đòi hỏi các
doanh nghiệp phải nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. [8]
Ta cũng có thể nhìn nhận vấn đề này như sau: Sự tồn tại của doanh
nghiệp được xác định bởi sự tạo ra hàng hoá, của cải vật chất và các dịch vụ
phục vụ cho nhu cầu của xã hội, đồng thời tạo ra tích luỹ cho xã hội. Để làm
được như vậy thì mỗi doanh nghiệp phải vươn lên để đảm bảo thu nhập đủ bù
đắp chi phí bỏ ra và phải có lãi. Có như vật mới đáp ứng được nhu cầu tái sản
xuất trong nền kinh tế. Vì vậy, chúng ta buộc phải nâng cao hiệu quả một cách
liên tục trong mọi khâu của quá trình sản xuất kinh doanh, đây là một việc làm
tất yếu. Tuy nhiên, sự tồn tại mới chỉ là một yêu cầu mang tính chất giản đơn
còn sự phát triển và mở rộng doanh nghiệp mới là yêu cầu quan trọng.
Thứ hai: Nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh là nhân tố
thúc đẩy sự cạnh tranh và tiến bộ trong kinh doanh. Chính sự thúc đẩy cạnh
tranh đòi hỏi các doanh nghiệp phải tự tìm tòi, đầu tư tạo nên sự tiến bộ trong
kinh doanh. [8]
Chấp nhận cơ chế thị trường là chấp nhận cạnh tranh. Khi thị trường
ngày càng phát triển thì cạnh tranh giữa các doanh nghiệp càng gay gắt và
khốc liệt hơn. Cạnh tranh lúc này không chỉ đơn thuần là cạnh tranh về số
lượng hàng hoá mà là cạnh tranh về chất lượng sản phẩm, giá cả. mẫu mã, chế
độ ưu đãi với khách hàng... Khi mục tiêu của doanh nghiệp đều là phát triển
và mở rộng thị trường thì việc có doanh nghiệp thành công, doanh nghiệp thất
bại là điều không thể tránh khỏi. Để có thể tồn tại và không ngừng phát triển
11



thì hàng hoá, dịch vụ của doanh nghiệp phải có chất lượng tốt, giá cả hợp lý,
mẫu mã phong phú, đây cũng chính là động lực thúc đẩy doanh nghiệp tiến bộ
không ngừng.
Thứ ba: Việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh chính là nhân tố
cơ bản tạo ra sự thắng lợi của doanh nghiệp trong quá trình hoạt động trên thị
trường. Điều này là hoàn toàn dễ hiểu, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh
sẽ là tiền đề để doanh nghiệp cải thiện mọi mặt, từ trang thiết bị sản xuất,
công nghệ sản xuất, mẫu mã, chủng loại sản phẩm đến chất lượng sản phẩm,
giá thành,... Tất cả sự thay đổi trên đều làm cho thế đứng của doanh nghiệp
trên thị trường vững chắc hơn, ảnh hưởng rộng hơn và thắng lợi trên thị
trường là điều không cần bàn cãi nhiều. [8]
Nâng cao hiệu quả SXKD là nhiệm vụ trọng tâm có tính quyết định đến
sự tồn tại và phát triển của DN. Nó chính là điều kiện để mở rộng sản xuất đổi
mới công nghệ và góp phần cải thiện đời sống vật chất, tinh thần của người
lao động.
2.1.5. Phân loại hiệu quả
*Căn cứ vào nội dung và bản chất của hiệu quả:
 Hiệu quả kinh tế thể hiện mối quan hệ giữa kết quả đạt được về mặt
kinh tế và chi phí bỏ ra để đạt được kết quả đó, là khâu trung tâm của tất cả
các loại hiệu quả, có vai trò quyết định đối với các loại hiệu quả khác
 Hiệu quả xã hội thể hiện mục tiêu hoạt động của con người, phản ảnh
trình độ lợi dụng các nguồn lực nhằm đạt được các mục tiêu về xã hội nhất
định. Hiệu quả xã hội thường khó lượng hoá được rõ ràng mà chỉ đánh giá
mang tính chất định tính như các mục tiêu trên.
 Hiệu quả môi trường: là hiệu quả của việc thay đổi môi trường do các
tác động kinh tế gây ra. Hiệu quả môi trường chủ yếu cũng chỉ đánh giá mang

12



tính chất định tính như: phủ xanh đất trống đồi núi trọc, chống ô nhiễm đất
đai, nước, không khí, đảm bảo vệ sinh môi trường.
*Căn cứ vào phạm vi và đối tượng các hoạt động kinh tế phân thành:
 Hiệu quả kinh tế quốc dân: là HQKT tính chung trên phạm vi quy mô
toàn bộ nền kinh tế
 Hiệu quả kinh tế ngành: là HQKT xác định riêng đối với trong ngành
sản xuất vật chất như: công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp nông thôn, nông
nghiệp thương mại, dịch vụ....
 Hiệu quả kinh tế theo vùng, lãnh thổ là HQKT được tính toán, xem xét
và phân tích theo từng vùng, từng địa phương riêng biệt....
 Hiệu quả kinh tế theo đơn vị sản xuất được tính toán cho các doanh
nghiệp, công ty, trang trại, hộ nông dân...
*Căn cứ vào yếu tố cơ quản của quá trình sản xuất và phương thức tác
động vào sản xuất phân thành:
 Hiệu quả sử dụng vốn
 Hiệu quả sử dụng đất đai
 Hiệu quả sử dụng máy móc thiết bị
 Hiệu quả các biện pháp khoa học quản lý, kỹ thuật.
Ngoài ra tuỳ theo mục đích phân tích và đặc điểm của từng quá trình
sản xuất kinh doanh mà HQKT có thể được xem trong khoảng thời gian ngắn,
dài khác nhau: quý, năm, tháng...
2.1.6. Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh
Hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp chịu sự tác động của rất
nhiều yếu tố. Việc nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến kết quả hoạt động sản
xuất kinh doanh nhằm thấy được sự tác động của những nhân tố đó để xây dựng
chiến lược cho doanh nghiệp nhằm tận dụng những thuận lợi và có biện pháp
khắc phục những khó khăn góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh.
13



2.1.6.1. Các nhân tố ngoài doanh nghiệp
a. Môi trường ngành [9]
* Sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong ngành
Tác động đến doanh nghiệp hai chiều: hoặc doanh nghiệp sẽ nhanh
chóng tiến bộ hoặc doanh nghiệp sẽ thua lỗ và bị đào thải, việc này còn tùy
thuộc bản thân doanh nghiệp đó.
* Khả năng gia nhập mới của các doanh nghiệp
Khả năng gia nhập mới của các doanh nghiệp tiềm ẩn luôn có thể xảy
ra nếu doanh nghiệp tiềm ẩn có khả năng trên lĩnh vực mà họ chuẩn bị gia
nhập. Đây là mối đe doạ không nhỏ đối với các doanh nghiệp đang tồn tại.
* Nhà cung ứng
Nếu nhà cung ứng cung cấp những đầu vào kém chất lượng, giá cả
cao, khối lượng không đảm bảo thì thực sự là mối nguy hại lớn cho doanh
nghiệp. Nhưng nếu doanh nghiệp quá phụ thuộc vào nhà cung ứng thì doanh
nghiệp sẽ bị động, hiệu quả sản xuất kinh doanh không được đảm bảo.
* Sức ép về giá cả của người mua
Người mua được xem là sự đe doạ mang tính cạnh tranh khi họ đẩy giá
cả xuống hoặc khi họ yêu cầu chất lượng sản phẩm, dịch vụ cao hơn làm tăng
chi phí lên. Ngược lại, khi người mua yếu thế, doanh nghiệp sẽ có cơ hội đẩy
giá lên, kiếm được nhiều lợi nhuận hơn.
*Sản phẩm thay thế
Sự tồn tại những sản phẩm thay thế hình thành một sức ép cạnh tranh
rất lớn. Nó giới hạn mức giá một công ty có thể định ra và do đó giới hạn mức
lợi nhuận của công ty.
b. Môi trường kinh tế [9]
Môi trường kinh tế có thể tạo ra tính hấp dẫn về thị trường và sức mua
khác nhau đối với thị trường hàng hoá khác nhau. Khi nền kinh tế ở vào giai
đoạn khủng hoảng, tỷ lệ lạm phát cũng như thuế khoá tăng làm cho con người
14



phải đắn đo đề ra các quyết định mua sắm. Khi nền kinh tế trở lại thời kỳ
phục hồi và tăng trưởng, việc mua sắm tấp lập trở lại là cho tốc độ mua sắm
tăng và chu kỳ kinh doanh của các doanh nghiệp cũng tăng theo.
c. Môi trường pháp lý[9]
Môi trường pháp lý tạo ra sân chơi cho các doanh nghiệp vừa cạnh
tranh vừa hợp tác nên việc tạo ra một môi trường pháp lý lành mạnh vì nó vừa
tạo cho các doanh nghiệp tiến hành thuận lợi các hoạt động sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp mình lại vừa điều hành các hoạt động kinh tế theo
hướng công bằng cho tất cả các thành viên trong xã hội.
d. Môi trường công nghệ[9]
Xu hướng phát triển khoa học công nghệ và tình hình ứng dụng khoa
học công nghệ trong nước và trên thế giới ảnh hưởng trực tiếp đến năng suất,
chất lượng sản phẩm, tức là ảnh hưởng tới hiệu quả sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp.
2.1.6.2. Nhóm nhân tố bên trong doanh nghiệp
a. Lực lượng lao động[9]
Trình độ, năng lực và tinh thần trách nhiệm của người lao động là nhân
tố tác động trực tiếp tác động đến năng suất, chất lượng sản phẩm và tốc độ
tiêu thụ sản phẩm.
b. Cơ sở vật chất kỹ thuật[9]
Cơ sở vật chất kỹ thuật là tài sản cố định của doanh nghiệp, phục vụ cho
hoạt động sản xuất kinh doanh, gồm nhà cửa, kho tàng, bến bãi,... Nó đem lại
sức mạnh kinh doanh cho doanh nghiệp trên cơ sở sức sinh lời của tài sản.
c. Nhân tố quản trị trong doanh nghiệp[9]
Chất lượng của bộ máy quản trị quyết định rất lớn tới hiệu quả sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp. Một doanh nghiệp có năng lực quản trị non
kém sẽ không thể đứng vững trong môi trường cạnh tranh khốc liệt. Một


15


doanh nghiệp có bộ máy quản trị được bố trí hợp lý sẽ làm giảm chi phí hành
chính, góp phần tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.

16


2.1.7. Hệ thống chỉ tiêu và phương pháp đánh giá hiệu quả kinh tế
Xuất phát từ lợi nhuận vừa là chỉ tiêu phản ánh kết quả vừa là chỉ tiêu
phản ánh hiệu quả của các hoạt động SXKD của DN. Đối với các nhà quản trị
thì LN vừa là mục tiêu cần đạt được, vừa là cơ sở để tính các chỉ tiêu hiệu quả
SXKD của DN. [10]
*Những chỉ tiêu chủ yếu liên quan đến tính toán kinh tế
*Nhóm chỉ tiêu tổng hợp
Chỉ tiêu doanh thu trên một đồng chi phí: Nhóm chỉ tiêu này phản ánh hiệu
quả của toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, bao gồm:
- Chỉ tiêu doanh thu trên một đồng chi phí:
Doanh thu trên 1 đồng chi phí =

Tổng doanh thu trong kỳ
Tổng chi phí sản xuất và tiêu thụ trong kỳ

Chỉ tiêu này cho biết một đồng chi phí sản xuất và tiêu thụ trong
kỳ sẽ tạo ra được bao nhiêu đồng doanh thu. Chỉ tiêu này cao khi tổng chi phí
thấp, do nó có ý nghĩa khuyến khích các doanh nghiệp tìm ra các biện pháp
giảm chi phí để tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh.
- Chỉ tiêu doanh thu trên một đồng vốn sản xuất (sức sản xuất của vốn )
Doanh thu tiêu thụ sản phẩm trong kỳ

Tổng vốn kinh doanh
Chỉ tiêu này cho biết một đồng vốn kinh doanh sẽ tạo ra bao nhiêu đồng

Sức sản xuất của vốn

=

doanh thu. Do đó nó có ý nghĩa khuyến khích các doanh nghiệp trong việc
quản lý vốn chặt chẽ, sử dụng tiết kiệm và hiệu quả đồng vốn kinh doanh.
- Các chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận
+ Tỷ suất LN vốn sản xuất
Tvsx =

LN
x100
Vsx

Trong đó : Tvsx: Tỷ suất LN vốn sx
Vsx : Vốn sản xuất bình quân .
Chỉ tiêu này cho biết một đồng vốn SXBQ thì thu được bao nhiêu đồng LN
17


+ Tỷ suất LN trên doanh thu (Tsdt)
Tsdt =

LN
x 100
DT


Trong đó : Tsdt : Tỷ suất LN trên doanh thu
DT: Doanh thu
Cho biết 1 đồng doanh thu thu được trong kỳ thì tạo ra bao nhiêu đồng
lợi nhuận.
*Chỉ tiêu sử dụng các yếu tố đầu vào cơ bản .
- Chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng lao động .
+ Tiền lương bình quân tính cho một lao động
Tổng chi phí tiền lương trong kỳ

TLương BQ tính cho 1 lao động =

Tổng số lao động bình quân trong kỳ
Chỉ tiêu này cho biết trung bình 1 lao động khi tham gia hoạt động sản
xuất kinh doanh sẽ có thu nhập là bao nhiêu.
+ Hiệu suất tiền lương
Hiệu suất tiền lương

=

Doanh thu
Tổng chi phí tiền lương trong kỳ

Chỉ tiêu này cho biết 1 đồng chi phí tiền lương Công ty trả cho người
lao động thì thu được về bao nhiêu đồng doanh thu.
+ Lợi nhuận bình quân tính cho một lao động:
Chỉ tiêu này cho biết 1 lao động tham gia vào sản xuất, kinh doanh sẽ
tạo được bao nhiêu đồng lợi nhuận.
LN bình quân tính cho
1 lao động


=

Lợi nhuận trong kỳ
Tổng số lao động trong kỳ

=

Doanh thu

+Năng suất lao động bình quân /năm

18


Năng suất lao động bình

Tổng số lao động trong kỳ

quân/năm

Chỉ tiêu này cho biết 1 lao động tham gia vào sản xuất, kinh doanh sẽ
tạo được bao nhiêu đồng doanh thu. Chỉ tiêu này càng cao càng tốt.
- Nhóm chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn cố định
+ Hiệu suất sử dụng vốn cố định: Chỉ tiêu này phản ánh 1 đồng VCĐ
tham gia tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu thuần trong kỳ (năm)
Doanh thu thuần
Số VCĐ bình quân trong kỳ

Hiệu suất sử dụng VCĐ
Trong đó

Số VCĐ bình quân

=

Số VCĐ đầu kỳ + VCĐ cuối kỳ

2
trong kỳ
+ Tỷ suất lợi nhuận VCĐ: chỉ tiêu này phản ánh cứ 1 đồng VCĐ bình
quân trong kỳ tham gia tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận. Đầy là chỉ tiêu quan
trọng nhất để đánh giá hiệu quả sử dụng VCĐ.
LN trong kỳ (Trước thuế hoặc sau thuế)
Số VCĐ bình quân trong kỳ
Nhóm chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động
Tỷ suất lợi nhuận VCĐ

=

+ Vòng quay vốn lưu động (Số lần luân chuyển của VLĐ): chỉ tiêu này
phản ánh trong một thời kỳ nhất định (thường là 1 năm) VLĐ của doanh
nghiệp thực hiện được mấy vòng tuần hoàn. Chỉ tiêu này càng lớn chứng tỏ
tốc độ chuy chuyển của VLĐ càng nhanh và hiệu suất sử dụng VLĐ càng cao.
Số lần luân chuyển

Doanh thu thuần (M)
Số VLĐ bình quân trong kỳ
VLĐ (L)
+ Kỳ luân chuyển VLĐ (số ngày luân chuyển hoặc độ dài chu chuyển)
=


chỉ tiêu này thể hiện để hoàn thành một vòng quay VLĐ thì phải vận động
trong bao nhiêungày. Kỳ luân chuyển vốn càng rút ngắn chứng tỏ VLĐ sử
dụng càng hiệu quả
Kỳ luân chuyển vốn
VLĐ (K)

=

19

360 ngày (N)
Số vòng luân chuyển vốn (L)


+ Tỷ suất lợi nhuận VLĐ (Doanh lợi VLĐ)
Chỉ tiêu này nói lên khả năng sinh lời của VLĐ, chỉ tiêu này càng lớn
chứng tỏ hiệu quả sử dụng VLĐ càng cao.
Doanh thu thuần
Số VLĐ bình quân trong kỳ
2.1.8.Nguyên tắc đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh
Tỷ suất lợi nhuận VLĐ (%) =

x 100

 Nguyên tắc khách quan
 Nguyên tắc chính xác
 Nguyên tắc đầy đủ, toàn diện
 Nguyên tắc hợp lý
 Nguyên tắc hiện đại hoá
2.2.Một số đặc điểm trong sản xuất, chế biến và xuất khẩu thuỷ sản

2.2.1.Đặc điểm chung trong chế biến thuỷ sản xuất khẩu
Công nghiệp chế biến thuỷ sản là một bộ phận của ngành chế biến thực
phẩm nói chung do đó nó mang đầy đủ những nét chung của một ngành công
nghiệp chế biến thực phẩm. Nhưng do đặc thù của quá trình sản xuất và đặc
điểm nguyên liệu chế biến nên có những đặc điểm riêng sau đây:
Nguồn nguyên liệu thủy sản phong phú, đa dạng tạo điều kiện cho
ngành công nghiệp chế biến phát triển một cách nhanh chóng gồm nhiều lĩnh
vực sản xuất, mỗi lĩnh vực có quá trình chế biến riêng tạo ra các sản phẩm có
chất lượng và quy cách khác nhau. [3] Theo số liệu thống kê của Tổng cục
thống kê tổng số lượng thuỷ sản ở Việt Nam [20]
ĐVT: nghìn tấn
Năm
1990
1995
2000
2005

Chia ra

Tổng
896,6
1.584,4
2.250,5
3.465,9

20

Khai thác
728,5
1.195,3

1.660,9
1.987,9

Nuôi trồng
162,1
389,1
589,6
1.478,0


2008
Sơ bộ 2009

4.602,0
4.847,6

2.136,4
2.277,7

2.465,6
2.569,9

 Nguồn nguyên liệu phong phú có cả về nuôi trồng và đánh bắt. Xu
hướng hiện nay là khai thác thuỷ sản tự nhiên giảm xuống và tăng lượng thuỷ
sản nuôi trồng nhằm hạn chế sự mất cân bằng sinh thái biển đồng thời tạo
điều kiện cung cấp ổn định nguyên liệu cho chế biến bên cạnh việc tạo điều
kiện cho khai thác tiềm năng của vùng, địa phương. [1]
 Chế biến thuỷ sản trải qua nhiều giai đoạn phức tạp, giữa các giai đoạn
có môi quan hệ chặt chẽ với nhau. Do đó yêu cầu của việc tổ chức quản lý đối
với việc sản xuất chế biến thủy sản phải được chuyên môn hoá cao ở từng

khâu đồng thời phải tiến hành hợp tác một cách chặt chẽ giữa các giai đoạn
chế biến. Chế biến thuỷ sản còn có mối quan hệ chặt chẽ với các ngành cung
cấp nguyên liệu đó là khai thác và nuôi trồng thủy sản. [3]
 Sản phẩm của ngành công nghiệp chế biến thủy sản có thể được tạo ra
từ một loại nguyên liệu bằng các phương pháp chế biến khác nhau hoặc có thể
được tạo ra các mặt hàng khác nhau VD: từ tôm có thể sơ chế thành tôm bóc
vỏ bỏ đầu, bóc vỏ bỏ đầu còn đuôi...hoặc từ mực: mực nguyên con, mực
khoanh... nhằm đảm bảo nhu cầu thực phẩm tiêu dùng cho xã hội. Trong điều
kiện hiện nay cùng với sự phát triển của các ngành khai thác, chế biến cũng
như trình độ và công nghệ mà các mặt hàng thuỷ sản ngày càng phong phú đa
dạng hơn. Điều đó đòi hỏi công tác điều hành quản lý sản xuất kinh doanh của
ngành công nghiệp chế biến thuỷ sản xuất khẩu cần phải căn cứ vào nhu cầu
tiêu dùng, phải quy định phẩm chất ban đầu và trình độ kỹ thuật cho phép để
xác định phương hướng sản xuất, dây chuyền công nghệ thích hợp nhằm tận
dụng triểu để nguồn nguyên liệu để sản xuất ra các mặt hàng có chất lượng cao,
mẫu mã phong phú, phù hợp với nhu cầu đa dạng của người tiêu dùng. [3]
 Quá trình chế biến sản phẩm thuỷ sản, nguyên liệu không chỉ thay đổi
về hình dạng bên ngoài mà còn thay đổi các thành phần dinh dưỡng bên trong
21


nguyên liệu đồng thời với yêu cầu ngày càng cao về VSATTP do đó công tác
tổ chức quá trình sản xuất giữa các khâu, các bước công việc được thực hiện
một cách liên tục, nhịp nhàng dưới quy trình kiểm tra chặt chẽ và kiểm
nghiệm chất lượng và VSATTP vừa đáp ứng được nhu cầu ngày càng khắt
khe của người tiêu dùng và hạn chế tới mức tối đa việc phát sinh ra phế liệu,
phế phẩm làm giảm hiệu quả SXKD. [3]
 Hoạt động chế biến thuỷ sản còn mang tính truyền thống của một
ngành sản xuất nhỏ, cách thức chế biến đơn giản mang tính chất thủ công,
chính vì vậy nó là ngành sản xuất vật chất sử dụng nhiều lao động, nhất là lao

động nữ thường chiếm trên 80%. [3]
2.2.2. Những nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động chế biến TSXK
2.2.2.1.Nhu cầu thị trường
Thị trường vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sản xuất nói chung và
sản xuất thuỷ sản nói riêng. [2] Chỉ khi nào tiêu thụ được thực hiện thì các
hoạt động khác của doanh nghiệp mới có thể đảm bảo cho doanh nghiệp thực
hiện các hoạt động SXKD đảm bảo cho doanh nghiệp đứng vững và phát triển
trên thị trường.
Quy mô và tính chất của thị trường quyết định sản lượng mặt hàng và
chủng loại mặt hàng cùng chất lượng của nó. Cơ cấu, chất lượng mặt hàng
quyết định giá trị kim ngạch thu được ở từng thị trường. [11]
Giá cả cao hay thấp bên cạnh yếu tố chất lượng sản phẩm là nhân tố
quan trọng ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị
trường, là cơ sở quyết định lợi nhuận và là khâu cuối cùng giúp DN điều
chỉnh sản xuất nhằm đạt được lợi nhuận cao nhất.
Mở rộng thị trường sẽ tạo cho doanh nghiệp có vị trí ngày càng ổn định
trên thị trường đảm bảo cho việc tiêu thụ sản phẩm đạt được hiệu quả tốt. Mặt
khác cũng giúp cho doanh nghiệp tận dụng được ưu thế và quyền lợi của
mình, hạn chế rủi ro nhằm đạt hiệu quả cao trong kinh doanh.
22


2.2.2.2.Các nhân tố về khả năng cung ứng đầu vào
Khả năng đáp ứng của ngành công nghiệp chế biến thuỷ sản thể hiện ở
nguồn nguyên vật liệu, đặc điểm của nguồn nguyên liệu, cơ sở hạ tầng của
ngành, vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên, nguồn nhân lực, nguồn vốn và trình
độ công nghệ, chất lượng sản phẩm. Các nhân tố này sẽ ảnh hưởng đến ngành
công nghiệp chế biến thủy sản xuất khẩu dưới các góc độ sau [11]
- Nguồn nguyên liệu:
Nguồn nguyên liệu phục vụ cho chế biến thuỷ sản xuất khẩu rất phong

phú, trữ lượng các loài thuỷ hải sản còn rất lơn ở các vùng biển chưa được
khai thác, hoạt động nuôi trồng thuỷ sản đang phát triển mạnh cả về số lượng
và chất lượng. Đây là lợi thế cho ngành công nghiệp chế biến thuỷ sản xuất
khẩu phát triển. Tuy nhiên sau khi đánh bắt cần được bảo quản lạnh để giữ độ
tươi của nguyên liệu ban đầu, nhằm đảm bảo chất lượng sản phẩm. Ngoài ra
nguyên liệu thuỷ sản còn có những đặc điểm khác như phụ thuộc vào thời tiết,
khi hậu. Nguồn nguyên liệu thu được chủ yếu là từ khai thác và nuôi trồng.
[12]
- Cơ sở hạ tầng:
Cơ sở hạ tầng của ngành công nghiệp chế biến thuỷ sản xuất khẩu bao
gồm các cơ sở, phương tiện khai thác nguyên liệu, hệ thống cầu phà, bến bãi,
cơ sở chế biến, hệ thống đường xá ở các khu vực tập trung nhà máy chế biến.
Các hệ thống cầu cá, cảng cá đảm bảo phục vụ cho khâu tiếp nhận nguyên
liệu được thuận lợi, đảm bảo chất lượng nguyên liệu cho chế biến. Ngược lại
nếu cơ sở hạ tầng kém làm cho chất lượng nguyên liệu giảm sút, gây ảnh
hưởng lớn đến chất lượng sản phẩm. [11]
- Nhân tố về vốn:
Đối với doanh nghiệp thuỷ sản do đặc điểm là sản xuất theo mùa vụ
nên cần phải có lượng vốn lớn đầu tư cho thiết bị và để đảm bảo cung cấp
nguyên liệu thường xuyên. Cùng đặc điểm với hầu hết các doanh nghiệp thì
23


doanh nghiệp thủy sản đều trong tình trạng thiếu vốn sản xuất, ngoài vốn tự
có, vốn do NSNN cấp thì hầu hết các doanh nghiệp đều phải đi vay các tổ
chức tín dụng và đối tượng khác.
- Nhân tố về nguồn nhân lực:
Là yếu tố quyết định phần lớn đến số lượng và chất lượng của sản
phẩm tạo thành. Nguồn nhân lực được phản ánh về cả 3 khía cạnh: số lượng,
chất lượng và trình độ lao động. Sự dồi dào về nguồn lao động, gia nhân công

thấp đang là cơ hội cho các nước đang phát triển ngành công nghiệp thuỷ sản
nói chung và VN nói riêng.[11] Mặc dù ngành công nghiệp chế biến có những
thuận lợi lớn về yếu tố đầu vào, song do trình độ văn hoá và chuyên môn của
người lao động còn thấp, làm cho chất lượng sản phẩm tạo thành chưa cao,
chưa đáp ứng các đòi hỏi về chất lượng của thị trường thế giới.
- Nhân tố về trình độ công nghệ và trình độ quản lý chất lượng sản phẩm:
Đối với ngành công nghiệp chế biến thuỷ sản thì trình độ công nghệ và
trình độ quản lý chất lượng sản phẩm có mối quan hệ hữu cơ với nhau. Trình
độ công nghệ cao thể hiện trình độ quản lý chất lượng sản phẩm và trình độ
quản lý chất lượng sản phẩm cao thì phản ánh được sự phát triển của trình độ
công nghệ. Trình độ quản lý chất lượng sản phẩm HACC trên cơ sở tuân thủ
quy phạm sản xuất tố GMP và các quy trình vệ sinh chuẩn SSOP để thực hiện
HACCP lại phụ thuộc phần lớn vào trình độ công nghệ. [12] Đồng thời đây
cũng là yêu cầu tiêu chuẩn bắt buộc của các nước nhập khẩu đối với doanh
nghiệp xuất khẩu sản phẩm thực phẩm đặc biệt là ngành thuỷ sản.
- Các nhân tố về môi trường kinh doanh:
Trong các nhân tố thuộc về môi trường kinh doanh có tác động đến
ngành công nghiệp chế biến thuỷ sản xuất khẩu, có hai nhân tố tác động sâu
sắc nhất là nhân tố về địa lý, điều kiện tự nhiên và nhân tố về hệ thống cơ chế
chính sách, pháp luật của nhà nước.

24


+ Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên: có ảnh hưởng lớn đến nuôi trồng và đánh
bắt thuỷ hải sản xa bờ, tạo nguồn nguyên liệu ổn định cho chế biến thuỷ sản
xuất khẩu.
+ Hệ thống cơ chế chính trị và pháp luật của nhà nước: có ảnh hưởng trực tiếp
đến sự phát triển của ngành công nghiệp chế biến xuất khẩu thuỷ sản. Đây là
những điều kiện tiền đề ngoài kinh tế có tác động mạnh đến việc mở rộng hay

kìm hãm sự phát triển cũng như khai thác các cơ hội kinh doanh của các nhà
doanh nghiệp.
Đối với Việt Nam với một môi trường chính trị ổn định tạo điều kiện
cho các đối tác yên tâm làm ăn với các doanh nghiệp chế biến thuỷ sản xuất
khẩu theo khuôn khổ pháp luật của mỗi nước. [13], [15] Trong quá trình hội
nhập kinh tế quốc tế với chính sách đối ngoại: đa phương hoá, đa dạng hoá
các quan hệ quốc tế, các doanh nghiệp thương mại nói chung và các doanh
nghiệp xuất khẩu thuỷ sản nói riêng vừa phải tuân theo luật trong nước vừa
phải tuân theo luật quốc tế.
- Thương hiệu sản phẩm:
Là tài sản quốc gia và là tài sản vô hình của doanh nghiệp. Mục tiêu
của thương hiệu vừa thoả mãn nhu cầu của người tiêu dùng, vừa đem lại lợi
nhuận cao cho doah nghiệp. Một thương hiệu mạnh sẽ tạo sự hấp dẫn nhiều
người mua mặt hàng đồng thời cũng dự báo cả rủi ro do thương hiệu đó mang
lại. Nước ta trước đây các doanh nghiệp không quan tâm nhiều đến thương
hiệu nhưng sau những vụ kiện cá Tra, cá Basa thì các doanh nghiệp mới chú ý
đến vấn đề thương hiệu sản phẩm vì nó gắn liền với sự tồn tại và đứng vững
trên thị trường của các doanh nghiệp. [19]
Kênh tiêu thụ sản phẩm thuỷ sản
Tiêu thụ là giai đoạn cuối cùng của quá trình SXKD, là yếu tố
quyết định đến sự tồn tại và phát triển của DN. Tiêu thụ sản phẩm có vai trò
trong việc cân đối giữa cung và cầu, đồng thời giúp cho doanh nghiệp xác
định được phương hướng đi trong tương lai để đạt hiệu quả cao nhất, tiêu thụ
còn giúp doanh nghiệp tăng doanh thu và chiếm lĩnh thị trường. Trong tiêu
25


×