Tải bản đầy đủ (.doc) (85 trang)

GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP về hợp ĐỒNG THƯƠNG mại vô HIỆU từ THỰC TIỄN xét xử của tòa án NHÂN dân tại THÀNH PHỐ hồ CHÍ MINH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (388.93 KB, 85 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

ĐOÀN VĂN ĐỦ

GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP VỀ HỢP ĐỒNG THƯƠNG MẠI
VÔ HIỆU TỪ THỰC TIỄN XÉT XỬ CỦA TÒA ÁN NHÂN
DÂN TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ

Hà Nội, năm 2019

`


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

ĐOÀN VĂN ĐỦ

GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP VỀ HỢP ĐỒNG THƯƠNG MẠI
VÔ HIỆU TỪ THỰC TIỄN XÉT XỬ CỦA TÒA ÁN NHÂN
DÂN TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Ngành: Luật Kinh tế
Mã số : 8.38.01.07

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. LÊ THỊ BÍCH THỌ

Hà Nội, năm 2019




LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành Luận văn"Giải quyết tranh chấp về hợp đồng thương mại vô
hiệu từ thực tiễn xét xử của Tòa án nhân dân tại TPHCM" trước hết tôi xin chân thành
cảm ơn sự hướng dẫn tận tình của PGS.TS Lê Thị Bích Thọ.
Tôi cũng xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡìnhtậncủat các tổ chức, cá nhân có tên
sau đây:
- Lãnh đạo, giảng viên và cán bộ, công chức Học viện Khoa học xã hội.
- Lãnh đạo và Thẩm phán, Thư ký các đơn vị thuộc hệ thống Toà án nhân d hai
cấpTPHCM gồm có:
+ ToàKinh tế thuộc Tòa án nhân dân TPHCM;
+ Toàán nhân dân Quận Phú nhuận;
+ Toà án nhân dân Quận Tân Bình;
+ Toà án nhân dân Quận 10;
Tác giả luận văn

Đoàn Văn Đủ


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn này là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi
dưới sự hướng dẫn khoa học của PGS.TS Lê Thị Bích Thọ. Các kết quả được trình
bày trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nghiên cứu nào
khác. Các số liệu, trích dẫn trong Luận văn mang tính chất tham khảo và được trích
từ nguồn thông tin chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành các môn học
và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Học viện Khoa học
Xã Hội – Viện hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam.
Vì vậy, tôi đề nghị Học viện Khoa học Xã Hội – Viện hàn lâm Khoa học xã
hội Việt Nam xem xét, quyết định cho tôi được bảo vệ Luận văn.

Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

ĐOÀN VĂN ĐỦ


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU.................................................................................................................. 1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG
THƯƠNG MẠI VÀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG THƯƠNG
MẠI VÔ HIỆU........................................................................................................ 6
1.1. Khái niệm hợp đồng thương mại.................................................................... 6
1.1.1. Khái niệm................................................................................................. 6
1.2. Sơ lược hợp đồng thương mại vô hiệu và phân loại hợp đồng thương mại vô
hiệu...................................................................................................................... 13
1.2.1. Các trường hợp vô hiệu của hợp đồng thương mại................................13
1.2.2. Khái quát những qui định của pháp luật về các trường hợp vô hiệu của
hợp đồng thương mại....................................................................................... 13
1.3. Các trường hợp vô hiệu cụ thể của hợp đồng thương mại............................14
1.3.1. Hợp đồng thương mại vô hiệu do vi phạm điều cấm pháp luật, trái đạo
đức xã hội........................................................................................................ 14
1.3.2. Hợp đồng thương mại vô hiệu do giả tạo............................................... 15
1.3.3. Hợp đồng thương mại vô hiệu do không tuân thủ hình thức..................16
1.3.4. Hợp đồng thương mại vô hiệu do người chưa thành niên, người mất
năng
lực hành vi dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự xác lập, thực hiện.

17
1.3.5. Hợp đồng thương mại vô hiệu do bị lừa dối, đe dọa..............................17
1.3.6. Hợp đồng thương mại vô hiệu do bị nhầm lẫn.......................................22

1.3.7. Hợp đồng thương mại vô hiệu do người kí hợp đồng không đúng thẩm
quyền................................................................................................................ 24
1.4. Hậu quả pháp lý của hợp đồng thương mại vô hiệu..................................... 26
1.5. Giải quyết tranh chấp hợp đồng thương mại vô hiệu.................................... 27
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH VỀ
GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP VỀ HỢP ĐỒNG THƯƠNG MẠI VÔ HIỆU TỪ
THỰC TIỄN XÉT XỬ CỦA TÒA ÁN NÂN DÂN TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ
MINH..................................................................................................................... 47


2.1. Thực trạng pháp luật về giải quyết tranh chấp hợp đồng thương mại vô hiệu từ

thực tiễn xét xử của Tòa án nhân dân tại Thành phố Hồ Chí Minh......................47
2.1.1. Yếu tố nhầm lẫn trong hợp đồng............................................................ 53
2.1.2. Tiêu chí đánh giá chất lượng.................................................................. 55
2.2. Thực tiễn thi hành pháp luật về giải quyết tranh chấp hợp đồng thương mại vô

hiệu từ thực tiễn xét xử Tòa án nhân dân tại Thành phố Hồ Chí Minh................59
2.2.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội và sự tác động đến việc thi hành pháp
luật về giải quyết tranh chấp hợp đồng thương mại vô hiệu từ thực tiễn xét xử
của Tòa án nhân dân tại Thành phố Hồ Chí Minh........................................... 59
2.2.2. Đánh giá thực tiễn thi hành pháp luật giải quyết tranh chấp về hợp đồng
thương mại vô hiệu từ thực tiễn xét xử của Tòa án nhân dân tại TPHCM.......63
Chương 3: ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ
GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG THƯƠNG MẠI VÔ HIỆU

TỪ

THỰC TIỄN XÉT XỬ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ


MINH..................................................................................................................... 69
3.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp hợp đồng thương
mại vô hiệu từ thực tiễn xét xử của Tòa án nhân dân tại Thành phố Hồ Chí Minh
69
3.1.1. Định hướng nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật................................70
3.2. Giải pháp...................................................................................................... 71
3.2.1. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp hợp đồng thương
mại vô hiệu từ thực tiễn xét xử của Tòa án nhân dân tại Thành phố Hồ Chí Minh

71
3.2.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả thi hành................................................... 72
KẾT LUẬN............................................................................................................ 74
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việc xác lập hợp đồng thương mại là một trong những phương thức hiệu quả
đối với các chủ thể khi tham gia xác lập quan hệ pháp luật dân sự nhằm hướng tới
các lợi ích kinh tế mà cả hai bên muốn đạt được. Hơn thế, đặt trong tương quan với
pháp luật thế giới và sự phát sinh nhiều quan hệ dân sự mới thì hợp đồng thương
mại lại có ý nghĩa quan trọng, vì hợp đồng ghi nhận và ràng buộc quyền, nghĩa vụ
của các bên trong quan hệ. Bởi thế Pháp luật dân sự Việt Nam quy định khá chi tiết,
cụ thể, phù hợp với điều kiện xã hội, hoàn cảnh cũng như pháp luật thế giới về hợp
đồng thương mại.
Vì lẽ, ngoại trừ một vài biệt lệ, một hợp đồng có thể khi là thương mại khi là
dân sự, cho nên không thể phân chia các hợp đồng thành hai loại có bản chất khác
nhau: một có bản chất thương mại, một có bản chất dân sự, và nghiên cứu chúng
trong hai lĩnh vực riêng biệt, một trong luật dân sự, một trong luật thương mại. Mọi
hợp đồng cần được xem xét theo nguyên tắc đại tổng được qui định trong Bộ luật

dân sự vốn vẫn được coi là luật chung áp dụng cho mọi giao dịch trong xã hội.
Hiện nay, pháp luật về hợp đồng ở Việt Nam nằm rải rác trong rất nhiều văn
bản pháp luật có giá trị pháp lý cao thấp khác nhau và cũng chưa có bất kì thử
nghiệm nào nhằm thống nhất hóa hệ thống các văn bản pháp luật về hợp đồng cũng
như chỉ ra sự liên kết, liên thông hoặc tính hệ thống của pháp luật hợp đồng nói
chung. Tuân thủ nguyên tắc về mối quan hệ giữa luật chung và luật riêng, có thể
thấy rằng, các qui định chung của pháp luật hợp đồng được qui định từ các điều từ
388 – 411 Bộ luật dân sự 2005 có thể được áp dụng cho tất cả các loại hợp đồng
khác nhau. Bên cạnh các qui định chung đó, Bộ luật dân sự 2005 có các qui định
riêng cho các hợp đồng chuyên biệt. Các qui định về các hợp đồng chuyên biệt, theo
nghĩa rộng có thể bao gồm tất cả các hợp đồng khác mang tính luật pháp ( ví dụ:
hợp đồng lao động, tín dụng, hợp đồng thương mại ); đó là các qui định riêng so với
nguyên tắc chung của Bộ luật dân sự 2005 . Đối với những vấn đề mà luật tư đã qui
định thì áp dụng luật tư để điều chỉnh, đối với những vấn đề luật tư chưa đề cập đến
thì áp dụng luật chung để điều chỉnh.
1


Tuy nhiên, khi vận dụng quy định của pháp luật dân sự về tính vô hiệu của
hợp đồng thương mại vào thực tế, chủ thể áp dụng pháp luật đã có những cách hiểu
khác nhau, vận dụng khác nhau dẫn tới đường lối xử lý chưa thống nhất. Ngay trong
nội tại chế định hợp đồng vô hiệu việc hiểu như thế nào là "nhầm lẫn" để được coi
là một trong những yếu tố tuyên bố hợp đồng vô hiệu khi điều này xảy ra? Hay như
việc xác lập hợp đồng thương mại với những cá nhân, tập thể không đủ năng lực tài
chính? Giá trị hợp đồng như thế nào được coi là giá trị nhỏ và giá trị lớn; Hoặc là
hai bên mua bán tài sản hình thành trong tương lai nhưng cuối cùng đối tượng của
hợp đồng lại không thể thực hiện được thì giải quyết theo hướng nào? Do đó giá trị
hợp đồng thương mại so với giá trị thực tế mà các bên giao dịch có sự không đồng
nhất hoặc việc mua bán giữa các bên không lập hợp đồng bằng văn bản theo quy
định... Cho nên số lượng tranh chấp liên quan đến hợp đồng thương mại đang có xu

hướng gia tăng, mà chính sự vi phạm điều kiện có hiệu lực của hợp đồng chiếm một
tỷ lệ không nhỏ. Hơn thế việc xử lý hậu quả khi hợp đồng thương mại vô hiệu còn
nhiều hạn chế. Chẳng hạn như việc hoàn trả cho nhau những gì đã nhận giữa các
bên chủ thể trong hợp đồng được thực hiện trên thực tế như thế nào? Chính bởi vậy,
nghiên cứu một cách có hệ thống quy định này giúp làm rõ lý luận cơ bản và những
nguyên tắc chung nhất cho việc áp dụng vào thực tế. Qua đó cũng khái quát vấn đề
để đề xuất cơ quan Tòa án hướng hoàn thiện nhất định nhằm đảm bảo lợi ích của
các chủ thể tham gia trong quan hệ thương mại, cao và xa hơn nữa là lợi ích kinh tế,
sự bình ổn trong xã hội. Vì các lẽ trên, tác giả lựa chọn đề tài " Giải quyết tranh
chấp về hợp đồng thương mại vô hiệu từ thực tiễn xét xử của Tòa án nhân dân
tại TPHCM" cho luận văn tốt nghiệp cao học luật.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đề tài
Khoa học Việt Nam đã có nhiều công trình nghiên cứu đề cập tới các vấn đề
khác nhau của hợp đồng như: luận án tiến sĩ “Chế độ hợp đồng trong nền kinh tế thị
trường ở giai đoạn hiện nay” của tác giả Phạm Hữu Nghị, Hà Nội (1996); đề tài luận án
tiến sĩ: “Hiệu lực của hợp đồng theo quy định của pháp luật Việt Nam”, tác giả Lê
Minh Hùng (2010). Ngoài ra, còn có nhiều bài báo khoa học đăng trên các tạp chí,

2


các hội nghị như: “Bàn về hợp đồng vô hiệu do được giao kết bởi người mất năng
lực hành vi dân sự qua một vụ án” của PGS.TS. Đỗ Văn Đại; “Xử lý hợp đồng vô
hiệu trong lĩnh vực thương mại” của Phạm Nguyên Linh (2008), Tạp chí luật học số
11/2008; “Chế độ hợp đồng dân sự vô hiệu trước yêu cầu sủa đổi bổ sung của
BLDS 2005” của Bùi Thanh Hằng, Tạp chí luật học 11/2008; “Chuyên đề thực tiễn
ký kết và thực hiện hợp đồng khi bị xác định là vô hiệu theo quy định của Bộ luật
dân sự” của La Minh Tường (TAND tỉnh Thừa Thiên Huế). Bên cạnh đó, còn có các
bài khóa luận như: “Các trường hợp vô hiệu của hợp đồng thương mại: lý luận và
thực tiễn tài phán” của Nguyễn Như Dạ Ngọc (2009); “Hợp đồng mua bán hàng hóa

theo Luật Thương mại Việt Nam” của Nguyễn Thị Lý (2006)… Những công trình
khoa học trên là tài liệu vô cùng quý giá, và là một trong những căn cứ giúp tác giả
có thêm nhiều thông tin quan trọng để phục vụ cho việc nghiên cứu luận văn của
mình. Các công trình nghiên cứu trên chỉ đi vào vấn đề chung, không nghiên cứu cụ
thế và toàn diện về hợp đồng thương mại vô hiệu theo quy định của pháp luật nước
ta. Theo đó, việc lựa chọn đề tài “ Giải quyết tranh chấp về hợp đồng thương mại vô
hiệu từ thực tiễn xét xử của Tòa án nhân dân tại TPHCM” để nghiên cứu hoàn toàn
là chủ ý của tác giả.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu Đề tài có các mục đích sau đây:
Nghiên cứu các cơ sở lý luận, phân tích đánh giá các quy định của pháp luật
hiện hành và thực tế áp dụng pháp luật tại địa bàn TPHCM, từ đó đưa ra các giải pháp
hoàn thiện pháp luật và tổ chức thực hiện pháp luật về hợp đồng thương mại vô hiệu.

Nhiệm vụ nghiên cứu:
Để đạt được nội dung trên, đề tài có các nhiệm vụ sau đây:
- Làm rõ các khái niệm.
- Phân tích quy định pháp luật về hợp đồng thương mại vô hiệu trong kinh
doanh thương mại.
- Đánh giá thực trạng giải quyết tranh chấp về hợp đồng thương mại vô hiệu
từ thực tiễn xét xử của Tòa án nhân dân tại TPHCM.
3


- Đưa ra các giải pháp hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp về hợp
đồng thương mại vô hiệu từ thực tiễn xét xử của Tòa án nhân dân tại TPHCM.
- Đưa ra các giải pháp tổ chức thực hiện pháp luật về hợp đồng vô hiệu trong
lĩnh vực kinh doanh thương mại.
4. Đối tượng và Phạm vi nghiên cứu
+) Đối tượng nghiên cứu

Đề tài nghiên cứu hợp đồng thương mại vô hiệu bao gồm cơ sở lý luận, đánh
giá pháp luật thực định và thực tiễn xét xử của Tòa án nhân dân tại TPHCM.
+) Phạm vi nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu cơ sở lý luận quy định pháp luật về hợp đồng thương mại
vô hiệu trong BLDS 2005, BLDS 2015, Luật Thương mại 2005 và các văn bản liên
quan khác. Đề tài nghiên cứu giữa các chủ thể trong nước, không có yếu tố nước
ngoài. Đề tài nghiên cứu trong phạm vi cả nước, trong thời gian từ năm 2015 đến
năm 2018.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Phương pháp luận Để giải quyết các yêu cầu mà đề tài đặt ra, trong quá trình
nghiên cứu luận văn đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu chủ yếu là phương
pháp nghiên cứu khoa học biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác-Lênin.
Phương pháp nghiên cứu: Luận văn đã sử dụng các phương pháp cụ thể:
- Phương pháp phân tích, tổng hợp: Nhằm làm sáng tỏ vấn đề lý luận cơ bản
về hợp đồng thương mại vô hiệu.
- Phương pháp điều tra, bình luận: Đưa ra các ví dụ thực tế để phân tích việc
áp dụng luật, cũng như bình luận các bản án, nhằm đánh giá việc thực hiện pháp
luật trong thực tiễn xét xử của Tòa án nhân dân tại TPHCM.
- Phương pháp so sánh: Các quy định pháp luật Việt Nam với pháp luật một
số nước trên thế giới, so sánh pháp BLDS 2015 với BLDS 2005 để làm rõ vấn đề
cần phân tích.

4


- Phương pháp phân tích đánh giá: Để đánh giá pháp luật và tìm ra những hạn
chế của pháp luật quy định chưa phù hợp, nhằm đưa ra một số hướng giải quyết cụ

thể.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn

- Luận văn là công trình nghiên cứu chuyên sâu về hợp đồng thương mại vô
hiệu trong bối cảnh vai trò hợp đồng chiếm một vị trí ngày càng quan trọng trong
các giao dịch dân sự hiện nay.
- Luận văn chỉ ra những hạn chế và đề xuất hướng giải pháp về giải quyết
tranh chấp hợp đồng thương mại vô hiệu từ thực tiễn xét xử của Tòa án nhân dân tại
TPHCM.
- Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ là tài liệu bổ ích cho những người làm
công tác áp dụng pháp luật.
- Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho các sinh viên luật và
những người không chuyên về luật và cho những đối tượng khác nhau.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mục lục, mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung đề tài được kết cấu gồm có 3 chương:
Chương 1. Một số vấn đề lý luận pháp luật về hợp đồng thương mại và giải
quyết tranh chấp hợp đồng thương mại vô hiệu
Chương 2. Thực trạng pháp luật và thực tiễn thi hành về giải quyết tranh chấp
hợp đồng thương mại vô hiệu từ thực tiễn xét xử của Tòa án nhân dân tại TPHCM .

Chương 3. Định hướng và giải pháp nhằm nâng cao chất lượng giải quyết
tranh chấp về hợp đồng thương mại vô hiệu từ thực tiễn xét xử của Tòa án nhân dân
tại TPHCM.

5


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG THƯƠNG MẠI VÀ
GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG THƯƠNG MẠI VÔ HIỆU

1.1. Khái niệm hợp đồng thương mại

1.1.1. Khái niệm.
1.1.1.1. Khái niệm hợp đồng thương mại
Trong Luật thương mại 2005 không có khái niệm hợp đồng thương mại,
nhưng có thể hiểu Hợp đồng thương mại là Hợp đồng thương mại là sự thỏa thuận
giữa các chủ thể kinh doanh với nhau và với các bên có liên quan về việc xác lập,
thay đổi, hoặc chấm dứt các quyền và nghĩa vụ trong hoạt động thương mại. Với
cách hiểu về hợp đồng thương mại như trên, hợp đồng thương mại mang những đặc
điểm đặc thù như sau:
Thứ nhất: về chủ thể thì hợp đồng thương mại được thiết lập chủ yếu giữa
các chủ thể là thương nhân. Theo Khoản 1 Điều 6 Luật thương mại năm 2005
“thương nhân bao gồm tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp, cá nhân hoạt
động thương mại một cách độc lập, thường xuyên và có đăng ký kinh doanh” [22,
Điều 6]. Trong hợp đồng thương mại, có thể có những hợp đồng đòi hỏi các bên đều
phải là thương nhân như: hợp đồng đại diện cho thương nhân, hợp đồng đại lý
thương mại… hay có những hợp đồng chỉ đòi hỏi có ít nhất một bên là thương nhân
như: hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa, hợp đồng dịch vụ bán đấu giá hàng hóa,
hợp đồng môi giới thương mại…). Ngoài ra, các tổ chức, các nhân không phải là
thương nhân cũng có thể trở thành chủ thể của hợp đồng thương mại khi họ có hoạt
động liên quan đến thương mại.
Thứ hai: về hình thức thì hợp đồng thương mại được thiết lập theo cách thức mà
hai bên thỏa thuận, có thể được thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản hoặc bằng hành vi
cụ thể của các bên giao kết. Trong một số trường hợp nhất định, hợp đồng phải được
thiết lập bằng văn bản như hợp đồng đại lý thương mại, hợp đồng ủy thác mua bán
hàng hóa, hợp đồng dịch vụ khuyến mại, quảng cáo, hội chợ, triển lãm thương mại…
Điều 24 Luật thương mại năm 2005 đã quy định: “Hợp đồng mua bán

6


hàng hóa được thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản hoặc xác lập bằng hành vi cụ

thể. Đối với các loại hợp đồng mua bán hàng háo mà pháp luật quy định phải được
lập thành văn bản thì phải tuân theo các quy định đó” [22, Điều 24]. Luật thương
mại năm 2005 cũng cho phép thay thế hình thức văn bản bằng hình thức khác có giá
trị pháp lý tương đương, bao gồm điện báo, telex, fax, thông điệp dữ liệu điện tử và
các hình thức khác theo quy định của pháp luật.
Thứ ba: về đối tượng của hợp đồng thì đối tượng của hợp đồng thương mại
là hàng hóa. Theo nghĩa thông thường, hàng hóa được hiểu là những sản phẩm lao
động của con người, được tạo ra nhằm mục đích thỏa mãn nhu cầu của con người.
Dựa vào tính chất pháp lý, hàng hóa được chia thành nhiều loại khác nhau như bất
động sản, động sản, tài sản hữu hình, tài sản vô hình, các quyền về tài sản.
Thứ tư: mục đích của hợp đồng thì mục đích của hợp đồng thương mại là lợi
nhuận. Xuất phát từ mục đích của hoạt động thương mại là nhằm sinh lợi nên khi
các thương nhân tham gia ký kết một hợp đồng thương mại suy cho cùng cũng đều
vì lợi ích lợi nhuận.
Thứ năm: về nội dung hợp đồng thì nội dung hợp đồng thương mại thể hiện
quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ hợp đồng đó là các điều khoản do các
bên thỏa thuận. Các bên thỏa thuận nội dung càng chi tiết thì việc thực hiện hợp
đồng càng thuận lợi, phòng ngừa được những tranh chấp có thể phát sinh.
1.1.1.2. Hình thành hợp đồng thương mại.
Theo quy định tại Điều 385 Bộ luật Dân sự 2015 [16, Điều 385] thì hợp đồng
là sự thỏa thuận giữa hai hay nhiều bên nhằm xác lập, thay đổi hay chấm dứt quyền,
nghĩa vụ của các bên. Từ định nghĩa này chúng ta thấy hợp đồng hình thành khi hội
đủ 3 yếu tố:
+) Hình thành một thỏa thuận, tức giữa các bên đã có sự thống nhất về mặt ý
chí về việc thực hiện hay không thực hiện một công việc cụ thể. Muốn thống nhất ý
chí, các bên phải có cơ hội bày tỏ ý chí; các ý chí này phải trùng khớp, thống nhất
về nội dung nhất định (như: đối tượng của hợp đồng, số lượng, chất lượng, giá,
phương thức thanh toán, thời hạn, địa điểm thực hiện hợp đồng,...)
7



+) Các bên trong hợp đồng phải có năng lực hành vi dân sự theo quy định
của pháp luật. Một hợp đồng có thể được thiết lập giữa cá nhân với cá nhân, giữa cá
nhân với tổ chức hoặc giữa tổ chức với nhau.
+) Nội dung hợp đồng phải thể hiện rõ nghĩa vụ của các bên. Theo quy định
tại Điều 274 Bộ luật Dân sự 2015 thì Nghĩa vụ là việc mà theo đó, một hoặc nhiều
chủ thể (sau đây gọi chung là bên có nghĩa vụ) phải chuyển giao vật, chuyển giao
quyền, trả tiền hoặc giấy tờ có giá, thực hiện công việc hoặc không được thực hiện
công việc nhất định vì lợi ích của một hoặc nhiều chủ thể khác (sau đây gọi chung
là bên có quyền) [16, Điều 274] .
1.1.1.3. Điều kiện có hiệu lực của hợp đồng thương mại.
a). Năng lực chủ thể.
Ở các quốc gia có nền kinh tế thị trường phát triển và hệ thống pháp luật lâu
đời không có sự phân biệt và cách biệt giữa khái niệm thương gia và doanh nghiệp
với tính cách là những thành viên hợp pháp của thương trường. Khi giao lưu trong
thương trường, các thành viên thường quan tâm đến tính chất và đặc tính pháp lý
của nhau mà trước hết đó là một pháp nhân hay thể nhân, và quan trọng hơn là xét
tư cách chủ thể của hai chủ thể này.
+) Năng lực pháp luật:
Cá nhân: là chủ thể đầu tiên của các quan hệ xã hội, là “tổng hòa các mối
quan hệ xã hội”. Cá nhân – con người là trung tâm của các chính sách kinh tế, xã
hội mà Đảng và Nhà nước ta đã và đang phục vụ với mục đích phục vụ con người,
vì con người . Trong các mối quan hệ tài sản và nhân thân mà luật dân sự điều chỉnh
thì cá nhân là chủ thể nguyên sinh, đầu tiên và các chủ thể khác tham gia vào các
quan hệ dân sự cũng thông qua hành vi của con người. Để tham gia vào quan hệ xã
hội nói chung và quan hệ dân sự, thương mại nói riêng, cá nhân phải có tư cách chủ
thể để tham gia vào các quan hệ đó. Đó là năng lực chủ thể được tạo thành bởi năng
lực pháp luật và năng lực hành vi.
“Năng lực pháp luật dân sự của các nhân là khả năng của cá nhân có quyền dân
sự và có nghĩa vụ dân sự” [16, Khoản 1 Điều 16]. Năng lực pháp luật dân sự của


8


cá nhân là khả năng, là tiền đề, điều kiện cần thiết để công dân có quyền, có nghĩa
vụ; là thành phần không thể thiếu được của cá nhân với tư cách chủ thể của quan hệ
pháp luật dân sự, là một mặt của năng lực chủ thể.
Pháp nhân: có năng lực pháp luật kể từ thời điểm tư cách pháp nhân phát
sinh. Khác với tư cách pháp luật của cá nhân, năng lực pháp luật của pháp nhân do
luật xác định về nội dung, phù hợp với đặc điểm của từng loại pháp nhân, thậm chí
với từng cá nhân của pháp nhân. Mỗi pháp nhân có những mục đích xác định để
theo đuổi và, do đó, có khả năng có những quyền và nghĩa vụ giới hạn bởi chính các
mục đích đó.Mục đích của các pháp nhân tư pháp và pháp nhân hỗn hợp được xác
định trong điều lệ pháp nhân.
+) Năng lực hành vi:
Cá nhân: Tư cách chủ thể của cá nhân chỉ đầy đủ, hoàn thiện, độc lập khi họ
có đầy đủ năng lực hành vi dân sự, ngoài năng lực pháp luật dân sự vốn là thuộc
tính được pháp luật ghi nhận cho mọi cá nhân.“Năng lực pháp luật hành vi dân sự
của cá nhân là khả năng của các nhân bằng hành vi của mình xác lập, thực hiện
quyền, nghĩa vụ dân sự” [16, Điều 19]. Nếu năng lực pháp luật là tiền đề, là quyền
dân sự khách quan của chủ thể, thì năng lực hành vi là khả năng hành động của
chính thể tạo ra các quyền, thực hiện quyền và nghĩa vụ của họ. Ngoài ra, năng lực
hành vi dân sự còn bao hàm cả năng lực trách nhiệm dân sự khi vi phạm nghĩa vụ
dân sự.Cùng với năng lực pháp luật, năng lực hành vi dân sự là thuộc tính của cá
nhân , tạo ra tư cách chủ thể của cá nhân trong các quan hệ dân sự.
b). Sự tự nguyện,tự do của các bên giao kết hợp đồng thương mại.
Bản chất của mọi giao dịch là sự thống nhất giữa ý chí và bày tỏ ý chí, cho nên
sự tự nguyện bao gồm các yếu tố cấu thành là tự do ý chí và bày tỏ ý chí. Không có tự
do ý chí và bày tỏ ý chí không thể có tự nguyện, nếu một trong hai yếu tố này không có
hoặc không thống nhất cũng không thể có tự nguyện. Sự tự nguyện của một bên ( hành

vi pháp lý đơn phương ) hoặc sự tự nguyện của các bên trong một hợp đồng là một
trong các nguyên tắc được qui định tại Điều 4 Bộ luật dân sự 2005 [15, Điều 4]:
Nguyên tắc tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận. Vi phạm sự tự nguyện của chủ thể là
vi phạm pháp luật. Vì vậy giao dịch không có sự tự nguyện không làm phát

9


sinh hậu quả pháp lý. Quyền tự do của các bên trong việc quyết định có tham gia
vào một giao dịch cụ thể và đồng ý về các điều khoản của giao dịch đó hay không là
nền tảng pháp lý của nền kinh tế thị trường. Từng cá nhân có thể tham gia vào các
mối quan hệ pháp lý một cách nhanh chóng và trực tiếp mà không có bất kỳ sự can
thiệp chính trị hay ngoại giao nào. Do vậy, các bên có thể đưa ra các quyết định
kinh tế tức thì, có liên quan trực tiếp đến sự thành công của họ.
Ngoài ra, các bên sẽ tự quyết định sự được mất trong phần lớn các cuộc
thương lượng của họ (với điều kiện là không bên nào bị ở vị thế quá bất lợi).Luật
thương mại chỉ có hiệu lực ràng buộc các nghĩa vụ pháp lý khi các bên tham gia
được cho là đã tự nguyện gánh vác các nghĩa vụ đó. Một bộ luật thương mại có thể
qui định cụ thể khi nào một bên đã thực sự gánh vác các nghĩa vụ pháp lý đó, ví dụ
như là việc xác định ranh giới khi việc thỏa thuận về một thương vụ nào đó trở
thành một cam kết mang tính hợp đồng. Nhưng các bên có thể tự thỏa thuận các
điều khoản cho các cam kết của họ. Thậm chí ngay cả khi khi bộ luật thương mại có
các qui định về việc thực hiện các giao dịch cụ thể nào đó, các bên vẫn có quyền tự
do bãi bỏ hoặc thay đổi các quy tắc áp dụng. Một hợp đồng được xác lập trên cơ sở
tự nguyện, tự do nhưng cũng phải đảm bảo tuân thủ theo qui định của pháp luật.
1.1.1.4. Nội dung và mục đích của hợp đồng thương mại.
“ Mục đích của giao dịch dân sự là lợi ích mà chủ thể mong muốn đạt được
khi xác lập giao dịch đó ”[16, Điều 118]. Nội dung của mọi giao dịch là tổng hợp
các điều khoản mà các bên đã cam kết, thỏa thuận trong giao dịch. Những điều
khoản này xác định quyền , nghĩa vụ của các bên phát sinh từ giao dịch. Mục đích

và nội dung của giao dịch có quan hệ chặt chẽ với nhau. Con người xác lập, thực
hiện giao dịch luôn nhằm đạt được mục đích nhất định. Muốn dạt được mục đích đó
họ phải cam kết, thỏa thuận về nội dung và ngược lại những cam kết, thỏa thuận về
nội dung của họ là để đạt được mục đích của giao dịch. Vì thế, chỉ những tài sản
được phép giao dịch, những công việc được phép thực hiện không vi phạm điều
cấm pháp luật, không trái đạo đức xã hội là những giao dịch có mục đích và nội
dung không hợp pháp, không làm phát sinh hiệu lực pháp luật của giao dịch đó .
10


Tuy vậy, nội dung của hợp đồng cũng phụ thuộc vào tự do ý chí của các bên
giao kết trong khuôn khổ pháp luật.Học thuyết về tính độc lập của ý chí được thiết
lập trong triết học luật. Tư tưởng chủ đạo là: ý chí của con người là luật; con người
chỉ bị ràng buộc vào một nghĩa vụ bởi ý chí của mình, một cách trực tiếp trong quan
hệ hợp đồng (ý chí đặc thù) hoặc một cách gián tiếp một khi nghĩa vụ do luật áp đặt
(ý chí chung được suy đoán). Cũng vì ý chí tạo ra nghĩa vụ mà hợp đồng phải được
tự do giao kết. Cá nhân có quyền tự do quyết định giao kết hoặc không giao kết hợp
đồng; có quyền tự do quyết định hình thức và nội dung của hợp đồng.
1.1.1.5. Hình thức của hợp đồng thương mại.
Hình thức giao kết hợp đồng là sự bộc lộ ý chí của các bên giao kết được ghi
nhận theo một cách nào đó. Trên nguyên tắc, các bên được tự do lựa chọn cách thức
bộc lộ ý chí của mình. Thông qua cách thức biểu hiện này, người ta có thể biết được nội
dung của giao dịch kinh doanh đã xác lập. Hình thức của hợp đồng có ý nghĩa đặc biệt
quan trọng trong tố tụng, bởi đó là chứng cứ xác nhận các quan hệ kinh doanh đã và
đang tồn tại giữa các bên, từ đó xác định trách nhiệm khi có vi phạm xảy ra.Về nguyên
tắc, “hợp đồng dân sự có thể được giao kết bằng văn bản, lời nói hoặc hành
vi cụ thể, ngoại trừ pháp luật có qui định những hình thức nhất định đối với hợp đồng
cụ thể, khi pháp luật không qui định loại hợp đồng đó phải được giao kết bằng một hình
thức nhất định” [15, Khoản 1 Điều 401]. Điều 122 Bộ luật dân sự Việt Nam


2015 :Giao dịch dân sự không có một trong các điều kiện được quy định tại Điều
117 của Bộ luật này thì vô hiệu, trừ trường hợp Bộ luật này có quy định khác.
Do đó, nếu các bên có vi phạm về mặt hình thức thì: “Trong trường hợp pháp
luật qui định hình thức giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch mà các
bên không tuân theo thì theo yêu cầu của một hoặc các bên, Tòa án, cơ quan Nhà nước
có thẩm quyền khác quyết định buộc các bên thực hiện theo qui định về hình thức của
giao dịch trong một thời hạn; quá thời hạn đó mà không thực hiện thì giao dịch vô
hiệu” [15, Điều 134].Có thể nói, hình thức hợp đồng được hiểu là sự thể hiện nội dung
của hợp đồng và những thủ tục mà pháp luật quy định bắt buộc các bên giao kết hợp
đồng phải tuân thủ khi ký kết một số loại hợp đồng nhất định. Việc đưa ra

11


hình thức bắt buộc đối với một số loại giao dịch là nhằm mục đích lưu ý các bên cần
thận trọng hơn khi giao kết kinh doanh và nhằm đảm bảo tính rõ ràng của việc tồn
tại các giao dịch kinh doanh, quyền và nghĩa vụ cũng như đặc điểm của quan hệ
pháp luật kinh doanh. Trên thương trường, bất kể hoạt động kinh doanh nào của bạn
với đối tác bên ngoài cũng đều được thể hiện thông qua hợp đồng. Đây chính là
ràng buộc pháp lý về nghĩa vụ của các bên trong kinh doanh. Khá nhiều các tranh
chấp kinh doanh ngày nay đều xuất phát từ những bất cập của hợp đồng. Nhiều
công ty, tập đoàn lớn trên toàn thế giới đã tổ chức bộ phận pháp lý riêng để xem xét,
đánh giá và tư vấn cho mình trước khi ký kết các hợp đồng.Ta nói rằng hợp đồng
trong luật Việt Nam được giao kết theo nguyên tắc ưng thuận như trong luật của
Pháp. Nguyên tắc này chấp nhận một số ngoại lệ,. Các ngoại lệ có thể được xếp
thành hai nhóm: Nhóm thứ nhất gồm một số qui định đặc biệt về hình thức; nhóm
thứ hai gồm các qui định đặc biệt về thủ tục.
Một số qui định đặc biệt về hình thức (1)
Hợp đồng trọng thức: Gọi là trọng thức một hợp đồng chỉ có thể có giá trị một
khi được lập theo một hình thức nhất định (thông thường là hình thức viết, tức là dùng

ngôn ngữ viết để mô tả nội dung thoả thuận). Ví dụ điển hình của hợp đồng trọng thức
là các hợp đồng mà theo luật phải được chứng nhận, chứng thực, như hợp đồng mua
bán nhà ở. Có trường hợp luật chỉ đòi hỏi việc giao kết hợp đồng phải được ghi nhận
bằng văn bản chứ không nhất thiết được chứng nhận, chứng thực, như hợp đồng uỷ
quyền Điều quan trọng để tính trọng thức trở thành một điều kiện về hình thức của một
hợp đồng là phải có một điều luật quy định rành mạch về việc loại bỏ nguyên tắc ưng
thuận và áp đặt tính trọng thức đối với việc giao kết hợp đồng đó.
Hợp đồng thực tại. Một số hợp đồng, như đã biết, được giao kết bằng cách
chuyển giao vật mà các bên quan tâm. Việc chuyển giao đó cũng được coi như một điều
kiện về hình thức của hợp đồng: không có hình thức đó, sự thoả thuận đơn thuần giữa
hai bên không có hiệu lực ràng buộc. Ví dụ điển hình của loại hợp đồng thực tại là hợp
đồng thuê tài sản: nếu chỉ có thoả thuận về việc thuê mà không có việc chuyển giao tài
sản từ người cho thuê sang người thuê, thì hợp đồng chưa hình thành. Xin

12


phép cơ quan có thẩm quyền. Có trường hợp do tính chất quan trọng của tài sản giao
dịch hoặc của bản thân giao dịch đối với kinh tế quốc dân hoặc đối với trật tự công
cộng, người làm luật đặt các giao dịch ấy dưới sự giám sát chặt chẽ của Nhà nước
thông qua một hệ thống các quy tắc về kiểm tra, xem xét và cho phép của cơ quan
Nhà nước có thẩm quyền.
1.1.2. Sơ lược hợp đồng thương mại vô hiệu và phân loại hợp đồng thương
mại vô hiệu.
1.2.1.1. Các trường hợp vô hiệu của hợp đồng thương mại
Các trường hợp hợp đồng thương mại vô hiệu được quy định tại BLDS 2015
từ Điều 123 đến Điều 129 [16] và Điều 408 BLDS 2015 [16] đó là:
a) Hợp đồng vô hiệu do vi phạm điều cấm của luật, trái đạo đức xã hội (Điều
123);
b) Hợp đồng vô hiệu do giả tạo (Điều 124);

c) Hợp đồng vô hiệu do người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi
dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, người bị hạn chế năng
lực hành vi dân sự xác lập, thực hiện (Điều 125);
d) Hợp đồng vô hiệu do bị nhầm lẫn (Điều 126);
e) Hợp đồng vô hiệu do bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép (Điều 127);
f) Hợp đồng vô hiệu do người xác lập không nhận thức và làm chủ được hành
vi của mình (Điều 128);
g) Hợp đồng vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức (Điều 129);
h) Hợp đồng vô hiệu do có đối tượng không thể thực hiện được (Điều 408).
1.2.1.2. Khái quát những qui định của pháp luật về các trường hợp vô hiệu
của hợp đồng thương mại.
Định nghĩa:
Hợp đồng là thoả thuận giữa các bên làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt
quyền, nghĩa vụ nhằm đạt được lợi ích hợp pháp mà họ mong muốn. Khi giao kết, các
bên phải tôn trọng một số điều kiện.Trên thương trường, bất kể hoạt động kinh doanh
nào của bạn với đối tác bên ngoài cũng đều được thể hiện thông qua hợp đồng.

13


Đây chính là ràng buộc pháp lý về nghĩa vụ của các bên trong kinh doanh.Chỉ
những giao dịch hợp pháp mới làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của các bên và được
Nhà nước đảm bảo thực hiện. Một giao dịch hợp pháp phải tuân thủ 4 điều kiện có
hiệu lực của các giao dịch theo phần trên đã phân tích (Năng lực chủ thể, sự tự
nguyện tự do của các bên giao kết hợp đồng, nội dung và mục đích của hợp đồng
không vi phạm pháp luật, hình thức của hợp đồng theo qui định pháp luật). Khoản 1
Điều 410 Bộ luật dân sự Việt Nam 2005: “Các qui định về giao dịch dân sự vô hiệu
từ Điều 127 đến Điều 138 của bộ luật này cũng được áp dụng đối với hợp đồng vô
hiệu” [15, Điều 410], hơn nữa Khoản 2, Khoản 3 Điều 410 Bộ luật dân sự Việt Nam
2005 có qui định mối quan hệ giữa hợp đồng chính và hợp đồng phụ:“ 2. Sự vô hiệu

của hợp đồng chính làm chấm dứt hợp đồng phụ, trừ trường hợp các bên có thỏa
thuận hợp đồng phụ được thay thế hợp đồng chính”“ 3. Sự vô hiệu của hợp đồng
phụ không làm chấm dứt hợp đồng chính, trừ trường hợp các bên thỏa thuận hợp
đồng phụ là một phần không thể tách rời hợp đồng chính”Tóm lại, các điều kiện có
hiệu lực của mọi giao dịch là một thể thống nhất trong mối quan hệ biển chứng. Bởi
vậy, xem xét một giao dịch phải đặt nó trong tổng thể của mối quan hệ biện chứng
này. Nếu giao dịch vô hiệu từng phần mà không ảnh hưởng đến phần khác, thì chỉ
phần vô hiệu không có hiệu lực, phần còn lại vẫn có hiệu lực thi hành.
1.2. Các trường hợp vô hiệu cụ thể của hợp đồng thương mại.
1.2.1. Hợp đồng thương mại vô hiệu do vi phạm điều cấm pháp luật, trái đạo
đức xã hội.
"Đạo đức xã hội" không phải là một khái niệm pháp lý, nó phụ thuộc vào
nhiều yếu tố như văn hóa, lịch sử, kinh tế.. .Hầu hết các hệ thống pháp luật không
có giải thích chính thức về vấn đề này. Các thẩm phán, trọng tài viên thường căn cứ
vào án lệ hoặc tư duy theo lô-gích của mình để giải thích.
Đạo đức xã hội là những hành vi được số đông trong xã hội ứng xử và chấp
nhận. Hành vi trái với với những hành vi đó có thể coi là trái với đạo đức xã hội.
Trong thương mại quốc tế, các hợp đồng vi phạm trật tự công cộng thường cũng
bị coi là không có hiệu lực. Trật tự công cộng cũng là một vấn đề không được quy

14


định rõ bằng pháp luật và thường được giải thích theo án lệ, phụ thuộc vào nhiều
điều kiện khác nhau.
1.2.2. Hợp đồng thương mại vô hiệu do giả tạo.
Giả tạo trong hoạt động thương mại: Trong hoạt động của các cơ quan, doanh
nghiệp, quyền sở hữu tài sản thuộc về Nhà nước hoặc thuộc về nhà đầu tư hay các
cổ đông góp vốn. Những người đại diện cho cơ quan, đơn vị trong hoạt động đầu tư,
kinh doanh là những người tham gia giao kết hợp đồng nên họ quan tâm đầy đủ và

trước hết đến lợi ích của đơn vị mình, tìm kiếm lợi nhuận tốt nhất cho đơn vị trong
phạm vi có thể. Nhưng do không phải là chủ sở hữu đích thực, người trực tiếp tiến
hành các hoạt động này có thể không có lợi ích kinh tế cụ thể từ những giao dịch mà
mình tiến hành, hoặc được hưởng một phần nào đó từ lợi ích thu được, mà những
lợi ích đó nhiều khi quá nhỏ so với điều kiện cho phép họ có thể tìm kiếm những cơ
hội, thông đồng với đối tác để mang lại lợi ích riêng cho cá nhân. Chính những cơ
sở đã lặp luận vừa rồi và dựa trên thực tiễn hoạt động kinh doanh những hợp đồng
giả tạo được hình thành.
Khái niệm: Hợp đồng giả tạo theo qui định của pháp luật Việt Nam “ Khi các
bên xác lập giao dịch dân sự một cách giả tạo nhằm che giấu một giao dịch dân sự khác
thì giao dịch dân sự giả tạo vô hiệu, còn giao dịch dân sự bị che giấu vẫn có hiệu lực,
trừ trường hợp giao dịch đó cũng vô hiệu theo quy định của Bộ luật này hoặc luật khác
có liên quan ” [16, Điều 124]. Nói cách khác, giao dịch dân sự giả tạo là giao dịch có
nội dung được thiết lập không phản ánh ý chí đích thực của các bên.
Điều kiện của sự giả tạo: Các bên kết ướcTrên thực tế các bên giao dịch không
có ý định tạo lập quyền, nghĩa vụ pháp lý qua các giao dịch dân sự này. Thông thường
các giao dịch này được thiết lập là để lẩn tránh việc thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà
nước hoặc nghĩa vụ đối với người thứ ba hoặc để che dấu một hành vi trái pháp luật.
Những giao dịch dân sự như vậy sẽ không có hiệu lực pháp luật. Ý chí của các bên kết
ước Trường hợp vô hiệu do giả tạo có điểm đặc biệt là các bên trong giao dịch đó hoàn
toàn tự nguyện xác lập giao dịch nhưng lại cố ý bày tỏ ý chí không đúng với ý

15


chí thực của họ (có sự tự nguyện nhưng không có sự thống nhất giữa ý chí và bày tỏ
ý chí).
1.2.3. Hợp đồng thương mại vô hiệu do không tuân thủ hình thức.
Hình thức của hợp đồng - yếu tố không nên xem nhẹ trên thương trường, bất kể
hoạt động kinh doanh nào của bạn với đối tác bên ngoài cũng đều được thể hiện thông

qua hợp đồng. Một trong các vấn đề mà các chuyên gia về pháp luật kinh doanh quan
tâm là hình thức hợp đồng có ảnh hưởng đến hiệu lực của hợp đồng như thế nào. Về
vấn đề này, pháp luật của các nước có những quan điểm và cách tiếp cận khác nhau.Ở
nhiều nước trên thế giới, pháp luật có những điều khoản cụ thể đối với một số hợp
đồng, bắt buộc từng loại phải được thể hiện bằng hình thức nhất định, nếu

vi phạm quy định này, hợp đồng đã ký kết sẽ không có giá trị pháp lý. Vi phạm các
quy định bắt buộc về hình thức sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến pháp luật và trật tự công
cộng. Vì vậy, chừng nào sự thống nhất của các bên chưa được thể hiện bằng những
hình thức nhất định theo đòi hỏi của pháp luật thì chừng đó chưa có hợp đồng. Pháp
luật một số nước coi sự vi phạm về hình thức là vi phạm lợi ích công cộng nên hợp
đồng vô hiệu tuyệt đối.
Một lời khuyên đối với các công ty là khi ký kết Hợp đồng kinh doanh quốc
tế, công ty nên thoả thuận với đối tác để luật điều chỉnh Hợp đồng là luật của nước
mình. Có như thế, khi có tranh chấp xảy ra, công ty sẽ đỡ mất thời gian tìm hiểu
pháp luật nước ngoài và có thêm lợi thế để giải quyết các vướng mắc phát sinh.
Theo qui đinh của pháp luật Việt Nam Điều 119 Bộ luật dân sự 2015 có quy
định hình thức của các giao dịch: “Giao dịch dân sự được biểu hiện bằng lời nói, văn
bản hoặc bằng hành vi cụ thể” [16, Điều 119].Khoản 1 Điều 117 Bộ luật dân sự 2015
nêu các điều kiện để một giao dịch có hiệu lực không bao gồm hình thức của giao dịch.
Cho nên, có thể nói rằng hình thức của giao dịch theo qui định của luật hiện hành là
điều kiện cần để một giao dịch được tiến hành thuận lợi dưới sự bảo hộ của pháp
luật:Hình thức của hợp đồng không phải là yếu tố đương nhiên khiến hợp đồng vô hiệu
và cũng không thể dựa vào lặp luận do hợp đồng không tuân thủ hình thức nên vô hiệu
(Khoản 2 Điều 401). Ta có thể suy luận rằng: mọi thỏa thuận giữa các

16


bên trong hợp đồng đều có giá trị pháp lý. Chỉ những giao dịch pháp luật qui định

bắt buộc phải thể hiện bằng văn bản, phải có chứng thực, chứng nhận, đăng kí, hoặc
xin phép thì mới ràng buộc các bên phải tuân theo, nếu các bên không tuân thủ các
qui định này đồng thời có yêu cầu thì Tòa án xem xét và buộc các bên thực hiện
theo qui định về hình thức của giao dịch trong một thời hạn nhất định.
Việc ấn định thời hạn do Tòa án quyết định căn cứ vào giao dịch cụ thể. Việc
buộc các bên phải thực hiện và đưa ra thời hạn thực hiện quy định về hình thức của
giao dịch thuộc thẩm quyền và là nghĩa vụ của Tòa án. Tòa án không mặc nhiên tuyên
bố giao dịch này là vô hiệu. Chỉ khi các bên không thực hiện và hoàn tất các qui định
về hình thức của giao dịch trong thời hạn do Tòa án ấn định thì giao dịch mới đương
nhiên vô hiệu. Bên có lỗi làm cho giao dịch vô hiệu phải bồi thường thiệt hại.
1.2.4. Hợp đồng thương mại vô hiệu do người chưa thành niên, người mất năng
lực hành vi dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự xác lập, thực hiện.

Người không có năng lực hành vi hoặc có năng lực hành vi không đầy đủ
không thể có đủ điều kiện để tự do thể hiện ý chí. Vì vậy, giao dịch của họ phải
được xác lập, thiết lập dưới sự kiểm soát của người khác hoặc do người khác xác
lập, thực hiện.Tuy nhiên, giao dịch do những người này xác lập không mặc nhiên bị
coi là vô hiệu mà chỉ vô hiệu khi có yêu cầu của những người đại diện cho họ: “Khi
giao dịch dân sự do người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự hoặc
người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự xác lập, thực hiện thì theo yêu cầu của
người đại diện của người đó, Tòa án tuyên bố giao dịch đó vô hiệu nếu theo qui
định của pháp luật giao dịch này phải do người đại diện của họ xác lập, thực hiện”
(Điều130 Bộ luật dân sự Việt Nam 2005 )Ngoài ra, “người có năng lực hành vi dân
sự nhưng đã xác lập vào đúng thời điểm không nhận thức và làm chủ được hành vi
của mình thì có quyền yêu cầu Toà án tuyên bố giao dịch đó là vô hiệu” (Điều 133
Bộ luật dân sự Việt Nam 2005 ).
1.2.5. Hợp đồng thương mại vô hiệu do bị lừa dối, đe dọa.
1.2.5.1. Hợp đồng thương mại lừa dối.
Hành vi lừa dối trong giao kết hợp đồng
17



Lừa dối là một thuật ngữ được sử dụng rộng rãi trong đời sống hàng ngày.
Theo cách nói thông thường, lừa dối là lừa bằng thủ đoạn nói dối, gian lận để làm
cho người ta nhầm tưởng mà nghe theo, tin theo, ví dụ: thủ đoạn lừa dối của con
buôn. Theo ngôn ngữ pháp luật, lừa dối là một xảo thuật dùng để lừa gạt người
khác. Từ những lời lẽ gian dối đến mánh khóe xảo trá dùng để khiến người ta giao
kết hợp đồng đều là lừa dối. Cũng có cách hiểu: “Lừa dối là hành vi cố ý đưa thông
tin sai không đúng sự thật nhằm để người khác tin đó là sự thật. Nếu không có các
thủ đoạn ấy thì bên kia sẽ không giao kết hợp đồng”. Các nhà khoa học pháp lý
cũng như các nhà lập pháp Việt Nam coi lừa dối trong giao dịch dân sự là hành vi cố
ý của một bên nhằm làm cho bên kia hiểu sai lệch về chủ thể, tính chất của đối
tượng hoặc nội dung của giao dịch nên đã xác lập giao dịch đó.
Khoa học pháp lý đã đưa ra những điều kiện để xác định khi nào thì lừa dối
tồn tại. Phần lớn pháp luật các nước đều coi những lừa dối có tính chất quyết định
đến sự giao kết hợp đồng là yếu tố vô hiệu hợp đồng. Tính chất quyết định thể hiện
ở chỗ nếu không dùng các mánh khóe như vậy thì sẽ không có giao kết hợp đồng.
“Sự lừa dối là căn cứ làm cho hợp đồng vô hiệu khi các thủ đoạn do một bên đã
thực hiện mà nếu không có các thủ đoạn đó thì bên kia đã không kí kết hợp đồng”.
Việc một người bán hàng giới thiệu không đúng sự thật về hàng hóa của mình hoặc
người bán hàng nói giá quá cao (nói thách) thì không bị xem là lừa dối, bởi lẽ trong
các trường hợp này người tiếp nhận thông tin không bị buộc phải kí hợp đồng nếu
họ không muốn.
Hợp đồng lừa dối
Hợp đồng là sự thỏa thuận ý chí trong việc xác lập, thay đổi hay chấm dứt
quyền và nghĩa vụ của các bên giao kết. Ý chí giao kết hợp đồng của các bên giữ vị
trí vô cùng quan trọng trong việc xác định sự tồn tại hay không của hợp đồng. Các
biểu hiện của sự không thống nhất ý chí (sự thể hiện ý chí khác nhau) hoặc sự trái
ngược giữa biểu hiện với ý chí đích thực của các bên giao kết sẽ không hình thành
nên một hợp đồng có hiệu lực. Nói cách khác một hợp đồng được giao kết dưới tác

động của sự lừa dối, nhầm lẫn hay đe dọa có thể không có giá trị vì trong các hoàn
18


cảnh như vậy, các cam kết được đưa ra không xuất phát từ ý chí đích thực của người
giao kết. Cũng như nhiều quốc gia khác, pháp luật về hợp đồng ở Việt Nam thừa nhận
lừa dối trong giao kết hợp đồng như một yếu tố có thể đưa đến sự vô hiệu của hợp
đồng.Theo Bộ luật dân sự Việt Nam 2015 Ðiều 127: “Lừa dối trong giao dịch là hành

vi cố ý của một bên hoặc của người thứ ba nhằm làm cho bên kia hiểu sai lệch về
chủ thể, tính chất của đối tượng hoặc nội dung của giao dịch dân sự nên đã xác lập
giao dịch đó” [16, Điều 127].Người giao kết với người lừa dối không nhầm, mà bị
lừa, hay đúng hơn là bị người lừa dối dẫn dụ vào sự nhầm lẫn. Sự nhầm lẫn do bị
lừa dối được hình dung trong một phạm vi khá rộng so với sự nhầm lẫn tự động
phân tích ở trên: người nhầm lẫn tự động chỉ được bảo vệ trong trường hợp nhầm
lẫn về nội dung chủ yếu của hợp đồng; trong khi người nhầm lẫn do bị lừa dối có
thể được bảo vệ cả trong trường hợp nhầm lẫn về chủ thể giao kết, về tính chất của
đối tượng, về nội dung của giao dịch.
+) Ðiều kiện của sự lừa dối
.Bộ luật dân sự Việt Nam 2015 ở Điều 117 đã dự liệu được thiếu sót của Bộ
luật cũ: “lừa dối là hành vi cố ý của một bên hoặc của người thứ ba nhằm làm cho
bên kia hiểu sai lệch về chủ thể, tính chất của đối tượng hoặc nội dung của giao dịch
dân sự nên đã xác lập giao dịch đó”.
+) Ý định lừa dối.
Người lừa dối phải thực hiện hành vi lừa dối một cách cố ý, nghĩa là thực
hiện hành vi lừa dối một cách có ý thức với mong muốn có được sự chấp nhận giao
kết hợp đồng của người bị lừa dối. Hành vi lừa dối, vả lại, phải bị đánh giá xấu theo
các chuẩn mực chung về đạo đức; có những thủ đoạn lừa dối chấp nhận được trong
thực tiễn giao dịch, do tính chất vô hại của chúng, ví dụ, quảng cáo bột giặt “chỉ
ngâm thôi đã sạch”, kem đánh răng có tác dụng làm cho “răng chắc như thép”,...

Thế nào là xấu hoặc chấp nhận được theo các chuẩn mực chung về đạo đức là vấn
đề không đơn giản.
+) Sự lừa dối phải có tác dụng quyết định đối với sự ưng thuận.

19


×