Tải bản đầy đủ (.docx) (65 trang)

Đề cương Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác Lênin

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (811.02 KB, 65 trang )

LỚP TÂM LÝ HỌC K42.A
TỔ KỸ THUẬT ỨNG DỤNG

ĐỀ CƯƠNG
NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN
CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN


PHẦN 1: THẾ GIỚI QUAN VÀ PHƯƠNG PHÁP LUẬN TRẾT
HỌC CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN
1. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức
Vật chất là phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con
người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại
khơng lệ thuộc vào cảm giác. Ý thức là sản phẩm của một dạng vật chất có tổ chức cao là
bộ óc người nên chỉ khi có con người mới có ý thức.
Theo quan điểm duy vật biện chứng: vật chất và ý thức tồn tại trong mối quan hệ biện
chứng với nhau, tác động lẫn nhau thơng qua hoạt động thực tiễn; trong mối quan hệ đó
vật chất giữ vai trò quyết định đối với ý thức.
a) Vai trò của vật chất đối với ý thức
Vật chất là cái có trước, ý thức là cái có sau; vật chất là nguồn gốc của ý thức; vật chất
quyết định ý thức; ý thức là sự phản ánh đối với vật chất trong bộ não người.
b) Vai trò của ý thức đối với vật chất

CÓ ĐẦY ĐỦ BA PHẦN VÀ LIÊN HỆ VIỆT NAM
THEO BÀI GIẢNG CỦA TH.S NGUYễn THỊ QUỲNH TRANG

tháng 12 năm 2016

2



Ý thức có thể tác động trở lại vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của con người. Ý
thức có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm sự vận động phát triển của những điều kiện vật chất ở
những mức độ nhất định. Nếu con người nhận thức đúng, có tri thức khoa học, có tình
cảm cách mạng, có nghị lực, có ý chí thì hành động của con người phù hợp với các quy
luật khách quan, con người có năng lực vượt qua những thách thức trong quá trình thực
hiện mục đích của mình, thế giới được cải tạo - đó là sự tác động tích cực của ý thức; Còn
nếu ý thức của con người phản ánh không đúng hiện thực khách quan, bản chất, quy luật
khách quan thì ngay từ đầu, hướng hành động của con người đã đi ngược lại các quy luật
khách quan, hành động ấy sẽ có tác dụng tiêu cực đối với hoạt động thực tiễn, đối với
hiện thực khách quan.
Như vậy, bằng việc định hướng cho hoạt động của con người, ý thức có thể quyết định
hành động của con người, hoạt động thực tiễn của con người đúng hay sai, thành công
hay thất bại, hiệu quả hay không hiệu quả.
c) Ý nghĩa phương pháp luận
Vật chất quyết định ý thức, ý thức là sự phản ánh vật chất nên trong nhận thức bảo
đảm nguyên tắc “tính khách quan của sự xem xét”
Ý thức có tính độc lập tương đối, tác động trở lại đối với vật chất thông qua hoạt động
của con người nên cần phải phát huy tính tích cực, sáng tạo của ý thức.
Bản thân sinh viên cần phải làm gì để phát huy tính tích cực sáng tạo của ý thức?
Để thực hiện nguyên tắc tôn trọng khách quan, phát huy tính năng động chủ quan trong
nhận thức và thực tiễn đòi hỏi phải phòng, chống và khắc phục bệnh chủ quan duy ý
chí, đó là những hành động lấy ý chí áp đặt cho thực tế, lấy ảo tưởng thay cho hiện thực,
lấy ý muốn chủ quan làm chính sách, lấy tình cảm làm điểm xuất phát cho chiến lược,
sách lược v.v… Nên khi xem xét các hiện tượng cần phải gắn với các hoạt động của con
người. Đồng thời đây cũng phải là quá trình chống chủ nghĩa kinh nghiệm, xem thường
tri thức khoa học, xem thường lý luận, bảo thủ, trì trệ, thụ động, v.v… Nghĩa là cần
chống khuynh hướng tã khuynh và hữu khuynh trong hoạt động nhận thức và thực tiễn.
2. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
a) Khái niệm mối liên hệ, mối liên hệ phổ biến


3


Mối liên hệ là một phạm trù dùng để chỉ sự ràng buộc, phụ thuộc, quy định lẫn nhau
tác động qua lại và chuyển hóa lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng, hay giữa các mặt,
các yếu tố của mỗi sự vật, hiện tượng trong thế giới.
Mối liên hệ phổ biến dùng để chỉ tính phổ biến của các mối liên hệ của các sự vật,
hiện tượng của thế giới, đồng thời cũng dùng để chỉ các mối liên hệ tồn tại ở nhiều sự vật,
hiện tượng của thế giới, trong đó những mối liên hệ phổ biến nhất là những mối liên hệ
tồn tại ở mọi sự vật, hiện tượng của thế giới, nó thuộc đối tượng nghiên cứu của phép
biện chứng. Đó là các mối liên hệ giữa: các mặt đối lập, lượng và chất, khẳng định và phủ
định, cái chung và cái riêng, bản chất và hiện tượng. v.v… Như vậy, giữa các sự vật, hiện
tượng của thế giới vừa tồn tại những mối liên hệ đặc thù, vừa tồn tại những mối liên hệ
phổ biến ở những phạm vi nhất định. Nói một cách khác, mọi sự vật, hiện tượng của thế
giới đều nằm trong các mối liên hệ với nhau.
b) Tính chất của các mối liên hệ
Tính khách quan, tính phổ biến và tính đa dạng, phong phú là những tính chất cơ bản
của các mối liên hệ.
- Tính khách quan của các mối liên hệ xuất phát từ tính thống nhất vật chất của thế
giới, mối liên hệ là bản chất tất yếu của thế giới vật chất. Theo quan điểm đó, sự quy định
lẫn nhau, tác động lẫn nhau và làm chuyển hóa lẫn nhau của các sự vật, hiện tượng (hoặc
trong bản thân chúng) là cái vốn có của nó, tồn tại độc lập không phụ thuộc vào ý chí của
con người; con người chỉ có thể nhận thức và vận dụng các mối liên hệ đó trong hoạt
động thực tiễn của mình.
- Tính phổ biến của các mối liên hệ xuất phát từ bản thân tính biện chứng của thế
giới mỗi sự vật, hiện tượng là một cấu trúc hệ thống, không có bất cứ sự vật, hiện tượng
hay quá trình nào tồn tại tuyệt đối biệt lập, mà chúng là một chỉnh thể thống nhất.
- Tính đa dạng, phong phú của mối liên hệ xuất phát từ tính đa dạng, muôn hình
muôn vẻ của thế giới vật chất. Có nhiều hình thức mối liên hệ, mỗi hình thức có vị trí, vai
trò, đặc điểm riêng của nó.

+ Mối liên hệ bên trong – mối liên hệ bên ngoài
+ Mối liên hệ cơ bản – mối liên hệ không cơ bản
4


+ Mối liên hệ chủ yếu – mối liên hệ thứ yếu
+ Mối liên hệ tất nhiên – mối liên hệ ngẫu nhiên
+ Mối liên hệ trực tiếp – mối liên hệ gián tiếp
c) Ý nghĩa phương pháp luận
Trong hoạt động nhận thức và thực tiễn cần phải có quan điểm toàn diện và quan điểm
lịch sử - cụ thể.
Quan điểm toàn diện yêu cầu:
- Xem xét tất cả các mặt, các mối liên hệ, kể cả các mắt khâu trung gian.
- Xem xét các sự vật, hiện tượng trong mối liên hệ qua lại giữa các mặt, các yếu tố, các
bộ phận của chính sự vật, hiện tượng; cũng như giữa sự vật, hiện tượng đó với các sự vật,
hiện tượng khác.
- Trong vô vàn các mối liên hệ cần rút ra những mối liên hệ cơ bản, chủ yếu nhằm xác
định bản chất của sự vật hiện tượng.
- Chống lại cách xem xét siêu hình, phiến diện, một chiều (chỉ thấy một mặt mà không
thấy nhiều mặt, chỉ thấy một mối liên hệ mà không thấy các mối liên hệ khác).
- Chống lại cách xem xét cào bằng, dàn trải (coi một mối liên hệ như nhau); có nghĩa là
chống lại chủ nghĩa chiết trung về mối liên hệ.
- Chống lại thuật ngụy biện (quy cái thứ yếu thành cái chủ yếu, quy cái không cơ bản
thành cái cơ bản, bằng lý lẽ lập luận tưởng rằng có lý, nhưng thực chất là vô lý).
Quan điểm lịch sử - cụ thể yêu cầu:
- Khi xem xét các sự vật, hiện tượng, cần phải đặt chúng trong điều kiện, môi trường cụ
thể; trong từng hoàn cảnh lịch sử - cụ thể; trong từng điều kiện không gian, thời gian cụ
thể nhất định; trong từng mối liên hệ, quan hệ nhất định; trong từng trường hợp cụ thể
nhất định; trong từng hệ tọa độ cụ thể nhất định,…
- Xét đến tính chất đặc thù của đối tượng nhận thức và các tình huống khác nhau phải giải

quyết trong thực tiễn.
- Cần phải xem xét sự vật, hiện tượng trong quá trình phát sinh, hình thành và phát triển
đa dạng của chúng.

5


- Cần nghiên cứu sự vật, hiện tượng trong sự vận động, phát triển ở từng giai đoạn cụ thể
nhất định, như V.I.Lênin đã từng nói: Phân tích cụ thể mỗi tình hình cụ thể, đó là bản
chất, là linh hồn sống của chủ nghĩa Mác.
Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến được vận dụng ở Việt Nam hiện nay như thế nào?
a. Quán triệt quan điểm toàn diện trong nhận thức và thực tiễn
- Công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay được tiến hành toàn diện trong tất cả các lĩnh vực
của đời sống xã hội: Lĩnh vực kinh tế, lĩnh vực chính trị, lĩnh vực xã hội và lĩnh vực tinh
thần. Trong các lĩnh vực ấy, Đảng ta xác định lấy đổi mới kinh tế là trọng tâm, xây dựng
Đảng là then chốt.
- Mặt khác, trong từng lĩnh vực cũng cần phải quán triệt quan điểm toàn diện:
+ Trong lĩnh vực kinh tế, cần đổi mới mọi ngành, mọi khâu của hoạt động kinh tế: Đổi
mới lĩnh vực công nghiệp, nông nghiệp, lâm nghiệp, thương nghiệp,…; đổi mới cơ chế
quản lý kinh tế; cơ cấu vùng kinh tế; cơ cấu thành phần kinh tế;… Đặc biệt, lấy đổi mới
cơ chế quản lý kinh tế làm nền tảng, cốt lõi cho đổi mới các khâu, các mặt khác của hoạt
động kinh tế, theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
+ Trong lĩnh vực chính trị, cần phải đổi mới tất cả mọi mặt trong lĩnh vực chính trị, như
các tư tưởng, quan điểm chính trị, các tổ chức, thiết chế quyền lực, hệ thống luật pháp và
các chính sách,… Trong đó, cần chú ý khâu cơ bản là đổi mới hệ thống chính trị với ba
bộ phận cốt lõi là Đảng, Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc; xác định rõ ràng, rành mạch
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các bộ phận trong hệ thống chính trị, tránh sự chồng
chéo giữa các chức năng với nhau.
+ Trong lĩnh vực xã hội, cần phải đổi mới tất cả các mặt, các khâu trong lĩnh vực xã hội,
như các quan hệ giai cấp quan hệ dân tộc, quan hệ gia đình,… Trong đó, cần chú trọng

giải quyết tốt mối quan hệ giai cấp, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân, củng cố liên
minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, lấy đó là một
trong những động lực thúc đẩy sự phát triển của đất nước.
+ Trong lĩnh vực tinh thần, cần phải đổi mới toàn diện tất cả các mặt trong đời sống tinh
thần của xã hội. Trong đó tập trung vào những bộ phận cốt lõi, như văn hóa, giáo dục đào tạo, khoa học.
6


Quán triệt quan điểm toàn diện trong công cuộc đổi mới, chúng ta nhất định sẽ thực thực
hiện thành công mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
b. Quán triệt quan điểm lịch sử - cụ thể trong nhận thức và thực tiễn
Vận dụng quan điểm lịch sử - cụ thể, từ năm 1930, Đảng ta đã lựa chọn con đường xã hội
chủ nghĩa.
Ngày nay, để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, Đảng đã đề ra đường lối xây dựng
và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa; ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, đồng thời xây dựng quan hệ sản
xuất phù hợp theo định hướng xã hội chủ nghĩa; phát huy cao độ nội lực đồng thời tranh
thủ nguồn lực bên ngoài và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh, có
hiệu quả và bền vững; thực hiện tăng trưởng kinh tế đi liền với phát triển văn hóa, từng
bước cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, thực hiện tiến bộ và công
bằng xã hội, bảo vệ và cải thiện môi trường; kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng
cường an ninh, quốc phòng; bảo vệ và xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh.
Thực tiễn cho thấy con đường đi lên chủ nghĩa xã hội không tuân theo những công thức
có sẵn, bất biến, mà chúng được vận dụng linh hoạt, mềm dẻo, luôn đổi mới để phù hợp
với điều kiện, hoàn cảnh của mỗi nước và tình hình quốc tế trong từng giai đoạn. Con
đường của cách mạng Việt Nam được Đảng ta xác định là xây dựng và phát triển đất
nước theo con đường xã hội chủ nghĩa trên nền tảng của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh.
Ngày nay, tình hình thế giới vẫn diễn biến quanh co, phức tạp đặt ra nhiều vấn đề lý luận
và thực tiễn hết sức mới mẻ cần được giải quyết. Hơn bao giờ hết, chúng ta cần nắm

vững phép biện chứng duy vật, mài sắc tư duy biện chứng, vận dụng các nguyên tắc
phương pháp luận của nó để thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay.
3. Quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập
Quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập là hạt nhân của phép duy vật biện
chứng. chỉ ra nguồn gốc, động lực cơ bản, phổ biến của mọi quá trình vận động và phát
7


triển của sự vật hiện tượng. Theo quy luật này, nguồn gốc và động lực cơ bản, phổ biến
của mọi quá trình vận động, phát triển chính là mâu thuẫn khách quan, vốn có của sự vật.
a. Khái niệm mâu thuẫn, mặt đối lập
- Mâu thuẫn là sự liên hệ tác động qua lại lẫn nhau giữa các mặt đối lập trong một sự vật,
một hiện tượng.
- Khái niệm mặt đối lập dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính, những khuynh hướng
vận động trái ngược nhau và làm nên chỉnh thể một sự vật, một hiện tượng.
b. Tính chất chung của mâu thuẫn
Vì mâu thuẫn cũng là mối liên hệ, nhưng không phải bất kỳ các mối liên hệ nào, mà
chỉ là mối liên hệ giữa các mặt đối lập, nên mâu thuẫn cũng có đầy đủ các tính chất chung
của mối liên hệ: Tính khách quan, tính phổ biến và tính đa dạng, phong phú.
- Tính khách quan: Mâu thuẫn là cái vốn có của bản thân các sự vật, hiện tượng, chứ
không phải do sự áp đặt từ bên ngoài. Bất kỳ sự vật, hiện tượng nào cũng đều chứa đựng
mâu thuẫn bên trong, mâu thuẫn này mất đi thì mâu thuẫn khác được hình thành; sự vật,
hiện tượng vừa là nó, vừa là cái khác.
- Tính phổ biến: Mâu thuẫn có ở trong mọi sự vật, mọi hiện tượng, mọi quá trình; có cả
trong tự nhiên, xã hội và tư duy con người.
- Tính đa dạng, phong phú: Có rất nhiều loại mâu thuẫn, mà mỗi loại mâu thuẫn có đặc
điểm riêng, có vị trí, vai trò riêng, có cách thức giải quyết riêng:
+ Có mâu thuẫn bên trong - mâu thuẫn bên ngoài
+ Có mâu thuẫn cơ bản - mâu thuẫn không cơ bản
+ Có mâu thuẫn chủ yếu - mâu thuẫn thứ yếu

+ Có mâu thuẫn đối kháng - mâu thuẫn không đối kháng
c. Mâu thuẫn là một chính thể, trong đó hai mặt đối lập vừa thống nhất vừa đấu tranh
với nhau
Sự thống nhất của các mặt đối lập:
- Là sự ràng buộc, phụ thuộc, quy định lẫn nhau, nương tựa vào nhau, đòi hỏi có nhau
giữa các mặt đối lập, mặt này lấy mặt kia làm tiền đề tồn tại, nếu không có mặt đối lập
này sẽ không có mặt đối lập kia và ngược lai. Là sự đồng nhất của các mặt đối lập, bởi vì
8


các mặt đối lập cho dù có khác nhau nhưng bao giờ cũng có yếu tố giống nhau, tương tự
nhau.
- Là sự tác động ngang nhau của các mặt đối lập.
- Là sự tác dộng ngang nhau của các mặ đối lập.
Sự đấu tranh của các mặt đối lập: Là sự tác động qua lại lẫn nhau, bài trừ nhau và
phủ định lẫn nhâu của các mặt đối lập. Sự đấu tranh của các mặt đối lập có tể được biểu
hiện ở sự ảnh hưởng lẫn nhau hoặc dùng bạo lực để thủ tiêu lẫn nhau giữa các mặt đối lập
Thống nhất và đấu tranh trong các mặt đối lập không tách rời nhau. Không có tính
thống nhất thì không có đấu tranh, thống nhất là tiền đề của đấu tranh, còn đấu tranh giữa
các mặt đối lập là nguồn gốc, động lực của sự vận động và phát triển ở sự vật hiện tượng.
Phát triển chính là sự đấu tranh của các mặt đối lập. Sự phát triển của sự vật hiện
tượng gắn liền với qua trình hình thành và giải quyết mâu thuẫn. Sự hình thành, phát triển
và giải quyết mâu thuẫn là một quá trình đấu tranh rất phức tạp trải qua nhiều giai đoạn,
mỗi giai đoạn có những đặc điểm riêng của nó. Khi mâu thuẫn được giải quyết thì sự vật
cũ mất đi, sự vật mới ra đời. Sự vật mới ra đời lại bao hàm mâu thuẫn mới, mâu thuẫn
mới lại được triển khai, phát triển và lại được giải quyết làm cho sự vật mới luôn xuât
hiện thay thế sự vật cũ.
Sự giải quyết mâu thuẫn là sự chuyễn hóa của các mặt đối lập. Sự chuyễn hóa giữa
các mặt đối lập là tất yếu, là kết quả của sự đấu tranh của các mặt đối lập. Do sự đa dạng
của thế giới nên hình thức huyễn hóa cũng rất đa dạng: Có thể hai mặt đối lập chuyển hóa

lẫn nhau, cũng có thể cả hai chuyển hoa thành chất mới.
* Ý nghĩa phương pháp luận:
- Mâu thuẫn có tính khách quan phổ biến nên nhận thức mâu thuẫn là cần thiết và phải
khách quan không nên né tránh mâu thuẫn.
- Phân tích một mâu thuẫn cụ thể, biết phân loại mâu thẫn và tìm cách giải quyết cụ thể
đối với từng mâu thuẫn.
- Phải nắm bắt những nguyên tắc giửi quyết mâu thuẫn. Đó là sự đâu tranh của các mặt
đối lập.
- Phải có quan điểm lịch sử cụ thể trong quá trình xem xét và giải quyết mâu thuẫn.
9


4. Quy luật phủ định của phủ định
Quy luật phủ định của phủ định là quy luật về khuynh hướng cơ bản, phổ biến của
mọi vận động, phát triển diễn ra trong các lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy, đó là
khuynh hướng vận động, phát triển của sự vật thông qua những lần phủ định biện chứng,
tạo thành hình thức mang tính chu kỳ “phủ định của phủ định”.
Sự vật, hiện tượng sinh ra, tồn tại, phát triển rồi mất đi, được thay thế bằng sự vật, hiện
tượng khác; thay thế hình thái tồn tại này bằng hình thái tồn tại khác của cùng một sự vật
trong quá trình vận động, phát triển của nó. Sự thay thế đó gọi là sự phủ định. Những sự
phủ định tạo ra điều kiện, tiền đề cho quá trình phát triển của sự vật được gọi là sự phủ
định biện chứng. Nói cách khác, phủ định biện chứng là kết quả của việc giải quyết mâu
thuẫn bên trong của sự vật, tạo ra bước nhảy về chất tạo tiền đề tạo điều kiện cho sự phát
triển của cái mới ra đời thay thế cái cũ. Tính khách quan và tính kế thừa là hai đặc điểm
của phủ định biện chứng.
Phạm trù phủ định biện chứng mới nói lên một giai đoạn, một mắt khâu, một nấc thang
trong quá trình phát triển nhất định. Với tư cách là cái phủ định (cái thứ nhất) cái mới
cũng chứa đựng trong mình xu hứng dẫn tới phủ định lần thứ hai, phủ định của phủ định.
Trong sự vận động vĩnh viễn của thế giới vật chất, sự phát triển của sự vật hiện tượng
diễn ra theo khuynh hướng phù hợp của phủ định từ thấp đến cao một cách vô tận theo

đường xoáy ốc. Sau mỗi chu kỳ phủ định của phủ định cái mới được ra đời dường như
lặp lại cái cũ nhưng trên cơ sở cao hơn.
Phủ định của phủ định là sự thống nhất biện chứng của cái khẳng định và cái phủ định,
là sự tổng hợp tất cả những yếu tố tích cực của cái khẳng định ban đầu và cái phủ định
lần thứ nhất cũng như các giai đoạn trước đó. Cái tổng hợp này là cách tổng hợp lại các
giai đoạn đã qua, vì vậy nó có nội dung phong phú hơn, toàn diện hơn. Phủ định của phủ
định đánh dấu sự kết thức của một chu kỳ phát triển của sự vật đồng thời nó là xuất phát
của một chu kỳ mới tiếp theo. Khuynh hướng phát triển thoe đường xoáy ốc thể hiện tính
chất biện chứng của sự phát triển, đó là tính kế thừa tính lập lại và tính tiệm tiến.
Ý nghĩa phương pháp luận
10


Quy luật phủ định của phủ định cho ta cơ sở để hiểu biết một cách đúng đắn về xu
hướng phát triển của sự vật hiện tượng, mối lien hệ giữa cái cũ và cái mới; Trong nhận
thức và hoạt động thực tiễn cần chống thái độ phủ định sạch trơn. Đồng thời phải biết kế
thừa những già tích cực của cái cũ; Chống lại thái độ bảo thủ không chịu đổi mới; Phải
hiểu phát triển không phải là đường thẳng mà phải theo đường xoáy ốc đi lên. Nghĩa là,
có nhiều khó khăn phức tạp trong wua trình vận động và phát triển.
5. Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với lực lượng sản xuất
Phương thức sản xuất là cách thức tiến hành sản xuất của con người trong những giai
đoạn lịch sử nhất định. Phương thức sản xuất bao hàm lực lượng sản xuất và quá trình
sản xuất (cách thức mà con người tổ chức sản xuất).
a) Khái niệm lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
Lực lượng sản xuất chính là tổng hợp các yếu tố vật chất, và tinh thần tạo thành sức mạnh
thực tiễn cải biến thế giới tự nhiên theo nhu cầu sinh tồn, phát triển của con người.
Lực lượng sản xuất bao gồm người lao động với năng lực kỹ năng, tri thức,… của
mình và các tư liệu sản xuất nhất định như: Đối tượng lao động, công cụ lao động, các tư
liệu phụ trợ của quá trình sản xuất,… Trong đó người lao động là nhân tố có tính quyết
định còn trong các nhân tố của tư liệu sản xuất thì công cụ lao động đóng vai trò quan

trọng hàng đầu.
Quan hệ sản xuất là quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất (sản xuất và
tái sản xuất xã hội). Quan hệ sản xuất bao gồm:
+ Quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất.
+ Quan hệ trong tổ chức và quản lý quá trình sản xuất.
+ Quan hệ trong phân phối kết quả của quá trình sản xuất.
b) Quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
- Mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là mối quan hệ thống nhất
biện chứng, trong đó lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất và quan hệ sản xuất
tác động trở lại lực lượng sản xuất.
Vì sao nói: lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất?
11


Vì Lực lượng sản xuất là một nội dung vật chất của quá trình sản xuất còn quan hệ sản
xuất là hình thức của quá trình sản xuất. Mà nội dung quyết định hình thức nên lực lượng
sản xuất quyết định quan hệ sản xuất.
+ Lực lượng sản xuất không những là một nội dung vật chất của quá trình sản xuất mà
còn là một yếu tố động, biến đổi để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của con người. Trong
khi đó quan hệ sản xuất là là “hình thức xã hội” của quá trình sản xuất nên tương đối ổn
định.
+ Trong phương thức sản xuất, hai mặt lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất gắn bó với
nhau, lực lượng sản xuất tồn tại ở trình độ như thế nào thì quan hệ sản xuất cũng tương
ứng với trình độ ấy. Khi lực lượng sản xuất phát triển thì quan hệ sản xuất cũng biến đổi
theo cho phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất. Sự phù hợp đó làm cho lực lượng
sản xuất tiếp tục phát triển.
+ Quan hệ sản xuất với tư cách là hình thức kinh tế - xã hội của quá trình sản xuất nó
luôn luôn có khả năng tác động trở lại lực lượng sản xuất. Sự tác động của quan hệ sản
xuất theo chiều hướng tích cực hoặc tiêu cực. Nếu quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ
của lực lượng sản xuất thì thúc đẩy sự phát triển của sản xuất, ngược lại sẽ kìm hãm sự

phát triển của sản xuất.
- Mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là thống nhất có bao hàm khả
năng chuyển hóa các mặt đối lập.
- Khi trình độ của lực lượng sản xuất phát triển nhanh, quan hệ sản xuất phát triển chậm,
mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất ngày càng gay gắt, đòi hỏi phá vỡ
quan hệ sản xuất cũ lạc hậu thay bằng quan hệ sản xuất mới phù hợp với trình độ của lực
lượng sản suất đang phát triển.
- Sự phát triển của lực lượng sản xuất từ thấp tới cao qua các thời đại lịch sử khác nhau
đã quyết định sự thay thế quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản suất mới đưa loài người
phát triển từ phương thức sản xuất này lên phương thức sản xuất khác cao hơn.
Ở nước ta hiện nay sự vận dụng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất như thế nào?

12


- Từ một nền nông nghiệp lạc hậu, sản xuất nhỏ là chủ yếu nước ta đi lên chủ nghĩa xã
hội. Kinh nghiệm thực tế chỉ rõ lực lượng sản xuất bị kìm hãm không chỉ trong trường
hợp quan hệ sản xuất lạc hậu, mà cả khi quan hệ sản xuất phát triển không đồng bộ, có
các yếu tố đi quá xa so với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
- Thực tế lực lượng sản xuất ở nước ta còn thấp kém lại phát triển không đồng đều, điều
đó đòi hỏi phải coi trọng những hình thức trung gian, quá độ từ thấp lên cao, từ quy mô
nhỏ lên quy mô lớn. Để xây dựng phương thức sản xuất xã hội chủ nghĩa, chúng ta chủ
trương xây dựng một nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nhằm phát huy
mọi tiềm năng của các thành phần kinh tế, phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất để xây
dựng kinh tế của chủ nghĩa xã hội. Từng bước xã hội hóa xã hội chủ nghĩa, quá trình đó
không phải bằng gò ép mà là sự kết hợp các hình thức sở hữu để dần dần hình thành các
tập đoàn sản xuất, kinh doanh lớn, trong đó các đơn vị quốc doanh và tập thể là nòng cốt.

13



6. Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng.
a) Khái niệm cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng
* Khái niệm cơ sở hạ tầng:
- Khái niệm cơ sở hạ tầng dùng để chỉ toàn bộ những quan hệ sản xuất hợp thành cơ cấu
kinh tế của xã hội. Cơ sở hạ tầng của xã hội được tạo nên bởi các quan hệ sản xuất thống
trị, quan hệ sản xuất tàn dư và quan hệ sản suất mới tồn tại dưới hình thái mầm mống, đại
diện cho sự phát triển tương lai.
- Tính chất của cơ sở hạ tầng do quan hệ sản xuất thống trị qui định. Trong xã hội có giai
cấp, cơ sở hạ tầng mang tính giai cấp.
* Khái niệm kiến trúc thượng tầng:
- Là toàn bộ hệ thống kết cấu các hình thái ý thức xã hội cùng với các thiết chế chính trị xã hội tương ứng, được hình thành trên một cơ sở hạ tầng kinh tế nhất định.
- Mỗi yếu tố của kiến trúc thượng tầng có đặc điểm và vai trò riêng, nhưng giữa chúng có
liên hệ tác động lẫn nhau và đều phản ánh cơ sở hạ tầng. Trong các yếu tố đó nhà nước có
vai trò quan trọng nhất, là bộ phận có quyền lực mạnh mẽ nhất của kiến trúc thượng tầng.
- Trong xã hội có giai cấp, kiến trúc thượng tầng mang tính giai cấp. Hệ tư tưởng của giai
cấp thống trị quyết định tính chất cơ bản của kiến trúc thượng tầng.
b) Quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng
* Cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng:
- Cơ sở ha tầng sinh ra kiến trúc thượng tầng, kiến trúc thượng tầng là phản ánh cơ sở hạ
tầng. Cơ sở hạ tầng của một xã hội như thế nào, tính chất của nó ra sao, giai cấp đại diện
của nó như thế nào thì hệ thống tư tưởng, chính trị pháp quyền… và các quan hệ, các thể
chế tương ứng cũng như vậy.
- Cơ sở hạ tầng quyết định sự biến đổi của kiến trúc thượng tầng. Sự biến đổi đó diễn ra
trong một hình thái kinh tế - xã hội cũng như từ hình thái kinh tế - xã hội này sang hình
thái kinh tế - xã hội khác.
- Trong xã hội có giai cấp, sự biến đổi từ hình thái kinh tế - xã hội này sang hình thái kinh
tế - xã hội khác thông qua cuộc đấu tranh giai cấp.
* Sự tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng

14


- Vai trò tác động của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng thể hiện ở chức năng
chính trị - xã hội của kiến trúc thượng tầng. Một mặt, nó bảo vệ, duy trì, củng cố và phát
triển cơ sở hạ tầng sinh ra nó, mặt khác nó kiên quyết đấu tranh để xóa bỏ tàn dư của cơ
sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng cũ lỗi thời.
- Các bộ phận của kiến trúc thượng tầng đều tác động tới cơ sở hạ tầng bằng nhiều hình
thức khác nhau, trong đó nhà nước tác động trực tiếp nhất, mạnh mẽ nhất tới cơ sở hạ
tầng, còn các bộ phận khác tác động gián tiếp.
- Trong mỗi hình thái kinh tế - xã hội, kiến trúc thượng tầng có sự biến đổi theo sự biến
đổi của cơ sở hạ tầng. Sự biến đổi đó càng phù hợp với cơ sở hạ tầng thì càng thúc đẩy cơ
sở hạ tầng phát triển, ngược lại nó sẽ cản trở sự phát triển của cơ sở hạ tầng.
Vai trò của nhà nước đối với cơ sở hạ tầng ở Việt Nam hiện nay?
- Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam có những chủ trương chính sách tác
động tới cơ sở hạ tầng trong giai đoạn đổi mới như:
+ Chuyển đổi nền kinh tế với cơ chế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp, sang nền kinh tế
nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, định
hướng xã hội chủ nghĩa.
+ Phát triển nguồn lực con người, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
coi đó là nhiệm vụ trung tâm của cả thời kỳ quá độ. Quá trình phát triển lực lượng sản
xuất hiện đại gắn liền với quá trình xây dựng quan hệ sản xuất mới phù hợp trên cả ba
mặt sở hữu, quản lý và phân phối.
+ Xây dựng và hoàn thiện môi trường pháp lý để quản lý nền kinh tế thị trường, vận
động phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
7. Hình thái kinh tế xã hộivà quá trình lịch sử – tự nhiên của sự phát triển các hình
thái kinh tế xã hội
a) Khái niệm, cấu trúc hình thái kinh tế - xã hội
- Hình thái kinh tế xã hội là một phạm trù cơ bản của chủ nghĩa duy vật lịch sử, dùng để
chỉ xã hội trong từng giai đoạn lịch sử nhất định, với một kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng

15


cho xã hội đó phù hợp với một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất và với một kiến
trúc thượng tầng tương ứng được xây dựng lên trên những quan hệ sản xuất ấy.
- Cấu trúc hình thái kinh tế - xã hội:
Hình thái kinh tế xã hội là một xã hội cụ thể có kết cấu phức tạp, trong đó những mặt cơ
bản nhất là lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng. Mỗi mặt đó
đều có vai trò nhất định và tác động đến các mặt khác tạo nên sự vận động và phát triển
xã hội.
+ Lực lượng sản xuất là nền tảng vật chất kỹ thuật của mỗi hình thái kinh tế - xã hội. Sự
hình thành và phát triển của mỗi hình thái kinh tế - xã hội xét đến cùng là do lực lượng
sản xuất quyết định. Lực lượng sản xuất phát triển qua các hình thái kinh tế - xã hội nối
tiếp nhau từ thấp đến cao thể hiện tính liên tục trong sự phát triển xã hội.
+ Quan hệ sản xuất là quan hệ kinh tế cơ bản, quyết định tất cả các mối quan hệ xã hội
khác, là tiêu chuẩn khách quan để phân biệt chế độ xã hội này với chế độ xã hội khác.
Mỗi một hình thái kinh tế xã hội có một kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng, tương ứng với
một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất.
+ Những quan hệ sản xuất của mỗi xã hội cụ thể hợp thành cơ sở hạ tầng, trên đó hình
thành nên kiến trúc thượng tầng của xã hội, mà chức năng xã hội của nó là bảo vệ duy trì
và phát triển cơ sở hạ tầng đã sinh ra nó, đấu tranh xóa bỏ cơ sở hạ tầng và kiến trúc
thượng tầng cũ.
+ Ngoài những yếu tố cơ bản trên còn có những quan hệ khác như quan hệ dân tộc, quan
hệ gia đình v.v…
b) Quá trình lịch sử - tự nhiên của sự phát triển các hình thái kinh tế - xã hội
- Phân tích theo lý luận cấu trúc hình thái kinh tế - xã hội thì lịch sử phát triển của nhân
loại đã trải qua nhiều giao đoạn nối tiếp nhau từ thấp đến cao, tương ứng với mỗi giai
đoạn là một hình thái kinh tế - xã hội. Hình thái kinh tế - xã hội là một hệ thống, trong đó
các mặt không ngừng tác động qua lại lẫn nhau tạo thành các quy luật khách quan thuộc
các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, khoa học,… mà trước hết và cơ bản nhất là quy

luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất,
quy luật cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng. Chính sự tác động của các quy
16


luật khách quan đó mà các hình thái kinh tế - xã hội vận động, phát triển từ thấp đến cao
như một quá trình lịch sử - tự nhiên, không phụ thuộc vào ý muốn của con người. Đó là
các hình thái kinh tế - xã hội: Nguyên thủy, nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa, và tương
lai nhất định thuộc về cộng sản chủ nghĩa.
- Nguồn gốc của mọi sự vận động, phát triển của xã hội, của lịch sử nhân loại, của mọi
lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa,… suy đến cùng đều có nguyên nhân trực tiếp hay
gián tiếp từ sự phát triển của lực lượng sản xuất. Những lực lượng sản xuất được tạo ra
bằng năng lực thực tiễn của con người, song không phải con người làm ra theo ý muốn
chủ quan. Bản thân năng lực thực tiễn của con người cũng bị quy định bởi nhiều điều
kiện khách quan nhất định. Người ta làm ra lực lượng sản xuất của mình dựa trên những
lực lượng sản xuất đã đạt được trong một hình thái kinh tế - xã hội đã có sẵn do thế hệ
trước để lại. Chính sự phát triển của lực lượng sản xuất đã quyết định, làm thay đổi quan
hệ sản xuất. Đến lượt mình, quan hệ sản xuất thay đổi sẽ làm cho kiến trúc thượng tầng
thay đổi theo, và do đó mà hình thái kinh tế - xã hội cũ được thay thế bằng hình thái kinh
tế - xã hội mới cao hơn, nến bộ hơn. Như vậy, xét đến cùng lực lượng sản xuất quyết định
quá trình vận động và phát triển của hình thái kinh tế - xã hội như một quá trình lịch sử tự nhiên.
- Trong các quy luật khách quan chi phối sự vận động và phát triển của các hình thái kinh
tế - xã hội thì quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất có vai trò quyết định nhất. Nó vừa bảo đảm tính kế thừa trong sự phát
triển tiến lên của xã hội, vừa biểu hiện tính gián đoạn trong sự phát triển của lịch sử.
- Khi khẳng định tính lịch sử - tự nhiên, tức tính quy luật khách quan của sự vận động,
phát triển của xã hội, chủ nghĩa Mác - Lênin cũng đồng thời khẳng định vai trò của các
nhân tố khác đối với tiến trình phát triển của lịch sử nhân loại như: Điều kiện địa lý;
tương quan lực lượng chính trị của các giai cấp, tầng lớp xã hội; truyền thống văn hóa
của mỗi cộng đồng người; điều kiện tác động của tình hình quốc tế;… Chính do sự tác

động của các nhân tố đó mà tiến trình phát triển của mỗi cộng đồng người không diễn ra
như một đường thẳng, nó vô cùng phong phú đa dạng và có thể bỏ qua một hay một vài
hình thái kinh tế - xã hội nhất định.
17


18


c) Giá trị khoa học của lý luận hình thái kinh tế xã hội?
Lý luận hình thái kinh tế xã hội là hạt nhân của chủ nghĩa duy vật lịch sử cung cấp một
phương pháp luận khoa học trong nghiên cứu về lĩnh vực xã hội:
- Muốn giải thích các hiện tượng trong đời sống xã hội phải xuất phát từ bản thân
thực trạng phát triển của nền sản xuất xã hội. Đặc biệt là từ trình độ phát triển của
phương thức sản xuất của xã hội với cốt lõi của nó là trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất hiện thực.
- Muốn giải thích chính xác đời sống xã hội cần phải xuất phát từ quan hệ sản xuất
hiện thực của xã hội để tiến hành phân tích các phương diện khác nhau (chính trị, pháp
luật, văn hóa, khoa học…) của đời sống xã hội và mối quan hệ lẫn nhau giữa chúng.
- Muốn nhận thức và giải quyết đúng đắn, có hiệu quả những vấn đề của đời sống
xã hội phải đi sâu nghiên cứu các quy luật phát triển của xã hội.
Sự vận dụng lý luận hình thái kinh tế xã hội trong quá trình xây dựng CNXH ở Việt
Nam như thế nào?
* Ý nghĩa của lý luận học thuyết hình thái kinh tế - xã hội
- Học thuyết Mác - Lênin về hình thái kinh tế - xã hội đã vạch ra nguồn gốc, động lực bên
trong của sự phát triển xã hội, vạch ra cơ sở và những nguyên nhân xuất hiện và biến đổi
của các hiện tượng xã hội, làm cho xã hội học trở thành một khoa học thật sự, khắc phục
quan điểm duy tâm về lịch sử.
- Là cơ sở thế giới quan và phương pháp luận để nghiên cứu các hiện tượng xã hội.
- Là cơ sở lý luận cho việc xác định đường lối cách mạng của các Đảng Cộng sản.

- Là cơ sở lý luận để phê phán các quan điểm phi mác-xít trong việc phân kỳ sự phát triển
của xã hội.
* Vận dụng học thuyết hình thái kinh tế - xã hội
- Từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI. Đảng ta đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện.
Đường lối đó đã từng bước đi vào cuộc sống thể hiện sinh động trên tất cả các mặt và thu
được những kết quả bước đầu rất quan trọng.

19


- Thực hiện công cuộc đổi mới là một quá trình vừa làm vừa học vừa rút kinh nghiệm,
bởi vì chưa bao giờ có sẵn mô hình để căn cứ vào đó mà chủ động vạch ra một chương
trình đổi mới cụ thể, chi tiết trên từng lĩnh vực.
- Việc vận dụng học thuyết hình thái kinh tế - xã hội vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa
xã hội ở nước ta là:
Việc lựa chọn con đường tiến lên chủ nghĩa xã hôi bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa:
- Từ học thuyết hình thái kinh tế - xã hội chúng ta nhận thức được các quy luật vận động
và phát triển xã hội, về tính tất yếu của sự thay thế hình thái kinh tế xã hội cũ bằng hình
thái kinh tế xã hội cao hơn, về xu thế tất yếu của sự ra đời của hình thái cộng sản chủ
nghĩa, mà giai đoạn đầu là chủ nghĩa xã hội.
- Thực tế của sự hình thành, phát triển chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô với mô hình kế hoạch
hóa tập trung và cả sự khủng hoảng của mô hình kinh tế này đã giúp chúng ta nhận thức
rõ hơn về chủ nghĩa xã hội và con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội. Vận dụng chủ nghĩa
Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể ở nước ta, Đảng ta khẳng định độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội không tách rời nhau. Đó là quy luật phát triển của cách mạng Việt Nam, là
sợi chỉ đỏ xuyên suốt đường lối cách mạng của Đảng. Việc Đảng ta luôn luôn kiên định
con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội là phù hợp với xu hướng của thời đại và điều kiện cụ
thể của nước ta.
- Mục tiêu của chúng ta là: “xây dựng một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh”.

- “Con đường đi lên của nước ta là sự phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế
độ tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua vực xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và
kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân
loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học và công nghệ để phát
triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại”.
- “Xây dựng chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tạo ra sự biến đổi về chất
của xã hội trên tất cả các lĩnh vực là sự nghiệp rất khó khăn, phức tạp cho nên phải trải
qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều chặng đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế,
20


xã hội có tính chất quá độ. Trong các lĩnh vực của đời sống xã hội diễn ra sự đan xen và
đấu tranh giữa cái mới và cái cũ”. (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ IX. Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội. 2001, tr.84, 85)
Xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa:
- Trong quá trình xây dựng xã hội ở nước ta, “Đảng và nhà nước ta chủ trương thực hiện
nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận
động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩa, đó chính là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” (sđd, tr.86)
- “Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành
phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế nhà nước cùng với
kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc” (Sđd, tr.87)
- Xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa vừa phù hợp
với xu hướng phát triển chung của nhân loại, vừa phù hợp với yêu cầu phát triển của lực
lượng ở nước ta; với yêu cầu của quá trình xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ kết hợp
với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Đảng ta khẳng định: “Mục đích của nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa là phát triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để
xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống nhân dân.
Phát triển lực lượng sản xuất hiện đại gắn liền với xây dựng quan hệ sản xuất mới phù
hợp trên cả ba mặt sở hữu, quản lý và phân phối”.

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội chủ nghĩa ở
nước ta:
- Nước ta tiến lên chủ nghĩa xã hội từ một nền kinh tế phổ biến là sản xuất nhỏ, lao động
thủ công là phổ biến. Cái thiếu thốn nhất của chúng ta là một nền đại công nghiệp. Chính
vì vậy, chúng ta phải tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Trong thời đại ngày nay,
công nghiệp hóa phải gắn liền với hiện đại hóa. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta
là nhằm xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội. Đó là nhiệm vụ trung tâm
trong suốt thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
21


- “Con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa của nước ta cần và có thể rút ngắn thời gian,
vừa có những bước tuần tự, vừa có những bước nhảy. Phát huy những lợi thế đất nước,
tận dụng mọi khả năng để đạt trình độ công nghệ tiên tiến, đặc biệt là công nghệ thông tin
và công nghệ sinh học, tranh thủ ứng dụng ngày càng nhiều hơn, ở mức cao hơn và phổ
biến hơn những thành tựu mới về khoa học và công nghệ, từng bước phát triển kinh tế tri
thức. Phát huy nguồn lực trí tuệ và sức mạnh tinh thần của người Việt Nam; coi phát triển
giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ là nền tảng và động lực của sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế với chính trị và các mặt khác của đời sống xã
hội:
- Gắn với phát triển kinh tế, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước, phải không ngừng đổi mới hệ
thống chính trị, nâng cao vai trò lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, xây dựng nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa, nâng cao vai trò của các tổ chức quần chúng, phát huy sức
mạnh đại đoàn kết toàn dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
- Đồng thời với phát triển kinh tế, phải phát triển văn hóa, xây dựng nền văn hóa tiên tiến
đậm đà bản sắc dân tộc nhằm không ngừng nâng cao đời sống tinh thần của nhân dân;
phát triển giáo dục và đào tạo nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân
tài; giải quyết tốt các vấn đề xã hội, thực hiện công bằng xã hội nhằm thực hiện mục tiêu:

“dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
8. Quan điểm của Chủ nghĩ duy vật lịch sử về con người và bản chất con người
a) Khái niệm con người
Con người là một thực thể tự nhiên mang đặc tính xã hội; có sự thống nhất biện
chứng giữa hai phương diện tự nhiên và xã hội
- Bản tính tự nhiên của con người được thể hiện:
+ Thứ nhất, con người là kết quả tiến hóa và phát triển lâu dài của tự nhiên.

22


+ Thứ hai, con người là bộ phận của tự nhiên, đồng thời giới tự nhiên cũng là thân
thể vô cơ của con người, do đó sự tác động của các quy luật tự nhiên trực tiếp hay gián
tiếp thường xuyên quy định sự tồn tại của con người và loài người.
- Tuy nhiên con người không đồng nhất với các tồn tại khác của giới tự nhiên, nó mang
đặc tính xã hội, bản tính xã hội của con người được thể hiện như:
+ Một là, xét từ góc độ nguồn gốc hình thành con người không chỉ là nguồn gốc tự
nhiên, mà còn có nguồn gốc xã hội trong đó cơ bản nhất là nhân tố lao động.
+ Hai là, xét từ góc độ tồn tại và phát triển từ con người, loài người thì sự tồn tại
của con người luôn bị chi phối bởi các quy luật xã hội, xã hội biến đổi thì con người biến
đổi. Ngược lại sự phát triển của mỗi cá nhân lại là tiền đề cho sự phát triển của xã hội.
- Hai phương diện tự nhiên và xã hội của con người tồn tại trong tính thống nhất của nó,
quy định, tác động lẫn nhau, làm biến đổi nhau, nhờ đó tạo nên khả năng hoạt động sáng
tạo của con người trong quá trình tạo ra lịch sử của chính nó.
b) Bản chất của con người
- Hạn chế cơ bản của các nhà triết học trước Marx là tuyệt đối hóa một phương diện
(hoặc bản tính tự nhiên, hoặc bản tính xã hội) và coi đó là bản chất con người.
- Trong tác phẩm luận cương về Feuerbach, K.Marx đã phê phán vắn tắt những quan
niệm đó và xác lập quan niệm mới của mình: “Bản chất con người không phải là một cái
trừu tượng, cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con

người là tổng hòa những quan hệ xã hội”.
- Khẳng định bản chất con người là tổng hòa các quan hệ xã hội, triết học Marx không
tuyệt đối hóa mặt xã hội trong con người mà khẳng định con người là sự thống nhất giữa
phương diện tự nhiên và phương diện xã hội. Trong đó con người là một thực thể tự
nhiên nhưng thực thể tự nhiên mang tính xã hội, tạo nên tiền đề hình thành bản chất con
người. Còn tính tổng hòa các quan hệ xã hội là hiện thực trực tiếp quyết định cơ bản tạo
nên bản chất con người.
- Không có con người phi lịch sử, con người là con người lịch sử, gắn liền với những
điều kiện lịch sử nhất định, như vậy con người vừa là sản phẩm của lịch sử vừa là chủ thể
của lịch sử. Lịch sử sáng tạo ra con người trong chừng mực nào thì con người sáng tạo ra
23


lịch sử trong chừng mực đó. Khi xã hội thay đổi thì bản chất con người cũng thay đổi. Từ
quan niệm khoa học của chủ nghĩa Mác- Lênin về con người có thể rút ra một số ý nghĩa
phương pháp luận quan trọng sau:
+ Một là, để hiểu đúng về vấn đề con người thì không chỉ từ phương diện bản tính
tự nhiên của nó mà điều căn bản hơn có tính quyết định phải là từ phương diện bản tính
xã hội của nó, từ những quan hệ kinh tế - xã hội của nó.
+ Hai là, động lực cơ bản của sự tiến bộ và phát triển xã hội chính là năng lực sáng
tạo của con người. Vì vậy phát huy năng lực sáng tạo của mỗi con người là phát huy
nguồn động lực quan trọng thúc đẩy sự tiến bộ phát triển của xã hội.
+ Ba là, sự nghiệp giải phóng con người nhằm phát huy khả năng sáng tạo lịch sử
của nó phải là hướng vào sự nghiệp giải phóng những quan hệ kinh tế - xã hội.
c) Ý nghĩa phương pháp luận
Từ quan niệm khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin về con người có thể rút ra một số ý
nghĩa phương pháp luận quan trọng sau đây:
Một là, để lý giải một cách khoa học những vấn đề về con người thì không thể chỉ
đơn thuần từ phương diện bản tính tự nhiên của nó mà điều căn bản hơn, có tính quyết
định phải là từ phương diện bản tính xã hội của nó, từ những quan hệ kinh tế - xã hội của

nó.
Hai là, động lực cơ bản của sự tiến bộ và phát triển của xã hội chính là năng lực
sáng tạo lịch sử của con người. Vì vậy, phát huy năng lực sáng tạo của mỗi con người, vì
con người chính là phát huy nguồn động lực quan trọng thúc đẩy sự tiến bộ và phát triển
của xã hội.
Ba là, sự nghiệp giải phóng con người, nhằm phát huy khả năng sáng tạo lịch sử
của nó phải là hướng vào sự nghiệp giải phóng những quan hệ kinh tế - xã hội. Trên ý
nghĩa phương pháp luận đó có thể thấy một trong những giá trị căn bản nhất của cuộc
cách mạng xã hội chủ nghĩa chính là ở mục tiêu xóa bỏ triệt để các quan hệ kinh tế - xã
hội áp bức và bóc lột, ràng buộc khả năng sáng tạo lịch sử của con người. Thông qua
cuộc cách mạng đó nó cũng thực hiện sự nghiệp giải phóng toàn nhân loại bằng phương
thức xây dựng mối quan hệ kinh tế - xã hội xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa nhằm
24


xác lập và phát triển một xã hội mà tự do, sáng tạo của người này trở thành điều kiện cho
tự do và sáng tạo của người khác. Đó cũng chính là thực hiện triết lý đạo đức nhân sinh
cao đẹp nhất của chủ nghĩa cộng sản: “mỗi người vì mọi người; mọi người vì mỗi
người”.
Vấn đề xây dựng con người mới đáp ứng sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở
Việt Nam hiện nay.
Con người mới mà Đảng và Nhà nước ta chủ trương xây dựng có những nội dung sau:
- Có tinh thần yêu nước, tự cường dân tộc, phấn đấu vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội, có ý chí vươn lên đưa nước ta thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu, đoàn kết với nhân dân
thế giới đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
- Có ý thức tập thể, đoàn kết phấn đấu vì lợi ích chung.
- Có lối sống lành mạnh, nếp sống văn minh, cần kiệm, trung thực, nhân nghĩa, tôn trong
kỷ cương phép nước, quy ước cộng đồng; có ý thức bảo vệ cải thiện môi trường sinh thái.
- Lao động chăm chỉ với lương tâm nghề nghiệp, có kỹ thuật, sáng tạo, năng suất, chất
lượng, vì lợi ích của bản thân, gia đình và xã hội.

- Thường xuyên học tập, nâng cao trình độ chuyên môn, trình độ thẩm mỹ và thể lực.

PHẦN 2: HỌC THUYẾT KINH TẾ CỦA CHỦ NGHĨ MÁC –
LÊNIN VỀ PHƯƠNG THỨC SẢN XUẤT TƯ BẢN CHỦ NGHĨA
9. Hai điều kiện của sản xuất hàng hóa
Sản xuất hàng hóa là kiểu tổ chức kinh tế tạo ra sản phẩm người sản xuất thực hiện
trao đổi, mua bán trên thị trường.
Sản xuất và trao đổi hàng hóa là một phạm trù lịch sử bởi vì nó xuất hiện, tồn tại
và phát triển khi có đủ hai điều kiện:
Một là, sự phân công lao động xã hội: Phân công lao động là sự chuyên môn hóa
lao động, dựa trên khả năng và nhu cầu của các chủ thể; Phân công lao động phải đi đôi
với hợp tác bởi vì nó vừa tách biệt, vừa tạo điều kiện thúc đẩy sự liên kết giữa các chủ thể
với nhau. Có các loại phân công lao động là phân công lao động nội bộ tổ chức hay
25


×