Tải bản đầy đủ (.pdf) (83 trang)

Bồi thường, hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất nông nghiệp theo pháp luật đất đai từ thực tiễn tỉnh quảng ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (833.32 KB, 83 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

HOÀNG THỊ LAN

BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ, KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT
NÔNG NGHIỆP THEO PHÁP LUẬT ĐẤT ĐAI TỪ THỰC TIỄN
TỈNH QUẢNG NINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ

HÀ NỘI, năm 2019


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

HOÀNG THỊ LAN

BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ, KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT
NÔNG NGHIỆP THEO PHÁP LUẬT ĐẤT ĐAI TỪ THỰC TIỄN
TỈNH QUẢNG NINH

Ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 8.38.01.07

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. TRẦN ĐÌNH HẢO

HÀ NỘI, năm 2019



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan công trình nghiên cứ Luận văn thạc sĩ đề tài “ Bồi
thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp theo pháp Luật đất đai
từ thực tiễn tỉnh Quảng Ninh ” là của riêng tôi. Các thông tin, số liệu, trích
dẫn được sử dụng trong Luận văn hoàn toàn chính xác, trung thực.
Ngoài ra, luận văn còn sử dụng một số nhận xét, đánh giá cũng như số
liệu của các tác giả khác, cơ quan tổ chức khác đều có trích dẫn và chú thích
nguồn gốc. Nếu phát hiện có bất kỳ sự gian lận nào, tôi xin hoàn toàn chịu
trách nhiệm.
Hà Nội, ngày 25 tháng 6 năm 2019
Tác giả luận văn

Hoàng Thị Lan


LỜI CẢM ƠN
Tác giả xin trân trọng gửi lời cảm ơn vô cùng sâu sắc tới PGS.TS. Trần
Đình Hảo là người hướng dẫn khoa học cho tác giả. Trong quá trình hướng
dẫn, PGS.TS. Trần Đình Hảo bằng tinh thần, trách nhiệm, sự nhiệt tình đã
hướng dẫn, giúp đỡ tác giả hoàn thành luận văn thạc sĩ.
Đồng thời, tác giả cũng xin gửi lời chân thành cảm ơn đến Ban Giám
hiệu, các Giáo sư, Phó giáo sư, Tiến sĩ và các giảng viên Học viện khoa học
xã hội đã nhiệt tình giảng dạy, truyền đạt kiến thức trong quá trình tác giả
theo học tại Học viện. Cảm ơn toàn thể cán bộ, nhân viên Học viện khoa học
xã hội đã tạo điều kiện thuận lợi nhất cho tác giả trong thời gian học tập và
nghiên cứu nhằm hoàn thành chương trình Cao học.
Sau cùng, tác giả xin được cảm ơn các Thầy, Cô trong Hội đồng bảo vệ
và kính mong nhận được sự quan tâm, nhận xét của các Thầy, Cô để tác giả
có điều kiện hoàn thiện tốt hơn những nội dung của luận văn nhằm đạt được

tính hiệu quả, hữu ích khi áp dụng vào trong thực tiễn.
Xin trân trọng cảm ơn!

Tác giả

Hoàng Thị Lan


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................................ 1
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT BỒI
THƯỜNG, HỖ TRỢ, KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT NÔNG NGHIỆP... 8
1.1.Lý luận về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp ... 8
1.2 Lý luận pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất nông
nghiệp........................................................................................................... 20
Tiểu kết chương 1 ........................................................................................ 24
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT ĐẤT ĐAI VỀ BỒI THƯỜNG,
HỖ TRỢ KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT NÔNG NGHIỆP TẠI TỈNH..25
QUẢNG NINH ...........................................................................................................25
2.1. Thực trạng quy định pháp Luật đất đai về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà
nước thu hồi đất nông nghiệp. ..................................................................... 25
2.2. Thực tiễn áp dụng pháp Luật đất đai về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà
nước thu hồi đất nông nghiệp tại tỉnh Quảng Ninh. ................................... 38
Tiểu kết chương 2 ........................................................................................ 59
Chương 3. GIẢI PHÁP TIẾP TỤC HOÀN THIỆN VÀ NÂNG CAO HIỆU
QUẢ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ KHI NHÀ
NƯỚC THU HỒI ĐẤT NÔNG NGHIỆP TẠI TỈNH QUẢNG NINH ...........61
3.1.Những yêu cầu, đòi hỏi khách quan của của việc tiếp tục hoàn thiện
pháp Luật đất đai về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất từ thực
tiễn tỉnh Quảng Ninh. .................................................................................. 61

3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp Luật đất đai về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà
nước thu hồi đất nông nghiệp từ thực tiễn tỉnh Quảng Ninh gồm: ............. 63
3.3. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp Luật đất đai về bồi thường,
hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp từ thực tiễn tại tỉnh Quảng
Ninh.............................................................................................................. 66
Tiểu kết chương 3 ...................... Lỗi! Thẻ đánh dấu không được xác định.
KẾT LUẬN CHUNG ................................................................................................72
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...............................................................75


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
GCN:

Giấy chứng nhận

GPMB:

Giải phóng mặt bằng

NĐ:

Nghị định

QĐ:

Quyết định

UBND:

Ủy ban nhân dân


XHCN:

Xã hội chủ nghĩa


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hiện nay, tỉnh Quảng Ninh đang là một trong những tỉnh có tốc độ phát
triển kinh tế nhanh và thu hút được nhiều nguồn vốn đầu tư. Một trong những
yếu tố ảnh hưởng đến việc thu hút đầu tư là tiến độ bàn giao mặt bằng cho dự
án. Điều này liên quan trực tiếp đến các quy định về thu hồi đất, để nhanh
chóng bàn giao mặt bằng cho nhà đầu tư thì vấn đề giải quyết quyền lợi của
người bị thu hồi đất đó là việc bồi thường, hỗ trợ về đất, tài sản gắn liền trên
đất và các quyền lợi liên quan đến việc thu hồi đất cần phải được đảm bảo.
Tuy nhiên, từ trước đến nay việc bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất
luôn là vấn đề phức tạp, nó không chỉ dừng lại ở việc Nhà nước được quyền
thu hồi thì Nhà nước được quyền áp đặt mọi chính sách để giải quyết hậu quả
sau thu hồi đất mà đòi hỏi những chính sách giải quyết này phải đảm bảo
được quyền lợi chính đáng cho người bị thu hồi. Việc bồi thường, hỗ trợ
không phải trong mọi trường hợp đều giống nhau, bồi thường, hỗ trợ đối với
đất ở, đất phi nông nghiệp sẽ khác với bồi thường, hỗ trợ đất nông nghiệp.
Xét về phương diện nhà đầu tư, ở đây nhà đầu tư có thể là chính Nhà nước ,
có thể là nhà đầu tư tư nhân ( tư nhân trong trường hợp này được hiểu là nhà
đầu tư không phải là Nhà nước ), để đầu tư một lĩnh vực nào thì nhà đầu tư
phải xem xét kỹ lưỡng đến các yếu tố: chi phí đầu tư, nhu cầu của thị trường,
vị trí địa lý, thủ tục pháp lý, chính sách thu hút đầu tư, mức độ cạnh tranh,
nguồn lao động, nguồn nguyên liệu. Trên thực tế, chi phí đầu tư đóng vai trò
rất quan trọng trong việc quyết định đầu tư của các nhà đầu tư. Tại Quảng
Ninh, phần lớn các dự án đầu tư được thực hiện ở những địa phương có tỷ lệ

đất nông nghiệp cao, bởi đất khi đầu tư vào những khu vực đất nông nghiệp
mang lại lợi ích vô cùng lớn cho nhà đầu tư như: Giá thành bồi thường, hỗ trợ
thấp, giảm chi phí san lấp mặt bằng, công tác thu hồi đất và GPMB cũng

1


thuận lợi hơn so với thu hồi đất ở. Mặc dù dựa trên quy của đã có định chung
của pháp luật, tỉnh Quảng Ninh cũng đã có những chính sách mới phù hợp
hơn trong việc thu hồi, bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông
nghiệp nhưng dường như những quy định này vẫn chưa đáp ứng hết các yêu
cầu thực tiễn. Hiện nay, tại những địa phương có dự án được triển khai đều
xuất hiện đơn nhiều đơn thư khiếu kiện, tố cáo của người bị thu hồi đất, của
người bị ảnh hưởng do việc thu hồi đất. Nhiều nơi như tại Vân Đồn, thị xã
Quảng Yên còn trở thành điểm nóng của khiếu kiện về đất đai do có nhiều dự
án đầu tư tập trung ảnh hưởng không nhỏ tới ổn định chính trị, kinh tế xã hội
của địa phương cũng như tỉnh Quảng Ninh. Một trong những nguyên nhân
dẫn đến tình hình khiếu kiện về đất đai của địa phương ngày càng trở nên
phức tạp do giá đất thị trường ngày càng tăng trong khi đó giá đất áp dụng bồi
thường, hỗ trợ không được áp theo đúng mức giá thị trường, đặc biệt đối với
đất nông nghiệp không được xem xét định giá, hay tăng giá bồi thường, hỗ
trợ, việc áp dụng chính sách tái định cư không được thống nhất, không xem
xét hỗ trợ tái định cư khi thu hồi vào đất nông nghiệp cho người bị thu hồi
đất. Ngoài ra còn rất nhiều vấn đề liên quan đến việc bồi thường, hỗ trợ khi
Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp như thu hồi đất không đúng thẩm quyền,
xác định trường hợp thu hồi đất không đúng,…dẫn đến khiếu kiện kéo dài,
vượt cấp, điều này đang trở thành thách thức cho các cơ quan Nhà nước. Do
vậy, tác giả nhận thấy việc nghiên cứu đề tài “Bồi thường, hỗ trợ khi Nhà
nước thu hồi đất nông nghiệp theo pháp Luật đất đai từ thực tiễn tỉnh
Quảng Ninh” là vô cùng cần thiết.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vì vấn đề bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đã và đang trở thành
vấn đề cấp thiết mang tính thời sự và thường xuyên được các phương tiện
truyền thông đăng tải cũng như có ảnh hưởng rất lớn đến quá trình bồi

2


thường, hỗ trợ và ảnh hưởng trực tiếp đến tâm lý người bị thu hồi đất. Vì thế,
đã có rất nhiều công trình nghiên cứu các vấn đề từ có liên quan như thu hồi
đất nông nghiệp, bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi Nhà nước thu hồi vì mục
đích phát triển kinh tế, xã hội vì lợi ích quốc gia công cộng…Cho đến các vấn
đề trực diện của đề tài là bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông
nghiệp tiêu biểu như các công trình: Nguyễn Minh Tuấn, “Thu hồi đất vì mục
đích kinh tế ở Việt Nam hiện nay”, Luận văn thạc sĩ (năm 2013); Phạm Thu
Thùy " Pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất ở Việt Nam" Luận
án Tiến sĩ (năm 2014); Đào Danh Dũng, “ Thu hồi đất nông nghiệp để phát
triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng theo pháp Luật đất đai từ
thực tiễn huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội”, Luận văn Thạc sĩ (năm
2018), Trần Nhật Quân, “Bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp
theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Bình Định”, Luận văn thạc sĩ
(2018),…
Mặc dù cùng các quy định pháp luật điều chỉnh, nhưng ở mỗi luận văn
sẽ gắn với thực trạng pháp luật và áp dụng pháp luật ở từng địa phương. Do
đặc điểm về kinh tế, xã hội… nên ở tỉnh Quảng Ninh cũng sẽ có mức giá bồi
thường và các biện pháp hỗ trợ khác nhau cho từng đối tượng được bồi
thường hỗ trợ. Trong quá trình bồi thường, hỗ trợ về đất nông nghiệp cũng
phát sinh nhiều vướng mắc như về đơn giá bồi thường, điều kiện, đối tượng
được bồi thường, hỗ trợ, các khoản hỗ trợ khác cần bổ sung.
Do vậy, trong luận văn này, ngoài việc nghiên cứu về các vấn đề truyền

thống như cơ sở pháp lý về thu hồi, bồi thường, hỗ trợ, tác giả còn cho thấy
thực trạng áp dụng pháp luật tại tỉnh Quảng Ninh như các vấn đề: Xác định
đối tượng được bồi thường, hỗ trợ, thái độ và trình độ chuyên môn của các cơ
quan liên quan trong việc thực hiện, giải quyết các vấn đề trong bồi thường,
hỗ trợ đất nông nghiệp, lý do xuất hiện các dự án treo, nguyên nhân dẫn đến

3


những bất bình trong nhân dân về việc bồi thường, hỗ trợ đối với đất nông
nghiệp, quy trình bồi thường, hỗ trợ còn chưa được nghiêm chỉnh chấp hành,
chưa đảm bảo được tính công khai, minh bạch, từ đó đưa ra giải pháp hoàn
thiện và nâng cao công tác thực hiện các quy định của pháp luật về bồi
thường, hỗ trợ đối với đất nông nghiệp khi Nhà nước thu hồi .
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1 Mục đích nghiên cứu:
Nhằm phản ánh thực trạng quy định pháp luật và áp dụng các quy định
định pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất theo pháp Luật
đất đai từ thực tiễn tỉnh Quảng Ninh.
Từ đó tác giả đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật và giải pháp
nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu
hồi đất từ thực tiễn tỉnh Quảng Ninh.
3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Phân tích để làm rõ các cơ sở lý luận về các khái niệm, ý nghĩa, vai trò
của bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp;
- Phân tích để làm rõ cơ sở pháp lý về bồi bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước
thu hồi đất nông nghiệp từ thực tiễn tỉnh Quảng Ninh;
- Phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà
nước thu hồi đất nông nghiệp từ thực tiễn tỉnh Quảng Ninh từ đó, chỉ ra
những yếu kém, khó khăn, bất cập.

- Đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và giải pháp nâng
cao hiệu quả thực hiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước
thu hồi đất nông nghiệp từ thực tiễn tỉnh Quảng Ninh.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu:

4


Các quy định pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất
nông nghiệp và thực trạng áp dụng những quy định về bồi thường, hỗ trợ khi
Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp.
4.1.2. Phạm vi nghiên cứu:
Các quy định pháp luật và thực trạng áp dụng pháp luật về về thu hồi
đất, bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp theo luật Luật
đất đai 2013 từ thực tiễn áp dụng tại tỉnh Quảng Ninh.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1 Phương pháp luận
Luận văn dựa vào phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, dựa trên những quan điểm, định hướng của Đảng về xây dựng
Nhà nước và pháp luật trong thời kỳ đổi mới;
5.2 Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp phân tích: Dựa trên các quy định của pháp luật về bồi
thường, hỗ trợ Khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp để phân tích nội dung
điều luật, phân tích các dữ liệu định lượng. Căn cứ vào thực trạng thực hiện các
dự án có thu hồi đất nông nghiệp trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh để phân tích, làm
rõ quá trình thực hiện pháp luật của tỉnh.
Phương pháp đánh giá: Sau khi phân tích các quy định pháp luật về bồi
thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp từ thực tiễn tỉnh Quảng
Ninh từ đó tác giả đưa ra quan điểm đánh giá những ưu điểm và những hạn chế

của các quy định của pháp luật.
Phương pháp diễn dịch: Dựa trên những quy định hiện hành về bồi
thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp, tác giả diễn giải những
nội dung, trường hợp áp dụng mà luật quy định để áp dụng, từ đó thấy được
những những bất cập khi áp dụng quy định trên thực tế như trường hợp pháp
luật còn chưa điều chỉnh hay điều chỉnh chưa phù hợp.

5


Phương pháp quy nạp: Từ những quy định của pháp luật và thực tiễn áp
dụng, tác giả đánh giá, phân tích những yếu tố này để nêu ra những điểm
được và chưa được, những khía cạnh còn thiếu của quy định pháp luật từ đó
đưa ra những quy định tích cực cần tiếp tục được áp dụng, những giải pháp,
phương hướng để hoàn thiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước
thu hồi đất nông nghiệp từ thực tiễn tỉnh Quảng Ninh.
Phương pháp so sánh: Để đánh giá được sự tiến bộ của pháp luật cũng
như sự phù hợp của pháp luật đất đai về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu
hồi đất nông nghiệp, cần sử dụng phương pháp so sánh quy định pháp luật
qua các thời kỳ, mặt khác cũng cần so sánh các khái niệm hay nhầm lần như
bồi thường với đền bù, bồi hoàn, thu hồi với trưng mua, trưng dụng…thông
qua đó luận văn sẽ thể hiện rõ hơn bản chất của vấn đề được đề cập tới.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Qua nghiên cứu, luận văn chỉ ra được những tồn tại, hạn chế trong thực
trạng quy định pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông
nghiệp, từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm, khắc phục những hạn chế đó
nhưng vẫn đảm bảo tuân thủ quy định của pháp luật.
Từ thực tiễn áp dụng các quy định về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước
thu hồi đất nông nghiệp tại tỉnh Quảng Ninh mà tiêu biểu là thị xã Quảng Yên,
góp phần xây dựng luận cứ khoa học để tỉnh Quảng Ninh nhanh chóng ban hành

những quy định phù hợp với đòi hỏi thực tiễn của địa phương.
Từ đó, tạo cơ sở để nhà nhà lãnh đạo, đại biểu quốc hội của tỉnh nhìn nhận
những vấn đề tồn đọng để góp ý kiến với cơ quan có thẩm quyền xem xét sửa
đổi, bổ sung những quy định không còn phù hợp, thiếu khách quan trong Luật
đất đai năm 2013 cho phù hợp với yêu cầu thực tiễn.

6


7. Cơ cấu của Luận văn
Để làm sáng tỏ các vấn đề nêu trên, tác giả bố cục luận văn gồm các
phần sau: Mục lục; Danh mục các chữ viết tắt; Mở đầu; chương 1; chương 2;
chương 3; kết luận; Danh mục tài liệu tham khảo.
Chương 1: Những vấn đề lý luận về pháp luật bồi thường, hỗ trợ khi Nhà
nước thu hồi đất nông nghiệp.
Chương 2: Thực trạng pháp Luật đất đai về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước
thu hồi đất nông nghiệp tại tỉnh Quảng Ninh.
Chương 3: Giải pháp tiếp tục hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp
luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp tại tỉnh
Quảng Ninh.

7


Chương 1.
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT BỒI THƯỜNG, HỖ
TRỢ, KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT NÔNG NGHIỆP
1.1.Lý luận về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa thu hồi đất nông nghiệp
- Khái niệm thu hồi đất nông nghiệp

Vấn đề thu hồi đất đã thực sự được manh nha từ lâu, nhưng nó thực sự
được quan tâm từ sau cách mạng tháng 8 năm 1945 thành công, thời điểm đó
Nhà nước đã tiến hành xoá bỏ chiếm hữu ruộng đất của địa chủ, thiết lập
quyền sở hữu ruộng đất cho nông dân. Theo đó, Hiến pháp năm 1959 thừa
nhận ba hình thức sở hữu đất đai là sở hữu Nhà nước, sở hữu tư nhân và sở
hữu tập thể. Khi tiến hành thu hồi đất Nhà nước tiến hành điều chỉnh ruộng
đất hoặc nhượng lại ruộng đất cho người bị trưng dụng sẽ được đền bù từ 1
đến 4 năm sản lượng thường niên của ruộng bị trưng dụng. Mặc dù thời kỳ
này, vấn đề thu hồi đất chưa được quy định chi tiết nhưng đó là cơ sở để các
quy định về thu hồi đất sau này được phát triển.
Hiến pháp năm 1980 quy định đất đai là sở hữu toàn dân, trên cơ sở đó
tại mục 3, phần v của quyết định số 201/CP ngày 01/07/1980 Hội đồng Chính
phủ quy định về thống nhất quản lý ruộng đất và tăng cường công tác quản lý
ruộng đất trong cả nước cũng quy định về việc thu hồi đất cụ thể quy định về
lý do thu hồi và việc bồi thường khi thu hồi đất. Quan hệ đất đai thời kỳ này
đơn thuần chỉ là quan hệ “Giao-thu” giữa Nhà nước và người sử dụng. cho
đến trước Luật đất đai năm 2003 thì các quy định về thu hồi đất vẫn tiếp tục
được quy định và mở rộng nhưng không có định nghĩa cụ thể. Khi Luật đất
đai năm 2003 ra đời đã chính thức đề cập đến định nghĩa thu hồi đất là gì,
theo đó, khoản 5, điều 3 Luật đất đai năm 2003 quy định: Thu hồi đất là việc
Nhà nước ra quyết định hành chính để thu lại quyền sử dụng đất hoặc thu lại

8


đất đã giao cho tổ chức, Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn quản lý theo
quy định của Luật này.
Tại định nghĩa này mặc dù đã khái quát được những nội dung cơ bản
nhất của việc thu hồi đất đó là việc Nhà nước ra quyết định hành chính, điều
này thể hiện tính mệnh lệnh phục tùng đặc điểm đặc trưng của quyết định

hành chính, định nghĩa cũng thể hiện được việc thu hồi đất là thu hồi lại
quyền sử dụng đất hoặc thu hồi lại đất đã giao cho tổ chức, Ủy ban nhân dân
xã, phường, thị trấn… đây là điểm thể hiện hạn chế của định nghĩa bởi việc
thu hồi đất đã giao ngoài các chủ thể được đề cập còn thu hồi đất đã giao của
hộ gia đình, cá nhân. Vậy khi Nhà nước thu hồi đất của cá nhân, hộ gia đình
thì việc thu hồi đất được xử lý như thế nào, rõ ràng đối với nội dung này, Luật
đất đai năm 2003 với các văn bản hướng dẫn luật không có sự thống nhất.
Nhận thấy những điểm hạn chế này, thông qua thực tiễn thực hiện và
yêu cầu của nền kinh tế. Để đất nước hội nhập nhanh chóng với xu thế phát
triển của thế giới, theo kịp các nước phát triển trong khu vực, bắt buộc Nhà
nước phải nhanh chóng có những quyết sách phù hợp với thực tế, mà cụ thể
là Nhà nước phải sửa đổi những điểm chưa phù hợp của luật và các văn bản
hướng dẫn luật trong đó có Luật đất đai năm 2003.
Việc sửa đổi, bổ sung những quy định liên quan đến thu hồi đất, bồi
thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất là điều tất yếu, bởi một trong những
điều kiện để nền kinh tế quốc gia phát triển đó là thu hồi các nguồn vốn đầu
tư và nước ta. Mà một trong những yếu tố ảnh hưởng đến quyết định đầu tư
của các nhà đầu tư là điều kiện chính sách của Quốc gia cũng như của địa
phương về thu hút đầu tư. Khi các quy định về thu hồi, bồi thường, hỗ trợ khi
Nhà nước thu hồi đất nói chung cũng chính là đối với đất nông nghiệp nói
riêng được quy định cụ thể, phù hợp với xu thế, cân đối được quyền lợi cũng
như trách nhiệm của các bên có liên quan thì việc thu hồi, bồi thường, hỗ trợ

9


sẽ được tiến hành nhanh chóng, đem lại lợi ích cho các bên, góp phần ổn định
an ninh xã hội và giúp kinh tế phát triển vững mạnh. Hơn nữa pháp luật quy
định đất đai thuộc sở hữu toàn dân, người sử dụng đất được Nhà nước giao
đất, cho thuế đất, được Nhà nước thừa nhận quyền sử dụng hợp pháp, Nhà

nước phải có trách nhiệm bảo hộ quyền sử dụng đất cho người sử dụng đất,
việc thu hồi đất trực tiếp ảnh hưởng đến quyền lợi của họ.
Do vậy, để những quan điểm, chính sách về bồi thu hồi đất, bồi thường,
hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất trong các văn bản luật thay đổi phù hợp với
điều kiện thực tế thì Nhà nước ta đã thực hiện việc sửa đổi đầu tiên ở đạo
luật cao nhất của đất nước là Hiến pháp, cụ thể Hiến pháp năm 2013 quy
định: “Nhà nước thu hồi đất do tổ chức, cá nhân đang sử dụng trong trường
hợp thật cần thiết do luật định vì mục đích quốc phòng, an ninh; Phát triển
kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng. Việc thu hồi đất phải công
khai, minh bạch và được bồi thường theo quy định của pháp luật”1. Trên cơ sở
đó, Luật đất đai năm 2013 quy định như sau: “Nhà nước thu hồi đất là việc
Nhà nước quyết định thu lại quyền sử dụng đất của người được Nhà nước
trao quyền sử dụng đất hoặc thu lại đất của người sử dụng đất vi phạm pháp
luật về đất đai”2.
Mặc dù hiến pháp quy định Nhà nước thu hồi đất do tổ chức, cá nhân
sử dụng trong trường hợp thật cần thiết vì mục đích quốc phòng, an ninh; Phát
triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng điều này cũng được áp
dụng đối với thu hồi đất nông nghiệp nhưng Luật đất đai và các văn bản
hướng dẫn luật lại bỏ cụm từ này. Trên thực tế, cũng không có văn bản pháp
luật nào quy định trường hợp thật cần thiết để Nhà nước thu hồi đất là như
thế nào, thế nào là thu hồi đất vì mục đích quốc phòng an ninh? Thế nào là

1
2

Khoản 3 Điều 54 Hiến pháp năm 2013.
Khoản 11 Điều 3 Luật đất đai năm 2013

10



thu hồi đất vì mục đích phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia công
cộng, điều này vô hình trung đã dẫn đến nhiều trường hợp trong thực tế doanh
nghiệp lớn xin quy hoạch để phát triển kinh tế doanh nghiệp nhưng lại được
núp dưới vỏ bọc dự án phát triển kinh tế vì lợi ích quốc gia và thuộc trường
hợp Nhà nước thu hồi đất, còn doanh nghiệp nhỏ hay các cá nhân, hộ gia đình
khác cũng đang hoạt động kinh tế, cũng đang trực tiếp sản xuất trên diện tích
đất bị thu hồi để phát triển kinh tế gia đình, từ đó góp phần ổn định kinh tế địa
phương lại không được xem trọng.
Ở một khía cạnh khác, mặc dù Luật đất đai năm 2013 và các văn bản
liên quan không quy định nhưng tác giả nhận thấy bản chất của việc Nhà
nước thu hồi đất cũng gần giống với trường hợp trưng mua bởi trưng mua là
việc ép buộc người có tài sản phải bán cho Nhà nước tài sản đó trong trường
hợp nhất định, cũng giống như những trường hợp thuộc Nhà nước thu hồi
đất, bằng quyết định thu hồi đất, chủ sử dụng đất phải thực hiện nghĩa vụ bàn
giao đất cho Nhà nước. Ở đây xét trường hợp Nhà nước thu hồi là đúng với
quy định của pháp luật còn trường hợp thu hồi bất hợp pháp tức việc thu hồi
đất không thuộc các trường hợp Nhà nước thu hồi đất thì về bản chất người sử
dụng đất không có trách nhiệm bàn giao đất cho Nhà nước. Tuy nhiên, giữa
trưng mua và trường hợp Nhà nước thu hồi đất có điểm khác nhau cơ bản, đó
là khi trưng mua thì Nhà nước chỉ phải chi trả khoản tiền, tài sản tương ứng
với giá trị thực tế của quyền sử dụng đất và tài sản bị trưng mua, còn khi thu
hồi đất thì Nhà nước bồi thường khoản tiền hoặc diện tích đất có giá trị tương
đương với giá trị quyền sử dụng đất, tài sản bị thu hồi, ngoài ra Nhà nước còn
áp dụng cách chính sách hỗ trợ khác nhau nhằm đảm bảo cuộc sống sau thu
hồi cho người bị thu hồi đất.
Tương tự với trường hợp trưng mua thì Nhà nước cũng có thể áp dụng
việc trưng dụng quyền sử dụng đất và các tài sản gắn liền trên đất trong

11



trường hợp thật cần thiết để thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh hoặc
trong tình trạng chiến tranh, tình trạng khẩn cấp, phòng, chống thiên tai. Đối
với trưng dụng, không phải mọi trường hợp Nhà nước đều phải bồi thường
thiệt hại, nếu không có thiệt hại xảy ra thì Nhà nước không phải bồi thường,
mà chỉ phải bồi thường khi tài sản bị hủy hoại hoặc bị thiệt hại do mất thu
nhập khi Nhà nước trưng dụng đất. Vậy khi tài sản trưng dụng bị hủy hoại thì
vấn đề bồi thường không được quy định chi tiết trong Luật đất đai 2013 và
các văn bản hướng dẫn, Nhà nước chỉ bồi thường hay còn hỗ trợ khi tài sản
bị hủy hoại, liệu giá trị bồi thường, hỗ trợ có giống với trường hợp Nhà nước
thu hồi đất hay không? Trong điều kiện không có chiến tranh thì thời hạn
trưng dụng không được xác định cụ thể ( điều kiện bình thường là 30 ngày)
mà phụ thuộc vào tình hình chiến tranh nhưng vấn đề bồi thường trong trường
hợp này cũng không được đặt ra, mặc dù pháp luật bảo hộ quyền sử dụng đất
cho người dân.
Việc thu hồi đất cũng như thu hồi đất nông nghiệp dẫn đến hậu quả tất
yếu là chấm dứt quyền sử dụng đất của người bị thu hồi đất, nhưng lại mở ra
mối quan hệ mới giữa Nhà nước với người được Nhà nước giao lại đất sau
thu hồi đất. Khi chấm dứt các quyền sử dụng đối với đất bị thu hồi, Nhà nước
sẽ phải có những chính sách pháp lý nhằm bù đắp những thiệt hại thực tế,
những ảnh hưởng cơ bản sẽ xảy ra sau thu hồi đất. Các khoản bù đắp có
khoản bồi thường và hỗ trợ. Bồi thường trong trường hợp này không phải là
bồi thường do bên có lỗi gây ra thiệt hại mà do Nhà nước thu hồi đất được
pháp luật cho phép. Nếu pháp luật không phù hợp, không đảm bảo được
quyền lợi giữa các bên, đặc biệt là quyền lợi của người bị thu hồi đất hay
trong quá trình áp dụng pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi
đất nói chung và đất nông nghiệp nói riêng mà không đảm bảo được quyền lợi
chính đáng cho người bị thu hồi đất thì tất yếu sẽ phát sinh mâu thuẫn, mâu


12


thuẫn đó sẽ bộc lộ hay không được bộc lộ ra ngoài tùy thuộc vào nhiều yếu tố.
Nhưng đều đó sẽ trực tiếp ảnh hưởng đến tình hình ổn định chính trị, xã hội,
sự phát triển kinh tế của địa phương bị thu hồi đất cũng như Quốc gia.
- Đặc điểm của thu hồi đất nông nghiệp
Thứ nhất, nhà nước thu đất nông nghiệp là thu hồi tư liệu sản xuất và
đối tượng sản xuất của người bị thu hồi đất, điều này ảnh hưởng không nhỏ
đến đời sống, đến thu nhập của người bị thu hồi đất.
Thứ hai, việc thu hồi đất nông nghiệp đồng nghĩa với việc chấm dứt
quyền sử dụng đất của người bị thu hồi đất, chấm dứt các quyền sử dụng đối
với các tài sản gắn liền trên đất không phục hồi được như cây trồng, vật nuôi,
bờ đầm, cầu cống…
Thứ ba, việc thu hồi đất nông nghiệp phần lớn có nhiều thuận lợi hơn
so với thu hồi các loại đất khác, do không phải tốn nhiều chi phí phá dỡ, san
lấp mặt bằng.
Thứ tư, thu hồi đất nông nghiệp mang lại giá trị lợi nhuận lớn cho chủ
đầu tư, do giảm bớt các chi phí phụ, đặc biệt giá thành bồi thường, hỗ trợ cho
đất nông nghiệp thấp hơn rất nhiều so với đất phi nông nghiệp
- Ý nghĩa của thu hồi đất nông nghiệp
Việc thu hồi đất nông nghiệp nhằm phục vụ các lợi ích Quốc gia như:
an ninh, quốc phòng, phát triển kinh tế xã hội, về phương diện rộng sẽ góp
phần lớn thúc đẩy kinh tế Quốc gia phát triển, là nền tảng vững chắc để đẩy
mạnh kinh tế địa phương.
Việc thu hồi đất nông nghiệp sẽ góp phần đưa địa phương mang một
diện mạo mới về kinh tế, xã hội, tạo nguồn cảm hứng lao động, thu hút nhân
lực và nhân tài về địa phương lao động, sáng tạo.
Thu hồi đất nông nghiệp góp phần giảm bớt lãng phí trong sử dụng đất
nông nghiệp như đối với các diện tích đất ít sử dụng, sử dụng không hiệu quả,


13


từ đó đánh thức ý thức sử dụng hiệu quả đất nông nghiệp của người lao động,
do diện tích đất nông nghiệp ngày càng thu hẹp thì người lao động cần phải sử
dụng mọi biện pháp nhằm nâng cao năng suất lao động, tránh lãng phí đất đai.
1.1.2. Các trường hợp thu hồi đất nông nghiệp:
Để đảm bảo sự phát triển ổn định của đất nước cũng như đảm bảo
quyền lợi tốt nhất cho người dân, Nhà nước với vai trò là cơ quan đại diện
cho toàn dân thực hiện quyền sở hữu đất đai có trách nhiệm đưa ra các quy
định phù hợp về việc thu hồi đất tránh việc trường hợp lợi dụng việc Nhà
nước thu hồi đất để trục lợi cá nhân. Do vậy, Nhà nước quy định cụ thể
những trường hợp thu hồi đất gồm:
Một là, thu hồi đất vì mục đích quốc phòng, an ninh: rõ ràng, việc đưa
ra mục đích thu hồi đất này đầu tiên cho thấy tầm quan trọng của mục đích
thu hồi đất này. Theo cách nhìn nhận khách quan của tác giả, việc đưa lý do
thu hồi đất này đầu tiên cho thấy tính cấp thiết, tầm quan trọng của mục đích
bởi: Quốc phòng, an ninh là là yếu tố hàng đầu đảm bảo cho an ninh quốc gia
tạo cơ sở vững chắc cho kinh tế phát triển.
Hai là, thu hồi đất để phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công
cộng: Đây là yếu tố trực tiếp tác động đến mức độ phát triển kinh tế của Quốc
gia. Nhà nước quy định những trường hợp thu hồi đất vì mục đích này để
đảm bảo những dự án có tầm quan trọng, có mục đích phát triển kinh tế quốc
gia, công cộng đều có thể thực hiện được (vì lợi ích chung). Hiện nay, xuất
hiện rất nhiều trường hợp mặc dù dự án để xây dựng khu đô thị mới, khu dân
cư nông thôn do doanh nghiệp tư nhân làm chủ được Nhà nước đứng ra thu
hồi, bồi thường đất ở cho người dân với giá 3000.000 đồng - 4.000.000
đồng/m2 đất, còn với đất nông nghiệp như đất trồng cây hàng năm là 55.000
đồng…nhưng lại được chủ đầu tư phân lô, bán nền với giá 20.000.000 đồng 25.000.000 đồng. rõ ràng mục đích tư lợi cho doanh nghiệp nhưng luật lại quy


14


định những dự án đó thuộc Nhà nước thu hồi nên gây ra hiện tượng lạm dụng
pháp luật mang lại lợi ích cho doanh nghiệp nhưng gây thiệt hại cho người bị
thu hồi đất.
Ba là, thu hồi đất do vi phạm pháp luật về đất đai: Vì Nhà nước là
người đại diện thực hiện quyền sở hữu về đất đai, nên Nhà nước phải thể hiện
quyền quản lý nghiêm ngặt đối với đất đai, việc người sử dụng đất không
đúng quy định của pháp luật thì sẽ bị xử lý. Điều này góp phần đảm bảo tính
nghiêm minh của pháp luật, sử dụng hiệu quả nguồn tài nguyên đất.
Bốn là, thu hồi đất do chấm dứt việc sử dụng đất theo pháp luật, tự
nguyện trả lại đất, có nguy cơ đe dọa tính mạng con người. đây là một trong
những trường hợp cho thấy Nhà nước luôn quan tâm đến quyền lợi của người
sử dụng đất. khi người sử dụng đất không có nhu cầu sử dụng thì sẽ được Nhà
nước thu hồi, khi có những yếu tố khách quan bất lợi, ảnh hưởng đến đời sống
của người sử dụng đất cũng được Nhà nước quan tâm thu hồi đất, tạo lập nơi
ở mới cho người bị thu hồi đất.
1.1.3. Khái niệm bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước khi Nhà nước
thu hồi đất nông nghiệp
1.1.3.1. Khái niệm bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp
Xuất phát từ việc xác định đất đai thuộc sở hữu toàn dân, như đã nêu ở
các phần trên quyền sử dụng đất của người sử dụng đất được Nhà nước bảo
hộ nên khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp của người sử dụng đất đã trực
tiếp xâm phạm đến quyền lợi của họ thì Nhà nước phải có những chính sách
phù hợp nhằm hoàn trả lại cho họ những giá trị vật chất khác tương đương với
giá trị họ bị mất đi.
Khoản 12 Điều 3 Luật đất đai năm 2013 giải thích: Bồi thường về đất
là việc Nhà nước trả lại giá trị quyền sử dụng đất đối với diện tích đất thu hồi

cho người sử dụng đất. Khái niệm nêu trên chỉ xác định bồi thường về đất,

15


trong khi việc thu hồi đất còn gây những thiệt hại liên quan đến các tài sản
khác gắn liền trên đất như nhà cửa, công trình sinh hoạt, cây cối, hoa màu…
Để xác định cụ thể việc bồi thường cần căn cứ vào các yếu tố sau:
Xác định thiệt hại: thiệt hại do việc thu hồi đất gây ra có thể là thiệt hại liên
quan đến quyền sử dụng đất bị chấm dứt như thiệt hại về đất, thiệt hại về công
trình, nhà cửa, cây trồng. Nhưng trên thực tế, còn nhiều thiệt hại chưa được
tính toán để bồi thường như: Các loại vật nuôi trên mặt đất, dưới nước chưa
đến kỳ thu hoạch nhưng thiệt hại do phải thu hoạch sớm, hoặc phải di chuyển
đi nơi khiến cho người bị thu hồi đất bị thiệt hại khoản thu nhập do phải bán
vật nuôi sớm, giá rẻ hoặc phải thuê, xây dựng… lại điểm chăn nuôi khác.
Việc xác định chủ thể thiệt hại. Khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp, các
chủ thể sau có thể bị thiệt hại như: Chủ thể có đất bị thu hồi; chủ thể đang trực
tiếp sử dụng đất ; các chủ thể không bị thu hồi đất nhưng vẫn bị ảnh hưởng do
việc thu hồi đất như bị lún, nứt nhà, bị lụt, bị ô nhiễm môi trường, ô nhiễm
nguồn nước…
Như vậy, rõ ràng giải thích về bồi thường về đất nêu tại Khoản 12 Điều
3 Luật đất đai năm 2013 thì chủ bị thu hồi mới được Nhà nước bồi thường
nhưng nội dung phân tích ở trên cho thấy còn nhiều chủ thể, còn nhiều thiệt
hại khác chưa được bổ sung trong điều luật để điều chỉnh.
Từ những phân tích trên, tác giả cho rằng giải thích trên cần sửa đổi,
bổ sung theo hướng: “Bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất là việc Nhà nước
trả cho người có đất bị thu hồi và các chủ thể bị thiệt hại trong quá trình thu
hồi đất những thiệt hại về quyền sử dụng đất hoặc quyền sở hữu, sử dụng đối
với công trình, vật kiến trúc, cây trồng, vật nuôi và những thiệt hại khác do
việc thu hồi đất gây ra”.

Trước kia, Luật đất đai năm 1987 và Luật đất đai năm 1993 sử dụng
thuật ngữ “ Đền bù” thay cho “ Bồi thường”. Theo tác giả, đền bù là việc Nhà

16


nước đền trả lại cho người bị thiệt hại giá trị tương đương với tài sản bị thiệt
hại, điều này có nghĩa là người bị thu hồi đất mà diện tích đất đó được xác
định có giá trị là A thì sẽ được đền bù với giá trị là A, người bị thu hồi đất
không được trả thêm bất kỳ khoản tiền hay vật chất nào nữa.
Còn đối với cụm từ “Bồi thường” trong lĩnh vực dân sự quy định về bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng đòi hỏi phải có yếu tố lỗi, có thiệt hại thực tế
xảy ra, thiệt hại có mối quan hệ nhân quả với hành vi, hậu quả bồi thường là
bồi thường giá trị tài sản bị thiệt hại đây là thiệt hại có thể nhìn thấy được,
ngoài ra bên gây thiệt hại còn phải bồi thường giá trị tổn thất không thể nhìn
thấy được đó là thiệt hại về tổn thất tinh thần. Tuy nhiên, để được bồi thường
về nội dung này, người bị thiệt hại phải chứng minh được, còn bồi thường khi
Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp không hoàn toàn giống với bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng theo pháp luật dân sự. Xét về hình thức thì chủ thể
trực tiếp gây thiệt hại là Nhà nước , nhưng hành vi gây thiệt hại này lại được
pháp luật quy định và cho phép tức không có yếu tố lỗi trong trường hợp này.
Mức bồi thường và các khoản bồi thường thiệt hại đã được xác định trước, về
nguyên tắc, bên bị thiệt hại tức người bị thu hồi đất không phải chứng minh
thiệt hại thực tế xảy ra.
Theo quy định thì Nhà nước được quyền thu hồi đất nông nghiệp trong
các trường hợp pháp luật quy định, nhưng thực tế đã có nhiều trường hợp xảy
ra, khi chủ đầu tư sử dụng những lợi ích vật chất, cấu kết với cơ quan có thẩm
quyền thu hồi đất để đưa dự án kinh doanh thương mại, dự án của doanh
nghiệp tư nhân nhằm mục đích thu lợi cho doanh nghiệp núp dưới hình thức
dự án xây dựng khu dân cư nông thôn không đảm bảo được điều kiện thuộc

trường hợp Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp để phát triển kinh tế vì mục
đích quốc gia, công cộng. hay trường hợp Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp
nhưng chưa đảm bảo về trình tự thu hồi, trong những trường hợp này việc thu

17


hồi đất nông nghiệp không được coi là hợp pháp, quyết định thu hồi đất
không có hiệu lực, nhưng hậu quả của việc thu hồi đất nông nghiệp trái luật
không được đề cập trong Luật đất đai 2013 và các văn bản hướng dẫn thi
hành kèm theo. Căn cứ để xác định và bồi thường những thiệt hại này thuộc
phạm vi điều chỉnh của luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước .
Những thiệt hại do Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp không chỉ là
thiệt hại về quyền sử dụng đất bị Nhà nước thu hồi, không chỉ là những tài
sản gắn liền với đất bị phá hủy, không có điều kiện sử dụng mà thiệt hại còn
là những tài sản sẽ mang lại nguồn lợi cho tương lai như vườn thanh long
đang trong thời kỳ kết quả, hay các loài thủy sinh đang trong thời kỳ sinh
trưởng, khi Nhà nước thu hồi đất, buộc người bị thu hồi đất phải phá dỡ cây
trồng, phải thu hoạch vật nuôi chưa đến thời kỳ thu hoạch để bán với mức giá
thấp nhất…hay việc xác định giá đất để bồi thường hiện nay áp dụng bảng giá
đất 05 năm một lần, trong khoảng thời gian này xét theo tốc độ phát triển kinh
tế của cả nước nói chung, ở tỉnh Quảng Ninh nói riêng thì bảng giá đất hầu
như không còn phù hợp qua từng năm. Đặc biệt là đối với đất nông nghiệp,
đất nông nghiệp không áp dụng giá bồi thường theo giá thị trường mà áp dụng
một mức giá cho 05 năm, đất nông nghiệp không được áp dụng giá đất cho
từng vị trí đất như đất ở mà áp dụng chung cho từng địa phương. Trong khi
giá đất nông nghiệp trong khu dân cư, đất nông nghiệp gần đường giao thông,
đất nông nghiệp cạnh các khu công nghiệp, khu quy hoạch có giá thị trường
cao hơn nhiều so với những đất nông nghiệp cùng loại nhưng ở vị trí khác,
đặc biệt đối với đất nông nghiệp liền kề với đất ở. Do vậy, việc bồi thường

khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp cần phải được xem xét ở nhiều phương
diện, đó là thiệt hại thực tế có thể xác định được cần phải được mở rộng cho
cả những thiệt hại trong tương lai gần, xem xét giá trị thực tế của đất nông
nghiệp linh hoạt theo thị trường.

18


1.1.3.2.Khái niệm hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp
Để giải quyết hậu quả do Nhà nước thu hồi đất, người thu hồi đất
ngoài việc được bồi thường thì còn được hỗ trợ. Theo khoản 14 Điều 3 Luật
đất đai năm 2013 thì: “Hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất là việc Nhà nước trợ
giúp cho người có đất thu hồi để ổn định đời sống, sản xuất và phát triển”.
Các khoản hỗ trợ chính khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp là hỗ trợ ổn
định đời sống và sản xuất và hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc
làm.
Tuy nhiên theo quan điểm của tác giả, bản chất của những hỗ trợ này
không phải là Nhà nước trợ giúp cho người có đất bị thu hồi mà phải là Nhà
nước bồi thường mới đúng bởi: Những vấn đề mà Nhà nước hỗ trợ đều xuất
phát từ việc thu hồi đất, đó là thiệt hại mà người có đất bị thu hồi bị ảnh
hưởng. Bởi thu hồi đất nông nghiệp nên những gia đình đang trực tiếp sản
xuất nông nghiệp bị mất đất, không còn tư liệu sản xuất, những người nông
dân vốn chỉ quen với công việc đồng ruộng, nay không còn đất hoặc còn ít đất
để canh tác khiến họ hoang mang, phải đi tìm, thích nghi với công việc mới,
có người không thể được nhận vào làm ở các xí nghiệp do không có trình độ,
không trong độ tuổi tuyển dụng. Quy định về các hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi
đất nông nghiệp cho thấy Nhà nước đang ban phát cho người bị thu hồi đất
mà không phải ở phương diện Nhà nước phải có trách nhiệm “ Bồi thường”
do hành vi thu hồi đất của mình.
Rõ ràng, vì Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp mà có thể người bị thu

hồi đất mất tư liệu sản xuất, đối với những người đang trực tiếp sản xuất nông
nghiệp, không còn đất để canh tác, mất thu nhập, nông cụ bỏ phí do không
còn đối tượng lao động đây phải được coi là thiệt hại thực tế, còn các khoản
được coi là hỗ trợ như hỗ trợ hộ gia đình nghèo, hỗ trợ người có công với
cách mạng, hỗ trợ người bị tàn tật, thương binh…

19


×