Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

Phân tích 04 (bốn) quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành thể hiện sự hỗ trợ của Tòa án đối với hoạt động của trọng tài thương mại và bình luận thực tiễn áp dụng các quy định đó

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (108.63 KB, 13 trang )

ĐẶT VẤN ĐỀ
Tranh chấp thương mại là sự xung đột lợi ích của các bên trong quan hệ
thương mại, việc giải quyết tranh chấp có thể được tiến hành bằng nhiều biện pháp
khác nhau, đó có thể là thương lượng; hòa giải; giải quyết tranh chấp thương mại tại
trọng tài thương mại hoặc cũng có thể được tiến hành tại Tòa án. Mỗi phương thức
giải quyết đều có những ưu điểm và nhược điểm nhất định. Giải quyết tranh chấp
thương mại tại trọng tài thương mại là phương thức giải quyết tranh chấp có nhiều ưu
điểm, tuy nhiên, trọng tài chỉ là một cơ quan tài phán tư nên trong quá trình giải quyết
tranh chấp, hoạt động của trọng tài khó có thể đạt được hiệu quả cao nếu không có sự
hỗ trợ của cơ quan mang quyền lực nhà nước, đó là Tòa án. Để tìm hiểu sâu hơn về
vấn đề, em xin chọn đề bài: “Phân tích 04 (bốn) quy định của pháp luật Việt Nam
hiện hành thể hiện sự hỗ trợ của Tòa án đối với hoạt động của trọng tài thương
mại và bình luận thực tiễn áp dụng các quy định đó” để làm bài tập học kỳ của
mình.
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I.

KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI VÀ SỰ HỖ
TRỢ CỦA TÒA ÁN ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG CỦA TRỌNG TÀI
THƯƠNG MẠI
1. Trọng tài thương mại
Trọng tài là thể thức giải quyết tranh chấp theo đó các bên đưa những tranh
chấp ra trước một trọng tài viên hoặc Ủy ban trọng tài để giải quyết và trọng tài sau
khi xem xét vụ việc sẽ đưa ra một phán quyết ràng buộc các bên tranh chấp. Theo
khoản 1 Điều 3 Luật Trọng tài thương mại 2010 thì: “Trọng tài thương mại là phương
thức giải quyết tranh chấp do các bên thoả thuận và được tiến hành theo quy định của
Luật này”.
2. Ưu điểm và nhược điểm của giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương
mại
2.1. Ưu điểm
Thứ nhất, thủ tục trọng tài đơn giản, nhanh chóng, các bên có thể chủ động về


thời gian, địa điểm giải quyết tranh chấp, không trải qua nhiều cấp xét xử như ở tòa
án, cho nên hạn chế tốn kém về thời gian và tiền bạc cho doanh nghiệp.
Thứ hai, khả năng chỉ định trọng tài viên thành lập Hội động trọng tài giải
quyết vụ việc giúp các bên lựa chọn được trọng tài viên giỏi, nhiều kinh nghiệm, am
hiểu sâu sắc về vấn đề đang tranh chấp để từ đó họ có thể giải quyết tranh chấp nhanh
chóng, chính xác.


Thứ ba, nguyên tắc trọng tài xét xử không công khai, phần nào giúp các bên
giữ được uy tín trên thương trường. Đây được coi là ưu điểm được các bên tranh chấp
ưa chuộng nhất.
Thứ tư, các bên tranh chấp có khả năng tác động đến quá trình trọng tài, kiểm
soát được việc cung cấp chứng cứ của mình và điều này giúp các bên giúp các bên giữ
được bí quyết kinh doanh.
Thứ năm, trọng tài khi giải quyết tranh chấp nhân danh ý chí của các bên,
không nhân danh quyền lực tư pháp của nhà nước, nên rất phù hợp để giải quyết các
tranh chấp có nhân tố nước ngoài.
2.2.

Nhược điểm

Đầu tiên, khuyết điểm được phát sinh do tính chất nhanh chóng của cách thức
giải quyết vụ việc, trọng tài tuyên án chỉ sau một cấp xét xử duy nhất, nên đôi khi các
quyết định của trọng tài là không chính xác, gây thiệt hại đối với doanh nghiệp.
Trong thời gian trước đây, khi chưa có Luật trọng tài thương mại 2010 thì tính
cưỡng chế thi hành các quyết định của trọng tài không cao vì trọng tài không đại diện
cho quyền lực tư pháp của nhà nước.
Việc thực hiện các quyết định của trọng tài hoàn toàn phụ thuộc vào ý thức tự
nguyện của các bên. Đối với các doanh nghiệp nước ngoài, uy tín của doanh nghiệp
được đặt lên hàng đầu do đó việc họ tự giác thực hiện các quyết định của trọng tài khá

cao. Tuy nhiên, các doanh nghiệp trong nước hiện nay vẫn chưa coi trọng việc giải
quyết tranh chấp bằng trọng tài, nên vẫn chưa có ý thức tự giác.
Trong thực tiễn tình hình nước ta hiện nay, chi phí cho việc giải quyết tranh
chấp bằng trọng tài quá lớn, các doanh nghiệp vừa và nhỏ không có khả nằng chi trả.
Khi không được thỏa thuận sử dụng trọng tài thương mại để giải quyết tranh
chấp kinh doanh trong hợp đồng thì khi xảy ra tranh chấp, trọng tài không có thẩm
quyền giải quyết ngay cả khi doanh nghiệp có ý định đó.
3. Sự hỗ trợ của cơ quan Tòa án đối với hoạt động của trọng tài thương mại
a, Vai trò hỗ trợ của cơ quan Tòa án đối với hoạt động của trọng tài thương
mại
Thứ nhất, sự hỗ trợ của Tòa án tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động trọng tài,
tránh sự bế tắc trong quá trình giải quyết tranh chấp tại cơ quan trọng tài, nếu không
có sự hỗ trợ của Tòa án thì trọng tài sẽ không thể tiếp tục thực hiện được nhiệm vụ
giải quyết tranh chấp của mình.
Thứ hai, sự hỗ trợ của Tòa án đảm bảo tính hiệu quả của hoạt động trọng tài,
bên cạnh những ưu điểm khi giải quyết bằng phương thức trọng tài thì vẫn còn tồn tại


nhiều hạn chế nhất định, sự hỗ trợ của Tòa án sẽ giúp phát huy những ưu điểm vốn có
và khắc phục được những nhược điểm, giúp đảm bảo quyền và lợi ích các bên.
Thứ ba, sự hỗ trợ của Tòa án giúp đảm bảo tính khả thi của phán quyết trọng tài
nước ngoài tại Việt Nam và tạo điều kiện thuận lợi cho thương mại quốc tế Việt Nam
phát triển.
b, Sự cần thiết phải có hỗ trợ của cơ quan Tòa án đối với hoạt động trọng tài
thương mại
Hoạt động trọng tài thương mại luôn cần đến sự hỗ trợ của các cơ quan tư pháp
nói chung và cơ quan Tòa án nói riêng, điều đó xuất phát từ cơ sở lý luận và thực tiễn
sau:
Cơ sở lý luận
Thứ nhất, xuất phát từ bản chất trọng tài: Là một cơ quan tài phán phi Chính

phủ, quyền lực của trọng tài được hình thành do sự thỏa thuận của các bên tranh chấp,
chính vì vậy phán quyết trọng tài không mang tính quyền lực nhà nước, không đại
diện cho ý chí của nhà nước mà đại diện cho ý chí của các bên tranh chấp, do đó trong
quá trình giải quyết, trọng tài thường gặp nhiều khó khăn và cần đến sự giúp đỡ của
Tòa án.
Thứ hai, xuất phát từ yêu cầu quản lý của nhà nước: Thông qua việc ban hành
các văn bản pháp luật nhà nước thể hiện hoạt động quản lý trọng tài, cùng với đó tạo
ra một hành lang pháp lý cho trọng tài hoạt động, sự phù hợp hay không phù hợp sẽ
ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển và tồn vong của trọng tài.
Thứ ba, xuất phát từ yêu cầu thực tiễn giải quyết tranh chấp ở Việt Nam: Có thể
thấy, nước ta đang ngày càng đẩy mạnh sự phát triển của nền kinh tế thị trường theo
định hướng xã hội chủ nghĩa, các quan hệ kinh tế ngày càng phong phú và đa dạng
hơn, do đó việc xảy ra các tranh chấp kinh doanh cũng ngày một nhiều hơn, trọng tài
chính là một phương thức giải quyết tranh chấp được các bên tranh chấp hướng tới và
lựa chọn, tuy nhiên để trọng tài thực sự là một hình thức giải quyết tranh chấp hấp dẫn
và hiệu quả, đòi hỏi cần phải có sự giúp đỡ của các cơ quan nhà nước nói chung và
Tòa án nói riêng, chính sự giúp đỡ của Tòa án sẽ làm cho hoạt động trọng tài được
đảm bảo thực hiện, không làm mất đi những ưu thế của hình thức giải quyết tranh
chấp và tôn trọng tối đa quyền tự định đoạt của các bên.
Cơ sở thực tiễn
Trước đây, khi chưa có sự hỗ trợ của các cơ quan tư pháp nói chung và cơ quan
Tòa án nói riêng, các trung tâm trọng tài kinh tế được thành lập theo Nghị định
116/CP về tổ chức và hoạt động của trọng tài kinh tế, hầu như hoạt động rất kém hiệu
quả, số liệu các vụ tranh chấp được giải quyết bằng cơ quan trọng tài là rất ít, điển


hình như Trung tâm TTKT Hà Nội (HEAC) từ khi thành lập đến năm 2000 tổng số vụ
việc thụ lý là 11 vụ, trong 2 năm từ 2000 – 2001 thụ lý và giải quyết được 5 vụ, và từ
2002 – 2003 chưa thụ lý vụ tranh chấp nào. Sở dĩ hoạt động trọng tài thời điểm lúc
bấy giờ kém hiệu quả xuất phát từ một nguyên nhân lớn nhất, đó là do các văn bản

pháp luật điều chỉnh hoạt động trọng tài có giá trị pháp lý ở mức thấp và chưa có sự
đồng bộ, thống nhất giữa các quy định, đặc biệt là sự tồn tại và hoạt động của trọng tài
là hoàn toàn độc lập, do đó khi tiến hành giải quyết tranh chấp sẽ gặp phải rất nhiều
khó khăn, phán quyết của trọng tài sẽ không được đảm bảo thực hiện một cách triệt để
nhất.
Nhằm khắc phục được những hạn chế về pháp luật trọng tài trước đây, Pháp
lệnh trọng tài thương mại 2003 khi ra đời đã có nhiều những quy đinh rõ về sự hỗ trợ
của các cơ quan tư pháp mà cụ thể hơn đó là Tòa án đối với hoạt động trọng tài, từ đó
góp phần làm tăng tính hấp dẫn, hiệu quả của trọng tài và đồng thời thúc đẩy trọng tài
phát triển. Tiếp tục kế thừa và hoàn thiện những quy định của Pháp lệnh trọng tài
thương mại 2003, Luật trọng tài thương mại 2010 khi ra đời đã cụ thể hóa hơn vai trò
cũng như là sự trợ giúp của cơ quan Tòa án đối với hoạt động trọng tài, từ đó góp
phần nâng cao hiệu quả của hoạt động trọng tài, đảm bảo được những phán quyết của
trọng tài được thực thi trên thực tế.
II.

Phân tích 04 (bốn) quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành thể hiện
sự hỗ trợ của Tòa án đối với hoạt động của trọng tài thương mại

Tòa án là cơ quan duy nhất trong hệ thống các cơ quan nhà nước có quyền
nhân danh nhà nước, sử dụng quyền lực nhà nước để tiến hành xét xử các tranh chấp
phát sinh trong đời sống xã hội. Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ chính của mình,
Tòa án được quy định thêm chức năng hỗ trợ trọng tài giải quyết những vướng mắc
phát sinh trong quá trình giải quyết tranh chấp mà trọng tài không thể tự mình giải
quyết, tháo gỡ được.
1. Quy định về sự hỗ trợ của Tòa án có thẩm quyền trong việc chỉ định,
thay đổi trọng tài viên và Chủ tịch hội đồng trọng tài
Trong tố tụng trọng tài, việc thành lập Hội đồng trọng tài để giải quyết tranh
chấp hoàn toàn là quyền của các bên tranh chấp. Các bên tranh chấp có quyền lựa
chọn thành lập Hội đồng trọng tài có thể bao gồm một hay nhiều Trọng tài viên tùy

theo sự thỏa thuận của các bên, trường hợp các bên không có sự thỏa thuận về số
lượng Trọng tài viên thì Hội đồng trọng tài bao gồm ba Trọng tài viên (Điều 39 Luật
TTTM).
Tuy nhiên, đối với việc thành lập Hội đồng trọng tài vụ việc, nếu bị đơn hoặc
các bị đơn không chọn được trọng tài viên, hoặc các Trọng tài viên không bầu được
một Trọng tài viên khác làm Chủ tịch Hội đồng trọng tài, hoặc các bên không chọn
được Trọng tài viên duy nhất (trường hợp các bên thỏa thuận vụ tranh chấp do một


trọng tài viên duy nhất giải quyết) thì Tòa án nơi bị đơn cư trú hoặc nơi có trụ sở theo
yêu cầu của một hoặc các bên có quyền đưa ra quyết định chỉ định Trọng tài viên, chỉ
định Chủ tịch Hội đồng trọng tài theo quy định tại điều 41 Luật TTTM 2010 trong các
trường hợp trên.
Tại khoản 4 Điều 42 Luật TTTM có quy định: “Đối với vụ tranh chấp do Hội
đồng trọng tài vụ việc giải quyết, việc thay đổi Trọng tài viên sẽ do các thành viên còn
lại của Hội đồng trọng tài quyết định. Trong trường hợp các thành viên còn lại của
Hội đồng trọng tài không quyết định được hoặc nếu các Trọng tài viên hay Trọng tài
viên duy nhất từ chối giải quyết tranh chấp, thì trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày
nhận được yêu cầu của một hoặc các Trọng tài viên nói trên, của một hoặc các bên
tranh chấp, Chánh án Toà án có thẩm quyền phân công một Thẩm phán quyết định về
việc thay đổi Trọng tài viên”. Như vậy đối với trường hợp cần phải thay đổi Trọng tài
viên theo quy định của pháp luật (trong vụ tranh chấp do Hội đồng trọng tài vụ việc
giải quyết), nếu các thành viên còn lại của Hội đồng trọng tài không quyết định được
hoặc nếu các Trọng tài viên hay Trọng tài viên duy nhất từ chối giải quyết tranh chấp,
thì Tòa án có thẩm quyền (Tòa án nơi Hội đồng trọng tài giải quyết tranh chấp) có thể
hỗ trợ việc quyết định thay đổi Trọng tài viên này. Cụ thể là Chánh án Tòa án có thẩm
quyền sẽ phân công một Thẩm phán quyết định về việc thay đổi Trọng tài viên.
Trong khi đó, Pháp lệnh TTTM 2003 quy định chủ thể có quyền yêu cầu Tòa
án giải quyết là nguyên đơn, điều này đã hạn chế quyền của các Trọng tài viên và bên
bị đơn trong việc yêu cầu Tòa án thay đổi Trọng tài viên. Nói cách khác, theo Pháp

lệnh TTTM 2003, nếu không có yêu cầu của nguyên đơn thì không phát sinh thẩm
quyền của Tòa án trong việc thay đổi Trọng tài viên. Có thể thấy, Luật TTTM 2010 đã
khắc phục được hạn chế này của Pháp lệnh TTTM 2003, điều này đảm bảo sự công
bằng và quyền lợi chính đáng của các bên tranh chấp.
Bên cạnh đó, theo quy định tại khoản 4 Điều 43 Luật TTTM 2010 đối với
trường hợp Trọng tài viên được lựa chọn không thể tiếp tục tham gia giải quyết tranh
chấp: “Trường hợp các bên đã có thỏa thuận cụ thể về việc lựa chọn Trọng tài viên
trọng tài vụ việc, nhưng tại thời điểm xảy ra tranh chấp, vì sự kiện bất khả kháng
hoặc trở ngại khách quan mà Trọng tài viên không thể tham gia giải quyết tranh
chấp, thì các bên có thể thỏa thuận lựa chọn Trọng tài viên khác để thay thế; nếu
không thỏa thuận được, thì có quyền khởi kiện ra Tòa án để giải quyết”. Theo đó, Tòa
án cũng có thể hỗ trợ trong trường hợp Trọng tài viên được lựa chọn không thể tiếp
tục tham gia giải quyết tranh chấp vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan.
Như vậy, các quy định trên của Luật TTTM đã tránh được các bế tắc trong tố
tụng trọng tài, đồng thời đảm bảo vụ tranh chấp sẽ được trọng tài giải quyết. Bởi vì,
vụ tranh chấp đã được các bên thỏa thuận giải quyết theo thủ tục trọng tài, Tòa án
không thụ lý giải quyết. Việc không thành lập được Hội đồng trọng tài hoặc không
chọn được Trọng tài viên duy nhất gây khó khăn cho việc giải quyết tranh chấp. Vì
thế, quyền lợi của các bên tranh chấp khó được đảm bảo, đặc biệt là bên có quyền và


lợi ích bị xâm phạm. Do đó, sự hỗ trợ của Tòa án đối với trọng tài thương mại trong
việc chỉ định, thay đổi Trọng tài viên là việc hết sức cần thiết. Sự can thiệp của quyền
lực nhà nước vào hoạt động trọng tài bằng việc chỉ định, thay đổi Trọng tài viên đã
làm cho trọng tài có thể thực hiện được nhiệm vụ mà các bên tranh chấp giao phó,
giúp các bên tháo gỡ những bất đồng, mâu thuẫn đã phát sinh.
2. Quy định về việc áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời
Trong quá trình Hội đồng trọng tài giải quyết vụ tranh chấp, nếu thấy rằng
quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm hại hoặc có nguy cơ trực tiếp bị xâm hại
thì các bên có quyền làm đơn gửi đến Tòa án để yêu cầu áp dụng một hoặc một số

biện pháp khẩn cấp tạm thời thích hợp để bảo vệ tài sản đang bị tranh chấp theo quy
định tại Điều 48 Luật trọng tài thương mại năm 2010: “Các bên tranh chấp có quyền
yêu cầu Hội đồng trọng tài, Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời theo quy định
của Luật này và các quy định của pháp luật có liên quan, trừ trường hợp các bên có
thỏa thuận khác”. Các biện pháp khẩn cấp tạm thời mà Tòa án có thẩm quyền thực
hiện được quy định tại Điều 114 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
Bên cạnh đó, theo quy định tại Điều 49 và Điều 53 của Luật trọng tài thương
mại, khi một trong các bên đã yêu cầu Tòa án đã áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm
thời thì Hội đồng trọng tài sẽ phải từ chối đơn yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp
tạm thời, và ngược lại, nếu một trong các bên đã yêu cầu Hội đồng trọng tài quyết
định các biện pháp khẩn cấp tạm thời thì Tòa án sẽ phải từ chối. Quy định này giúp
phân định phạm vi thẩm quyền áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời giữa Hội đồng
trọng tài và Tòa án nhằm tránh tình trạng xung đột về thẩm quyền, nhưng vẫn đảm
bảo nguyên tắc trong mọi trường hợp các bên đều có thể làm đơn yêu cầu áp dụng
biện pháp khẩn cấp tạm thời để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Việc pháp luật quy định cho các bên có quyền yêu cầu Tòa án áp dụng các biện
pháp khẩn cấp tạm thời ngay cả khi tranh chấp giữa các bên được giải quyết bằng
trọng tài giúp đảm bảo quyền và lợi ích của các bên trong tranh chấp, khi các bên thấy
cần phải bảo vệ tài sản bị tranh chấp trước nguy cơ tẩu tán tài sản hoặc các hành vi
khác nhằm làm giảm giá trị của tài sản tranh chấp. Bởi dù Trọng tài được pháp luật
trao cho quyền áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời nhưng Trọng tài cũng khó có
thể thực hiện được triệt để trên thực tế. Vì trọng tài khi hoạt động cũng chỉ nhân danh
chính mình, do đó cũng bình đẳng về địa vị pháp lý với các bên tranh chấp, chỉ có Tòa
án – cơ quan đại diện cho quyền lực nhà nước mới có thể tiến hành việc áp dụng các
biện pháp khẩn cấp tạm thời một cách triệt để, bởi quyết định của Tòa án có giá trị
pháp lý cao hơn, do đó hiệu quả thi hành cũng tốt hơn so với Trọng tài thương mại.
3. Quy định về Tòa án hỗ trợ trong việc thu thập chứng cứ và triệu tập
người làm chứng



Luật trọng tài thương mại 2010 quy định Hội đồng trọng tài có thể yêu cầu Tòa
án hỗ trợ trong việc thu thập chứng cứ, đây là quy định nhằm tăng hiệu quả của Trọng
tài trong hoạt động giải quyết các tranh chấp. Trước đây, Pháp lệnh Trọng tài thương
mại 2003 không có quy định về cơ chế hỗ trợ này nên các doanh nghiệp băn khoăn
khi lựa chọn Trọng tài thương mại để giải quyết tranh chấp. Bởi trọng tài chỉ là một
hình thức tài phán tư, nó thiếu mất yếu tố quyền lực công mà chỉ Tòa án mới có trong
hoạt động xét xử. Trọng tài cũng không thể áp dụng các biện pháp cưỡng chế trong
trường hợp có người từ chối cung cấp chứng cứ. Lúc này, sự hỗ trợ của Tòa án với tư
cách là cơ quan quyền lực nhà nước là rất quan trọng.
Luật trọng tài thương mại 2010 quy định cho Hội đồng trọng tài có thẩm quyền
thu thập chứng cứ nhằm tăng tính độc lập của trọng tài. Theo Luật trọng tài thương
mại năm 2010 thì việc cung cấp chứng cứ cho Hội đồng trọng tài là “quyền và nghĩa
vụ giữa các bên” chứ không phải chỉ là “nghĩa vụ” như quy định trước đây. Trong
trường hợp Hội đồng trọng tài, một hoặc các bên đã áp dụng các biện pháp cần thiết
để thu thập chứng cứ mà vẫn không thể tự mình thu thập được thì có thể gửi văn bản
đề nghị Toà án có thẩm quyền yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu đọc
được, nghe được, nhìn được hoặc hiện vật khác liên quan đến vụ tranh chấp (khoản 5
Điều 46). Bên cạnh đó, Tòa án cũng có thể ra quyết định triệu tập người làm chứng
liên quan đến vụ tranh chấp theo yêu cầu của Hội đồng trọng tài khoản 2, 3 Điều 47
Luật trọng tài thương mại.
Việc pháp luật quy định cho phép Hội đồng trọng tài gửi văn bản đề nghị Tòa
án có thẩm quyền ra quyết định triệu tập người làm chứng nhằm đảm bảo sự có mặt
của người làm chứng trong những trường hợp cần thiết nhằm làm sáng tỏ vụ việc. Sự
hỗ trợ của Tòa án trong việc triệu tập người làm chứng thể hiện ở chỗ, bằng quyền lực
cũng như những công cụ cưỡng chế của mình, Tòa án ra quyết định triệu tập người
làm chứng sẽ được người làm chứng thực hiện một cách nghiêm minh hơn, góp phần
làm cho hoạt động, cũng như phán quyết của hội đồng trọng tài được chuẩn xác hơn,
hoạt động của trọng tài được thực hiện thuận lợi hơn. Việc pháp luật quy định Hội
đồng trọng tài không thể thu thập được chứng cứ có thể gửi văn bản đề nghị Tòa án
thu thập chứng cứ nhằm đảm bảo cho việc giải quyết vụ tranh chấp được nhanh chóng

và chính xác. Tòa án, với tư cách là cơ quan quyền lực nhà nước, là cơ quan thực thi
quyền lực nhà nước và có quyền nhân danh nhà nước, sử dụng quyền lực nhà nước
khi cần thiết khi thực hiện các hoạt động thu thập chứng cứ, triệu tập người làm chứng
sẽ được thuận lợi hơn, các cá nhân, tổ chức liên quan chấp hành yêu cầu về thu thập
chứng cứ nhanh chóng hơn trọng tài.
4. Quy định về Tòa án hỗ trợ trong việc hủy phán quyết trọng tài


Hủy phán quyết trọng tài được hiểu là việc Tòa án có thẩm quyền tuyên bố
phán quyết đó không có giá trị toàn bộ hoặc một phần. Nếu một phán quyết bị Tòa án
có thẩm quyền hủy thì thông thường phán quyết đó sẽ bị coi là không có hiệu lực và
do đó không thể thi hành không chỉ bởi Tòa án nơi tiến hành trọng tài mà cả tòa án
quốc gia ở nơi khác.
Tại khoản 1 điều 68 Luật TTTM 2010 quy định:“ Tòa án xem xét việc hủy
phán quyết trọng tài khi có đơn yêu cầu của một bên”. Đặc biệt, tại khoản 1 điều 69
Luật TTTM 2010, nếu một bên có đủ căn cứ để chứng minh được rằng Hội đồng trọng
tài đã ra phán quyết thuộc một trong những trường hợp quy định tại khoản 2 điều 68
của Luật Trọng tài thương mại 2010, thì có quyền làm đơn gửi Tòa án có thẩm quyền
yêu cầu hủy phán quyết trọng tài. Như vậy, Tòa án sẽ có thẩm quyền trong viêc hủy
phán quyết trọng tài khi việc tiến hành giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương
mại thuộc các trường hợp quy định tại khoản 2 điều 68 Luật TTTM 2010. Đây được
xem là một cơ chế hỗ trợ hoạt động trọng tài của Tòa án trong việc kịp thời khắc phục
những sai xót trong quá trình giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại, đồng
thời góp phần bảo đảm được quyền và lợi ích của các bên tranh chấp.
Có thể thấy, bên không chấp nhận phán quyết trọng tài có thể viện dẫn nhiều lý
do để xin hủy phán quyết trọng tài bởi thực chất phạm vi của các căn cứ là rất rộng,
khi đó Tòa án buộc phải xem xét bằng việc kiểm tra thủ tục tố tụng trọng tài và các tài
liệu kèm theo xem xét, quyết định, chứ không xét xử lại nội dung vụ tranh chấp mà
Hội đồng trọng tài đã giải quyết để ra quyết định có hủy hay là không ( khoản 4 điều
71 Luật TTTM 2010 ), quy định này cũng được cụ thể hóa hơn tại khoản 2 điều 15

Nghị quyết 01/2014/NQ-HĐTP về hướng dẫn thi hành một số quy định của Luật trọng
tài thương mại: “Khi xét đơn yêu cầu, Hội đồng xét đơn không xét lại nội dung vụ
tranh chấp mà cần kiểm tra phán quyết trọng tài có thuộc một trong các trường hợp
quy định tại khoản 2 Điều 68 Luật TTTMhay không. Nếu xét thấy phán quyết trọng tài
thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 68 Luật TTTM và Hội
đồng trọng tài không khắc phục hoặc không thể khắc phục được theo yêu cầu của Tòa
án quy định tại khoản 7 Điều 71 Luật TTTM, thì Hội đồng xét đơn yêu cầu căn cứ vào
điểm tương ứng tại khoản 2 Điều 68 Luật TTTM để ra quyết định huỷ phán quyết
trọng tài. Nếu xét thấy phán quyết trọng tài không thuộc một trong các trường hợp
quy định tại khoản 2 Điều 68 Luật TTTM, thì Hội đồng xét đơn yêu cầu ra quyết định
không huỷ phán quyết trọng tài . Do vậy, tùy theo từng vụ việc cụ thể, nếu các đương
sự nhận thấy sự sai phạm trong quá trình giải quyết bằng trọng tài thì có thể yêu cầu
Tòa án hủy phán quyết trọng tài để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Trình tự, thủ tục giải quyết yêu cầu hủy phán quyết trọng tài được quy định cụ
thể và hợp lý tại điều 70 và điều 71 trong Luật TTTM 2010, do vậy, các đương sự khi
tiến hành yêu cầu Tòa án hủy phán quyết trọng tài cần phải đáp ứng đủ các điều kiện
do pháp luật quy định, đồng thời phải thực hiện đúng trình tự, thủ tục do luật định, từ


đó là cơ sở để Tòa án tiến hành xem xét, quyết định có hay không hủy phán quyết
trọng tài để bảo vệ quyền và lợi ích của các bên tham gia.
Như vậy, Tòa án có một vai trò vô cùng quan trọng quyết định toàn bộ quá
trình giải quyết tranh chấp tại trọng tài thông qua việc hủy phán quyết trọng tài. Việc
đặt ra quy định này đã làm cho các đương sự cảm thấy thuyết phục hơn khi nêu cao
vai trò của Tòa án trong việc bảo vệ quyền và lợi ích của các bên, đồng thời góp phần
xóa bỏ đi những hạn chế, nâng cao trách nhiệm của trọng tài trong quá trình giải quyết
tranh chấp.
III.

Thực tiễn áp dụng và một số giải pháp nhằm tiếp tục hoàn thiện các

quy định của pháp luật về sự hỗ trợ của Tòa án đối với hoạt động trọng
tài

Thứ nhất, về quy định về sự hỗ trợ của Tòa án có thẩm quyền trong việc chỉ
định, thay đổi trọng tài viên và Chủ tịch hội đồng trọng tài.
Theo quy định tại khoản 4 Điều 42 Luật Trọng tài thương mại: “Trong trường
hợp các thành viên còn lại của Hội đồng trọng tài không quyết định được hoặc nếu các
Trọng tài viên hay Trọng tài viên duy nhất từ chối giải quyết tranh chấp, thì trong thời
hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu của một hoặc các Trọng tài viên nói trên,
của một hoặc các bên tranh chấp, Chánh án Toà án có thẩm quyền phân công một
Thẩm phán quyết định về việc thay đổi Trọng tài viên”. Có thể thấy, pháp luật chỉ quy
định thời hạn Tòa án phân công một Thẩm phán quyết định về việc thay đổi Trọng tài
viên mà không có quy định về thời hạn gửi đơn yêu cầu Tòa án có thẩm quyền quyết
định Thay đổi trọng tài viên. Điều này đã dẫn đến một thực tế nhiều trường hợp khi
một bên tranh chấp có ý định trốn tránh trách nhiệm nên không muốn tham gia tố tụng
trọng tài. Đặc biệt là trong hình thức trọng tài vụ việc, các bên sẽ tự do tiến hành
thành lập Hội đồng trọng tài theo ý chí của mình nên họ có thể gặp khó khăn lớn nếu
một bên (thường là bị đơn) không muốn tham gia vào trọng tài khi tranh chấp phát
sinh. Do đó, họ không đáp lại yêu cầu thành lập Hội đồng trọng tài của bên kia, sau
đó, họ lại tìm cách trì hoãn tố tụng bằng cách yêu cầu thay đổi Trọng tài viên.
Vì vậy, pháp luật cần quy định về thời hạn nhất định để các chủ thể có quyền
yêu cầu Tòa án thay đổi Trọng tài viên, điều này vừa có tác dụng bảo đảm quá trình tố
tụng vừa nâng cao tinh thần trách nhiệm của các bên, buộc họ phải theo dõi quá trình
thành lập Hội đồng trọng tài cũng như trong suốt quá trình giải quyết.
Thứ hai, quy định về việc áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời.
Luật trọng tài thương mại năm 2010 quy định rất thận trọng khi cho các bên có
thể lựa chọn Tòa án hoặc Hội đồng trọng tài để yêu cầu thực hiện các biện pháp khẩn


cấp tạm thời. Nhằm tránh tình trạng ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm

thời chồng chéo lẫn nhau mà vẫn đảm bảo tính kịp thời. Tuy nhiên, trên thực tế có
nhiều trường hợp có trường hợp Toà án đùn đẩy trách nhiệm lại cho Hội đồng trọng
tài với lí do bản thân Hội đồng trọng tài cũng có quyền ra quyết định thực hiện các
biện pháp khẩn cấp tạm thời, hoặc có những trường hợp Tòa án và Trọng tài đồng thời
ra quyết định áp dụng các biện pháp khần cấp tạm thời. khi mà theo quy định của pháp
luật thì bên nào nhận việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trước thì bên đó sẽ
thực hiện, bên kia không có quyền thực hiện để tránh chồng chéo, trên thực tế trong
một số trường hợp, có thể sẽ có lợi hơn cho nguyên đơn, nếu sau khi khởi kiện tại
Trung tâm trọng tài và làm đơn gửi Tòa án yêu cầu ra quyết định áp dụng biện pháp
khẩn cấp tạm thời theo quy định của Điều 53 Luật trọng tài thương mại năm 2010,
như vậy, người yêu cầu sẽ không phải mất thời gian chờ thành lập Hội đồng trọng tài,
quyết định của Tòa án được thi hành triệt để hơn. Trong khi đó, lại khó tránh tình
trạng mỗi bên yêu cầu một cơ quan giải quyết, gây ra tình trạng “tranh nhau” thực
hiện dù có thể chưa thực sự cần thiết phải áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời.
Thứ ba, quy định về Tòa án hỗ trợ trong việc thu thập chứng cứ và triệu tập
người làm chứng.
Pháp luật quy định trong trường hợp Hội đồng trọng tài, một hoặc các bên đã
áp dụng các biện pháp cần thiết để thu thập chứng cứ mà vẫn không thể tự mình thu
thập được thì có thể gửi văn bản đề nghị Toà án có thẩm quyền yêu cầu cơ quan, tổ
chức, cá nhân cung cấp tài liệu đọc được, nghe được, nhìn được hoặc hiện vật khác
liên quan đến vụ tranh chấp. Tuy nhiên, trên thực tế có những trường hợp, cơ quan, tổ
chức, cá nhân ngộ nhận việc cung cấp chứng cứ gây bất lợi cho quyền lợi của mình
nên không giao nộp chứng cứ, cũng có trưởng hợp các bên tham gia tranh chấp do
hiểu biết pháp luật hạn chế nên khi có tranh chấp, họ không biết cần có những chứng
cứ gì để cung cấp. Bên cạnh đó, việc không quy định thời hạn giao nộp chứng cứ cũng
có thể tạo ra tâm lý ỷ lại vào các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giải quyết.
Thứ tư, Quy định về Tòa án hỗ trợ trong việc hủy phán quyết trọng tài.
Theo quy định tại Điều 68 và Điều 71 Luật trọng tài thương mại năm 2010, thì
Tòa án không xem xét lại nội dung vụ tranh chấp mà Hội đồng trọng tài đã giải quyết,
mà chỉ xem xét các vấn đề về tố tụng trọng tài đúng hay không đúng để quyết định

hủy hay không hủy phán quyết trọng tài.
Thực tế cho thấy, thời gian qua một số quyết định của Tòa án hủy quyết định
của trọng tài gây thiệt hại cho quyền lợi của đương sự vì theo quy định tại khoản 10
Điều 71 Luật trọng tài tương mại năm 2010, quyết định hủy hoặc không hủy phán


quyết trọng tài của Tòa án là quyết định cuối cùng và có hiệu lực thi hành. Do đó,
đương sự, Hội đồng tọng tài không có quyền kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm hoặc
khiếu nại, kiến nghị theo thủ tục giám đốc thẩm tái thẩm đối với phán quyết của Tòa
án. Vấn đề có xem xét lại quyết định của Tòa án hủy hoặc không hủy phán quyết trọng
tài theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm hay không đã được đặt ra từ thực
tiễn. Theo đó, cần phải hiểu quy định của khoản 10 Điều 71 Luật trọng tài thương mại
năm 2010 theo hướng quyết định của Tòa án về việc hủy hoặc không hủy phán quyết
trọng tài là quyết định có hiệu lực thi hành ngay, không bị kháng cáo, kháng nghị theo
thủ tục phúc thẩm nhưng vẫn có thể bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái
thẩm nếu phát hiện có vi phạm pháp luật hoặc tình tiết mới để đảm bảo quyền, lợi ích
hợp pháp của các bên.
KẾT THÚC VẤN ĐỀ
Có thể thấy, sự hỗ trợ của Tòa án đối với hoạt động trọng tài có ý nghĩa vô
cùng to lớn, chính sự giúp đỡ của Tòa án trong một số trường hợp nhất định đã làm
cho hoạt động trọng tài ngày càng trở nên nhanh chóng hơn, đạt hiệu quả tốt hơn, giúp
bảo vệ được quyền và lợi ích của các bên tranh chấp. Cùng với đó, Tòa án với chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình đã góp phần khắc phục được những hạn chế của
phương thức giải quyết bằng trọng tài thương mại, giúp cho phương thức này ngày
càng trở nên tối ưu, thuận tiện hơn bên cạnh phương thức giải quyết tranh chấp bằng
Tòa án.


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1, Giáo trình Luật Thương mại Tập 2 – Trường Đại học Luật Hà Nội – NXB

Công an nhân dân.
2, Hướng dẫn môn học Luật Thương mại tập 2 – Bộ môn Thương mại Trường
Đại học Luật Hà Nội – NXB Lao động.
3, Sự hỗ trợ của cơ quan tư pháp đối với hoạt động của trọng tài thương mại
theo luật trọng tài thương mại 2010 – Luật văn thạc sỹ luật học – Phan Chân Nhân –
Trường Đại học Luật Hà Nội.
4, Sự hỗ trợ của Tòa án đối với hoạt động của trọng tài thương mại theo quy
định của Luật trọng tài thương mại 2010 – Khóa luận tốt nghiệp – Đỗ Phương Hiền –
Trường Đại học Luật Hà Nội.
5, Pháp luật hiện hành về sự hỗ trợ của các cơ quan thực hiện quyền tư pháp
đối với hoạt động của trọng tài thương mại – Luận văn thạc sỹ luật học – Trần Minh
Quang – Trường Đại học Luật Hà Nội.
Trang web:
1, />2, />ItemID=2154
3, />4, />001021.pdf




×