Tải bản đầy đủ (.docx) (40 trang)

Hoạt động quản lý văn hóa ở Ủy ban nhân dân phường Đông Triều, thị xã Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (363.15 KB, 40 trang )

BỘ TƯ PHÁP

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

HỌ VÀ TÊN:
MÃ SỐ SINH VIÊN:

BÁO CÁO THỰC TẬP CHUYÊN MÔN

Hoạt động quản lý văn hóa ở địa phương nơi sinh viên thực tập.
Thực trạng và giải pháp

MÔN: LUẬT HÀNH CHÍNH
CƠ SỞ THỰC TẬP: Ủy ban nhân dân phường Đông
Triều, thị xã Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh

Hà Nội – 2019


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là báo cáo thực tập do tôi thực hiện trong thời gian thực tập
tại cơ quan tiếp nhận thực tập. Các nội dung trong báo cáo là trung thực, đảm bảo độ
tin cậy.

Xác nhận của cán bộ hướng dẫn
thực tập

Tác giả báo cáo thực tập
(Ký và ghi rõ họ, tên)



MỤC LỤC


MỞ ĐẦU
Văn hoá Việt Nam là toàn bộ sáng tạo của con người tích lũy lại trong quá trình
hoạt động thực tiễn xã hội được đúc kết thành hệ giá trị và chuẩn mực xã hội, biểu
hiện thông qua vốn di sản văn hoá và hệ ứng xử văn hoá cộng đồng người. Chúng ta tự
hào về nền văn hóa Việt Nam được bồi đắp ngày càng rạng rỡ bằng trí tuệ và tâm hồn
biết bao thế hệ, tự hào về truyền thống yêu nước nồng nàn, ý chí bất khuất, quật
cường, tinh thần cao cả, tình nghĩa nhân hậu thủy chung, luôn hướng tới chân, thiện,
mỹ. Lịch sử dân tộc ta đã chứng minh được mạch sống lưu truyền đó. Xây dựng nền
văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc là vấn đề vừa có ý nghĩa cấp thiết,
vừa mang tính chiến lược lâu dài đối với sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất
nước. Nhận thức được chức năng, vai trò của văn hóa, đánh giá được thực trạng hoạt
động quản lý nhà nước về văn hóa nhằm tìm ra những phương hướng, giải pháp hữu
hiệu nâng cao hiệu lực và hiệu quả quản lý nhà nước về văn hóa là một nhiệm vụ quan
trọng trong hành trình xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc ở nước
ta hiện nay.
Như vậy, những vấn đề quản lý nhà nước nói chung và quản lý hành chính Nhà
nước về văn hóa nói riêng hiện vẫn đang là vấn đề hệ trọng trong đường lối phát triển
của Đảng và Nhà nước ta. Xuất phát từ vị trí, ý nghĩa cấp bách về lý luận, thực tiễn
của vấn đề này, em xin chọn đề tài với nội dung: “Hoạt động quản lý văn hóa ở địa
phương nơi sinh viên thực tập. Thực trạng và giải pháp (Nơi thực tập: Ủy ban nhân
dân phường Đông Triều, thị xã Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh)” làm báo cáo thực
tập.


CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN LIÊN QUAN ĐẾN HOẠT ĐỘNG QUẢN LÝ

HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC VỀ VĂN HÓA
1. Khái niệm, đặc điểm của quản lý hành chính nhà nước
1.1. Khái niệm quản lý hành chính nhà nước
Quản lý nhà nước xuất hiện cùng với sự xuất hiện của Nhà nước. Quản lý nhà
nước thay đổi phụ thuộc vào chế độ chính trị, trình độ phát triển kinh tế - xã hội của
mỗi quốc gia qua các giai đoạn lịch sử. Ngày nay quản lý nhà nước bao gồm hoạt động
lập pháp của cơ quan lập pháp, hoạt động hành pháp của Chính phủ và hoạt động tư
pháp của cơ quan tư pháp.
Có thể hiểu quản lý nhà nước là một dạng quản lý xã hội đặc biệt, mang tính
quyền lực nhà nước và sử dụng pháp luật nhà nước để điều chỉnh các hành vi của con
người trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội do các cơ quan trong bộ máy nhà
nước thực hiện, nhằm thỏa mãn nhu cầu hợp pháp của con người, duy trì sự ổn định và
phát triển của xã hội.
Quản lý hành chính nhà nước có phạm vi hẹp hơn so với quản lý nhà nước vì:
- Quản lý hành chính nhà nước là hoạt động thực thi quyền hành pháp, tức là hoạt
động chấp hành và điều hành;
- Chủ thể quản lý hành chính nhà nước là các cơ quan, cán bộ, công chức hành
chính nhà nước trong hệ thống hành chính từ Trung ương đến cơ sở.
Như vậy, quản lý hành chính nhà nước là hoạt động thực thi quyền hành pháp
nhằm tác động có tổ chức và điều chỉnh bằng quyền lực nhà nước đối với các quá trình
xã hội và hành vi của công dân do các cơ quan trong hệ thống hành chính nhà nước từ
Trung ương đến cơ sở thực hiện để thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước, phát
triển kinh tế - xã hội, duy trì trật tự an ninh, thỏa mãn nhu cầu hàng ngày của nhân
dân.1
Khái niệm trên có ba điểm cần lưu ý:
Một là, quản lý hành chính nhà nước có tính quyền lực nhà nước;
Hai là, quản lý hành chính nhà nước là hoạt động thực hiện hàng ngày, tổ chức
và điều chỉnh các quan hệ xã hội và hành vi hoạt động của công dân bằng việc ra các
quyết định quản lý hành chính và thực hiện các hành vi hành chính.
Ba là, quản lý hành chính nhà nước được thực hiện bởi các pháp nhân công

quyền. Trong hệ thống này đứng đầu là Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các Bộ, các

1 Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Hành chính, Nxb. Công an Nhân dân, Hà Nội, 2015,
tr.116;


cơ quan hành chính nhà nước Trung ương, các cấp quản lý hành chính nhà nước địa
phương.
1.2. Đặc điểm của quản lý hành chính nhà nước
Đặc điểm của quản lý hành chính nhà nước là những nét đặc thù của quản lý
hành chính nhà nước để phân biệt với các dạng quản lý xã hội của các chủ thể quản lý
khác.
Để xây dựng nền hành chính phát triển, hiện đại của một nhà nước "của dân, do
dân và vì dân", để có một hệ thống tổ chức và quản lý của bộ máy nhà nước có hiệu
lực và hiệu quả, điều cần thiết là phải xác định rõ những đặc điểm chủ yếu của quản lý
hành chính nhà nước ở nước ta. Những đặc tính này vừa thể hiện đầy đủ bản chất và
nét đặc thù của Nhà nước Việt Nam, đồng thời kết hợp những đặc điểm chung của
quản lý hành chính nhà nước theo xu hướng chung của thời đại. Với ý nghĩa đó, quản
lý hành chính Nhà nước Việt Nam có những đặc điểm chủ yếu sau:
Quản lý hành chính nhà nước mang tính quyền lực nhà nước
Quản lý hành chính nhà nước mang tính quyền lực đặc biệt, tính tổ chức cao và
tính mệnh lệnh đơn phương của Nhà nước. Quản lý hành chính nhà nước mang tính
quyền lực nhà nước để phân biệt hoạt động quản lý hành chính nhà nước với các hoạt
động quản lý khác (quản lý doanh nghiệp, quản lý bệnh viện, trường học...).
Quản lý hành chính nhà nước có mục tiêu chiến lược, có chương trình, kế
hoạch để thực hiện mục tiêu
Mục tiêu của quản lý hành chính nhà nước là mục tiêu tổng hợp, bao gồm: chính
trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng, ngoại giao... Các mục tiêu này mang
tính trước mắt và lâu dài.
Để đạt được mục tiêu, hành chính nhà nước cần xây dựng các chương trình, dự

án và hệ thống kế hoạch dài hạn, trung hạn và ngắn hạn.
Quản lý hành chính nhà nước có tính chủ động, sáng tạo và linh hoạt
Tính chủ động, sáng tạo và linh hoạt này được thể hiện trong việc điều hành,
phối hợp, huy động mọi lực lượng, phát huy sức mạnh tổng hợp để quản lý các lĩnh
vực của đời sống xã hội theo đúng chức năng, thẩm quyền.
Quản lý hành chính nhà nước có tính liên tục, tương đối ổn định và thích ứng
Nhiệm vụ của hành chính nhà nước là phục vụ xã hội và công dân. Đây là công
việc hàng ngày, thường xuyên và liên tục vì các mối quan hệ xã hội và hành vi công
dân được pháp luật điều chỉnh diễn ra thường xuyên, liên tục. Chính vì vậy, nền hành
chính nhà nước phải đảm bảo tính liên tục, ổn định để đảm bảo các hoạt động không bị
gián đoạn trong bất kỳ tình huống nào.


Tính liên tục và ổn định không loại trừ tính thích ứng. Chính vì vậy, ổn định ở
đây mang tính tương đối, không phải là cố định, không thay đổi. Nhà nước là một sản
phẩm của xã hội. Đời sống kinh tế - xã hội luôn biến chuyển không ngừng, do đó nền
hành chính nhà nước luôn phải thích ứng với thực tế trong từng thời kỳ, thích nghi với
xu thế của thời đại, đáp ứng được những nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã hội trong giai
đoạn mới.
Quản lý hành chính nhà nước có tính chuyên môn hóa và nghề nghiệp cao
Quản lý hành chính luôn phải có căn cứ khoa học. Quản lý hành chính nhà nước
là một khoa học vì nó có tính quy luật, có các nguyên lý và các mối quan hệ chặt chẽ
với các khoa học khác (kinh tế, tài chính, kế hoạch, tâm lý...). Cùng với tính khoa học,
quản lý hành chính nhà nước là nghệ thuật vì đối tượng quản lý của hành chính nhà
nước rất đa dạng với nhiều vùng, nhiều thành phần, dân tộc, văn hóa khác nhau. Kết
quả quản lý phụ thuộc rất nhiều vào bản lĩnh, nhân cách, trí tuệ, kinh nghiệm... của
người quản lý.
Quản lý hành chính nhà nước có nội dung phức tạp và đa dạng đòi hỏi các nhà
hành chính phải có kiến thức xã hội, kiến thức quản lý hành chính và kiến thức chuyên
môn sâu rộng. Trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước, tiêu chuẩn về năng lực

chuyên môn của đội ngũ cán bộ, công chức phải là tiêu chuẩn hàng đầu.
Quản lý hành chính nhà nước có tính hệ thống thứ bậc chặt chẽ
Nền hành chính nhà nước được xây dựng bởi một hệ thống định chế theo thứ bậc
chặt chẽ và thông suốt từ Trung ương tới các địa phương, trong đó cấp dưới phục tùng
cấp trên, nhận chỉ thị mệnh lệnh và chịu sự kiểm tra thường xuyên của cấp trên. Mỗi
cấp mỗi cơ quan, mỗi cán bộ, công chức hoạt động trong phạm vi thẩm quyền được
giao. Tuy nhiên, để tránh biến hệ thống hành chính thành hệ thống quan liêu, cứng
nhắc, chính hệ thống thứ bậc cũng cần sự chủ động, sáng tạo của mỗi cấp, mỗi cơ
quan, mỗi công chức theo nguyên tắc tập trung dân chủ.
Quản lý hành chính nhà nước ở nước ta không có sự tách biệt tuyệt đối giữa
người quản lý và người bị quản lý
Trong chế độ ta, mọi công dân vừa là chủ thể vừa là khách thể của quản lý.
Chúng ta chủ trương xây dựng nhà nước "của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân",
nhân dân là chủ thể quản lý đất nước nên không có sự tách biệt tuyệt đối giữa người
quản lý và người bị quản lý.
Quản lý hành chính nhà nước không vì lợi nhuận
Quản lý hành chính nhà nước có nhiệm vụ phục vụ lợi ích công và lợi ích của
toàn xã hội. Phải xây dựng một nền hành chính công tâm, trong sạch, không theo đuổi


mục tiêu lợi nhuận, không đòi hỏi người được phục vụ phải trả thù lao. Đây cũng
chính là một trong những điểm khác biệt cơ bản giữa mục tiêu hoạt động của cơ quan
hành chính nhà nước và của một doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh.
Tuy nhiên, quản lý hành chính nhà nước không phải không quan tâm đến hiệu
quả kinh tế. Quản lý hành chính nhà nước phải đạt hiệu quả xã hội trên cơ sở tiết kiệm
chi phí.
Quản lý hành chính nhà nước mang tính nhân đạo
Bản chất của Nhà nước ta là nhà nước dân chủ, của nhân dân, do nhân dân và vì
nhân dân. Tôn trọng quyền và lợi ích hợp pháp của công dân là xuất phát điểm của hệ
thống pháp luật, thể chế, quy tắc, thủ tục hành chính. Cơ quan hành chính và đội ngũ

cán bộ, công chức không được quan liêu, cửa quyền hách dịch, gây phiền hà cho nhân
dân khi thi hành công vụ. Hiện nay chúng ta đang xây dựng một nền kinh tế thị trường
có sự quản lý của Nhà nước và theo định hướng xã hội chủ nghĩa, hơn lúc nào hết nền
hành chính nhà nước cần đảm bảo tính nhân đạo để hạn chế tối đa mặt trái của nền
kinh tế thị trường, thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội bền vững.
2. Hình thức quản lý hành chính nhà nước
2.1. Khái niệm hình thức quản lý hành chính nhà nước
Để thực hiện chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền của mình đối với xã hội, các chủ
thể quản lý hành chính nhà nước thực hiện rất nhiều hoạt động khác nhau và được thể
hiện ra bên ngoài dưới những hình thức nhất định.
Như vậy, hình thức quản lý hành chính nhà nước là sự biểu hiện ra bên ngoài các
hoạt động của chủ thể quản lý hành chính nhà nước trong việc thực hiện các chức
năng, nhiệm vụ, thẩm quyền quản lý xã hội.
Việc lựa chọn hình thức quản lý hành chính nhà nước phải đảm bảo các yêu cầu
dưới đây:
Phải phù hợp với chức năng hành chính.
Phải phù hợp với nội dung và tính chất của những vấn đề, nhiệm vụ cần giải
quyết.
Phải phù hợp với những đặc điểm của đối tượng quản lý cụ thể.
Phải phù hợp với điều kiện cụ thể.
2.2. Các hình thức quản lý hành chính nhà nước
Đặc trưng của hình thức quản lý hành chính nhà nước là những hình thức pháp lý
liên kết chặt chẽ với nhau trên cơ sở sự thống nhất của chức năng chấp hành và điều
hành. Ta có thể chia hình thức quản lý hành chính nhà nước thành hai loại cơ bản sau:
- Những hình thức quản lý mang tính pháp lý.
- Những hình thức quản lý ít mang tính pháp lý.
Những hình thức quản lý mang tính pháp lý


Những hình thức quản lý mang tính pháp lý được pháp luật quy định cụ thể về

nội dung, trình tự, thủ tục. Hình thức quản lý mang tính pháp lý bao gồm:
* Văn bản có tính chất chủ đạo
Là văn bản do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành nhằm đề ra những
chủ trương, nhiệm vụ và biện pháp lớn đề cập đến những vấn đề chung có tính chính
trị - pháp lý của quốc gia và địa phương.
Các văn bản này là cơ sở trực tiếp để ban hành văn bản quy phạm pháp luật và
thường thể hiện dưới hình thức nghị quyết, quyết định. Nó đảm bảo sự thống nhất
trong lãnh đạo của các cơ quan hành chính nhà nước.
* Văn bản quy phạm pháp luật
Văn bản quy phạm pháp luật là văn bản do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban
hành theo thủ tục, trình tự luật định, trong đó có các quy tắc xử sự chung, được Nhà
nước bảo đảm thực hiện nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội theo định hướng xã hội
chủ nghĩa.
Thông qua các văn bản quy phạm pháp luật, các cơ quan hành chính nhà nước
quy định những quy tắc xử sự chung trong lĩnh vực quản lý hành chính nhà nước;
những nhiệm vụ, quyền hạn và nghĩa vụ cụ thể của các bên tham gia quan hệ quản lý
hành chính nhà nước; xác định rõ thẩm quyền và thủ tục tiến hành hoạt động của các
đối tượng quản lý.
Ban hành văn bản quy phạm pháp luật là hình thức pháp lý quan trọng nhất trong
hoạt động của các chủ thể quản lý hành chính nhà nước nhằm thực hiện chức năng,
nhiệm vụ của mình
. * Văn bản cá biệt
Là loại văn bản do các cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền ban hành theo
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình để giải quyết những vụ việc cụ thể, đối với
những đối tượng cụ thể.
Ban hành văn bản cá biệt là hình thức hoạt động chủ yếu của các cơ quan hành
chính nhà nước, đặc biệt là cấp cơ sở. Nội dung của nó là áp dụng một hay nhiều quy
phạm pháp luật vào một trường hợp cụ thể, trong những điều kiện cụ thể. Việc ban
hành văn bản cá biệt làm phát sinh, thay đổi hay chấm dứt những quan hệ pháp luật
hành chính cụ thể.

* Văn bản hành chính thông thường
Là những văn bản mang tính thông tin, phản ánh tình hình, giao dịch, trao đổi,
ghi chép công việc, đề xuất… của cơ quan, tổ chức nhà nước nói chung, bao gồm:
thông báo, báo cáo, tờ trình, công văn hành chính, biên bản, công điện, giấy mời, giấy
đi đường…
Các hình thức quản lý mang tính pháp lý khác:


- Hoạt động cấp các loại giấy phép.
- Hoạt động cấp các loại giấy chứng nhận.
- Trưng dụng, trưng mua.
- Công chứng, chứng thực.
- Phòng ngừa, ngăn chặn hành chính.
- Xử phạt vi phạm hành chính.
- Các biện pháp xử lý hành chính khác: giáo dục tại xã, phường, thị trấn; đưa vào
trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục, cơ sở chữa bệnh.
- Tài trợ: là việc Nhà nước hỗ trợ cho một tổ chức, nhóm đối tượng hoặc cá nhân
để họ thực hiện một nhiệm vụ hoặc thỏa mãn nhu cầu nhất định thông qua các hình
thức như: trợ giá, trợ cấp, miễn, giảm thuế.
- Cung cấp dịch vụ công: là hoạt động phục vụ các lợi ích chung thiết yếu, các
quyền và nghĩa vụ của công dân, tổ chức do các cơ quan nhà nước trực tiếp thực hiện
hoặc ủy quyền cho tổ chức phi nhà nước thực hiện.
Những hình thức quản lý ít mang tính pháp lý
Những hình thức quản lý ít mang tính pháp lý được pháp luật quy định về nguyên
tắc, khuôn khổ chung để tiến hành chứ không quy định cụ thể về nội dung, trình tự, thủ
tục. Pháp luật cho chủ thể có quyền được lựa chọn biện pháp thực hiện để bảo đảm
tính chủ động, sáng tạo của các cơ quan quản lý. Hình thức quản lý ít mang tính pháp
lý bao gồm:
* Hình thức hội nghị
Hình thức hội nghị có mục đích chủ yếu là để thống nhất ý kiến của tập thể lãnh

đạo và điều phối công việc. Hình thức hội nghị còn sử dụng để thông báo, truyền đạt
chủ trương, chính sách và pháp luật, triển khai các kế hoạch, giáo dục và đào tạo và
giải quyết những công việc chuyên môn.
Hội nghị có nhiều hình thức như: hội nghị truyền thống, hội nghị chuyên môn,
hội nghị chuyên đề, phổ biến, hội thảo...
Trong hình thức hội nghị, điều quan trọng là chương trình nghị sự, nội dung và
cách chủ trì hội nghị phải được thực hiện theo phương pháp khoa học, người đứng ra
tổ chức hội nghị phải có kỹ năng tổ chức, điều hành.
* Hình thức hoạt động điều hành bằng các phương tiện thông tin kỹ thuật hiện
đại
Đó là việc các cơ quan hành chính nhà nước và các cán bộ, công chức hành chính
nhà nước sử dụng các phương tiện kỹ thuật vào hoạt động quản lý như: máy điện
thoại, máy Fax, mạng máy tính, chính phủ điện tử, chính phủ kỹ thuật số v.v…
Ưu điểm của hình thức này là nhanh chóng, kịp thời, song có nhược điểm là
không đảm bảo được bí mật khi cần thiế và tốn kém.
3. Quản lý hành chính nhà nước về văn hóa


3.1. Khái niệm văn hóa và quản lý hành chính nhà nước về văn hóa
- Khái niệm văn hóa có rất nhiều cách hiểu khác nhau.
Có người cho rằng, văn hóa là sự hiểu biết. Sự hiểu biết được đo bằng trình độ
học vấn. Kinh nghiệm, kiến thức tích lũy được trong quá trình lao động sản xuất và
đấu tranh của mỗi cộng đồng cũng thuộc phạm vi của sự hiểu biết.
Một số ý kiến khác thì cho rằng, chỉ riêng sự hiểu biết không thôi chưa tạo thành
văn hóa. Chỉ trở thành văn hóa khi sự hiểu biết được sử dụng làm định hướng cho lối
sống, đạo lý, tâm hồn, hành động của mỗi dân tộc và các thành viên trong xã hội vươn
tới cái đúng, cái tốt, cái đẹp trong mối quan hệ giữa con người với con người, giữa con
người với môi trường xã hội và tự nhiên.
Có ý kiến cho rằng, bản chất đích thực của văn hóa là nội dung làm cho con
người phát triển gắn chặt với sự sáng tạo. Với cách hiểu này, văn hóa là tổng hòa của

nhiều yếu tố, trong đó văn hóa luôn gắn với phát triển, không đứng ngoài sự phát triển.
Trong văn hóa, hệ tư tưởng luôn đóng vai trò quyết định và là "hạt nhân" của văn
hóa. Hệ tư tưởng quy định kiểu, loại của văn hóa, phân biệt văn hóa của chế độ xã hội
này với văn hóa của chế độ khác, của giai cấp này với giai cấp khác.
Cùng với quá trình phát triển, văn hóa ngày càng có nội dung phong phú. Vì thế
có nhiều định nghĩa khác nhau về văn hóa với nội dung rộng, hẹp khác nhau về văn
hóa, như: Văn hóa hiểu theo nghĩa rộng, là trình độ phát triển vật chất và tinh thần của
một cộng đồng hay một cá nhân. Văn hóa hiểu theo nội dung, bao gồm các sản phẩm
vật chất của khoa học, giáo dục, tôn giáo, đạo đức…Văn hóa đặt trong phạm vi nếp
sống, lối sống, phong tục, tập quán, tín ngưỡng..2
Quản lý nhà nước về văn hóa là sự tác động liên tục, có tổ chức, có chủ đích của
Nhà nước bằng hệ thống pháp luật và bộ máy của mình, nhằm phát triển văn hóa, điều
chỉnh hoạt động của mọi cơ quan, tổ chức, cá nhân trong lĩnh vực văn hóa và liên
quan, với mục đích giữ gìn và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống của Việt
Nam, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến
đậm đà bản sắc dân tộc, góp phần nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân
dân.3
3.2. Đặc điểm của hoạt động quản lý hành chính nhà nước về văn hóa
Quản lý nhà nước về văn hóa có các đặc điểm sau:
2 Bộ Nội vụ, Chuyên đề số 2: Quán lý nhà nước về văn hóa và giáo dục, y tế,

/>y_nha_nuoc_ve_van_hoa_giao_duc_y_te .
3 Công tác quản lý nhà nước về văn hóa, ngày 28/6/2018.


Một là, chủ thể quản lý nhà nước về văn hóa là Nhà nước. Nhà nước Việt Nam
được tổ chức thống nhất từ Trung ương đến các địa phương, quyền quản lý được phân
cấp: Cấp trung ương, cấp tỉnh (tỉnh và các thành phố trực thuộc Trung ương), cấp
huyện (huyện thuộc tỉnh, quận thuộc thành phố), cấp xã (xã thuộc huyện, phường
thuộc quận). Quản lý nhà nước về văn hóa ở cấp nào thì cơ quan nhà nước cấp ấy là

chủ thể quản lý. Quản lý nhà nước về văn hóa ở cấp xã thì ủy ban nhân dân xã là chủ
thể quản lý nhà nước. Công chức làm công tác văn hóa - xã hội ở cấp xã có trách
nhiệm giúp ủy ban nhân dân cấp xã quản lý nhà nước về văn hóa trên địa bàn cấp xã.
Hai là, khách thể quản lý nhà nước về văn hóa là văn hóa và các cơ quan, tổ
chức, cá nhân hoạt động trong lĩnh vực văn hóa hoặc có liên quan đến lĩnh vực văn
hóa. Văn hóa với tư cách là khách thể quản lý được hiểu theo nghĩa cụ thể là: Các hoạt
động văn hóa (trong đó có các dịch vụ văn hóa, hoạt động sáng tạo...) và các giá trị
văn hóa (cụ thể là các di sản văn hóa vật thể và phi vật thể). Mặt khác, theo sự phân
công trong hệ thống các cơ quan nhà nước các cấp, không phải toàn bộ hoạt động văn
hóa hiểu theo nghĩa rộng đều do ngành văn hóa quản lý. Văn hóa giáo dục, khoa học
công nghệ... do cơ quan giáo dục, khoa học công nghệ quản lý.
Ba là, mục đích quản lý nhà nước về văn hóa là giữ gìn và phát huy những giá trị
văn hóa truyền thống của Việt Nam, tiếp thu tinh hoa văn hóa truyền thống của Việt
Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, góp phần nâng cao đời sống vật chất và tinh
thần của nhân dân. Tuy nhiên, trong hoạt động quản lý nhà nước văn hóa ở từng cấp,
từng địa phương, từng hoạt động thì mục đích quản lý nhà nước về văn hóa phải được
xác định cụ thể sát với yêu cầu nhiệm vụ và hoàn cảnh của địa phương. Ví dụ quản lý
nhà nước về Chương trình mục tiêu xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở thì cấp trung
ương mục đích là gì; cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã là gì, phải được xác định một cách cụ
thể. Có như vậy hoạt động quản lý mới hiệu quả.
Bốn là, cơ sở pháp lý của quản lý nhà nước về văn hóa là Hiến pháp, luật và các
văn bản quy phạm pháp luật. Như vậy, quản lý nhà nước nói chung và quản lý nhà
nước về văn hóa nói riêng có công cụ là hệ thống luật và các văn bản có tính pháp quy.
Quản lý bằng pháp luật chứ không phải bằng ý chí của nhà quản lý.
Năm là, cách thức quản lý là “sự tác động liên tục, có tổ chức, có chủ đích” chứ
không phải là việc làm có tính thời vụ, cũng không phải là sự thụ động của nhà quản
lý, càng không phải là hoạt động đơn lẻ, tùy tiện của nhà quản lý.
3.3. Nội dung quản lý nhà nước về văn hóa
3.3.1. Xây dựng về thể chế



Để quản lý tốt hoạt động văn hóa trong quá trình xã hội hóa văn hóa, Nhà nước
phải chú trọng xây dựng thể chế về quản lý văn hóa; Hoàn chỉnh hệ thống các văn bản
pháp luật và cơ chế, chính sách về văn hóa, nghệ thuật một cách toàn diện, đồng bộ
trên mọi lĩnh vực của đời sống văn hóa phù hợp với đường lối của Đảng, Nhà nước và
pháp luật Việt Nam. Thể chế quản lý văn hóa phải đảm bảo các chuẩn mực về luật
pháp và chuẩn mực về phong tục, tập quán dân tộc Đại hội Đảng lần thứ XI nhấn
mạnh “Hoàn thiện hệ thống chính sách, kết hợp chặt chẽ các mục tiêu, chính sách kinh
tế với các mục tiêu, chính sách xã hội; thực hiện tốt tiến bộ, công bằng xã hội trong
từng bước, từng chính sách phát triển phù hợp với điều kiện cụ thể, bảo đảm phát triển
nhanh, bền vững”. Để tạo điều kiện cho văn hóa phát triển, Nhà nước ta đã ban hành
nhiều luật, văn bản luật về tổ chức bộ máy quản lý về văn hóa; luật về bảo vệ các di
sản văn hóa; luật về bảo hộ quyền tác giả… Đối với các hoạt động liên quan đến xuất
bản, báo chí, quảng cáo, internet... Nhà nước đã ban hành Luật Xuất bản, Luật Báo
chí, Nghị định của Chính phủ đối với quảng cáo, đối với Internet... Các hoạt động văn
hóa cần được quản lý trên cơ sở luật và các văn bản pháp quy đã được ban hành.
Xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở là một trong những chủ trương lớn của Đảng
và Nhà nước ta. Xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở phải phù hợp với điều kiện đặc
thù của từng địa phương. Do đó cần chú trọng xây dựng các quy ước, dùng quy ước để
quản lý đời sống văn hóa ở cơ sở. Đối với các hoạt động lễ hội, cưới xin, ma chay, sinh
nhật, thượng thọ ... cần quản lý bằng các quy ước; cũng như cần có quy ước về xây
dựng gia đình văn hóa, quy ước xây dựng làng văn hóa mới...
3.3.2. Thực hiện các chính sách về văn hóa
Chính sách về văn hóa thể hiện sự quan tâm của Nhà nước đối với sự nghiệp phát
triển văn hóa. Chính sách về văn hóa có ý nghĩa rất to lớn, giúp định hướng, hỗ trợ,
khuyến khích phát triển văn hóa trong nền kinh tế thị trường. Chính sách về văn hóa là
sự thể chế hóa các quan điểm, đường lối phát triển văn hóa, nhằm tác động lên các
nhóm cộng đồng chính trị và cộng đồng dân cư để giải quyết các vấn đề phát sinh
trong quá trình phát triển văn hóa. Các chính sách văn hóa đòi hỏi phải đáp ứng được
mối quan tâm của cả các nhóm cộng đồng dân cư, phân định rõ các mục tiêu và điều

chỉnh các hướng ưu tiên. Chính sách văn hóa cần tới sự tăng cường hợp tác với các cơ
quan công quyền ở mọi cấp, đặc biệt là với các cơ quan địa phương. Các tổ chức tư
nhân và xã hội để vạch kế hoạch hành động thực hiện các chương trình, dự án văn hóa,
tạo điều kiện để đáp ứng nhu cầu văn hóa của đông đảo quần chúng nhân dân Mục tiêu


của chính sách văn hóa nhằm thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng về phát triển
văn hóa, phát triển nền văn hóa dân tộc, hiện đại, đậm đà bản sắc dân tộc Tiếp tục đổi
mới cơ chế và nâng cao hiệu quả quản lý, đẩy mạnh xã hội hóa các lĩnh vực văn hóa,
thông tin, hình thành thị trường văn hóa lành mạnh.
Một số nội dung chủ yếu trong Chiến lược phát triển văn hóa đến năm 2020:
- Xây dựng con người toàn diện, có đủ phẩm chất về tư tưởng, đạo đức, lối sống
và nhân cách văn hóa đáp ứng yêu cầu thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
và hội nhập quốc tế.
- Xây dựng đời sống văn hóa và môi trường văn hóa: là một nhiệm vụ quan
trọng, có quan hệ khăng khít với việc xây dựng con người phát triển toàn diện.
- Bảo tồn và phát huy di sản văn hóa dân tộc. Bảo tồn và phát huy văn hóa các
dân tộc thiểu số: - Phát triển sự nghiệp văn học, nghệ thuật :
- Phát huy những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của tôn giáo, tín ngưỡng. Các
tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật.
- Tăng cường công tác thông tin đại chúng. Tăng cường và nâng cao chất lượng
hoạt động của các hoạt động thông tin đối ngoại.
3.3.3. Đầu tư tài chính cho văn hóa
Đầu tư tài chính cho văn hóa có một số nội dung sau: - Ở tất cả các nước, bất
luận là nước giàu hay nước nghèo, có chế độ xã hội khác nhau, nhà nước đều coi việc
đầu tư cho văn hóa là đầu tư cho sự phát triển, đầu tư cho con người. Tăng đầu tư cho
phát triển văn hóa đang là xu hướng chung của nhiều nước trên thế giới hiện nay.
Cơ cấu ngân sách Nhà nước đầu tư cho phát triển văn hóa bao gồm:
+ Ngân sách nhà nước cho phát triển giáo dục.
+ Ngân sách nhà nước cho phát triển khoa học, công nghệ.

+ Ngân sách nhà nước cho phát triển văn hóa, nghệ thuật.
+ Ngân sách nhà nước cho phát triển phát thanh, truyền hình, báo chí...
+ Ngân sách nhà nước cho các hoạt động thể dục - thể thao...
- Xác định các mô hình hoạt động thuộc sự quản lý của ngành văn hóa là một căn
cứ để đầu tư ngân sách nhà nước cho văn hóa. Cần xác định những thể loại hoạt động
văn hóa nào có thể hoạt động trên cơ sở thương mại, loại nào không tự thích ứng được
hoặc chỉ thích ứng một phần. Mức độ không thích ứng này chính là một trong những
căn cứ để Nhà nước đầu tư, hỗ trợ tài chính. Các hoạt động văn hóa sẽ được phân định
theo các mức độ thích ứng với cơ chế thị trường.
Có thể chia các hoạt động văn hóa thành 3 nhóm sau: sự nghiệp, sự nghiệp có thu
và kinh doanh. Tương ứng với 3 nhóm này Nhà nước có cơ chế đầu tư tài chính thích
hợp. Nguồn đầu tư cho phát triển văn hóa. Nguồn đầu tư cho phát triển văn hóa được
triển khai theo các hướng sau: nguồn đầu tư từ phía Nhà nước, từ các tổ chức kinh tế -


xã hội và tư nhân. Quan điểm bao cấp toàn bộ cho các hoạt động văn hóa cũng như
quan điểm “thả nổi” văn hóa cho thị trường đều là các quan điểm sai lầm, có hại cho
sự nghiệp phát triển văn hóa.
3.3.4. Kiểm tra, giám sát các hoạt động văn hóa
Tăng cường kiểm tra, giám sát của Nhà nước đối với các hoạt động văn hóa là
nhiệm vụ quan trọng của quản lý nhà nước, đặc biệt là hoạt động của các cơ quan kiểm
tra, thanh tra. Văn hóa có vai trò rất quan trọng trong việc định hướng phát triển của
mỗi dân tộc, hình thành và phát triển nhân cách của mỗi cá nhân nên Nhà nước không
thể buông lỏng việc kiểm tra, giám sát các hoạt động văn hóa.
Tình trạng văn hóa phẩm độc hại lan tràn, tệ nạn xã hội phát triển mạnh trong
những năm qua lại càng nhấn mạnh sự cần thiết phải tăng cường sự kiểm tra, giám sát
của các cơ quan nhà nước đối với các hoạt động văn hóa. Phương châm chỉ đạo đối
với việc đổi mới cơ chế kiểm tra, giám sát các hoạt động văn hóa là phòng ngừa, ngăn
chặn hơn là việc để sự việc xảy ra rồi mới xử lý. Đổi mới cơ chế kiểm tra, giám sát các
hoạt động văn hóa cần triển khai theo ba hướng:

- Hoàn thiện và bổ sung các văn bản pháp quy làm cơ sơ pháp lý cho các chủ thể
sản xuất, kinh doanh, cung ứng dịch vụ văn hóa tự điều chỉnh hành vi cũng như điều
chỉnh hành vi từ phía các cơ quan quản lý nhà nước.
- Kiện toàn đội ngũ cán bộ thanh tra, giám sát về văn hóa từ Trung ương đến cơ
sở. Việc củng cố và kiện toàn này bao gồm cả ba khía cạnh: số lượng, chất lượng và
trang bị kỹ thuật cho công tác kiểm tra, giám sát. Hiện nay đội ngũ này còn thiếu nhiều
về số lượng, yếu về trình độ và trang bị kỹ thuật lạc hậu.
- Tổ chức và sắp xếp lại các cơ quan quản lý nhà nước về văn hóa cũng như các
đơn vị sản xuất và cung ứng dịch vụ văn hóa, đặc biệt đối với các đơn vị giữ vai trò
chủ đạo do Nhà nước quản lý.
CHƯƠNG 2
HOẠT ĐỘNG QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH NHÀ VỀ VĂN HÓA TẠI UBND
PHƯỜNG ĐÔNG TRIỀU, THỊ XÃ ĐÔNG TRIỀU, TỈNH QUẢNG NINH

1. Khái quát chung về UBND phường Đông Triều
1.1. Giới thiệu chung về phường Đông Triều
- Đông Triều là một phường của thị xã Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh


Phường Đông Triều nằm ở gần tây nam thị xã Đông Triều, cách thành phố Hạ
Long 61 km về phía Đông, nằm trên trục đường 18.
Trên phường không có sông, hồ. Phần lớn diện tích khá bằng phẳng, ở phía Nam
là vùng đồi thoải
Phường Đông Triều có diện tích 1.04 km², dân số năm 1999 là 4847 người, mật
độ dân số đạt 4661 người/km². Phường Đông Triều là một trong những trung tâm
chính trị, văn hóa, giao thương của thị xã Đông Triều.4

4Đông

Triều,

/>%C6%B0%E1%BB%9Dng), ngày 15/7/2019.



×