Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

skkn vận dụng sơ đồ tư duy

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (684.64 KB, 25 trang )

Sáng kiến kinh nghiệm

Năm học 2013 – 2014

Phần thứ nhất
ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong thực tế việc đổi mới phương pháp dạy học hiện nay đang theo
hướng phát huy tính tích cực chủ động và sáng tạo của học sinh. Bên cạnh
đổi mới trong phương pháp dạy thì việc đổi mới phương pháp học của học
sinh cũng rất quan trọng, góp phần làm cho tiết học trên lớp đạt hiệu quả
hơn. Vì vậy việc hướng dẫn học sinh định hướng để xây dựng, củng cố và
khắc sâu kiến thức một cách hệ thống bằng sơ đồ được xem là một khâu
quan trọng trong việc đổi mới phương pháp dạy - học hiện nay.
Qua nghiên cứu lí luận và thực nghiệm dạy học cho thấy, sử dụng sơ
đồ tư duy trong dạy học kiến thức mới giúp học sinh học tập một cách chủ
động, tích cực và huy động được tất cả học sinh tham gia xây dựng bài một
cách hào hứng, tạo một không khí sôi nổi của cả thầy và trò trong giờ học,
đây cũng là một trong những nội dung quan trọng của phong trào thi đua
“Trường học thân thiện, học sinh tích cực. Sức sống mới – Diện mạo mới
của nhà trường” mà Bộ Giáo dục và Đào tạo đang đẩy mạnh triển khai.
Đối với bộ môn Công nghệ thì Phòng giáo dục và Đào tạo đã triển
khai việc vận dụng sơ đồ tư duy (SĐTD) từ những năm trước nhưng nhiều
giáo viên chưa áp dụng, nếu có chỉ dạy một hoặc hai tiết mà hiệu quả không
cao, không sử dụng được phần mềm vẽ sơ đồ. Học sinh ở vùng nông thôn
không thành thạo sử dụng SĐTD, không tập trung và đầu tư cho SĐTD của
mình. Tuy nhiên, việc vận dụng SĐTD trong dạy - học mà tôi áp dụng đã
dần hình thành cho học sinh tư duy mạch lạc, hiểu biết vấn đề một cách sâu
sắc, có cách nhìn vấn đề một cách hệ thống, khoa học. Sử dụng SĐTD kết
hợp với các phương pháp dạy học tích cực khác như vấn đáp gợi mở, thuyết
trình… có tính khả thi cao góp phần đổi mới phương pháp dạy học. Với
những ưu việt đó tôi đã chọn phương pháp SĐTD trong dạy học môn Công


Lê Thị Huyền Trang - Trường THCS Hàm Phú

Trang 1


Sáng kiến kinh nghiệm

Năm học 2013 – 2014

nghệ bậc Trung học cơ sở đồng thời nghiên cứu các phần mềm chuyên dùng
nhằm mục đích hệ thống hóa kiến thức theo chuẩn kiến thức, kĩ năng.
Trong phạm vi bài viết này, tôi xin trình bày nội dung "Vận dụng sơ
đồ tư duy trong dạy học môn Công nghệ lớp 6" tại trường trung học cơ
sở Hàm Phú.

Lê Thị Huyền Trang - Trường THCS Hàm Phú

Trang 2


Sáng kiến kinh nghiệm

Năm học 2013 – 2014

Phần thứ hai
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
2.1. Cơ sở lý luận của vấn đề
Lý luận dạy học đã chỉ ra rằng, học sinh vừa là đối tượng, vừa là chủ
thể của quá trình dạy học. Việc tạo ra mô hình dạy học vận dụng SĐTD
trong đó học sinh có điều kiện trao đổi với thầy với bạn, sẽ phát huy tốt tính

tích cực, chủ động của các em, giúp các em vươn lên chiếm lĩnh tri thức.
Thay đổi mô hình dạy học theo SĐTD là một yêu cầu không thể thiếu được,
vừa phát huy tốt ưu thế của bộ môn, vừa tạo được sự hấp dẫn, hứng thú đối
với học sinh.
SĐTD là hình thức ghi chép sử dụng màu sắc, hình ảnh để mở rộng
và đào sâu các ý tưởng. Một công cụ tổ chức tư duy nền tảng, có thể miêu
tả là một kĩ thuật hình họa với sự kết hợp giữa từ ngữ, hình ảnh, đường
nét, màu sắc phù hợp với cấu trúc, hoạt động và chức năng của bộ não,
giúp con người khai thác tiềm năng vô tận của bộ não; giúp học sinh có
được phương pháp học hiệu quả hơn: Việc rèn luyện phương pháp học tập
cho học sinh không chỉ là một biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học mà
còn là mục tiêu dạy học.
Với sản phẩm độc đáo “kiến thức + hội họa” là niềm vui sáng tạo
hàng ngày của học sinh và cũng là niềm vui của chính thầy cô giáo, phụ
huynh học sinh khi chứng kiến thành quả lao động của con em mình. Cách
học này còn phát triển được năng lực riêng của từng học sinh không chỉ về
trí tuệ (vẽ, viết gì trên bản đồ tư duy), hệ thống hóa kiến thức (huy động
những điều đã học trước đó để chọn lọc các ý để ghi), khả năng hội họa
(hình thức trình bày, kết hợp hình vẽ, chữ viết, màu sắc), sự vận dụng kiến
thức được học qua sách vở vào cuộc sống. Với lượng kiến thức phong phú
như môn Công nghệ, để học sinh có thể nắm vững và đầy đủ kiến thức thì
rất khó, nên việc hướng dẫn học sinh có thể hệ thống kiến thức bằng sơ đồ,
Lê Thị Huyền Trang - Trường THCS Hàm Phú

Trang 3


Sáng kiến kinh nghiệm

Năm học 2013 – 2014


qua đó học sinh sẽ nhìn được tổng thể kiến thức một cách ngắn gọn nhưng
đầy đủ, rút ngắn được thời gian ôn tập củng cố và ghi nhớ bài nhanh hơn.
Khả năng vận dụng tri thức đã học vào cuộc sống là cái đích của việc
dạy học bộ môn. Khả năng đó có được từ nghệ thuật truyền dạy và tổ chức
rèn luyện của giáo viên cho các em. Học Công nghệ mà không liên hệ được
thực tế, không làm bài tập thực hành, sẽ không thể nào có được năng lực
vận dụng và như vậy sự học trở nên vô bổ. Cuộc sống đang đặt ra vô vàn
những vấn đề phức tạp, hiểu sâu sắc Công nghệ để lý giải những vấn đề của
cuộc sống hiện tại là vô cùng cần thiết, nó tỏ rõ ưu thế của bộ môn. Không
làm tốt điều này xem như giáo viên Công nghệ chưa hoàn thành nhiệm vụ.
2.2. Thực trạng của vấn đề
Trong những năm qua, ngành giáo dục đã mở các lớp tập huấn, bồi
dưỡng chuyên môn nghiệp vụ về đổi mới phương pháp dạy học cho đội ngũ
giáo viên trong đó có việc sử dụng SĐTD. Có thể khẳng định rằng sử dụng
SĐTD là một trong những phương pháp dạy học rất quan trọng, vừa rất
mới, rất hiện đại, lại mang tính khả thi, đang được nhiều giáo viên áp dụng.
Do Công nghệ là môn học đòi hỏi nhiều tư duy để suy luận và vận
dụng thực tiễn, kiến thức môn học đa dạng phong phú, lượng kiến thức dài,
đa phần là mới và khó nên trong quá trình dạy và học sẽ thường gặp một số
khó khăn: Học sinh tập trung ghi bài mà không tham gia thảo luận nhóm,
hoặc chỉ tập trung thảo luận nhóm, trao đổi và quan sát hình ảnh mà không
ghi bài từ đó không nắm được ý chính của bài. Mặt khác, hạn chế của học
sinh là chưa biết cách học, cách ghi kiến thức vào bộ não mà chỉ học thuộc
lòng, học vẹt, thuộc một cách máy móc, thuộc nhưng không nhớ được kiến
thức trọng tâm, không nắm được “sự kiện nổi bật” trong bài học, trong tài
liệu tham khảo, hoặc không biết liên tưởng, liên kết các kiến thức có liên
quan với nhau.

Lê Thị Huyền Trang - Trường THCS Hàm Phú


Trang 4


Sáng kiến kinh nghiệm

Năm học 2013 – 2014

Thực tế cho thấy một số học sinh mặc dù học rất chăm chỉ nhưng
điểm kiểm tra vẫn thấp vì các em không biết cách vận dụng SĐTD trong
học tập, học bài nào biết bài đấy, học phần sau đã quên phần trước, không
biết liên kết các kiến thức với nhau, thậm chí khi đọc sách hoặc nghe
giảng trên lớp các em không biết cách tự ghi chép để lưu thông tin, lưu
kiến thức trọng tâm vào trí nhớ của mình bằng sơ đồ, có em không định
hướng được cách vẽ.
Học sinh thường học qua loa không chuyên sâu nên sự rèn luyện khả
năng của các em ngày càng mai một. Bên cạnh đó còn có quan điểm chưa
đúng đắn, thiếu quan tâm của phụ huynh coi môn Công nghệ là môn phụ
học cũng được, không học cũng được nên việc chuẩn bị đồ dùng học cho
con còn coi nhẹ; đó là một trong những nguyên nhân ảnh hưởng đến sự phát
triển toàn diện của học sinh. Mà nguyên nhân chủ yếu lại nằm ngay trong ý
nghĩ, quan niệm sai lệch chủ quan của con người.
Không chỉ vậy, việc vận dụng SĐTD trong quá trình dạy học là vấn
đề còn khó khăn đối với nhiều giáo viên, trong đó có giáo viên dạy môn
Công nghệ. Mặc dù đã được Phòng giáo dục và Đào tạo tổ chức thao giảng
môn Công nghệ cấp huyện nhưng thời gian triển khai không nhiều, có
không ít giáo viên áp dụng chiếu lệ có khi không sử dụng SĐTD trong
giảng dạy, có giáo viên ngại sử dụng SĐTD vì sợ “cháy” giáo án. Thậm chí
có nhiều giáo viên rất mơ hồ, còn băn khoăn không biết sử dụng SĐTD vào
khâu nào trong quá trình dạy học? Phương pháp thiết kế SĐTD, hướng dẫn

cách thức sử dụng cho học sinh ra sao?... Nhất là đối với những giáo viên
cao tuổi và những giáo viên chưa quen với việc ứng dụng Công nghệ thông
tin, trình độ Tin học còn hạn chế thì đa phần không biết sử dụng phần mềm
vẽ SĐTD và kết hợp SĐTD với công cụ dạy học khác.
Từ những tồn tại nêu trên, nhằm giúp cho giáo viên thành thạo trong
sử dụng SĐTD vào giảng dạy và đồng thời tạo sự hứng thú học tập và phát
Lê Thị Huyền Trang - Trường THCS Hàm Phú

Trang 5


Sáng kiến kinh nghiệm

Năm học 2013 – 2014

huy được tính sáng tạo tích cực của học sinh nên sau thời gian tích lũy được
một số kinh nghiệm, tôi đã tiến hành nghiên cứu và đề ra các giải pháp để
vận dụng SĐTD trong dạy học môn Công nghệ một cách thiết thực, chặt
chẽ và logic nhằm mang lại hiệu quả cao trong giảng dạy.
2.3. Các biện pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề
2.3.1. Cách thức sử dụng SĐTD vào dạy học Công Nghệ
Cho học sinh làm quen với sơ đồ tư duy bằng cách giới thiệu cho học
sinh một số SĐTD cùng với dẫn dắt của giáo viên để các em định hướng
nhanh hơn từ đó các em chủ động tiếp thu kiến thức.
Hướng cho học sinh có thói quen tư duy lôgic theo hình thức sơ đồ
hoá trên SĐTD.
Từ một vấn đề hay chủ đề chính đưa ra các ý lớn thứ nhất, ý lớn thứ
hai, thứ ba... mỗi ý lớn lại có các ý nhỏ liên quan với nó, mỗi ý nhỏ lại có
các ý nhỏ hơn... các nhánh này như “bố mẹ” rồi “con, cháu, chắt, chút,
chít”... các đường nhánh có thể là đường thẳng hay đường cong.

Cho học sinh thực hành vẽ SĐTD trên giấy: Chọn từ khóa - tên chủ
đề hoặc hình vẽ của chủ đề chính cho vào vị trí trung tâm, chẳng hạn: Sử
dụng trang phục, cây cảnh, ôn tập chương I, các phương pháp chế biến thực
phẩm, quy trình tổ chức bữa ăn... để học sinh có thể tự mình ghi tiếp kiến
thức vào tiếp các nhánh “con”, “cháu”, “chắt”... theo cách hiểu của các em.
Để thiết kế một SĐTD đối với một bài học chuẩn bị cho công tác
giảng dạy, đảm bảo nội dung kiến thức, hệ thống kiến thức một cách đầy đủ
và logic thì xác định mục tiêu của bài, nêu nội dung chính của bài đảm bảo
theo chuẩn kiến thức kĩ năng. Tiếp đó hướng học sinh lưu ý trọng tâm, định
hướng nội dung bài học cần nắm để tự hệ thống lại bằng sơ đồ. Dùng phần
mềm Mindmap để biên soạn thành một giáo án hoàn chỉnh với kiến thức
được xây dựng thành một sơ đồ, qua đó còn có thể kết hợp để trình chiếu
Lê Thị Huyền Trang - Trường THCS Hàm Phú

Trang 6


Sáng kiến kinh nghiệm

Năm học 2013 – 2014

những nội dung cần lưu ý hay những đoạn phim có liên quan được liên kết
với sơ đồ. Qua đó giúp học sinh hệ thống được kiến thức vừa học, khắc sâu
được kiến thức trọng tâm.
Đối với học sinh: Vẽ SĐTD theo nhóm hoặc từng cá nhân. Trước hết
giới thiệu một số sơ đồ tư duy cho các em làm quen, sau đó hướng các em
từ từ xây dựng các sơ đồ riêng cho mình. Bước đầu, chỉ yêu cầu học sinh
xác định được vấn đề trọng tâm, sau đó hệ thống các kiến thức liên quan
thành sơ đồ phân nhánh, rồi từ đó học sinh sẽ thiết kế thành những sơ đồ
theo tư duy của mỗi cá nhân. Có thể áp dụng dùng sơ đồ trước hay sau khi

học một bài học. Với bài học mới, cho học sinh xây dựng sơ đồ theo nhóm,
rồi dựa vào sơ đồ các em thảo luận, tiếp đến đại diện nhóm trình bày kiến
thức theo hình thức thuyết trình dựa trên sơ đồ đã xây dựng, sau bài học yêu
cầu học sinh tự hệ thống lại kiến thức bằng sơ đồ theo cách riêng của mình.
Việc phối hợp linh động nhiều phương pháp trong quá trình giảng dạy, kết
hợp với việc thiết lập SĐTD để hệ thống kiến thức đã giúp cho học sinh
nắm được bài nhanh hơn và nhớ lâu hơn.
2.3.2. Các biện pháp tiến hành
Để việc sử dụng SĐTD vào dạy học Công Nghệ có hiệu quả, tôi đã
thực hiện 5 biện pháp sau đây:
2.3.2.1. Sử dụng sơ đồ tư duy trong các hình thức kiểm tra đánh
giá
Trước nhu cầu bức thiết phải đổi mới phương pháp dạy học như hiện
nay, việc kiểm tra đánh giá phải chuyển biến mạnh theo hướng phát triển
hướng tích cực, trí thông minh sáng tạo của học sinh; khuyến khích học sinh
vận dụng kiến thức, kĩ năng đã học vào bài kiểm tra.
Vận dụng SĐTD trong các hình thức kiểm tra nhằm đánh giá được
tinh thần, thái độ, sự tiếp thu kiến thức của từng học sinh. Tuy nhiên, đây là
Lê Thị Huyền Trang - Trường THCS Hàm Phú

Trang 7


Sáng kiến kinh nghiệm

Năm học 2013 – 2014

việc làm đơn giản nhưng lại còn rất xa lạ, mới mẻ đối với rất nhiều giáo
viên.
Có hai hình thức sử dụng SĐTD trong kiểm tra:

Một là, sử dụng SĐTD trong kiểm tra bài cũ
Trước tiên, đưa ra một từ khóa (hay một hình ảnh trung tâm) thể hiện
chủ đề của kiến thức cũ mà các em đã học, cần kiểm tra, yêu cầu các em vẽ
SĐTD thông qua câu hỏi gợi ý. Trên cơ sở từ khóa ấy (hoặc hình ảnh trung
tâm) kết hợp với câu hỏi định hướng của giáo viên, học sinh sẽ nhớ lại kiến
thức và định hình được cách vẽ SĐTD theo yêu cầu. Khi học sinh vẽ xong
thì cho cả lớp quan sát, gọi một vài em nhận xét, góp ý sơ đồ rồi nhận xét
và ghi điểm cho học sinh.
* Ví dụ 1: Sau khi các em học xong Tiết 7 - Bài 4: Sử dụng và bảo
quản trang phục.
Trước khi vào bài mới thì kiểm tra bài cũ bằng cách cho các em
lập SĐTD để củng cố, hệ thống kiến thức đã ở tiết học trước thông qua
câu hỏi sau: Chúng ta đã học và biết sử dụng trang phục, em hãy lập
SĐTD để hệ thống kiến thức về sử dụng trang phục? Sau đó, ghi từ khóa
lên giữa bảng phụ “Sử dụng trang phục”, rồi gọi một học sinh xung
phong lên bảng vẽ, những học sinh còn lại vẽ vào giấy nháp. Học sinh
dễ dàng vẽ được SĐTD theo nội dung yêu cầu.
Dưới đây là SĐTD về sử dụng trang phục có tính chất minh họa, các
em vẽ SĐTD đảm bảo các nội dung tương tự như sau là tốt:

Lê Thị Huyền Trang - Trường THCS Hàm Phú

Trang 8


Sáng kiến kinh nghiệm

Năm học 2013 – 2014

* Ví dụ 2: Sau khi các em học xong hai tiết Bài 12: Trang trí nhà

ở bằng cây cảnh và hoa.
Kiểm tra bài cũ bằng câu hỏi: Các em đã học qua các loại cây
cảnh và hoa nào? Em hãy lập SĐTD để hệ thống nội dung kiến thức về
cây cảnh và hoa?
Sau đó, giáo viên ghi cụm từ khóa lên giữa bảng phụ “Một số loại cây
cảnh và hoa dùng trong trang trí nhà ở”, rồi gọi một học sinh lên bảng vẽ.
Học sinh sẽ dễ dàng vẽ được SĐTD theo nội dung yêu cầu.

Lê Thị Huyền Trang - Trường THCS Hàm Phú

Trang 9


Sáng kiến kinh nghiệm

Năm học 2013 – 2014

Dưới đây là SĐTD về một số loại cây cảnh và hoa dùng trong trang
trí nhà ở minh họa:

* Lưu ý:
Trước khi vẽ SĐTD để kiểm tra thì yêu cầu học sinh gấp sách, vở.
Cho cả lớp cùng lập SĐTD trên giấy theo cách hoạt động cá nhân
trong một thời gian nhất định để lôi cuốn tất cả học sinh vào việc ôn kiến
thức đồng thời rèn luyện kĩ năng tạo lập SĐTD và thói quen tư duy cho các
em. Hết thời gian quy định thì chọn sơ đồ của một vài em (có thể là những
học sinh vẽ xong trước, hay những học sinh cần lấy điểm...), chấm, nhận xét
và ghi điểm cho các em; biểu dương, khen ngợi những em vẽ tốt để khích lệ
các em nhằm tạo không khí học tập sôi nổi.
Trong quá trình đánh giá, chỉ cần dựa vào SĐTD chấm và ghi điểm

cho học sinh mà không cần phải yêu cầu gì thêm ở các em, vì ta đã chọn

Lê Thị Huyền Trang - Trường THCS Hàm Phú

Trang 10


Sáng kiến kinh nghiệm

Năm học 2013 – 2014

dạng đề khá đơn giản, nên những gì cần trả lời, các em đã thể hiện trong
SĐTD, hơn nữa thời gian kiểm tra bài cũ có hạn.
Hai là, sử dụng SĐTD trong kiểm tra 15 phút, 45 phút (1 tiết)
Dùng SĐTD trong các hình thức kiểm tra trên giấy (15 phút, 1 tiết)
một cách dễ dàng để tăng cường việc rèn luyện thói quen tư duy lô-gic, tư
duy hệ thống cho học sinh thông qua các bài kiểm tra viết, nhằm phát triển
năng lực tư duy sáng tạo cho các em. Tuy nhiên, lưu ý rằng kiểm tra kiến
thức cũ bằng phương pháp vẽ SĐTD chỉ là một hình thức kiểm tra giúp học
sinh củng cố, hệ thống kiến thức có tính chất lý thuyết. Do đó, chọn kiểm tra
những kiến thức có tính hệ thống, xâu chuỗi, các em có thể dễ dàng hệ thống
hóa bằng SĐTD. Mặt khác, về yêu cầu của đề kiểm tra thì đưa ra từ hay cụm
từ khóa ngắn gọn, rõ ràng, cụ thể, khái quát được chủ đề của phần kiến thức
kiểm tra trong câu hỏi để định hướng, giúp học sinh nắm bắt chính xác yêu
cầu đề và vẽ đúng SĐTD theo yêu cầu. Sau đây là một số ví dụ và đáp án
minh họa các dạng đề kiểm tra viết yêu cầu học sinh lập SĐTD:
* Ví dụ 1: Cho từ khóa “Tranh ảnh”. Em hãy vẽ SĐTD giới thiệu
công dụng, cách chọn tranh ảnh?

Lê Thị Huyền Trang - Trường THCS Hàm Phú


Trang 11


Sáng kiến kinh nghiệm

Năm học 2013 – 2014

* Ví dụ 2: Em hãy vẽ SĐTD giới thiệu các khu vực chính của nhà
ở?

Lê Thị Huyền Trang - Trường THCS Hàm Phú

Trang 12


Sáng kiến kinh nghiệm

Năm học 2013 – 2014

* Ví dụ 3: Em hãy lập SĐTD trình bày những hiểu biết của em về
khái niệm, sự cần thiết và các công việc cần làm để giữ gìn nhà ở sạch
sẽ, ngăn nắp?

* Lưu ý:
Sử dụng các câu hỏi yêu cầu học sinh lập SĐTD ở khâu kiểm tra bài
cũ và kiểm tra viết (15 phút, 1 tiết) hoán đổi cho nhau đều được.
Đối với kiểm tra miệng lấy thang điểm là 10; 15 phút thì lấy thang
điểm 5; còn đối với kiểm tra 1 tiết thì tùy theo mức độ của từng câu hỏi cho
từ 1 đến 2 điểm (xem câu hỏi yêu cầu lập SĐTD là một phần trong đề kiểm

tra).
2.3.2.2. Sử dụng SĐTD trong dạy học bài mới và ghi bảng
Có thể nói việc sử dụng SĐTD là một công cụ hỗ trợ đắc lực cho
việc dạy học bài mới. Tuy nhiên, việc sử dụng vừa để tổ chức, dẫn dắt cho
học sinh tự tìm hiểu, khám phá, chiếm lĩnh kiến thức bài học lại vừa thay
thế cho việc ghi bảng cô đọng kiến thức tiết dạy, bài dạy của giáo viên thì
quả là việc làm còn hết sức mới mẻ. Vì hầu hết đều có chung quan niệm
Lê Thị Huyền Trang - Trường THCS Hàm Phú

Trang 13


Sáng kiến kinh nghiệm

Năm học 2013 – 2014

xem SĐTD là công cụ, phương tiện, là một thứ “bảng phụ” hỗ trợ, minh họa
cho tiết dạy mà thôi.
Thực ra chúng ta vẫn thực hiện kết hợp SĐTD một cách khoa học
trong quá trình dạy học bài mới. Qua một quá trình thử nghiệm trong một số
tiết dạy, tôi nhận thấy rõ ràng cách làm này hoàn toàn thực hiện được.
Không những thế, việc kết hợp SĐTD trong việc tổ chức dạy học bài mới
với việc sử dụng nó để cô đọng kiến thức thay cho việc ghi bảng lại tiết
kiệm được rất nhiều thời gian trên lớp, vừa có tác dụng hình thành cho học
sinh có thói quen ghi chép bằng SĐTD. Đây cũng là việc làm rất cần thiết
góp phần rèn luyện kĩ năng vẽ SĐTD cho các em, nhất là những bài học
nhằm giới thiệu, cung cấp kiến thức.
* Ví dụ 1: Tiết 28 - Bài 13: Cắm hoa trang trí.
Sau khi giới thiệu bài mới xong thì ghi cụm từ khóa “Cắm hoa trang
trí” lên trung tâm bảng đen. Sau đó, đưa ra hệ thống câu hỏi dẫn dắt học

sinh tìm hiểu bài học.
Đầu tiên, cho các em tìm hiểu về dụng cụ cắm hoa bằng cách vẽ
nhánh chính thứ nhất đặt tiêu đề nhánh “I. DỤNG CỤ VÀ VẬT LIỆU”. Rồi
đưa ra các câu hỏi gợi ý tìm hiểu về: Dụng cụ cắm hoa (bình cắm và các
dụng cụ khác), vật liệu cắm hoa (các loại hoa, cành, lá). Tìm hiểu đến đâu,
tôi phát triển nhánh, cô đọng kiến thức đến đó. Sau khi dẫn dắt các em tìm
hiểu xong phần dụng cụ và vật liệu, tiếp tục vẽ nhánh thứ hai, đặt tiêu đề
“II. NGUYÊN TẮC CƠ BẢN” và đưa ra các câu hỏi gợi ý các em tìm hiểu
nguyên tắc cơ bản cắm hoa.
Kết thúc tiết học, ta có SĐTD một cách cô đọng, khái quát, lô-gic
những kiến thức cơ bản về “Cắm hoa trang trí” trên bảng đen như sau:

Lê Thị Huyền Trang - Trường THCS Hàm Phú

Trang 14


Sáng kiến kinh nghiệm

Năm học 2013 – 2014

* Ví dụ 2: Tiết 57 - Bài 21: Tổ chức bữa ăn hợp lí trong gia đình.
Sau khi giới thiệu bài mới, ghi cụm từ trung tâm “Tổ chức bữa ăn
hợp lí trong gia đình”. Yêu cầu học sinh nhắc lại hai nội dung chính đã tìm
hiểu ở tiết trước rồi ghi bảng: Nhánh 1- I. THẾ NÀO LÀ BỮA ĂN HỢP LÍ?
Nhánh 2- II. PHÂN CHIA SỐ BỮA ĂN TRONG NGÀY. Nhánh 3- III.
NGUYÊN TẮC TỔ CHỨC BỮA ĂN HỢP LÍ TRONG GIA ĐÌNH.
Sau đó, dẫn dắt học sinh lần lượt đi vào tìm hiểu các nội dung về
nguyên tắc tổ chức bữa ăn hợp lí trong gia đình theo trình tự sách giáo
khoa với SĐTD như sau:


Lê Thị Huyền Trang - Trường THCS Hàm Phú

Trang 15


Sáng kiến kinh nghiệm

Năm học 2013 – 2014

Như vậy, vận dụng SĐTD vào dạy học bài mới với mục đích dùng
chính nó để cô đọng kiến thức của bài học cho học sinh ghi; giúp học sinh
từng bước phát hiện, tiếp cận và chiếm lĩnh toàn bộ kiến thức bài học một
cách khoa học, có hệ thống, lô-gic. Bắt đầu bài học bằng từ, cụm từ trung
tâm thể hiện trọng tâm kiến thức, thông qua sự định hướng dẫn dắt của giáo
viên, các em tự khám phá, tìm hiểu các đơn vị kiến thức của bài học (các ý
lớn, nhỏ) một cách liền mạch, có hệ thống, đến khi tiết học kết thúc cũng là
lúc toàn bộ kiến thức của bài học được cô đọng và trình bày một cách sinh
động, khoa học và sáng tạo trên bảng đen (hoặc trên màn hình). SĐTD ấy
không chỉ cung cấp cho các em “bức tranh tổng thể” về kiến thức của bài
học mà còn giúp cho các em dễ dàng nhận ra mạch lô-gic kiến thức của bài
học. Do đó, dùng SĐTD như phần nội dung ghi bảng của giáo viên để học
sinh ghi chép là rất khoa học.
Tuy nhiên, chỉ sử dụng ở những tiết dạy, bài dạy phù hợp chứ không
nên lạm dụng SĐTD để khỏi phải ghi bảng ở tất cả các tiết dạy. Mặt khác,
Lê Thị Huyền Trang - Trường THCS Hàm Phú

Trang 16



Sáng kiến kinh nghiệm

Năm học 2013 – 2014

việc vận dụng kết hợp này càng thuận lợi hơn khi sử dụng phần mềm Mind
Map và các công cụ dạy học khác, nên đánh số thứ tự vào các nội dung, các
ý chính trong mỗi đơn vị kiến thức của bài học để học sinh thuận tiện trong
việc theo dõi, ghi chép vào vở. Sau mỗi tiết học dành ít phút cuối tiết, cho
học sinh quan sát SĐTD và thuyết trình - “đọc hiểu” lại toàn bộ nội dung
kiến thức của bài học.
2.3.2.3. Sử dụng SĐTD trong việc giới thiệu bài mới; hệ thống,
củng cố kiến thức sau mỗi bài học, mỗi phần của bài học
Trước đây, tôi thường sử dụng sơ đồ để hệ thống kiến thức cho học sinh
nhưng học sinh vẫn là người tiếp thu một cách thụ động. Với việc giảng dạy
bằng SĐTD, nhất là khâu giới thiệu chương, bài mới hay củng cố kiến thức sẽ
huy động tối đa tiềm năng của bộ não, giúp học sinh học tập tích cực, hỗ trợ
hiệu quả các phương pháp dạy học. Kết thúc bài giảng, thay vì phải ghi chép
theo cách truyền thống, tôi tóm tắt bài học theo SĐTD với nhiều màu sắc và
hình ảnh khác nhau và yêu cầu học sinh về nhà tự vẽ theo cách hiểu của mình.
Đến tiết học sau, chỉ cần nhìn vào sơ đồ, các em nhớ được những phần trọng
tâm của bài học. Việc vận dụng SĐTD trong dạy học sẽ dần hình thành cho
học sinh tư duy mạch lạc, hiểu biết vấn đề một cách sâu sắc, có cách nhìn vấn
đề một cách hệ thống, khoa học.
Phần thứ nhất: Sử dụng sơ đồ tư duy trong giới thiệu bài mới.
Trước khi vào bài mới hoặc qua một chương mới thay vì đọc sơ
lược tất cả nội dung chính của chương hay bài mới thì giới thiệu cho học
sinh lượng kiến thức sẽ tìm hiểu bằng SĐTD.
* Ví dụ: Tiết 19 – Bài 8: Sắp xếp đồ đạc hợp lí trong gia đình
Đây là iết đầu tiên của chương nên khi dạy dành thời gian 3 phút
giới thiệu sơ lược toàn bộ chương II bằng SĐTD sau:


Lê Thị Huyền Trang - Trường THCS Hàm Phú

Trang 17


Sáng kiến kinh nghiệm

Năm học 2013 – 2014

Phần thứ hai: Hệ thống, cũng cố kiến thức sau mỗi bài học, mỗi
phần của bài học.
Sau khi dạy xong mỗi phần (một đơn vị kiến thức) của bài học, hay
mỗi bài học thì hướng dẫn, gợi ý để học sinh tự hệ thống kiến thức trọng
tâm, kiến thức cần nhớ của bài học bằng cách vẽ SĐTD. Sau mỗi bài học
học sinh tự hệ thống kiến thức trên một trang giấy rời (giấy A 4) rồi kẹp lại
thành tập, việc làm này sẽ giúp các em dễ ôn tập, xem lại kiến thức khi cần
một cách nhanh chóng, dễ dàng.
* Ví dụ: Khi dạy xong Tiết 58 – Bài 22: Quy trình tổ chức bữa ăn.
Học sinh đã biết khái niệm thực đơn và các nguyên tắc xây dựng
thực đơn nên yêu cầu các em lập SĐTD hệ thống lại các nguyên tắc xây
dựng thực đơn vừa học.

Lê Thị Huyền Trang - Trường THCS Hàm Phú

Trang 18


Sáng kiến kinh nghiệm


Năm học 2013 – 2014

Đây cũng là nội dung quan trong liên quan tới bài thực hành: Xây
dựng thực đơn ở tiết sau.

2.3.2.4. Sử dụng sơ đồ tư duy trong việc ôn tập kiến thức
Qua sơ đồ tư duy sẽ hệ thống lại những kiến thức cần nhớ, đặc biệt là
các từ khóa, để học sinh hiểu và nắm vững kiến đã được học. Có thể nói,
đây là một phương pháp giúp người học lưu kiến thức trong trí nhớ được
sâu và dài hơn so với các phương pháp khác.
* Ví dụ: Tiết 62: Ôn tập chương III. Mục I: Về kiến thức.
Cho học sinh lập SĐTD hệ thống kiến thức bài “Cơ sở ăn uống
hợp lý” như sau:

Lê Thị Huyền Trang - Trường THCS Hàm Phú

Trang 19


Sáng kiến kinh nghiệm

Năm học 2013 – 2014

Tóm lại với những ưu điểm của mình, SĐTD trở thành một công
cụ gợi mở, kích thích quá trình tìm tòi kiến thức của học sinh. Việc sử
dụng SĐTD trong quá trình dạy học giúp các em học tập một cách chủ
động, tích cực và huy động được tất cả học sinh tham gia xây dựng bài một
cách hào hứng. Cách học này còn phát triển được năng lực riêng của từng
em không chỉ về trí tuệ (vẽ, viết gì trên SĐTD), hệ thống hóa kiến thức (huy
động những điều đã học trước đó vào việc chọn lọc các ý để ghi), sự vận

dụng kiến thức được học qua sách vở vào cuộc sống, khả năng hội họa
(hình thức trình bày, kết hợp hình vẽ, chữ viết, màu sắc) rất sáng tạo (Phụ
lục 1).
SĐTD còn là một công cụ tư duy thực sự hiệu quả trong hoạt động
nhóm bởi nó tối đa hoá được nguồn lực của cá nhân và tập thể. Mỗi thành
viên đều rèn luyện được khả năng tư duy, kỹ năng thuyết trình và làm việc
khoa học. Vận dụng SĐTD giúp cho các thành viên hiểu được nội dung bài
học một cách rõ ràng và hệ thống. Việc ghi nhớ cũng như vận dụng cũng sẽ
Lê Thị Huyền Trang - Trường THCS Hàm Phú

Trang 20


Sáng kiến kinh nghiệm

Năm học 2013 – 2014

tốt hơn. Chỉ cần nhìn vào SĐTD, bất kỳ thành viên nào của nhóm cũng có
thể thuyết trình được nội dung bài học.
Việc vận dụng SĐTD trong dạy học dần hình thành cho học sinh tư
duy mạch lạc, hiểu biết vấn đề một cách sâu sắc, có cách nhìn vấn đề một
cách hệ thống, khoa học. Sử dụng SĐTD kết hợp với các phương pháp dạy
học tích cực khác như vấn đáp gợi mở, thuyết trình… có tính khả thi cao
góp phần đổi mới phương pháp dạy học, đặc biệt là đối với các lớp ở cấp
trung học cơ sở.
2.3.2.5. Sử dụng Sơ đồ tư duy kết hợp với công cụ dạy học khác
Trước tiên, biên soạn giáo án với đầy đủ nội dung, làm rõ trọng
tâm, đảm bảo chuẩn kiến thức - kĩ năng, định hướng được phương pháp
giảng dạy cũng như tiến trình lên lớp bằng cách sử dụng phần mềm Trí
Việt. Riêng nội dung ghi bảng thì soạn ở phần mềm Mindmap. Sau đó

kết hợp các hoạt động dạy học và nội dung ghi bảng thành giáo án hoàn
chỉnh (phụ lục 2).
Để hoạt động dạy – học diễn ra suôn sẻ và cải thiện được việc ghi
chép của học sinh thì các em thực hiện những yêu cầu sau:
Thứ nhất: Soạn bài trước khi đến lớp, xem trước bài học mới (có thể
tự vẽ SĐTD trước ở nhà).
Thứ hai: Đi học đầy đủ, nếu bạn bỏ một buổi học thì bạn phải mượn
vở của bạn cùng lớp để ghi lại.
Thứ ba: Để mỗi bài ghi chép SĐTD ở một trang giấy riêng và kẹp lại.
Thứ tư: Ngoài các loại bút thông thường, học sinh cần trang bị thêm
các loại bút dạ quang để làm nổi những thông tin quan trọng.
Thứ năm: Dùng các ký hiệu để ghi bài nhanh hơn.

Lê Thị Huyền Trang - Trường THCS Hàm Phú

Trang 21


Sáng kiến kinh nghiệm

Năm học 2013 – 2014

Thứ sáu: Chú ý lắng nghe những lời giảng và không cần ghi lại mọi
lời giảng của giáo viên mà hãy tư duy để ghi những điều quan trọng nhất.
Luôn động não chứ đừng chỉ ghi chép như một cái máy.
Thứ bảy: Nếu bỏ lỡ thông tin nào, hãy cách ra vài dòng để bổ sung
sau, bằng cách hỏi lại giáo viên hay các bạn khác.
Thứ tám: Dành khoảng thời gian để xem xét lại những ghi chép.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
Sau một thời gian nghiên cứu thực hiện đề tài này vào công tác giảng

dạy ở trường tôi, bước đầu đã đạt được những kết quả nhất định. Trước hết,
bản thân tôi đã nhận thức được vai trò tích cực của việc vận dụng SĐTD
trong quá trình dạy học. Tôi đã tìm hiểu, biết cách sử dụng SĐTD một cách
hiệu quả trong hầu hết các khâu của quá trình lên lớp, từ việc kiểm tra bài
cũ, dạy bài mới, củng cố kiến thức bài học, ôn tập, khái quát, hệ thống kiến
thức các chương, phần... Học sinh tiếp thu bài, nắm kiến thức chắc chắn hơn,
khoa học hơn, nhanh hơn. Đa số các em học sinh khá, giỏi đã biết sử dụng
SĐTD để ghi chép bài, tổng hợp kiến thức môn học. Những học sinh trung
bình đã biết dùng SĐTD để củng cố kiến thức bài học ở mức đơn giản. Điều
quan trọng hơn là các em học tập tích cực hơn, sôi nổi hơn. Học sinh không
còn tâm lý chán học, ngại học môn Công nghệ vì phải ghi chép nhiều và rất
hào hứng với việc học tập. Hoạt động này không chỉ tạo tác động trực quan
lôi cuốn các em, mà còn giúp các em ghi chép bài gọn gàng, khoa học hơn,
nhanh hơn và nhẹ nhàng hơn nhiều so với cách ghi chép trước đây. Không
những thế, biết tổ chức tốt cho học sinh sử dụng SĐTD trong dạy học nhóm
giúp các em phát huy được tính sáng tạo, tối đa hoá khả năng của mỗi em,
đồng thời kết hợp sức mạnh của các cá nhân thành sức mạnh tập thể để có
thể giải quyết được các vấn đề một cách hiệu quả; tạo cho mỗi thành viên cơ
hội được giao lưu học hỏi và phát triển chính mình một cách hoàn thiện hơn.

Lê Thị Huyền Trang - Trường THCS Hàm Phú

Trang 22


Sáng kiến kinh nghiệm

Năm học 2013 – 2014

Qua nhiều bài học có vận dụng SĐTD, tôi nhận thấy các em nhớ bài

nhanh hơn, từng bước xây dựng được kỹ năng diễn giải. Khi đã hoàn thành
sơ đồ tóm tắt, tôi thường dành vài phút để phân tích nhằm khắc sâu kiến
thức qua các từ khóa của sơ đồ, cũng như hướng dẫn các em kết nối các từ
khóa đó. Bởi, mục đích cuối cùng của tôi là giúp các em có thể liên kết các
bài có kiến thức liên quan được hệ thống thành một SĐTD duy hoàn hảo.
Kết quả và thành tích học tập cao hơn (phụ lục 3): Kiến thức của học
sinh giảm bớt tính chủ quan, phiến diện, làm tăng tính khách quan khoa
học; kiến thức trở nên sâu sắc, bền vững dễ nhớ và nhớ nhanh hơn do được
giao lưu học hỏi giữa các thành viên trong lớp; không khí lớp học vui tươi
giúp học sinh thoải mái, tự tin hơn trong việc trình bày ý kiến của mình và
biết lắng nghe có phê phán ý kiến của những thành viên khác.
Mặc dù trong quá trình vẽ SĐTD, khi sắp xếp nội dung, các em chưa
sắp xếp theo hệ thống kiến thức yêu cầu, cần có sự góp ý của bạn, nhưng tôi
nhận thấy các em rất hứng thú khi được học. Bên cạnh đó, tôi cũng phát
hiện ở các em có nhiều sáng tạo rất hay trong quá trình học tập.
Tuy vậy, trong quá trình thực hiện đề tài vẫn còn một số thiếu sót
không thể tránh khỏi và còn tồn tại những lỗi sau: Học sinh còn chú trọng
nhiều về hình thức trang trí, chưa biết cách phân loại và sử dụng màu sắc
cho từng nhánh, từng cấp độ, một số ít học sinh chưa xác định được vấn đề
trọng tâm và những vấn đề liên quan còn trình bày dài dòng.
Trên cơ sở kết quả học tập của các lớp tôi áp dụng đề tài, bản thân
tôi đã rút ra được một số kinh nghiệm sau:
Một là, giáo viên cần nắm vững những hiểu biết, kiến thức cơ bản
về SĐTD: Khái niệm, cấu tạo, các bước thiết kế, quy trình tổ chức hoạt
động vẽ SĐTD trên lớp, những tiện ích và phần mềm; cân nhắc khi vận
dụng SĐTD vào việc soạn, giảng, kiểm tra đánh giá, tổ chức hoạt động cho
học sinh, tránh lạm dụng.
Lê Thị Huyền Trang - Trường THCS Hàm Phú

Trang 23



Sáng kiến kinh nghiệm

Năm học 2013 – 2014

Hai là, giáo viên cần xác định đúng kiến thức cơ bản, trọng tâm để
thiết kế SĐTD tức là phải biết chọn lọc những ý cơ bản, những kiến thức
thật cần thiết và đầu tư thời gian hợp lí vào việc soạn bài, lập trước các
SĐTD cần thiết cho tất cả các khâu của quá trình lên lớp đối với từng bài
học.
Ba là, áp dụng kĩ thuật dạy học tích cực, không áp đặt đòi hỏi quá
cao đối với học sinh để giúp các em yêu thích môn học và học tốt hơn; quan
tâm đến từng đối tượng học sinh đề ra phương pháp phù hợp lôi cuốn tất cả
các em tham gia học tập và vẽ SĐTD.
Bốn là, giáo viên tuyên dương kịp thời những học sinh có tinh thần, thái
độ học tập tốt để khơi dậy tính tự giác và tinh thần hăng say học tập ở từng em;
giới thiệu SĐTD của những học sinh vẽ sáng tạo, hệ thống đầy đủ kiến thức.
Năm là, hướng dẫn học sinh làm quen dần với SĐTD; yêu cầu các
em rèn kỹ năng tự nghiên cứu tài liệu, tìm hiểu và chuẩn bị bài học trước ở
nhà, tóm tắt kiến thức một cách ngắn gọn, nhanh chóng bằng SĐTD. Những
vấn đề nảy sinh trong quá trình tự nghiên cứu này sẽ được ghi lại, đưa ra và
thảo luận để giải quyết khi đến lớp.
Trong thời gian tới, tôi sẽ tiếp tục tìm hiểu và nghiên cứu sâu hơn nữa,
tìm ra những biện pháp hữu hiệu để vận dụng SĐTD vào giảng dạy đạt hiệu
quả cao hơn, mang tính phổ biến hơn nhằm nâng cao chất lượng dạy - học
của giáo viên và học sinh trong trường.

Lê Thị Huyền Trang - Trường THCS Hàm Phú


Trang 24


Sáng kiến kinh nghiệm

Năm học 2013 – 2014

Phần thứ ba
KẾT LUẬN
Thực hiện đổi mới trong giáo dục ở nước ta hiện nay mà trọng tâm
của đổi mới chương trình và sách giáo khoa là tập trung đổi mới phương
pháp dạy học, thực hiện dạy - học dựa vào hoạt động tích cực, chủ động,
sáng tạo của học sinh với sự tổ chức và hướng dẫn thích hợp của giáo viên,
nhằm phát triển tư duy độc lập, góp phần hình thành phương pháp và nhu
cầu, khả năng tự học, tự bồi dưỡng hứng thú học tập, tạo niềm tin và vui
thích trong học hành. Từ đó giúp các em có kĩ năng sống đáp ứng được yêu
cầu trong thời đại công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Để làm được
điều đó thì người giáo viên phải rèn cho học sinh thói quen và kỹ năng vận
dụng SĐTD trong học tập.
Việc vận dụng thành thạo và hiệu quả SĐTD trong dạy học mang
lại nhiều kết quả tốt và đáng khích lệ không chỉ trong phương pháp học tập,
tăng tính chủ động, sáng tạo và phát triển tư duy của học sinh, tạo hứng thú
để các em không xem Công nghệ là môn phụ mà còn giúp giáo viên tiết
kiệm được thời gian, tăng sự linh hoạt, sáng tạo trong bài giảng, và quan
trọng nhất giúp học sinh nắm được kiến thức thông qua một “sơ đồ” thể
hiện các liên kết chặt chẽ của tri thức giúp các em có phương pháp học tốt
không chỉ học riêng môn Công nghệ mà còn áp dụng cho môn học khác một
cách khoa học.
Trên đây là sự cố gắng của bản thân đã đúc kết một vài kinh nghiệm
nhỏ để vận dụng vào giảng dạy. Chắc chắn sẽ không sao tránh khỏi những

thiếu sót. Rất mong sự góp ý của quí cấp lãnh đạo và các bạn đồng nghiệp để
đề tài sớm được hoàn thiện và có tính khả thi hơn./.
Hàm Phú, ngày 10 tháng 5 năm 2014
NGƯỜI VIẾT
Lê Thị Huyền Trang - Trường THCS Hàm Phú

Trang 25


×