Tải bản đầy đủ (.doc) (120 trang)

Phân tích thực trạng rủi ro tín dụng của ngân hàng thương mại cổ phần sài gòn hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (709.02 KB, 120 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
---------------------

TRẦN MẠNH CƯỜNG

PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG RỦI RO TÍN DỤNG
CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN
SÀI GÒN – HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG

Hà Nội – 2016


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
--------------------TRẦN MẠNH CƯỜNG

PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG RỦI RO TÍN DỤNG
CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN
SÀI GÒN – HÀ NỘI
Chuyên ngành: Tài chính Ngân hàng
Mã số: 60 34 02 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. PHẠM QUANG VINH

XÁC NHẬN CỦA
CÁN BỘ HƯỚNG DẪN



XÁC NHẬN CỦA CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG
CHẤM LUẬN VĂN

Hà Nội – 2016


MỤC LỤC
Trang
Danh mục các ký hiệu viết tắt............................................................................i
Danh mục các bảng...........................................................................................ii
Danh mục các hình vẽ......................................................................................iii
Danh mục các biểu đồ......................................................................................iv


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

STT

Ký hiệu

Nguyên nghĩa

1

HĐQT

Hội đồng quản trị

2


NHNN

Ngân hàng Nhà nước

3

NHTM

Ngân hàng thương mại

4

RRTD

Rủi ro tín dụng

5

SHB

Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn – Hà Nội

i


DANH MỤC CÁC BẢNG

STT


Bảng

Nội dung

1

Bảng 1.1

Các chỉ tiêu tài chính doanh nghiệp

28

2

Bảng 1.2

Nguy cơ rủi ro đối với khách hàng

29

3

Bảng 1.3

Những hạng mục và biểu điểm được sử dụng
tại các Ngân hàng của Mỹ trong mô hình điểm
số tín dụng tiêu dùng

33


4

Bảng 1.4

Quy đổi điểm sang hạn mức cho vay

34

5

Bảng 2.1

Các chỉ tiêu hoạt động kinh doanh của SHB

59

6

Bảng 2.2

Khả năng thanh toán của SHB

67

7

Bảng 2.3

Dư nợ tín dụng theo thời hạn


68

8

Bảng 2.4

Dư nợ tín dụng theo đối tượng và loại hình
doanh nghiệp

70

9

Bảng 2.5

Dư nợ tín dụng theo ngành

71

10

Bảng 2.6

Chi tiết các nhóm nợ trong tổng dư nợ

73

11

Bảng 2.7


Tình hình nợ quá hạn và nợ xấu tại SHB

75

12

Bảng 2.8

Dự phòng rủi ro tín dụng tại SHB

77

13

Bảng 2.9

Tỷ lệ trích lập dự phòng theo địa bàn kinh
doanh

78

14

Bảng 2.10 Thẩm quyền phán quyết tín dụng của SHB

81

15


Bảng 2.11 Mức xếp hạng tín dụng khách hàng của SHB

85

ii

Trang


DANH MỤC HÌNH VẼ

STT

Hình

Nội dung

1

Hình 1.1

Quy trình quản trị rủi ro tín dụng

26

2

Hình 1.2

Mô hình 6C


27

3

Hình 2.1

Sơ đồ Cơ cấu tổ chức của SHB

58

iii

Trang


DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ

STT

Biểu

Nội dung

1

Biểu 2.1

Quy mô tăng trưởng Tổng tài sản


60

2

Biểu 2.2

Quy mô tăng trưởng nguồn vốn huy động và
dư nợ cho vay

62

3

Biểu 2.3

Dư nợ tín dụng theo thời hạn

69

4

Biểu 2.4

Chi tiết tỷ trọng các nhóm nợ trong tổng dư
nợ

73

5


Biểu 2.5

Nợ xấu và tỷ lệ nợ xấu của SHB

76

iv

Trang


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngân hàng là một trong những tổ chức tài chính quan trọng nhất của nền
kinh tế. Trong cơ chế thị trường hiện nay, hoạt động kinh doanh của Ngân
hàng luôn tiềm ẩn nhiều rủi ro, như: Rủi ro lãi suất, rủi ro tín dụng, rủi ro
thanh khoản, rủi ro ngoại hối,… Trong các loại rủi ro kể trên thì rủi ro tín
dụng là loại rủi ro phổ biến và phức tạp nhất. Rủi ro tín dụng xảy ra không chỉ
gây nên những tổn thất về tài chính mà còn gây nên những thiệt hại to lớn về
uy tín và vị thế của Ngân hàng. Do tính lây lan của nó, rủi ro tín dụng có thể
là đầu mối của những cuộc khủng hoảng tài chính hoặc khủng hoảng kinh tế –
xã hội.
Đặc trưng của hệ thống Ngân hàng thương mại ở Việt Nam hiện nay là tỷ
trọng thu nhập từ hoạt động tín dụng chiếm khoảng 70% tổng thu nhập từ các
hoạt động của Ngân hàng. Tuy nhiên, từ thực tế hoạt động tín dụng của các
Ngân hàng thương mại Việt Nam thời gian qua cho thấy: Hiệu quả của hoạt
động tín dụng chưa cao, chất lượng tín dụng chưa tốt, thể hiện ở tỷ lệ nợ quá
hạn và nợ khó đòi còn ở mức cao so với khu vực và thế giới, xu hướng phát
triển chưa bền vững, và do đó rủi ro tín dụng luôn chiếm tỷ trọng cao và đang

là vấn đề quan tâm của những người quản trị Ngân hàng.
Việt Nam đang trong quá trình đổi mới nền kinh tế, từng bước phát triển
và hội nhập với nền kinh tế của các nước trong khu vực và trên thế giới. Hệ
thống Ngân hàng với tư cách là trụ cột của nền tài chính nước nhà vì thế đang
đứng trước nhiều cơ hội và thách thức mới. Theo xu thế này, các Ngân hàng
trong nước sẽ phải đối mặt với sự cạnh tranh vô cùng khốc liệt trong một môi
trường kinh doanh toàn cầu biến động khó lường. Vì vậy, việc nâng cao hiệu

1


quả quản trị rủi ro, đặc biệt là quản trị rủi ro tín dụng tại các Ngân hàng
thương mại tại Việt Nam đang là vấn đề bức xúc cả trên mặt lý luận và thực
tiễn. Nếu không có sự nhìn nhận đúng đắn và có một chiến lược cụ thể để
hoàn thiện công tác quản trị rủi ro tín dụng thì chắc chắn các Ngân hàng
thương mại Việt Nam sẽ khó có thể cạnh tranh với các Ngân hàng nước ngoài
vốn đã rất dày dặn kinh nghiệm trong lĩnh vực này.
Là một người đã có một thời gian công tác trong lĩnh vực tín dụng thuộc
hệ thống Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn – Hà Nội (SHB), với mong
muốn chỉ ra được thực trạng rủi ro tín dụng tại đây để rồi từ đó đưa ra các giải
pháp để nâng cao khả năng quản trị rủi ro tín dụng và tăng năng lực cạnh
tranh của SHB nói riêng cùng các Ngân hàng thương mại khác nói chung, tôi
đã mạnh dạn chọn đề tài “Phân tích thực trạng rủi ro tín dụng của Ngân
hàng thương mại cổ phần Sài Gòn - Hà Nội” làm luận văn tốt nghiệp cao
học kinh tế ngành Tài chính – Ngân hàng của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Về mặt cơ sở lý thuyết của công tác quản trị rủi ro tín dụng thì đã có
nghiên cứu của PGS.TS. Nguyễn Văn Tiến với “Quản trị rủi ro trong kinh
doanh ngân hàng”, hay “Giáo trình Ngân hàng thương mại”. Về mặt thực
tiễn thì có đề tài nghiên cứu của Thạc sĩ Ngô Thị Thanh Trà – Trường Đại học

Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh với đề tài “Các giải pháp hạn chế rủi ro tín
dụng tại Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam Chi nhánh
Nam Sài Gòn”; Thạc sĩ Nguyễn Hồng Châu – Trường Đại học Kinh tế Thành
phố Hồ Chí Minh với đề tài “Giải pháp quản trị rủi ro tín dụng đối với
Doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông
thôn khu vực Thành phố Hồ Chí Minh” cùng với luận văn của nhiều học viên
và sinh viên các trường đại học trong cả nước về vấn đề này. Các đề tài
nghiên cứu này đều đã chỉ ra được thực trạng rủi ro tín dụng tại đơn vị nghiên
2


cứu, tuy nhiên phần nhiều chưa đưa ra được các giải pháp cụ thể và hợp lý
nhất để hạn chế rủi ro tín dụng cũng như nâng cao khả năng quản trị rủi ro tín
dụng đối với Ngân hàng. Ngoài ra việc tìm hiểu những kinh nghiệm quản trị
rủi ro của các nước trên thế giới và rút ra những bài học đối với Việt Nam
trong vấn đề này cũng không được nhiều đề tài đề cập đến. Hơn nữa phần lớn
các đề tài nghiên cứu về hiệu quả hoạt động tín dụng và quản trị rủi ro tín
dụng của các Ngân hàng là về các Ngân hàng thương mại Nhà nước hoặc
hoặc các Ngân hàng mà Nhà nước nắm đa số cổ phần.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn là:
Nghiên cứu vấn đề rủi ro tín dụng trên phương diện lý thuyết: Bản chất,
hình thức của rủi ro tín dụng, các nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng cũng
như tác động của nó tới bản thân Ngân hàng thương mại và với nền kinh tế,
qua đó thiết lập các phương pháp quản trị rủi ro tín dụng phù hợp.
Thông qua việc phân tích thực trạng rủi ro tín dụng của SHB để đánh giá
được năng lực quản trị rủi rủi ro trong hoạt động tín dụng của Ngân hàng, xác
định được những mặt đã đạt được và những mặt hạn chế của công tác này.
Trên cơ sở thực trạng đó đã đề xuất các biện pháp nhằm hạn chế rủi ro và
nâng cao năng lực quản trị rủi ro trong hoạt động tín dụng của SHB.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là hoạt động tín dụng với những rủi ro trong hoạt
động này và công tác quản trị rủi ro tín dụng tại SHB.
Phạm vi nghiên cứu là tình hình hoạt động tại SHB trong 3 năm 2012,
2013 và 2014.
5. Phương pháp nghiên cứu

3


Để phù hợp với nội dung, yêu cầu, mục đích của đề tài đề ra, phương pháp
được thực hiện trong quá trình nghiên cứu luận văn gồm phương pháp thống
kê, tổng hợp, phân tích, so sánh,…
6. Dự kiến những đóng góp mới của luận văn
Trên cơ sở phân tích tình hình hoạt động tín dụng và thực trạng rủi ro tín
dụng của SHB, luận văn nêu ra những dấu hiệu nhận biết sớm các khoản nợ
có vấn đề, tìm ra các nguyên nhân để từ đó đề xuất các giải pháp có hiệu quả.
Ngoài ra, điểm khá khác biệt là đề tài nghiên cứu chi tiết về rủi ro tín dụng
của SHB mà phần lớn các đề tài trước đây ít nhắc đến, nghiên cứu các kinh
nghiệm quản trị rủi ro tín dụng của một số nước trên thế giới qua đó rút ra bài
học cho Việt Nam.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn được kết cấu làm 3 chương như
sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận về rủi ro tín dụng và quản trị rủi ro tín dụng của
các Ngân hàng thương mại
Chương 2: Thực trạng rủi ro tín dụng và quản trị rủi ro tín dụng tại Ngân
hàng thương mại cổ phần Sài Gòn – Hà Nội
Chương 3: Các giải pháp nhằm hạn chế rủi ro tín dụng và nâng cao hiệu
quả hoạt động quản trị rủi ro tín dụng tại Ngân hàng thương mại cổ phần

Sài Gòn – Hà Nội

CHƯƠNG 1
4


CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ RỦI RO TÍN DỤNG VÀ QUẢN TRỊ RỦI RO
TÍN DỤNG CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

1.1.

Rủi ro tín dụng trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thương

mại
1.1.1. Những vấn đề cơ bản về tín dụng ngân hàng
1.1.1.1. Khái niệm
Tín dụng là từ ngữ ám chỉ sự tin tưởng, trong thực tế thuật ngữ này được
sử dụng trong nhiều ngữ cảnh khác nhau. Tuy nhiên trong phạm vi của luận
văn dưới đây, “tín dụng” sẽ được hiểu như: Là một giao dịch về tài sản giữa
bên cho vay (Ngân hàng) với bên đi vay, trong đó bên cho vay chuyển giao tài
sản cho bên đi vay sử dụng trong một khoảng thời gian nhất định có thỏa
thuận trước. Khi đến hạn thanh toán, bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả vô
điều kiện vốn gốc và lãi cho bên cho vay. Nếu định nghĩa “tín dụng” theo
chuyên ngành Ngân hàng, thì: “Tín dụng ngân hàng là việc Ngân hàng thỏa
thuận để khách hàng sử dụng một tài sản (bằng tiền, tài sản thực hay uy tín)
với nguyên tắc có hoàn trả bằng các nghiệp vụ cho vay, chiết khấu (tái chiết
khấu), cho thuê tài chính, bảo lãnh Ngân hàng và các nghiệp vụ khác”.
1.1.1.2. Đặc điểm của tín dụng ngân hàng
Thứ nhất, tín dụng ngân hàng dựa trên cơ sở lòng tin. Ngân hàng chỉ cấp
tín dụng khi có lòng tin vào việc khách hàng sử dụng vốn vay đúng mục đích,

hiệu quả và có khả năng hoàn trả nợ vay (gốc, lãi) đúng hạn.
Thứ hai, tín dụng là sự chuyển nhượng một tài sản có thời hạn. Ngân hàng
là trung gian tài chính “đi vay để cho vay”, nên mọi khoản tín dụng của Ngân
hàng đều phải có thời hạn, bảo đảm cho Ngân hàng hoàn trả vốn huy động.
Thứ ba, tín dụng phải trên nguyên tắc hoàn trả cả gốc và lãi. Nếu không có
sự hoàn trả thì không được coi là tín dụng. Giá trị hoàn trả phải lớn hơn giá trị

5


lúc cho vay (giá trị gốc), nghĩa là ngoài việc hoàn trả giá trị gốc, khách hàng
phải trả cho Ngân hàng một khoản lãi, đây chính là giá của quyền sử dụng
vốn vay.
Thứ tư, tín dụng là hoạt động tiềm ẩn rủi ro cao cho Ngân hàng. Việc thu
hồi tín dụng phụ thuộc không những vào bản thân khách hàng, mà còn phụ
thuộc vào môi trường hoạt động ngoài tầm kiểm soát của khách hàng như sự
biến động về giá cả, lãi suất, tỷ giá, lạm phát, tăng trưởng kinh tế, thị trường,
thiên tai,…
Thứ năm, tín dụng phải trên cơ sở cam kết hoàn trả vô điều kiện. Quá trình
xin vay và cho vay diễn ra trên cơ sở những căn cứ pháp lý chặt chẽ như: Hợp
đồng tín dụng, khế ước vay tiền (hay giấy nhận nợ), hợp đồng bảo đảm tiền
vay, bảo lãnh,…, trong đó bên đi vay phải cam kết hoàn trả vô điều kiện
khoản vay cho Ngân hàng khi đến hạn.
1.1.1.3. Vai trò của tín dụng ngân hàng
– Đối với nền kinh tế:
Thứ nhất, vai trò kinh tế cơ bản của tín dụng ngân hàng là luân chuyển vốn
từ những người (cá nhân, hộ gia đình, công ty và chính phủ) có nguồn vốn
thặng dư (do chi tiêu ít hơn thu nhập) đến những người thiếu hụt (do nhu cầu
chi tiêu vượt quá thu nhập). Nhu cầu vay vốn không chỉ để đầu tư kinh doanh
mà còn dùng để thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng trước mắt.

Thứ hai, tín dụng ngân hàng không giới hạn chỉ trong chức năng truyền
thống là luân chuyển vốn từ nơi thừa đến nơi thiếu mà còn giúp phân bổ hiệu
quả các nguồn lực tài chính trong nền kinh tế. Thông qua tín dụng ngân hàng
mà vốn từ những người thiếu các dự án đầu tư hiệu quả được chuyển tới
những người có các dự án đầu tư hiệu quả hơn nhưng thiếu vốn. Kết quả là,
kinh tế tăng trưởng, tạo công ăn việc làm và năng suất lao động cao.

6


Thứ ba, thông qua việc đầu tư vốn tín dụng vào những ngành nghề, khu
vực kinh tế trọng điểm sẽ thúc đẩy sự phát triển của các ngành nghề đó, hình
thành nên cơ cấu hiện đại, hợp lý và hiệu quả.
Thứ tư, tín dụng ngân hàng góp phần lưu thông tiền tệ, hàng hóa, điều tiết
thị trường, kiểm soát giá trị đồng tiền và thúc đẩy quá trình mở rộng giao lưu
kinh tế giữa các nước.
Thứ năm, tín dụng ngân hàng mang lại nguồn thu lớn cho ngân sách Nhà
nước thông qua thuế thu nhập và lãi từ ủy thác đầu tư vốn của Chính phủ.
Thứ sáu, tín dụng ngân hàng là kênh truyền tải vốn tài trợ của Nhà nước
đến nông nghiệp, nông thôn, góp phần xóa đói giảm nghèo, ổn định chính trị,
xã hội.
– Đối với khách hàng:
Thứ nhất, tín dụng ngân hàng đáp ứng kịp thời nhu cầu về số lượng và chất
lượng vốn cho khách hàng. Với các ưu điểm như an toàn, thuận tiện, nhanh
chóng, dễ tiếp cận và có khả năng đáp ứng được nhu cầu vốn lớn, tín dụng
ngân hàng dễ dàng thỏa mãn được nhu cầu đa dạng của khách hàng.
Thứ hai, tín dụng ngân hàng giúp Nhà đầu tư nắm bắt được những cơ hội
kinh doanh, doanh nghiệp có vốn để mở rộng sản xuất, các cá nhân có đủ khả
năng tài chính để trang trải cho các khoản chi tiêu nâng cao chất lượng cuộc
sống,…

Thứ ba, tín dụng ngân hàng ràng buộc tính trách nhiệm khách hàng phải
hoàn trả vốn gốc và lãi trong thời hạn nhất định như thỏa thuận. Do đó, buộc
khách hàng phải nỗ lực, tận dụng hết khả năng của mình để sử dụng vốn vay
hiệu quả, đẩy nhanh quá trình tái sản xuất, đem lại lợi nhuận cho doanh
nghiệp và đảm bảo nghĩa vụ trả nợ cho Ngân hàng.
– Đối với Ngân hàng:

7


Thứ nhất, tín dụng là hoạt động truyền thống, chiếm tỷ trọng lớn nhất
trong tổng tài sản có và mang lại nguồn thu nhập chủ yếu cho Ngân hàng
(khoảng trên 70% tổng thu nhập). Mặc dù tỷ trọng của hoạt động tín dụng
đang có xu hướng giảm, nhưng tín dụng ngân hàng vẫn luôn là nghiệp vụ sử
dụng vốn quan trọng nhất đối với mỗi Ngân hàng.
Thứ hai, thông qua hoạt động tín dụng mà Ngân hàng đa dạng hóa được
danh mục tài sản có, giảm thiểu rủi ro.
Thứ ba, thông qua hoạt động tín dụng, Ngân hàng mở rộng được các loại
hình dịch vụ khác, như thanh toán, thu hút tiền gửi, kinh doanh ngoại tệ, tư
vấn,…
1.1.1.4. Phân loại tín dụng ngân hàng
Kinh tế thị trường ngày càng phát triển, xu hướng tự do hóa càng sâu sắc,
thì các Ngân hàng càng phải nghiên cứu đưa ra các hình thức tín dụng đa
dạng nhằm đáp ứng tốt nhất nhu cầu của khách hàng, từ đó đa dạng hóa danh
mục đầu tư, thu hút khách hàng, tăng lợi nhuận, thực hiện phân tán rủi ro và
đứng vững trong cạnh tranh. Chính vì vậy, Ngân hàng cung cấp rất nhiều loại
tín dụng, cho nhiều đối tượng khách hàng với những mục đích sử dụng khác
nhau. Để tránh nhầm lẫn và có cái nhìn tổng quát về các loại tín dụng, người
ta phân loại tín dụng ngân hàng theo một số tiêu chí sau:
– Căn cứ vào thời hạn tín dụng: Có tín dụng ngắn hạn, tín dụng trung hạn

và tín dụng dài hạn.
– Căn cứ vào bảo đảm tín dụng: Có tín dụng có bảo đảm và tín dụng
không có bảo đảm (tín chấp).
– Căn cứ vào mục đích sử dụng: Có tín dụng bất động sản, tín dụng công
thương nghiệp, tín dụng nông nghiệp, tín dụng tiêu dùng,…
– Căn cứ vào chủ thể vay vốn: Có tín dụng doanh nghiệp (tín dụng bán
buôn), tín dụng cá nhân, hộ gia đình (tín dụng bán lẻ) và tín dụng cho các tổ
chức tài chính.
8


– Căn cứ vào phương thức hoàn trả nợ vay: Có tín dụng trả góp, tín dụng
hoàn trả một lần, tín dụng hoàn trả theo yêu cầu (thường áp dụng cho những
khoản vay thấu chi, thẻ tín dụng).
– Căn cứ vào hình thái giá trị của tín dụng: Có tín dụng bằng tiền, tín
dụng bằng tài sản (cho thuê tài chính), tín dụng bằng uy tín (bảo lãnh ngân
hàng).
– Căn cứ vào xuất xứ tín dụng: Có tín dụng trực tiếp, tín dụng gián tiếp
(tín dụng ủy thác, tín dụng thông qua các tổ chức đoàn thể).
– Các loại tín dụng khác: Bao gồm các khoản tín dụng khác chưa được
phân loại ở trên (ví dụ như tín dụng kinh doanh chứng khoán,…).
1.1.2. Khái niệm rủi ro tín dụng
Đã có rất nhiều cách tiếp cận về rủi ro dưới rất nhiều góc độ khác nhau và
thống nhất ở quan điểm “Rủi ro là khả năng có thể xảy ra các biến cố không
lường trước và thường gây ra các hậu quả xấu”. Rủi ro luôn xuất hiện bất ngờ
và đe dọa sự sống còn của doanh nghiệp. Thường thì những hoạt động kinh
doanh mang lại lợi nhuận càng cao thì ẩn chứa rủi ro càng lớn, mâu thuẫn này
luôn tồn tại. Là một đơn vị hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ,
NHTM phải thường xuyên đối mặt với rất nhiều loại rủi ro như: rủi ro tín
dụng, rủi ro hối đoái, rủi ro lãi suất, rủi ro thanh khoản, rủi ro tồn đọng vốn và

các rủi ro khác. Trong điều kiện hiện nay tín dụng vẫn là hoạt động cơ bản
nhất của NHTM và đồng thời rủi ro rín dụng cũng là loại rủi ro lớn nhất,
thường xuyên xảy ra và gây hậu quả năng nề nhất đối với hoạt động của Ngân
hàng. Theo Thông tư 02/2013/TT-NHNN ngày 21/01/2013 của NHNN Việt
Nam thì: “Rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng là tổn thất có khả năng
xảy ra đối với nợ của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài do
khách hàng không thực hiện hoặc không có khả năng thực hiện một phần
hoặc toàn bộ nghĩa vụ của mình theo cam kết”.

9


Rủi ro tín dụng là một tất yếu mà các Ngân hàng không thể loại bỏ hoàn
toàn ra khỏi hoạt động tín dụng của mình, họ buộc phải chấp nhận sự tồn tại
của rủi ro và cố gắng tìm mọi phương thức để có thể hạn chế tới mức thấp
nhất rủi ro tín dụng, đặc biệt là khi thế giới đang tiến dần tới giai đoạn toàn
cầu hóa, các hoạt động của Ngân hàng trở nên vô cùng phong phú và không
chỉ giới hạn trong phạm vi quốc gia như trước đây mà còn hướng ra các thị
trường quốc tế. Trong bối cảnh đó, các hoạt động tín dụng chứa đựng nhiều
rủi ro hơn, yêu cầu có một phương thức quản trị rủi ro tín dụng hiệu quả là
vấn đề trọng tâm trong công cuộc đổi mới và phát triển của các Ngân hàng
hiện nay. Đồng thời, sự tăng cường kiểm soát quốc tế, thể hiện trong các quy
định về ngân hàng và các định chuẩn quốc tế, như các Hiệp ước Basel do ủy
ban Basel ban hành, đặt ra yêu cầu các Ngân hàng cần có những bịên pháp
hữu hiệu để hạn chế rủi ro và đáp ứng được những tiêu chuẩn quy định.
1.1.3. Hình thức của rủi ro tín dụng
Rủi ro tín dụng xảy ra khi người vay không trả được nợ lãi và nợ gốc đúng
hạn, đầy đủ. Theo phương thức quản lý rủi ro tín dụng hiện nay, người ta chia
rủi ro tín dụng thành bốn cấp độ theo mức độ rủi ro.
1.1.3.1. Không thu được lãi đúng hạn

Cấp độ thấp nhất là khi người vay không trả được lãi đúng hạn, khi đó
Ngân hàng sẽ chuyển số lãi đó vào khoản mục lãi treo phát sinh. Hình thức
rủi ro này được xếp vào mức rủi ro thấp vì ngoại trừ trường hợp khách hàng
muốn quỵt nợ, chiếm dụng vốn thì phần lớn đều xuất phát từ việc thiếu cân
đối trong kỳ hạn thu nợ và trả nợ cuả khách hàng.
1.1.3.2. Không thu được gốc đúng hạn
Khi không thu được gốc đúng hạn tình hình dường như nghiêm trọng hơn,
một phần do một lượng vốn cho vay bị mất. Khi đó, Ngân hàng sẽ chuyển số
nợ gốc đó sang mục nợ quá hạn phát sinh. Khoản mục này phát sinh vào thời
10


gian đáo hạn của hợp đồng tín dụng . Tuy nhiên, đây chưa phải là khoản mất
mát hiện thực của Ngân hàng vì có thể tiến độ hoạt động kinh doanh cuả
khách hàng bị chậm so với kế hoạch đã đề ra trình Ngân hàng.
1.1.3.3. Không thu được đủ lãi
Khi Ngân hàng không thu được đủ lãi thì tình hình đã trở nên nghiêm
trọng hơn. Tình hình kinh doanh của khách hàng có thể đã kém hiệu quả đến
mức không thể trả đủ lãi cho Ngân hàng. Khi đó, Ngân hàng phải chuyển
khoản lãi này vào khoản mục lãi treo đóng băng và thậm chí có thể phải thực
hiện miễn giảm lãi cho khách hàng.
1.1.3.4. Không thu đủ gốc
Tình huống xấu nhất xảy ra khi Ngân hàng không thu đủ vốn gốc đã cho
vay và lúc này Ngân hàng bị mất vốn. Tại thời điểm này, Ngân hàng sẽ
chuyển khoản nợ vào mục nợ không có khả năng thu hồi hoặc phải xóa nợ,
coi như khép lại một hợp đồng tín dụng không có hiệu quả.
1.1.4. Nguyên nhân của rủi ro tín dụng
Có rất nhiều nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng. Quản lý rủi ro tín dụng
cần xác định những nguyên nhân cụ thể, xác thực gây rủi ro tín dụng để có
biện pháp hạn chế.

1.1.4.1. Nguyên nhân từ môi trường kinh doanh
– Môi trường kinh tế: Môi trường kinh tế tác động mạnh mẽ đến lĩnh vực
kinh doanh của Ngân hàng cũng như các doanh nghiệp trong nền kinh tế. Khi
nền kinh tế đang tăng trưởng ổn định thì các doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả
và có nhiều khả năng trả nợ cho Ngân hàng. Ngược lại, khi nền kinh tế rơi
vào tình trạng bị suy thoái, mất ổn định đã làm cho các doanh nghiệp gặp
nhiều khó khăn trong hoạt động kinh doanh, sản xuất bị đình trệ, sức mua bị
giảm sút, hàng hoá bị ứ đọng,… tất yếu đã làm cho các doanh nghiệp làm ăn
kém hiệu quả và ảnh hưởng đến khả năng trả nợ cho Ngân hàng.

11


Ngoài ra, các chính sách quản lý kinh tế vĩ mô của Chính phủ cũng ảnh
hưởng không nhỏ đến hoạt động của Ngân hàng. Chính phủ có thể gây khó
khăn cho một số khách hàng của Ngân hàng khi theo đuổi mục tiêu tăng
trưởng kinh tế cao đã làm tăng tỷ lệ lạm phát dẫn đến giá cả các loại nguyên
vật liệu đầu vào tăng, giá thành sản phẩm tăng, hàng hoá khó tiêu thụ được.
Hơn nữa, việc chính phủ cho phép nhập khẩu tràn lan những mặt hàng mà ở
trong nước có thể sản xuất được, từ đó làm cho hàng hoá trong nước bị cạnh
tranh, chậm tiêu thụ, sản xuất bị đình trệ,...
– Môi trường chính trị, xã hội: Môi trường chính trị, xã hội ổn định sẽ tạo
điều kiện cho các doanh nghiệp phát triển. Ngược lại, nếu doanh nghiệp luôn
bị đặt trong tình trạng chiến tranh cấm vận kinh tế, chính trị bất ổn, tệ nạn xã
hội tràn lan,... thì đó là những nguyên nhân dẫn đến việc kìm hãm sản xuất, từ
đó gây ra rủi ro đối với các doanh nghiệp nói chung và đối với tín dụng của
Ngân hàng nói riêng.
– Môi trường pháp lý: Nếu Nhà nước xây dựng được một hành lang pháp
lý chặt chẽ và có hiệu lực thì sẽ làm lành mạnh hoá các quan hệ kinh tế giữa
các tổ chức kinh tế với nhau cũng như giữa các tổ chức kinh tế đó với Ngân

hàng. Ngược lại, hệ thống pháp lý lỏng lẻo sẽ tạo ra nhiều kẽ hở, gây nên tình
trạng mánh khoé, lừa đảo và gây thiệt hại lẫn nhau; từ đó ảnh hưởng đến khả
năng thanh toán đối với Ngân hàng, thậm chí trực tiếp lừa đảo chiếm dụng
vốn của Ngân hàng.
– Môi trường quốc tế: Xu hướng hội nhập nền kinh tế khu vực và quốc tế
hiện nay ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động kinh tế. Một mặt nó tạo điều kiện
giao lưu kinh tế, tăng hiệu quả kinh tế xã hội đất nước, nhưng mặt khác nó lại
tạo ra sức cạnh tranh quyết liệt. Nếu doanh nghiệp nào làm ăn kém hiệu quả
thì khó có thể đứng vững trên thương trường và gây ảnh hưởng đến hoạt động
tín dụng Ngân hàng. Quan hệ kinh tế mở rộng ra các nước đã tạo sự ràng buộc
về kinh tế và tiềm ẩn những rủi ro mang tính hệ thống. Cuộc khủng hoảng
12


kinh tế thế giới vừa qua là một bằng chứng điển hình. Nó đã dẫn đến sự phá
sản của hàng trăm Ngân hàng của các nước mà hậu quả của nó vẫn còn dư âm
đến tận hôm nay.
1.1.4.2. Nguyên nhân từ phía khách hàng vay
Có thể chia nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng từ phía khách hàng làm
hai trường hợp. Đó là trường hợp khách hàng gian lận và trường hợp khách
hàng không gian lận.
– Trường hợp khách hàng gian lận: Trong hoạt động tín dụng, Ngân
hàng không thể tránh khỏi trường hợp khách hàng cố tình lừa gạt Ngân hàng.
Điều này được thể hiện qua một số hình thức sau:
 Khách hàng gian lận về số liệu, giấy tờ, quyền sở hữu tài sản. Doanh
nghiệp có thể nộp báo cáo tài chính không chính xác, cố ý đưa ra số
liệu sai sự thật, phản ánh không đúng thực trạng sản xuất kinh doanh
và tình hình tài chính của đơn vị. Những món cho vay trên cơ sở
những thông tin giả như vậy dễ đưa đến rủi ro cho Ngân hàng. Bên
cạnh đó lợi dụng khe hở về giấy tờ sở hữu tài sản, doanh nghiệp có

thể đem thế chấp một tài sản ở nhiều Ngân hàng khác nhau. Khi
không thu được nợ, Ngân hàng phát mại tài sản thì mới biết bị lừa.
 Khách hàng sử dụng vốn vay không đúng mục đích, không đúng đối
tượng kinh doanh, không đúng phương án đã nêu nên không trả
được nợ đúng hạn hoặc không trả được nợ. Doanh nghiệp có thể vay
vốn ngắn hạn nhưng lại dùng để mua sắm tài sản cố định và bất
động sản. Việc giá nhà đất đột ngột giảm xuống làm doanh nghiệp
kinh doanh nhà đất bị thua lỗ nặng không thể trả được nợ Ngân
hàng. Như vậy, coi như toàn bộ giá trị thẩm định trước khi tiến hành
cho vay của Ngân hàng đã trở thành vô nghĩa và rủi ro tín dụng
được đặt ở mức độ báo động.

13


 Ngoài ra, nhiều doanh nghiệp do đạo đức kém đã cố tình chây ỳ,
không trả nợ cho Ngân hàng, thậm chí còn bỏ trốn để quỵt nợ. Trong
trường hợp này Ngân hàng hoàn toàn bị thua thiệt và chỉ còn trông
chờ vào việc xử lý tài sản thế chấp (nếu có).
– Trường hợp khách hàng không gian lận: Rủi ro tín dụng của Ngân hàng
trong trường hợp này có thể là do:
 Doanh nghiệp bị rủi ro khách quan như: Thiên tai, hoả hoạn, động
đất, mất trộm,… Đây là trường hợp ít khi xảy ra và khó có thể dự
đoán trước.
 Bản thân doanh nghiệp bị lừa đảo hoặc bạn hàng của doanh nghiệp
gặp rủi ro. Trong kinh doanh, doanh nghiệp có rất nhiều mối quan
hệ với các tổ chức kinh tế khác và cũng giống như Ngân hàng doanh
nghiệp cũng có thể bị rủi ro từ phía các đối tác của mình làm cho
doanh nghiệp bị thua lỗ, không có khả năng trả nợ cho Ngân hàng.
 Trường hợp khác là rủi ro xuất phát từ chính sự yếu kém của bản

thân doanh nghiệp. Sự cạnh tranh khắc nghiệt của thị trường luôn
đặt doanh nghiệp trong tình trạng phải có sự nỗ lực cao độ vì bất kì
một sự sai sót nào trong phương thức quản lý kinh tế cũng như quản
lý tài chính đều dẫn đến thua lỗ, phá sản doanh nghiệp ảnh hưởng
đến khả năng trả nợ Ngân hàng.
1.1.4.3. Nguyên nhân từ phía Ngân hàng
Có nhiều yếu tố gây ra rủi ro tín dụng mà nguyên nhân thuộc về Ngân
hàng, có thể kể ra một số nguyên nhân như sau:
– Chiến lược kinh doanh của Ngân hàng: Tuỳ theo chiến lược kinh
doanh cụ thể mà mỗi Ngân hàng đưa ra các mức độ chấp nhận rủi ro khác
nhau, ví dụ Ngân hàng A có thể chấp nhận một mức độ rủi ro cao hơn nhằm
thu được một mức lợi nhuận kỳ vọng cao hơn hoặc một thị phần lớn hơn,
trong khi đó, một Ngân hàng B chỉ chấp nhận một tỷ lệ rủi ro nhỏ mặc dù các

14


khoản lợi nhuận kỳ vọng chỉ ở mức trung bình, song có độ an toàn cao hơn so
với Ngân hàng A. Ngoài ra, đối với từng khách hàng khác nhau thuộc các
ngành nghề khác nhau thì mức độ rủi ro cũng khác nhau.Trong chiến lược
kinh doanh của NHTM, việc lựa chọn các khách hàng mục tiêu và ngành
nghề mục tiêu là một việc làm thiết yếu. Tuy nhiên, triết lý “Không nên bỏ tất
cả trứng vào một rổ” vẫn là kim chỉ nam cho việc phân tán rủi ro vì tính chất
khó dự đoán của tương lai. Ngân hàng có thể hạn chế các tổn thất bằng cách
thường xuyên đánh giá rủi ro trong từng thị trường, trong từng ngành, từng vị
trí địa lý, từng sản phẩm, từng hình thức thế chấp, từng loại tiền tệ, hình thức
đáo hạn,… từ đó đảm bảo duy trì một danh mục tín dụng đa dạng, cũng như
việc linh hoạt trong điều chỉnh chiến lược kinh doanh của mình sao cho phù
hợp với từng thời kỳ.
– Áp lực cạnh tranh trong hoạt động tín dụng của nội bộ Ngân hàng và

giữa các Ngân hàng với nhau: Có thể hiểu là do áp lực về doanh số cho vay
đối với các cán bộ tín dụng và với các Ngân hàng là việc tăng thị phần nên
Ngân hàng đã bỏ qua một số bước kiểm định các khoản cho vay, hạ thấp tiêu
chuẩn tín dụng, đáp ứng nhu cầu của khách hàng một cách “dễ dãi” hơn,...
nhằm lôi kéo được nhiều khách hàng, từ đó thu được lợi nhuận lớn (Ngân
hàng đang quá chú trọng vào thu nhập mang lại mà hầu như đang “bỏ ngỏ”
các rủi ro). Mặt khác, do bản thân các Ngân hàng khi phát sinh các khoản nợ
xấu thường không muốn phản ánh vào tài khoản và chuyển thành nợ khó đòi
vì như vậy sẽ ảnh hưởng tới thành tích của Ngân hàng, khiến cho bảng cân
đối “không đẹp”. Điều này dẫn tới việc Ngân hàng tiếp tục gia hạn cho khách
hàng nhiều lần, cho phép khách hàng đảo nợ và dẫn đến việc không thực hiện
thu nợ đúng theo hợp đồng tín dụng.
– Trình độ chuyên môn của cán bộ Ngân hàng nói chung và của cán bộ
tín dụng nói riêng còn hạn chế, đạo đức nghề nghiệp còn chưa cao: Hiện nay
nhiều cán bộ tín dụng Ngân hàng chưa có những nhận thức đầy đủ về tầm
15


quan trọng của việc hạn chế rủi ro tín dụng; thiếu năng lực xử lý và tìm kiếm
các thông tin; chưa có những đánh giá chính xác về ngành hàng kinh doanh
của khách hàng; chưa có khả năng phân tích thẩm định dự án; kiến thức thị
trường, kiến thức xã hội cũng bị hạn chế nên nhiều khi cho vay mà không
đánh giá được liệu dự án hay phương án đó có khả thi hay không; chưa đánh
giá được chính xác mối quan hệ đã, đang có của doanh nghiệp đối với các
Ngân hàng khác do các doanh nghiệp có thể vay cùng một lúc nhiều Ngân
hàng (doanh nghiệp đang vay cụ thể bao nhiêu, của những tổ chức nào, đã trả
nợ được bao nhiêu, chưa trả nợ hoặc quá hạn bao nhiêu,...). Bên cạnh đó có
một bộ phận cán bộ Ngân hàng tư cách đạo đức kém, lợi dụng vị trí công tác
để trục lợi, tham ô, nhận hối lộ, tiếp tay cho khách hàng rút ruột Ngân hàng,
cố tình cho vay sai nguyên tắc như dễ dàng cho vay với bạn bè, người thân,…

Những vấn đề này là không mới, tuy nhiên để giải quyết được tồn tại này thì
các Ngân hàng cần một khoảng thời gian đủ dài.
– Rủi ro do thiếu giám sát và quản lý sau khi cho vay, hệ thống cảnh báo
sớm về các khoản vay có vấn đề không hiệu quả nên không thể can thiệp kịp
thời: Các Ngân hàng thường có thói quen tập trung nhiều công sức cho việc
thẩm định trước khi cho vay mà lơi lỏng quá trình kiểm tra, kiểm soát đồng
vốn sau khi cho vay. Khi Ngân hàng cho vay thì khoản cho vay cần phải được
quản lý một cách chủ động để đảm bảo sẽ được hoàn trả. Theo dõi nợ và theo
dõi tình hình hoạt động kinh doanh của khách hàng là một trong những trách
nhiệm quan trọng nhất của cán bộ tín dụng nói riêng và của Ngân hàng nói
chung. Tuy nhiên trong thời gian qua các Ngân hàng chưa thực hiện tốt công
tác này. Điều này một phần do yếu tố tâm lý ngại gây phiền hà cho khách
hàng của cán bộ Ngân hàng, một phần do hệ thống thông tin quản lý phục vụ
kinh doanh tại các doanh nghiệp quá lạc hậu, không cung cấp được kịp thời,
đầy đủ các thông tin mà Ngân hàng yêu cầu.
1.1.5. Hậu quả của rủi ro tín dụng
16


Khi rủi ro tín dụng xảy ra sẽ làm ảnh hưởng xấu đến rất nhiều chủ thể. Đầu
tiên là bản thân các Ngân hàng và khách hàng đi vay, sau đó là tác động đến
cả nền kinh tế.
1.1.5.1. Đối với Ngân hàng
Việc không thu hồi được nợ (gốc, lãi và các khoản phí) làm cho nguồn vốn
của các NHTM bị thất thoát, trong khi đó các Ngân hàng này vẫn phải chi trả
tiền lãi cho nguồn vốn hoạt động, làm cho lợi nhuận bị giảm sút. Nếu lợi
nhuận không đủ thì Ngân hàng còn phải dùng chính vốn tự có của mình để bù
đắp thiệt hại. Điều này có thể làm ảnh hưởng đến quy mô hoạt động của các
NHTM.
Mặt khác, tỷ lệ nợ quá hạn cao còn làm cho uy tín, niềm tin vào tiềm lực

tài chính của Ngân hàng bị suy giảm, dẫn đến làm giảm khả năng huy động
vốn của Ngân hàng, nghiêm trọng hơn nó có thể dẫn đến rủi ro thanh khoản,
đẩy Ngân hàng đến bờ vực phá sản và đe dọa sự ổn định của toàn bộ hệ thống
Ngân hàng.
1.1.5.2. Đối với khách hàng
Đối với bản thân chủ thể không có khả năng hoàn trả vốn (lãi) cho một
Ngân hàng thì họ gần như không có cơ hội tiếp cận với vốn của các Ngân
hàng khác và thậm chí là cả những nguồn khác trong nền kinh tế do đã mất đi
uy tín.
Cơ hội tiếp cận vốn Ngân hàng của các chủ thể đi vay khác cũng bị hạn
chế hơn khi rủi ro tín dụng có thể buộc các NHTM hoặt thắt chặt cho vay và
thậm chí phải thu hẹp quy mô hoạt động.
Các chủ thể gửi tiền vào Ngân hàng có nguy cơ không thu hồi được khoản
tiền gửi và lãi nếu như các Ngân hàng lâm vào tình trạng phá sản.
1.1.5.3. Đối với nền kinh tế
Hệ thống Ngân hàng có mối quan hệ chặt chẽ với nền kinh tế, là kênh thu
hút và cung cấp tiền cho các tổ chức, doanh nghiệp và cá nhân. Ở mức độ

17


thấp, rủi ro tín dụng khiến cơ hội tiếp cận vốn mở rộng hoạt động sản xuất
kinh doanh hoặc tiêu dùng của các khách hàng bị hạn chế, ảnh hưởng xấu đến
khả năng tăng trưởng của nền kinh tế. Ở mức độ cao hơn, khi có một Ngân
hàng lâm vào tình trạng khó khăn dẫn đến phá sản, thì hiệu ứng dây chuyền
rất dễ xảy ra trong toàn bộ hệ thống Ngân hàng, gây nên khủng hoảng đối với
toàn bộ nền kinh tế, ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống xã hội và sự phát triển
của đất nước.
1.1.6. Các chỉ tiêu đo lường rủi ro tín dụng
Hoạt động tín dụng mang lại lợi nhuận cho Ngân hàng nhưng cũng luôn

tiềm ẩn nhiều rủi ro. Đặc biệt đối với các Ngân hàng ở các nước đang phát
triển và đang trong giai đoạn hội nhập kinh tế thế giới thì mức độ rủi ro tín
dụng lại càng cao hơn. Vì thế các Ngân hàng luôn luôn kiểm tra hoạt động tín
dụng của mình để chủ động phòng ngừa rủi ro và thường sử dụng các chỉ tiêu
cơ bản sau để đo lường rủi ro tín dụng:
1.1.6.1. Chỉ tiêu định tính
– Sự phù hợp của chính sách tín dụng: Chính sách tín dụng của Ngân
hàng quyết định việc mở rộng hay thu hẹp tín dụng nhằm đạt được mục tiêu
riêng của Ngân hàng: tìm kiếm lợi nhuận, hạn chế rủi ro hay đảm bảo an toàn
trong kinh doanh của Ngân hàng. Nếu Ngân hàng tập trung quá nhiều vào một
mục tiêu như tìm kiếm lợi nhuận thì Ngân hàng sẽ phải mở rộng điều kiện tín
dụng, chấp nhận các khoản vay có mức rủi ro cao.
– Tính hợp lý của quy trình tín dụng: Quy trình tín dụng là tổng hợp các
nguyên tắc, quy định của Ngân hàng trong việc cấp tín dụng với các bước cụ
thể được thiết lập theo một trình tự nhất định kể từ khi nhận hồ sơ xin cấp tín
dụng đến khi kết thúc hợp đồng. Rủi ro tín dụng sẽ được hạn chế khi quy trình
này được tổ chức khoa học, hợp lý và được tuân thủ bởi cán bộ tín dụng.
1.1.6.2. Chỉ tiêu định lượng
18


×