Tải bản đầy đủ (.pdf) (164 trang)

Thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử án hình sự của viện kiểm sát nhân dân cấp cao ở nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (944.57 KB, 164 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN HOÀI NAM

THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ VÀ KIỂM SÁT XÉT XỬ
ÁN HÌNH SỰ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN CẤP CAO
Ở NƯỚC TA HIỆN NAY

LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI-năm 2018


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN HOÀI NAM

THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ VÀ KIỂM SÁT XÉT XỬ
ÁN HÌNH SỰ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN CẤP CAO
Ở NƯỚC TA HIỆN NAY

Ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 9 38 01 04

LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Cao Thị Oanh



HÀ NỘI-năm 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu
khoa học độc lập của tôi. Các số liệu và tư liệu trong
luận án đảm bảo độ tin cậy, chính xác và trung thực.
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về công trình
nghiên cứu của mình.
TÁC GIẢ LUẬN ÁN


MỤC LỤC

1.1.
1.2.
1.3.

2.1.
2.2.
2.3.

3.1.

3.2.

4.1.
4.2.


4.3.

Trang
MỞ ĐẦU
1
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
6
Tình hình nghiên cứu trong nước
6
Tình hình nghiên cứu ngoài nước
18
Đánh giá tình hình nghiên cứu liên quan đến luận án và những vấn
21
đề đặt ra tiếp tục nghiên cứu trong luận án
Chương 2: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HÀNH 24
QUYỀN CÔNG TỐ VÀ KIỂM SÁT XÉT XỬ VỤ ÁN HÌNH SỰ
CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN CẤP CAO
Những vấn đề lý luận về thực hành quyền công tố trong giai đoạn
24
xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân cấp cao
Những vấn đề lý luận về kiểm sát xét xử vụ án hình sự của Viện
44
kiểm sát nhân dân cấp cao
Mối quan hệ, các yếu tố tác động và tiêu chí đánh giá chất lượng
53
thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử vụ án hình sự của Viện
kiểm sát nhân dân cấp cao
Chương 3: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN 63
THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ VÀ KIỂM SÁT XÉT XỬ VỤ
ÁN HÌNH SỰ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN CẤP CAO Ở

NƯỚC TA HIỆN NAY
Quy định của pháp luật về thực hành quyền công tố và kiểm sát xét
63
xử vụ án hình sự của Viện Kiểm sát nhân dân cấp cao ở nước ta
hiện nay
Thực tiễn thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử vụ án hình
84
sự của Viện Kiểm sát nhân dân cấp cao ở nước ta hiện nay
Chương 4: YÊU CẦU, QUAN ĐIỂM ĐỊNH HƯỚNG VÀ CÁC 114
GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM CHẤT LƯỢNG THỰC HÀNH QUYỀN
CÔNG TỐ, KIỂM SÁT XÉT XỬ VỤ ÁN HÌNH SỰ CỦA VIỆN
KIỂM SÁT NHÂN DÂN CẤP CAO Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
Yêu cầu đặt ra cho thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử vụ 114
án hình sự của Viện Kiểm sát nhân dân cấp cao
Quan điểm định hướng đảm bảo chất lượng thực hành quyền công 120
tố và kiểm sát xét xử vụ án hình sự của Viện Kiểm sát nhân dân
cấp cao
Các giải pháp đảm bảo chất lượng thực hành quyền công tố và 121
kiểm sát xét xử vụ án hình sự của viện kiểm sát nhân dân cấp cao
KẾT LUẬN CHUNG
145
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ
147
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
148
PHỤ LỤC
154


NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT


1

BLTTHS

Bộ luật tố tụng hình sự

2

GĐT

Giám đốc thẩm

4

KSV

Kiểm sát viên

3

KSXX

Kiểm sát xét xử

5

PT

Phúc thẩm


6

QCT

Quyền công tố

7

TA

Tòa án

8

TAND

Tòa án nhân dân

10

TT

Tái thẩm

9

THQCT

Thực hành quyền công tố


11

VKS

Viện kiểm sát

12

VKSND

Viện kiểm sát nhân dân


DANH MỤC CÁC BẢNG PHỤ LỤC
Phụ lục 1

Thống kê kết quả kiểm sát bản án sơ thẩm hình sự của các
VKSND cấp cao từ ngày 01/6/2015 đến 30/11/2018

Phụ lục 2

Thống kê kết quả THQCT và KSXX PT án hình sự của các
VKSND cấp cao từ ngày 01/6/2015 đến 30/11/2018

Phụ lục 3

Thống kê kết quả giải quyết đơn đề nghị kháng nghị GĐT, TT
hình sự của các VKSND cấp cao từ ngày 01/6/2015 đến
30/11/2018


Phụ lục 4

Thống kê kết quả THQCT và KSXX GĐT, TT án hình sự của các
VKSND cấp cao từ ngày 01/6/2015 đến 30/11/2018

Phụ lục 5

Thống kê kết quả THQCT và KSXX PT án hình sự của các Viện
phúc thẩm VKSND tối cao từ ngày 01/12/2008 đến 31/5/2015


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Kết quả của các công trình nghiên cứu cho thấy, cùng với sự phát triển của
xã hội loài người, hoạt động điều tra, truy tố, xét xử người phạm tội ngày càng
phải chính xác, công bằng hơn, nhằm bảo vệ có hiệu quả hơn các lợi ích chung
của xã hội, đồng thời đảm bảo các quyền và tự do cơ bản của công dân. Xuất
phát từ yêu cầu khách quan của xã hội, hoạt động xét xử, một hoạt động tố tụng
rất quan trọng trong quá trình giải quyết vụ án hình sự dần phát triển các cơ chế
phù hợp để tăng cường tính chính xác, công bằng. Để hạn chế sai sót, có thể
kiểm soát và đánh giá lại bản án, quyết định của TA cấp dưới, cơ chế TA cấp
trên xét xử lại vụ án có bản án, quyết định chưa có hiệu lực (xét xử PT), hoặc xét
lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật (GĐT, TT) dần dần xuất hiện và
ngày nay mang tính phổ biến trên toàn thế giới. Trong quá trình đó, đồng hành
với hoạt động xét xử của TA luôn luôn là hoạt động THQCT của cơ quan công
tố và cả hoạt động KSXX ở một số nước. Như vậy có thể nói xét xử PT, GĐT,
TT cũng như THQCT và KSXX PT, GĐT, TT tồn tại như một nhu cầu tất yếu ở
mọi nền tư pháp, là một giai đoạn tố tụng quan trọng nhằm đảm bảo việc xét xử
vụ án hình sự được chính xác, công bằng.

Tuy mục tiêu cho hoạt động THQCT và KSXX PT, GĐT, TT vụ án hình
sự là giống nhau, nhưng các nước ở từng giai đoạn lịch sử có cách thức tổ chức
thực hiện khác nhau. Đối với nước ta, để khắc phục các bất cập, hạn chế, tăng
cường hiệu lực, hiệu quả hoạt động tư pháp, cần đổi mới tổ chức hoạt động của cơ
quan tư pháp, trong đó có việc tổ chức ra VKSND cấp cao. VKSND cấp cao là một
cấp kiểm sát mới trong hệ thống VKSND 4 cấp, có nhiệm vụ THQCT và KSXX
theo thủ tục PT đối với bản án, quyết định chưa có hiệu lực pháp luật của TA cấp
tỉnh; THQCT và KSXX theo thủ tục GĐT, TT đối với bản án, quyết định có hiệu
lực pháp luật của TA cấp tỉnh, cấp huyện. Đây là một lựa chọn hợp lý nhằm tăng
cường hiệu quả hoạt động của cả hệ thống VKS nói chung, hoạt động THQCT
và KSXX PT, GĐT, TT vụ án hình sự nói riêng.

1


Sau khi được thành lập, mặc dù phải thụ lý giải quyết khối lượng công việc
rất lớn, nhưng trong hơn 3 năm qua các Viện cấp cao cơ bản đã hoàn thành
nhiệm vụ THQCT và KSXX án hình sự theo các thủ tục PT, GĐT, TT. Tuy vậy
mô hình VKSND cấp cao còn hết sức mới mẻ ở nước ta. Các quy định của pháp
luật đảm bảo cho hoạt động của VKSND cấp cao nói chung, hoạt động THQCT
và KSXX vụ án hình sự nói riêng vẫn còn chưa đầy đủ và có những điểm chưa
phù hợp gây khó khăn cho hoạt động THQCT và KSXX án hình sự của VKSND
cấp cao. Cùng với đó, điều kiện hoạt động của các VKSND cấp cao còn rất thiếu
thốn về cơ sở vật chất, lực lượng cán bộ, lề lối làm việc. Thực tiễn thực hiện
nhiệm vụ THQCT và KSXX vụ án hình sự của VKSND cấp cao cho thấy, bên
cạnh những kết quả đạt được vẫn còn nhiều hạn chế. Do đó, việc nghiên cứu làm
rõ những vấn đề lý luận, tổng kết rút kinh nghiệm từ thực tiễn hoạt động, từ đó
đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác THQCT và KSXX vụ
án hình sự của VKSND cấp cao là rất cần thiết. Vì những lý do như trên, nghiên
cứu sinh đã chọn vấn đề “Thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử vụ án hình

sự của Viện kiểm sát nhân dân cấp cao ở nước ta hiện nay” làm đề tài nghiên cứu
của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
* Mục đích nghiên cứu của Luận án là làm rõ những vấn đề lý luận về
THQCT và KSXX vụ án hình sự, thực trạng quy định, áp dụng pháp luật về
THQCT và KSXX PT, GĐT, TT vụ án hình sự và đề xuất một số giải pháp nhằm
nâng cao chất lượng công tác này tại VKSND cấp cao.
* Để đạt mục đích đề ra, quá trình nghiên cứu Đề tài phải giải quyết một số
nhiệm vụ như sau:
- Làm rõ những vấn đề lý luận về thực hành quyền công tố và kiểm sát xét
xử theo thủ tục PT, GĐT, TT của VKSND cấp cao;
- Khảo sát thực trạng quy định của pháp luật và áp dụng các quy định pháp
luật về THQCT và KSXX vụ án hình sự của VKSND cấp cao ở nước ta hiện nay,
đánh giá những kết quả đạt được, những tồn tại hạn chế và nguyên nhân;

2


- Làm rõ yêu cầu, định hướng và đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu
quả THQCT và KSXX vụ án hình sự tại VKSND cấp cao.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
* Đối tượng nghiên cứu là lý luận và thực tiễn THQCT và KSXX vụ án
hình sự của VKSND cấp cao.
* Phạm vi nghiên cứu của luận án: Đề tài được thực hiện trong phạm vi
của khoa học Luật Hình sự và Luật Tố tụng hình sự; sử dụng số liệu thống kê về
hoạt động THQCT và KSXX PT, GĐT, TT vụ án hình sự của 03 VKSND cấp cao
và các bộ phận thuộc hệ thống cơ quan VKSND trước đây đã thực hiện nhiệm vụ
tương ứng trong thời gian 10 năm gần đây.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận án
* Phương pháp luận: Luận án dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa

Mác – Lênin, lý luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử; đồng thời dựa trên
tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật, quan điểm của Đảng, Nhà nước
ta về cải cách tư pháp trong những năm qua.
* Các phương pháp nghiên cứu cụ thể:
Luận án sử dụng các phương pháp phân tích, tổng hợp hệ thống, nghiên
cứu luật so sánh, tập trung nhất ở Chương 2 để làm rõ những vấn đề lý luận về
THQCT và KSXX nói chung, THQCT và KSXX PT, GĐT, TT của VKSND cấp
cao nói riêng;
Phương pháp khảo sát thực tiễn, phân tích so sánh, tọa đàm khoa học,
phỏng vấn trực tiếp chuyên gia, sử dụng số liệu thống kê của ngành kiểm sát
nhằm tìm hiểu về luật thực định về THQCT và KSXX PT, GĐT, TT của
VKSND cấp cao cũng như đánh giá thực tiễn THQCT và KSXX PT, GĐT, TT
của VKSND cấp cao trong những năm qua, so sánh với giai đoạn trước đây được
sử dụng tập trung ở Chương 3;
Phương pháp tổng hợp, phân tích-dự báo nhằm dự báo xu hướng và nhu
cầu cần thiết về nâng cao chất lượng THQCT và KSXX PT, GĐT, TT của
VKSND cấp cao các biện pháp cần thực hiện trong thời gian tới tập trung ở

3


Chương 4.
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
Cùng với việc kế thừa những kết quả nghiên cứu về THQCT và KSXX đã
có, Luận án đóng góp mới về khoa học như sau:
- Tiếp tục nghiên cứu làm rõ một số vấn đề lý luận, như: Chủ thể, đối
tượng, nội dung, phạm vi của THQCT và KSXX PT, GĐT, TT vụ án hình sự.
- Tiếp tục khảo sát và nghiên cứu toàn diện, tổng kết thực tiễn dưới góc độ
khoa học hoạt động xây dựng pháp luật cũng như áp dụng các quy định của pháp
luật về THQCT và KSXX vụ án hình sự của các VKSND cấp cao; phát hiện,

đánh giá đúng những kết quả đạt được, tồn tại hạn chế và nguyên nhân của nó.
- Lảm rõ các yêu cầu mới đặt ra cho hoạt động THQCT và KSXX vụ án
hình sự của các VKSND cấp cao trong giai đoạn hiện nay; đề xuất, kiến nghị
phù hợp để nâng cao chất lượng hoạt động này.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
Đây là công trình khoa học nghiên cứu về THQCT và KSXX PT, GĐT, TT
vụ án hình sự tại các VKSND cấp cao ở Việt Nam. Với những phương pháp
nghiên cứu khoa học, Luận án đã đi sâu phân tích, luận giải những vấn đề lý
luận, pháp luật thực định và thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật về THQCT
và KSXX PT, GĐT, TT vụ án hình sự tại các VKSND cấp cao; đánh giá thực
tiễn quy định pháp luật, áp dụng quy định pháp luật về THQCT và KSXX PT,
GĐT, TT vụ án hình sự tại các VKSND cấp cao trong những năm qua; đề xuất
đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật cũng như để đảm bảo hiệu
quả các quy định của pháp luật, nâng cao chất lượng về THQCT và KSXX PT,
GĐT, TT vụ án hình sự tại các VKSND cấp cao trong thời gian tới.
Các kết quả nghiên cứu của Luận án có ý nghĩa quan trọng, là cơ sở cho
các nghiên cứu chuyên sâu về THQCT và KSXX vụ án hình sự. Luận án còn có
giá trị tham khảo hữu ích trong nghiên cứu, giảng dạy và học tập, cũng như trong
thực tiễn THQCT và KSXX PT, GĐT, TT vụ án hình sự tại các VKSND cấp
cao.

4


7. Cơ cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, các phụ lục,
Luận án gồm có 4 chương:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu
Chương 2: Những vấn đề lý luận về thực hành quyền công tố và kiểm sát


xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân cấp cao
Chương 3: Quy định của pháp luật và thực tiễn thực hành quyền công tố

và kiểm sát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân cấp cao ở nước
ta hiện nay
Chương 4: Yêu cầu, quan điểm định hướng và các giải pháp bảo đảm

chất lượng thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử vụ án hình sự của
Viện kiểm sát nhân dân cấp cao ở nước ta hiện nay

5


Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1. Tình hình nghiên cứu trong nước
Đến nay trong nước đã có khá nhiều công trình nghiên cứu các vấn đề liên
quan đến đề tài Luận án ở nhiều góc độ khác nhau, có thể phân chia thành một số
nhóm như sau:
1.1.1. Nhóm các công trình nghiên cứu về quyền công tố, thực hành
quyền công tố và kiểm sát xét xử
THQCT và KSXX PT, GĐT, TT vụ án hình sự của VKSND cấp cao là
một dạng hoạt động THQCT và kiểm sát hoạt động tư pháp, do vậy nghiên cứu
những vấn đề lý luận chung về QCT, THQCT và kiểm sát hoạt động tư pháp là
cơ sở để tiếp tục nghiên cứu sâu hơn, cụ thể hơn về THQCT và KSXX PT, GĐT,
TT. Liên quan đến những vấn đề lý luận chung về QCT, THQCT và kiểm sát
hoạt động tư pháp có thể kể đến một số công trình sau đây:
* Liên quan đến QCT, THQCT:
Trong nhóm liên quan đến QCT, THQCT đáng chú ý có các công trình
như Luận án tiến sỹ luật học “QCT ở Việt Nam” của tác giả Lê Thị Tuyết Hoa

(Viện nhà nước và pháp luật 2002), sách chuyên khảo “THQCT và kiểm sát hoạt
động tư pháp trong giai đoạn điều tra” của tác giả Lê Hữu Thể (Nxb Tư pháp,
2005), Luận án tiến sỹ luật học “THQCT trong TTHS từ thực tiễn tỉnh Nghệ An”
của tác giả Tôn Thiện Phương (Học viện khoa học xã hội năm 2017). Các công
trình đã nghiên cứu khá toàn diện, sâu sắc những vấn đề lý luận về nguồn gốc,
khái niệm, phạm vi, nội dung QCT, THQCT. Các giả cũng đã rất cố gắng phân
biệt làm rõ các khái niệm QCT và THQCT, mối quan hệ giữa QCT và THQCT –
một mối quan hệ biện chứng giữa quyền lực nhà nước và cách thức tổ chức thực
hiện quyền lực ấy; mối quan hệ giữa THQCT và KSXX là 2 chức năng của
VKS, tuy độc lập nhưng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Kết quả nghiên cứu
cũng làm rõ nội dung THQCT trong các giai đoạn tố tụng khác nhau, trong đó có

6


giai đoạn xét xử. Các công trình đã cung cấp kiến thức nền tảng cơ bản, có giá trị
tham khảo rất tốt khi nghiên cứu về đề tài Luận án.
Ngoài ra, góp phần làm rõ những vấn đề lý luận về QCT có khá nhiều bài
viết nêu lên những quan niệm khác nhau về QCT, thực tiễn THQCT ở nước ta
hiện nay như: bài viết "Cơ quan THQCT trong cải cách tư pháp ở nước ta hiện
nay" của TS Đỗ Văn Đương in trên Tạp chí Nghiên cứ lập pháp số 07/ 2006;
“QCT và tổ chức thực hiện QCT trong nhà nước pháp quyền” của TS Nguyễn
Minh Đức in trên Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 1, 2/ 2012; “VKS với hai chức
năng THQCT và kiểm sát hoạt động tư pháp và sự lựa chọn thích hợp trong quá
trình xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam” của TS Nguyễn Văn
Quảng trên Tạp chí Kiểm sát số 13/2012; “Công tố và THQCT trong tố tụng
hình sự” của tác giả Trần Đình Nhã trên Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số
21/2014;...
Bên cạnh đó, trong những năm gần đây còn có nhiều công trình nghiên cứu
về QCT, THQCT ở những góc độ khác, như Luận án tiến sỹ luật học “Các chức

năng trong TTHS Việt Nam: những vần đề lý luận và thực tiễn” của tác giả
Nguyễn Mạnh Hùng (Học viện khoa học xã hội năm 2012). Trong luận án của
mình tác giả nhìn nhận buộc tội (công tố) cùng với bào chữa, xét xử được xác
định là 3 chức năng cơ bản của TTHS. Các chức năng này có vị trí, vai trò, bản
chất, đặc trưng khác nhau, có sự độc lập với nhau, nhưng lại có mối liên hệ chặt
chẽ, ràng buộc nhau, đảm bảo sự vận hành của TTHS. Theo tác giả dù dưới hình
thức tố tụng nào (tố cáo, thẩm vấn, tranh tụng,...) thì ba chức năng này vẫn luôn
xuất hiện và tồn tại, chúng chỉ khác trong cách thể hiện mà thôi. Những kết quả
nghiên cứu trên mang đến những nhìn nhận đầy đủ, toàn diện hơn về QCT, khi
đặt QCT trong mối tương tác với các chức năng tố tụng khác.
Tương tự như vậy, gần đây nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu THQCT
theo những cách thức mới, không chỉ là những hoạt động độc lập, mà cách thức
THQCT, địa vị pháp lý của KSV nói riêng được đặt trong trong mối liên hệ với
cách thức tổ chức hoạt động tố tụng hình sự nói chung, trong mối quan hệ với

7


các chủ thể khác trong quá trình tố tụng..., như Luận án tiến sỹ luật học “Mô
hình TTHS Việt Nam và vấn đề áp dụng tố tụng tranh tụng” của tác giả Nguyễn
Thị Thủy (2014). Trong luận án của mình tác giả đã nghiên cứu một số vấn đề lý
luận cơ bản về mô hình TTHS; những tiêu chí khoa học về phân loại các mô
hình TTHS; làm rõ lịch sử hình thành, phát triển, đặc điểm, ưu thế, hạn chế của
các mô hình TTHS điển hình trên thế giới và xu thế phát triển chung của các mô
hình TTHS. Kết quả nghiên cứu cho thấy chức năng công tố ở các mô hình tố
tụng vận hành theo những cách thức khác nhau, phù hợp với mô hình tố tụng; ở
chiều ngược lại, chức năng công tố là một thành tố của mô hình tố tụng, cách
thức vận hành của nó cũng tác động đến cách thức hoạt động của các thành tố
khác trong mô hình tố tụng đó.
Các vấn đề trên còn được nhiều tác giả khác quan tâm, thông qua các

nghiên cứu về vị trí, chức năng, nhiệm vụ quyền hạn của các chủ thể thực hiện
các chức năng tố tụng trong các mô hình khác nhau, trong đó có việc thực hiện
chức năng buộc tội, thực tiễn ở nước ta hiện nay và các đề xuất hoàn thiện như:
tác giả Nguyễn Trương Tín với bài viết “Một số vấn đề lý luận về chức năng
buộc tội trong tố tụng hình sự và vấn đề sửa đổi, bổ sung Bộ luật tố tụng hình sự
2003 liên quan đến chức năng buộc tội” in trên Tập chí Nhà nước Pháp luật
8/2009; tác giả Nguyễn Đức Mai với bài viết “Đặc điểm của mô hình tố tụng
tranh tụng và phương hướng hoàn thiện mô hình tố tung hình sự ở Việt Nam”
trên Tạp chí Toà án nhân dân số 23, 24/2009; TS Lê Hữu Thể, Nguyễn Thị Thuỷ
với “Hoàn thiện mô hình tố tụng hình sự Việt Nam theo yêu cầu cải cách tư
pháp” trên Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 18/2010; tác giả Nguyễn Duy Giảng
với bài viết “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về việc tăng cường vai trò của
Viện kiểm sát trong mô hình tố tụng hình sự Việt Nam” in trên Tạp chí Kiểm sát
2/2011; tác giả Nguyễn Ngọc Chí với bài viết “Cơ sở lựa chọn mô hình Tố tụng
hình sự đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam” trên Tạp chí Dân chủ và
Pháp luật số chuyên đề Các cơ quan Tư pháp trong Nhà nước pháp quyền 2011...
* Liên quan đến kiểm sát hoạt động tư pháp:

8


KSXX là một dạng hoạt động kiểm sát hoạt động tư pháp, những vấn đề
này đã được đặt ra nghiên cứu trong khá nhiều công trình, như Đề tài khoa học
cấp bộ “Bàn về chức năng giám sát việc thực hiện quyền lực của nhà nước và
chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật của VKS ở nước ta” của VKSND tối
cao (2010). Công trình đã nghiên cứu, làm sáng tỏ về quyền lực nhà nước, sự tất
yếu cần phải giám sát việc thực hiện quyền lực nhà nước. Sự hiện diện của VKS
với chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật không phải là sản phẩm của một
chế độ xã hội theo kiểu quốc gia XHCN hay quốc gia TBCN, mà bởi đặc điểm
lịch sử, tính đặc thù của văn hóa, của truyền thống v.v… Đối với công tác

KSXX, thông qua hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động
xét xử của Toà án nhân dân, của những người tham gia tố tụng, VKS có vai trò
quan trọng trong kiểm tra, giám sát quyền lực tư pháp, có một vai trò và vị trí mà
các thiết chế khác không thay thế được.
Đề tài khoa học cấp bộ “VKS ở các nước chuyển đổi và bài học kinh
nghiệm đối với Việt Nam trong quá trình cải cách tư pháp” của VKSND tối cao
(2012) cho thấy, những thay đổi về chính trị, kinh tế, xã hội của các nước chuyển
đổi sau khi Liên Xô sụp đổ năm 1991 có ảnh hưởng sâu sắc đến mô hình VKS
trên tất cả các phương diện vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ
máy,... Sau chuyển đổi, bên cạnh chức năng công tố, VKS ở đa số các nước này
vẫn tiếp tục thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật. Qua nghiên
cứu, Đề tài cho rằng ở nước ta trong những năm tới cần khẳng định và duy trì hai
chức năng THQCT và kiểm sát các hoạt động tư pháp của VKSND.
Trong Đề án cấp bộ “Nghiên cứu về quyền tư pháp, hoạt động tư pháp, cơ
quan tư pháp và kiểm sát hoạt động tư pháp” của VKSND tối cao (2013) các tác
giả đã đi sâu làm rõ bản chất, nội dung và đặc điểm của quyền tư pháp, hoạt
động tư pháp, chủ thể các hoạt động tư pháp. Kết quả nghiên cứu cho thấy cấu
trúc và thẩm quyền và nhiệm vụ, địa vị pháp lý của các cơ quan tư pháp ở các
nước là rất đa dạng. Ở nhiều nước hình thức giám sát hoạt động xét xử phổ biến
thông qua tuyển chọn, bầu cử, bổ nhiệm thẩm phán. Tuy vậy ở nước ta cần thiết

9


duy trì chức năng “kiểm sát các hoạt động tư pháp” nói chung, KSXX nói riêng,
nhằm bảo đảm để các hoạt động của các chủ thể diễn ra trong giai đoạn này phù
hợp với pháp luật, tuân theo pháp luật.
Việc nghiên cứu về kiểm sát hoạt động tư pháp nói chung, KSXX nói riêng
trong những năm gần đây tiếp tục có những phát triển mới, đi sâu, cụ thể hơn.
Đề tài khoa học cấp bộ “Kiểm sát các hoạt động tư pháp ở Việt Nam theo yêu

cầu cải cách tư pháp – Những vấn đề đặt ra đối với việc hoàn thiện pháp luật”
của VKSND tối cao (2014) đã tập trung làm rõ khái niệm, khách thể, đối tượng,
phạm vi của chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp... Các tác giả cho rằng, kiểm
sát hoạt động tư pháp là hoạt động của VKS để kiểm sát tính hợp pháp của các
hành vi, quyết định của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động tư pháp; được
thực hiện từ khi tiếp nhận và giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị
khởi tố và trong suốt quá trình giải quyết vụ án hình sự. Trong giai đoạn xét xử,
hai chức năng THQCT và kiểm sát các hoạt động tư pháp là cùng do KSV thực
hiện, tuy nhiên mục đích và nội dung của các chức năng là khác nhau. Để tránh
sự mập mờ trong nhận thức, hạn chế trong thực tiễn thi hành thì các quy định của
pháp luật cần phân định rõ các chức năng này. Ngoài ra Đề tài cũng nghiên cứu
về chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp nói chung KSXX nói riêng ở nước ta
và ở một số nước trên thế giới – cung cấp nhiều thông tin cần thiết trong quá
trình xây dựng Luận án.
Ngoài các công trình trên, liên quan đến kiểm sát hoạt động tư pháp,
KSXX còn có khá nhiều công trình, bài viết khác nghiên cứu, góp phần làm sáng
tỏ các vấn đề như quan niệm về cơ quan tư pháp, quan niệm về kiểm sát hoạt
động tư pháp, KSXX, thẩm quyền, phạm vi, hình thức thực hiện công tác kiểm
sát, phân biệt kiểm sát hoạt động tư pháp với thực hành quyền công tố trong hoạt
động thực hiện chức năng của VKS... có thể kể đến như bài viết “Quan niệm về
cơ quan tư pháp và hoạt động tư pháp” của PGS, TS Phạm Hồng Hải trên Tạp
chí Kiểm sát số 8/ 2002; “Tư pháp hình sự và yêu cầu tăng cường kiểm sát hoạt
động tư pháp hình sự” của TS Nguyễn Thị Thủy trên Nghiên cứu lập pháp số

10


13/2009; “Một số vấn đề về hoạt động tư pháp và kiểm sát hoạt động tư pháp ở
nước ta hiện nay” của tác giả Trần Văn Độ trên Tạp chí Luật học số 2/2014; TS
Đỗ Văn Đương với “ Đảm bảo tính độc lập của VKS và vai trò của VKS trong

kiểm sát các hoạt động tư pháp - kinh nghiệm từ thực tiễn Việt Nam” trên Tạp
chí Kiểm sát số 13/2012...
1.1.2. Nhóm các công trình nghiên cứu về thực hành quyền công tố và
kiểm sát xét xử phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm vụ án hình sự
Theo quy định của pháp luật ở nước hiện nay, THQCT và kiểm sát sát hoạt
động tư pháp trong quá trình giải quyết vụ án hình sự được thực hiện ở nhiều
giai đoạn khác nhau, từ giải quyết tin báo tố giác tội phạm, khởi tố, điều tra, truy
tố, và tiếp tục được thực hiện liên tục ở các giai đoạn xét xử sơ thẩm, PT, GĐT,
TT. Các hoạt động THQCT và kiểm sát hoạt động tư pháp này do nhiểu cấp,
nhiều bộ phận khác nhau của cơ quan VKS thực hiện; trong đó VKSND cấp cao
ở nước ta hiện nay chỉ có nhiệm vụ THQCT và KSXX theo thủ tục PT, GĐT,
TT. Lịch sử tư pháp cho thấy cách thức tổ chức, vận hành hoạt động THQCT và
KSXX PT, GĐT, TT ở các nước là khác nhau và ở từng nước cũng khác nhau
qua các thời kỳ. Nghiên cứu về các vấn đề này có thể kể đến một số công trình
như:
* Nhóm công trình liên quan đến hoạt động xét xử PT, GĐT, TT.
Hoạt động THQCT và KSXX nói chung, trong đó có THQCT và KSXX
trong giai đoạn PT, GĐT, TT nói riêng có mối liên hệ chặt chẽ, quy định lẫn
nhau với các hoạt động tố tụng khác trong giai đoạn xét xử. Do đó nghiên cứu về
THQCT và KSXX thì cần nghiên cứu về hoạt động xét xử.
Liên quan đến hoạt động xét xử PT có thể kể đến Luận án tiến sĩ “Nguyên
tắc hai cấp xét xử trong TTHS Việt Nam” của Vũ Gia Lâm (2008). Công trình
đã làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về xét xử và cấp xét xử trong tố tụng nói
chung và tố tụng hình sự nói riêng. Kết quả các công trình nghiên cứu cho thấy,
xuất phát từ đòi hỏi việc xét xử phải chính xác, công bằng, nên cần các cấp TA
khác nhau để TA cấp trên xem xét lại bản án của TA cấp dưới. Sự ra đời của

11



nguyên tắc 2 cấp xét xử là một nhu cầu tất yếu khách quan khi sự phát triển của
xã hội loài người phát triển đến một trình độ nhất định. Trên cơ sở nghiên cứu
sâu sắc về khái niệm, nội dung, ý nghĩa của Nguyên tắc, Luận án cũng đưa ra
nhiều đề xuất, kiến nghị nhằm tăng cường chất lượng hoạt động tiến hành tố
tụng trong giai đoạn xét xử nói chung, công tác THQCT và KSXX nói riêng.
Cùng nghiên cứu về xét xử PT còn phải kể đến Luận án tiến sĩ “PT trong
TTHS” của Nguyễn Đức Mai (2004). Trong công trình của mình tác giả đã
nghiên cứu khá toàn diện về PT trong TTHS. Về mặt lý luận, công trình đã làm
rõ được sự cần thiết, bản chất của PT trong TTHS; đồng thời cũng cho thấy các
quan điểm về giới hạn, phạm vi, thẩm quyền, thủ tục ... rất đa dạng, khác nhau
với mỗi nước qua các thời kỳ. Với những kết quả đạt được luận án rất có giá trị
khi nghiên cứu về THQCT và KSXX PT của VKSND cấp cao khi nghiên cứu nó
trong tổng thể các hoạt động tố tụng trong giai đoạn này.
Đối với hoạt động xét xử GĐT có thể kể đến Luận án tiến sĩ “GĐT trong
TTHS Việt Nam” của Phan Thị Thanh Mai (2007). Luận án đã làm sáng tỏ
những dấu hiệu đặc trưng của GĐT trong tố tụng hình sự, góp phần thống nhất
nhận thức về bản chất, ý nghĩa của GĐT và nội dung của chế định GĐT. Luận án
cũng phân tích, đánh giá một cách khoa học những quy định của pháp luật thực
định về GĐT và thực tiễn GĐT ở nước ta hiện nay. Kết quả nghiên cứu cho thấy
những điểm khác biệt của giai đoạn GĐT so với các giai đoạn xét xử sơ thẩm,
PT, do đó THQCT và KSXX trong giai đoạn GĐT cũng cần được điều chỉnh
phù hợp.
Liên quan đến cách thức phân cấp xét xử, góp phần lý giải lý do cần tổ
chức lại hệ thống cơ quan tòa án, cần có thêm các TAND cấp cao (cũng là lý do
để có thêm VKSND cấp cao) có thể thể kể đến Đề án thành lập TA sơ thẩm khu
vực, tòa PT, tòa thượng thẩm, đổi mới tổ chức và hoạt động của TAND tối cao.
Đánh giá về thực tiễn tổ chức và hoạt động, TAND tối cao đã nêu ra khá nhiều
tồn tại, bất cập như việc xác định thẩm quyền xét xử của mỗi TA vừa theo lãnh
thổ, vừa theo tính chất vụ việc còn nhiều bất hợp lý; nhiệm vụ của TAND tối cao


12


nặng nề ... Do vậy, cần thiết phải tiếp tục cải cách, đổi mới hệ thống TAND nước
ta gồm 4 cấp theo đúng tinh thần Nghị quyết 49-NQ/TƯ.
Ngoài các công trình trên, liên quan đến hoạt động xét xử PT, GĐT, TT
còn có rất nhiều bài viết trên các tạp chí nghiên cứu. Các bài viết này nêu ra
những điểm mâu thuẫn, bất cập trong các quy định của pháp luật, tranh luận về
cách hiểu, cách áp dụng, đồng thời kiến nghị sửa đổi các quy định của pháp luật
về xét xử PT, GĐT, TT như: bài viết “Hoàn thiện một số quy định về xét xử PT
hình sự nhằm thực hiện có hiệu quả nguyên tắc hai cấp xét xử” của tác giả Vũ
Gia Lâm trên Tạp chí Toà án nhân dân số 23/2006; “Một số vấn đề về phạm vi
xét xử và quyền hạn của hội đồng xét xử PT vụ án hình sự” của tác giả Vũ Gia
Lâm(2009) trên Tạp chí Toà án nhân dân số 18/2009; “Thủ tục xét xử PT vụ án
hình sự theo pháp luật của một số nước” của tác giả Nguyễn Đức Mai trên Tạp
chí Toà án nhân dân số 2/2010; tác giả Nguyễn Văn Trượng với một loạt bài viết
như: “Một số vướng mắc khi áp dụng quy định của BLTTHS năm 2003 về xét
xử PT” trên Tạp chí Toà án nhân dân số 4/2005, “Cần sửa đổi bổ sung một số
quy định của BLTTHS năm 2003 về thủ tục xét xử phúc thẩm” trên Tạp chí
Kiểm sát số 17/2006, “Một số vướng mắc khi áp dụng quy định của BLTTHS
năm 2003 về xét xử PT” trên Tạp chí Toà án nhân dân số 15/2006, “Hoàn thiện
một số quy định của BLTTHS về xét xử PT theo tinh thần cải cách tư pháp” trên
Tạp chí Toà án nhân dân số 22/2008, “Cần sửa đổi, bổ sung một số quy định của
BLTTHS về thủ tục xét xử PT theo yêu cầu cải cách tư pháp” trên Tạp chí Dân
chủ và Pháp luật số 2/2010, “Hoàn thiện một số quy định của BLTTHS về xét xử
PT” trên Tạp chí Dân chủ và Pháp luật số 11/2011; “TA cấp PT hủy án sơ thẩm
để xét xử lại theo hướng có tội - những vấn về lý luận và thực tiễn” của tác giả
Đinh Văn Quế trên Tạp chí TAND số 8/2013; “Một số vướng mắc khi áp dụng
các quy định của pháp luật trong xét xử PT vụ án hình sự” của tác giả Dương Thị
Diệu Hiền trên Tạp chí Khoa học pháp lý số 3/2014...

Đặc biệt trong giai đoạn nghiên cứu xây dựng BLTTHS 2015 có khá nhiều
bài viết góp ý vào các dự thảo như “Góp ý một số quy định về xét xử PT trong

13


Dự thảo BLTTHS (sửa đổi)” của tác giả Mai Thị Thanh Thảo trên Tạp chí Kiểm
sát số 6/2015; “Bình luận một số quy định về xét xử sơ thẩm và PT trong Dự
thảo BLTTHS (sửa đổi)” của tác giả Phạm Công Hùng trên Tạp chí Kiểm sát số
10/2015; “Không làm xấu hơn tình trạng của bị cáo và đương sự trong xét xử
PT” của tác giả Mai Thanh Hiếu trên Tạp chí Luật học số 10/2015; “Một số vấn
đề về các quy định chung trong thủ tục xét xử PT” của tác giả Duy Kiên trên Tạp
chí Kiểm sát số Tân Xuân/2015; ...
* Nhóm các công trình liên quan đến nội dung THQCT và KSXX PT, GĐT,
TT của KSV
Bên cạnh nhóm công trình liên quan đến hoạt động xét xử PT, GĐT, TT,
mà thực chất trong đó đã có đề cập đến hoạt động THQCT và KSXX, còn có
không ít nghiên cứu chuyên sâu, đề cập trực diện đến THQCT và KSXX của
KSV trong giai đoạn này. Liên quan đến nội dung này có thể kể đến một số công
trình như cuốn “Kỹ năng THQCT và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong
TTHS” của Học viện tư pháp (2005), “Tranh luận tại phiên tòa PT”, “Kỹ năng
THQCT và KSXX vụ án hình sự theo thủ tục GĐT và TT”của TS Dương Thanh
Biểu (2008, 2010). Cùng với việc phân tích tính chất của giai đoạn xét xử PT,
GĐT và TT, vị trí, nhiệm vụ, quyền hạn của KSV trong giai đoạn này theo quy
định của luật thực định ở nước ta cũng như quan điểm của một số nước khác; các
cuốn sách cũng đã tổng kết từ thực tiễn, nêu ra được khá phong phú, sinh động
những kỹ năng, những hoạt động KSV phải thực hiện khi THQCT và KSXX
trước khi mở phiên tòa, tại phiên tòa, sau khi kết thúc phiên tòa trong các giai
đoạn này...
Những nội dung quan trọng nhất của THQCT và KSXX của KSV đã được

pháp luật TTHS và luật tổ chức VKSND quy định, điều chỉnh. Do vậy, các tài
liệu nghiên cứu về các ngành luật này có giá trị quan trọng trong việc làm sáng
tỏ nội dung THQCT và KSXX. Thuộc nhóm này có thể kể đến Bình luận khoa
học BLTTHS do PGS, TS Võ Khánh Vinh chủ biên (NXB Công an nhân dân
2004), Giáo trình luật tố tụng hình sự của Trường đại học luật Hà Nội (NXB

14


Công an nhân dân, 2007), Bình luận khoa học BLTTHS 2003 do PGS, TS
Nguyễn Ngọc Anh chủ biên (NXB Chính trị quốc gia 2009). Đặc biệt, sau khi
BLTTHS 2015 ra đời đã có những nghiên cứu kịp thời các quy định mới của
pháp luật như cuốn “Những nội dung mới trong BLTTHS năm 2015” do PGS,
TS Nguyễn Hòa Bình chủ biên (NXB Chính trị quốc gia sự thật, 2016), Giáo
trình luật tố tụng hình sự của Trường đại học luật Hà Nội (NXB Công an nhân
dân, 2016), Bình luận khoa học BLTTHS năm 2015 do TS Phạm Mạnh Hùng
chủ biên (NXB Lao động, 2018), Bình luận khoa học BLTTHS năm 2015 do
GS, TS Nguyễn Ngọc Anh và Luật sư, TS Phan Trung Hoài đồng chủ biên
(NXB Chính trị quốc gia sự thật, 2018),...
Kháng nghị PT là thẩm quyền quan trọng được quy định trong BLTTHS,
để VKS nói chung, VKS cấp cao nói riêng thực hiện chức năng THQCT và
KSXX. Nghiên cứu về thẩm quyền này có thể kể đến Luận án tiến sĩ: “Chế định
kháng nghị PT hình sự, những vấn đề lý luận và thực tiễn” Nguyễn Huy Tiến
(2015). Trong luận án của mình tác giả đã có những nghiên cứu rất sâu sắc về
nguồn gốc, bản chất, ý nghĩa, nguyên tắc của kháng nghị PT; phân tích các quy
định về kháng nghị PT trong pháp luật thực định ở nước ta và một số nước qua
các thời kỳ, thực tiến áp dụng chế định kháng nghị PT của VKS các cấp trong
giai đoạn hiện nay... do đó công trình rất có ý nghĩa tham khảo khi nghiên cứu về
vấn đề THQCT và KSXX PT của VKS.
Trong các vấn đề về THQCT và KSXX của KSV, tranh tụng là nội dung

được quan tâm nghiên cứu trong những năm gần đây. Nghiên cứu về vấn đề này
có thể kể đến Luận án tiến sỹ luật học “Nguyên tắc tranh tụng trong TTHS việt
nam - những vấn đề lý luận và thực tiễn” của Nguyễn Văn Hiển (2010), Đề tài
khoa học cấp bộ “Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử và những vấn đề đặt ra đối
với việc sửa đổi BLTTHS” của VKSND tối cao (2015). Trong công trình của
mình, các tác giả khằng định, sự tồn tại khách quan của hai chức năng buộc tội
và gỡ tội làm xuất hiện nhu cầu đối chất, tranh tụng giữa hai nhóm chủ thể có
quyền và lợi ích đối chọi nhau nhằm bảo vệ quan điểm của mình và phủ định,

15


phản bác quan điểm của chủ thể đối lập. Như vậy, muốn hay không muốn, nhà
làm luật có ghi nhận hay không ghi nhận thì tranh tụng vẫn tồn tại trong TTHS
với tính chất là một thuộc tính khách quan của TTHS. Tuy nhiên, thuộc tính này
bộc lộ, biểu hiện như thế nào thì lại phụ thuộc vào các yếu tố chính trị, văn hoá,
lịch sử, truyền thống, mô hình tố tụng của mỗi quốc gia, mỗi giai đoạn lịch sử cụ
thể. Mặc dù chưa được quy định là một nguyên tắc, nhưng trong các BLTTHS ở
nước ta đã có nhiều quy định nhằm bảo đảm sự tranh tụng giữa các bên trong.
Thực tiễn thực hiện mở rộng tranh tụng tại phiên toà thời gian qua đã thu được
những kết quả đáng khích lệ. Tuy nhiên, để tăng cường tranh tụng, các tác giả
cũng đề xuất sửa đổi một số quy định của BLTTHS để tăng cường tranh tụng
trong TTHS Việt Nam.
Ngoài các công trình trên, liên quan đến nội dung hoạt động THQCT và
KSXX PT, GĐT, TT của KSV còn có rất nhiều bài viết như: tác giả Nguyễn Huy
Tiến với các bài viết “Một số vấn đề liên quan đến trách nhiệm, quyền hạn của
VKS trong giai đoạn xét xử phúc thẩm hình sự” trên Tạp chí Kiểm sát số
17/2009, “Hoàn thiện quy định của BLTTHS về nhiệm vụ, quyền hạn và trách
nhiệm của VKS trong giai đoạn xét xử PT các vụ án hình sự” trên Tạp chí Nhà
nước và Pháp luật số 1/2010; “Về THQCT trong giai đoạn xét xử” của tác giả Lý

Văn Chính trên Tạp chí Toà án nhân dân số 12/2006; “Một số trường hợp giải
quyết kháng cáo, kháng nghị liên quan đến phạm vi xét xử PT vụ án hình sự”
của tác giả Quách Thành Vinh trên Tạp chí Toà án nhân dân số 17/2009; “Một
số vấn đề về hoạt động điều tra bổ sung của VKS ở giai đoạn xét xử PT” của tác
giả Nguyễn Thị Phương Thảo trên Tạp chí Kiểm sát số 6/2012 ....
* Nhóm các công trình liên quan đến đánh giá kết quả, đề xuất biện pháp
tổ chức thực hiện công tác THQCT và KSXX PT, GĐT, TT
Các công trình liên quan đến đánh giá kết quả, đề xuất biện pháp tổ chức
thực hiện công tác THQCT và KSXX PT, GĐT, TT của VKS khá phong phú. Có
thể kể đến như các Đề tài khoa học cấp bộ: “Thực trạng và giải pháp nâng cao
chất lượng và hiệu quả công tác THQCT và KSXX các vụ án hình sự”, “Nâng

16


cao chất lượng công tác THQCT và KSXX PT đối với các vụ án kinh tế chức
vụ”, sách chuyên khảo “Tổng kết 50 năm công tác THQCT và KSXX hình sự
của VKSND” của VKSND tối cao. Các công trình nghiên cứu đã phân tích vị trí,
vai trò, nội dung và phạm vi của công tác THQCT và KSXX hình sự; qua tổng
hợp, phân tích, đánh giá số liệu, hoặc minh họa bằng các vụ án cụ thể sinh động
để khái quát kết quả công tác này của toàn ngành Kiểm sát qua các thời kỳ khác
nhau, đánh giá kết quả đạt được, tồn tại hạn chế và nguyên nhân. Trên cơ sở đó
đưa ra các giải pháp góp phần nâng cao chất lượng công tác THQCT và kiểm sát
hoạt động tư pháp ở giai đoạn xét xử các vụ án hình sự.
Bên cạnh đó một số công trình đi sâu đánh giá kết quả một khâu, một mặt
công tác THQCT và KSXX cụ thể của VKS như một số Đề tài khoa học cấp bộ
“Các giải pháp nâng cao chất lượng tranh tụng của KSV tại phiên tòa hình sự sơ
thẩm trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh” của VKSND tỉnh Bắc Ninh (2009), “Những
giải pháp nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa của KSV” của VKSND
tỉnh Phú Thọ (2005) tập trung đánh giá thực trạng tranh tụng trên địa bàn. Kết

quả nghiên cứu thể hiện, thực hiện tinh thần Nghị quyết 08, 49 VKS địa phương
đã có nhiều biện pháp tuyên truyền nâng cao nhận thức của cán bộ, KSV về
tranh tụng, chất lượng tranh tụng của KSV ngày càng nâng lên (thể hiện qua chất
lượng bản luận tội nâng lên, việc thẩm vấn của KSV đã chủ động, đạt chất lượng
cao), việc tham gia bào chữa của luật sư ngày càng được chú trọng. Đánh giá về
nguyên nhân hạn chế tranh tụng, đề tài có một số nhận xét đáng chú ý như: do
pháp luật chưa quy định cụ thể về tranh tụng, người tiến hành tố tụng chưa nắm
vững nhiệm vụ, vai trò của mình tại phiên tòa, trình độ nhận thức pháp luật của
bị cáo, bị hại còn thấp, không tự bào chữa hay bảo vệ quyền lợi của mình...
Đặc biệt trong thời gian gần đây đã có những nghiên cứu đánh giá về tổ
chức bộ máy cơ quan làm công tác THQCT và kiểm sát hoạt động tư pháp nói
chung, nghiên cứu về VKSND cấp cao – một cấp kiểm sát mới. Có thể kể đến
các công trình như các Đề tài khoa học cấp bộ “Cơ sở lý luận và thực tiễn của
việc thành lập VKSND cấp cao đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp”, “VKSND

17


cấp cao trong hệ thống VKSND mới” của VKSND Tối cao đi sâu phân tích cơ
sở hình thành, kinh nghiệm ở một số nước; thực trạng trước khi ban hành Luật tổ
chức VKSND năm 2014, mô hình tổ chức hoạt động của hệ thống cơ quan VKS
còn nhiều điểm bất hợp lý, việc tổ chức VKSND cấp cao ở nước ta là cần thiết.
Qua khảo sát thực trạng tổ chức và hoạt động của các VKSND cấp cao sau 2
năm thực tế hoạt động; đánh giá những kết quả đạt được, những tồn tại hạn chế,
so sánh với giai đoạn trước đây; từ đó đưa ra các đề xuất, kiến nghị nhằm tăng
cường hiệu quả hoạt động của các VKSND cấp cao.
Ngoài các công trình trên, liên quan đến việc đánh giá kết quả, đề xuất biện
pháp tổ chức thực hiện công tác THQCT và KSXX PT, GĐT, TT còn có những
bài viết trên các tạp chí nghiên cứu như: bài viết “Nâng cao chất lượng công tác
THQCT, KSXX PT hình sự của VKSND” của TS Dương Thanh Biểu trên Tạp

chí Kiểm sát số 22/2005; tác giả Phạm Văn An với các bài viết “Một số kinh
nghiệm trong công tác THQCT, KSXX hình sự tại phiên toà hình sự theo yêu
cầu cải cách tư pháp” trên Tạp chí Kiểm sát số 10/2011, “Thay đổi trong quan
điểm chỉ đạo của đảng về tổ chức xét xử GĐT, TT vụ án hình sự” trên Tạp chí
Nghiên cứu lập pháp số 16/2011, “Nâng cao vai trò, trách nhiệm , tính chủ động
của KSV trong THQCT và KSXX vụ án hình sự” trên Tạp chí Kiểm sát số
15/2017, ...
1.2. Tình hình nghiên cứu ngoài nước
Một số công trình ở nước ngoài nghiên cứu các vấn đề liên quan đến Đề
tài như:
- Cuốn Giáo trình chế độ công tố, Học viện cán bộ kiểm sát quốc gia Trung
Quốc, Nhà xuất bản pháp luật Bắc Kinh 2002 (bản dịch của trường Cao đẳng
kiểm sát Hà Nội) phản ánh tình hình nghiên cứu rất toàn diện của các nhà khoa
học Trung Quốc về các vấn đề liên quan đến công tố, được coi là một “chế độ”
trong pháp luật Trung Quốc. Kết quả nghiên cứu đã chỉ ra một cách sâu sắc
nguồn gốc, bản chất của QCT cũng như các vấn đề cơ bản của công tố như: tính
chất của QCT, căn cứ của QCT, các quyền năng, chức năng cơ bản của QCT;

18


các cơ chế để thực hiện, kiểm soát, và hỗ trợ thực hiện QCT; các chuẩn mực tư
pháp hình sự quốc tế, nguyên tắc của pháp luật, các chính sách hình sự phải được
tuân thủ trong quá trình THQCT. Đặc biệt các tác giả đã có đưa ra quan điểm về
nguyên tắc cân bằng giá trị công tố. Theo đó mục tiêu giá trị công tố nhằm tới cơ
bản là chính nghĩa pháp luật – không làm oan người vô tội, không bỏ lọt tội
phạm, trình tự công bằng – quá trình tố tụng giải quyết vụ án phải công bằng,
hợp pháp, và hiệu quả tố tụng – tổng hợp hiệu quả đạt được của hoạt động công
tố.
Cuốn sách chỉ ra sự đa dạng các loại hình chế độ công tố ở các nước trên

thế giới, được các tác giả chia thành 5 loại cơ bản là: Do Công tố viên nắm QCT
như ở Nhật, Trung Quốc; do Công tố viên và thẩm phán dự thẩm cùng thi hành
như ở Pháp; do Viện công tố và đại bồi thẩm đoàn thi hành như ở Mỹ; do Công
tố viên và cảnh sát thi hành như ở Phần Lan, Na Uy; do Công tố viên và luật sư
cùng thi hành như ở Anh. Cùng với đó các tác giả cũng tập trung nghiên cứu về
chế độ công tố ở Trung Quốc, trong đó KSV có vị trí song trùng trong tố tụng,
vừa là người giám sát pháp luật vừa là Công tố viên, quá trình VKS tiến hành
truy tố vừa là quá trình THQCT vừa là thực thi giám sát pháp luật; các hình thức
biểu hiện cụ thể của QCT, trong đó có QCT trong giai đoạn xét xử cũng được
nghiên cứu, chiếm một dung lượng lớn của cuốn sách. Đây là một công trình
nghiên cứu khá toàn diện về QCT, THQCT, liên quan trực tiếp đến Luận án và
rất có giá trị tham khảo.
- Cuốn Giáo trình công tác kiểm sát, Học viện cán bộ kiểm sát quốc gia
Trung Quốc, Nhà xuất bản pháp luật Bắc Kinh 2002 (bản dịch của trường Cao
đẳng kiểm sát Hà Nội). Trung Quốc là một trong những nước có nhiều kinh
nghiệm trong hoạt động kiểm sát nói chung, KSXX vụ án hình sự nói riêng.
Cuốn sách luận giải một cách sâu sắc những vấn đề cơ bản của công tác kiểm sát
như: quyền kiểm sát và các tính chất của nó; nguyên tắc cơ bản của hoạt động
kiểm sát; chức năng giám sát việc tuân theo pháp luật và chế độ giám sát tư pháp
của VKS,... đặc biệt, cuốn sách có những phân tích rất thú vị về sự khác biệt về ý

19


×