Tải bản đầy đủ (.doc) (45 trang)

Tình trạng suy dinh dưỡng và một số yếu tố ảnh hưởng đến trẻ suy dinh dưỡng tại khoa Nhi – bệnh viện đa khoa huyện Mai Sơn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (410.76 KB, 45 trang )

1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Dinh dưỡng đóng một vai trò rất quan trọng với sức khỏe con người, đặc
biệt là trẻ em dưới 5 tuổi. Dinh dưỡng ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình tăng
trưởng và phát triển của trẻ em, ảnh hưởng đến bệnh tật, làm bệnh dễ phát sinh,
kéo dài thời gian mắc bệnh hoặc làm bệnh nặng hơn ở những trẻ bị suy dinh
dưỡng.
Suy dinh dưỡng là một trong những nguyên nhân hàng đầu gây tử vong ở
trẻ em dưới 5 tuổi. Hậu quả của suy dinh dưỡng cả thể nhẹ và thể vừa đều nặng
nề. Suy dinh dưỡng là vấn đề của sức khỏe cộng đồng luôn được các quốc gia
quan tâm. Dinh dưỡng không đầy đủ vẫn là nguyên nhân hàng đầu gây tử vong ở
trẻ em dưới 5 tuổi. Một phần ba số ca tử vong ở trẻ em (khoảng 3,9 triệu trẻ em
mỗi năm). Hàng năm trên thế giới có khoảng 10,9 triệu trẻ em sinh ra bị suy dinh
dưỡng bào thai, 17,1 triệu trẻ em bị suy dinh dưỡng thể thấp còi (chiều cao theo
tuổi thấp), 11,5 triệu trẻ em bị gầy còm nặng (cân nặng theo tuổi thấp).
Tại Việt Nam, theo kết quả điều tra của Viện Dinh dưỡng Quốc gia năm
2015 tình trạng suy dinh dưỡng của trẻ em Việt Nam trong ba thập kỷ qua đã
được cải thiện đáng kể. Tính từ năm 1985 đến năm 2015 tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi
bị suy dinh dưỡng thể nhẹ cân đã giảm từ 59,7% xuống còn 24,9%. Tuy nhiên,
tình trạng SDD của trẻ em nước ta đã giảm nhưng vẫn còn cao so với các nước
khác. Suy dinh dưỡng là nguyên nhân chính và cũng là hậu quả của bệnh. SDD
ảnh hưởng đến chức năng và sự hồi phục của hệ thống các cơ quan trong cơ thể,
làm tăng nguy cơ nhiễm trùng, kéo dài thời gian điều trị.
Huyện Mai Sơn có dân số đông và nhiều dân tộc sinh sống và có nhiều nét
riêng biệt; khác nhau trình độ văn hoá không đồng đều. Phần lớn các dân tộc ít
người trình độ văn hoá thấp, điều kiện sống còn nhiều khó khăn, phong tục tập


2
quán còn lạc hậu; tiếp cận các dịch vụ y tế còn hạn chế và nhiều yếu tố khác
không thuận lợi đặc biệt trong vấn đề chăm sóc sức khỏe bà mẹ trẻ em, điều đó


sẽ là những cản trở trong việc thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia về dinh
dưỡng của trẻ em dưới 5 tuổi.
Xuất phát từ những vấn đề trên, để đánh giá thực trạng suy dinh dưỡng
của các bệnh nhân nhập viện, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Tình trạng
suy dinh dưỡng và một số yếu tố ảnh hưởng đến trẻ suy dinh dưỡng tại khoa
Nhi – bệnh viện đa khoa huyện Mai Sơn”. Với 2 mục tiêu :
1. Đánh giá tình trạng suy dinh dưỡng ở trẻ em dưới 5 tuổi đến điều trị tại
khoa Nhi, bệnh viện đa khoa huyện Mai Sơn trong năm 2015 - 2016.
2. Tìm hiểu một số yếu tố liên quan đến tình trạng suy dinh dưỡng của trẻ
em dưới 5 tuổi.


3
Chương 1
TỔNG QUAN
1.1. Khái niệm chung về dinh dưỡng.
1.1.1. Dinh dưỡng
Dinh dưỡng (DD) là tình trạng cơ thể được cung cấp đầy đủ, cân đối các
thành phần dinh dưỡng, đảm bảo cho sự phát triển toàn vẹn, tăng trưởng của cơ
thể để đảm bảo chức năng sinh lý và tham gia tích cực và các hoạt động xã hội.
1.1.2. TTDD (TTDD)
Là tập hợp các đặc điểm vè chức phận, cấu trúc và hóa sinh, phản ánh mức
đáp ứng nhu cầu của cơ thể.
TTDD là kết quả tác động của một hay nhiều yếu tố như: tình trạng an
ninh thực phẩm hộ gia đình, thu nhập thấp, điều kiện vệ sinh môi trường, công
tác chăm sóc trẻ em, gánh nặng công việc lao động của bà mẹ….
TTDD tốt phản ánh sự cân bằng giữa thức ăn ăn vào và tình trạng sức
khỏe. Khi cơ thể có TTDD không tốt (thiếu hoặc thừa dinh dưỡng) là thể hiện có
vấn đề sức khỏe hoặc dinh dưỡng hoặc cả hai.
1.1.3. Suy dinh dưỡng

Suy dinh dưỡng là tình trạng cơ thể thiếu Protein, năng lượng và các vi
chất dinh dưỡng. Bệnh hay gặp ở trẻ em dưới 5 tuổi, biểu hiện ở nhiều mức độ
khác nhau, nhưng ít nhiều đều có sự ảnh hưởng đến sự phát triển thể chất, tinh
thần và vận động của trẻ.
Tùy theo sự thiếu hụt các chất dinh dưỡng mà suy dinh dưỡng thể hiện các
thể, mức độ khác nhau.


4
1.2. Nguyên nhân và các yếu tố liên quan đến tình trạng SDD trẻ em dưới 5
tuổi
Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng SDD thiếu protein, năng
lượng ở trẻ em dưới 5 tuổi, trong đó thực phẩm, sức khỏe và chăm sóc là bộ ba
các thành tố thiết yếu trong chiến lược phòng chống SDD ở trẻ em.
Nguyên nhân trực tiếp gây SDD trẻ em gồm ăn uống không hợp lý và
bệnh tật:
- Khẩu phần ăn các số liệu điều tra riêng về khẩu phần ăn của người lớn và
trẻ em cho thấy chế độ ăn đóng vai trò quan trọng dẫn tới tình trạng SDD ở Việt
Nam. Nhìn chung, khẩu phần ăn ở cả người lớn và trẻ em ở nước ta còn ở mức
thấp so với các nước trong khu vực. Đối với trẻ trên 2 tuổi thì hầu hết các gia
đình cho trẻ ăn cơm cùng bữa cơm với gia đình, nhưng số bữa ăn hàng ngày thấp
(trung bình ba bữa/ngày). Ngay ở nhóm trẻ 24 - 36 tháng tuổi cũng chỉ có 17,5%
được ăn 3 bữa/ngày. Tần xuất xuất hiện các thực phẩm như thịt, cá, trứng, sữa
trong bữa ăn của trẻ thấp, thường do điều kiện kinh tế gia đình hoặc do hiểu biết
của bố mẹ về chăm sóc dinh dưỡng trẻ em còn quá hạn chế.
- Bệnh tật
Thiếu dinh dưỡng và bệnh nhiễm trùng ở trẻ em gây ảnh hưởng tới sự phát
triển chung của trẻ trong thời gian dài. Ở các nước đang phát triển, sự lưu hành
của các bệnh nhiễm trùng, thiếu dinh dưỡng và tử vong ở trẻ em cao hơn ở các
nước phát triển. Thiếu máu có thể do nguyên nhân thiếu dinh dưỡng, mắc các

bệnh nhiễm trùng và do mất máu. Thiếu sắt là nguyên nhân chính của 50% các
trường hợp thiếu máu. Thiếu một số các vi chất dinh dưỡng khác như vitamin
nhóm B (B6, B12, Riboflavin) và axit folic cũng có thể gấy thiếu máu.


5
Nhiễm ký sinh trùng đường ruột cũng là nguyên nhân quan trọng gây ra
SDD, thiếu máu ở trẻ em. Một số nghiên cứu về nhiễm giun ở trẻ em cho thấy tỷ
lệ nhiễm giun rất cao (khoảng 60 – 95 %) với các loại giun chủ yếu là giun đũa
và giun móc. Nhiễm các loại giun cũng là vấn đề cần được nghiên cứu để tìm ra
các giải pháp phù hợp. Nhiễm ký sinh trùng đường ruột là một vấn đề sức khỏe
cộng đồng ở các nước đang phát triển do điều kiện vệ sinh môi trường không
đảm bảo. Nhiềm giun làm cho trẻ chán ăn, giảm hấp thu các chất dinh dưỡng,
thiếu máu và gây ảnh hưởng đến TTDD của trẻ. Nhiễm ký sinh trùng đường ruột
với cường độ cao và trong một thời gian dài có thể gây SDD như thấp còi, nhẹ
cân và những trường hợp nặng có thể gây tử vong.
Nguyên nhân gốc rễ của SDD của trẻ em đó là đói và thiếu kiến thức. Đói
nghèo chủ yếu rơi vào những hộ gia đình có trình độ học vấn thấp, khó có cơ hội
tiếp xúc với thông tin và với các dịch vụ chăm sóc sức khỏe. Mặt khác, phần lớn
các hộ gia đình nghèo, nhất là vùng nông thôn và miền núi lại thường sinh nhiều
con. Vì gia đình đông con nên chế độ dinh dưỡng, khẩu phần ăn của trẻ không
được đảm bảo. Chính điều này tạo nên vòng luẩn quẩn của đói nghèo khó giải
quyết.
Bên cạnh đó còn có một số nguyên nhân cơ bản tác động đến TTDD của
trẻ em như tiềm năng của đất nước, cơ cấu kinh tế xã hội, đường lối chính sách
của mỗi quốc gia. Mỗi yếu tố ảnh hưởng đến công tác chăm sóc và bảo vệ sức
khỏe trẻ em có những nét riêng biệt trên mỗi vùng miền, mỗi địa phương mỗi
nước.
Trẻ em bị SDD nếu không được chăm sóc sẽ có thể dẫn đến tử vong. Theo
tài liệu của Tổ Chức Y tế thế giới, trong số 11,6 triệu trường hợp tử vong hàng



6
năm ở trẻ em dưới 5 tuổi tại các nước đang phát triển thì 6,3 triệu (54%) có liên
quan đến thiếu dinh dưỡng.
1.3. Hậu quả của suy dinh dưỡng
Trẻ bị suy dinh dưỡng dể mắc bệnh nhiễm khuẩn, diễn biến thường nặng
và dẫn đến tử vong.
1.3.1. Suy dinh dưỡng và tình trạng bệnh tật tử vong
Hậu quả của suy dinh dưỡng thể nặng không còn là vấn đề bàn cãi nữa,
nhưng đối với thể vừa và thể nhẹ các hậu quả cũng không kém phần quan trọng.
Trên những trẻ bị SDD thường kèm theo tình trạng thiếu các vi chất cần
thiết như: vi ta min A, sắt, kẽm là giảm sức chống đỡ các bệnh nhiễm trùng.
Người ta ước tính khoảng 50 – 60% trẻ dưới 5 tuổi tử vong do nguyên nhân tiềm
ẩn là SDD. Trong đó, 50 – 70% gánh nặng bệnh tật của tiêu chảy, sởi, sốt rét,
nhiễm trùng đường hô hấp ở trẻ em toàn thế giới là do sự góp mặt của SDD.
1.3.2. Thiếu dinh dưỡng với phát triển hành vi và trí tuệ.
Có thể thấy mối liên quan giữa thiếu dinh dưỡng và phát triển trí tuệ hành
vi qua những cơ chế sau:
- Do thiếu nhiều chất dinh dưỡng cùng lúc, trong đó có các chất dinh
dưỡng cần thiết cho sự phát triển trí tuệ như: I ốt, sắt….
- Trẻ em thiếu dinh dưỡng thường lờ đờ, chậm chạp, ít năng động nên ít
tiếp thu được qua giao tiếp với cộng đồng và người chăm sóc.
- Các thực nghiệm về ăn uống bổ sung tỏ ra có hiệu quả với các chỉ số
phát triển trí tuệ.


7
Với sự hiểu biết hiện nay, người ta thấy SDD sớm trong bào thai và trong
những năm đầu của cuộc đời có ảnh hưởng xấu đến phát triển trí tuệ ít nhất là cả

đời niên thiếu.
1.3.3. Suy dinh dưỡng và sức khỏe khi trưởng thành.
Những trẻ thấp bé sẽ trở thành những người trưởng thành có tầm vóc bé
nhỏ, năng lực sản xuất kém.
Gần đây người ta thấy sự liên quan giữa SDD trước đó và thừa dinh dưỡng
về sau và đó là sự kết hợp đặc biệt nguy hiểm. Người ta nhận thấy các bệnh mạn
tính không lây đang trội lên ở các nước đang phát triển có khi còn mạnh hơn ở
các nước phát triển trước đây, đặc biệt ở các nước đang phát triển nhanh. Đối với
SDD thể thấp còi người ta cũng nhận thấy có mối liên quan giữa thấp còi và thừa
cân ở trẻ em. Ở các nước nghèo, số đông trẻ em bị thấp còi và thừa cân, nhưng
khi thu nhập tăng, điều kiện sống thay đổi, chúng dễ dàng trở nên béo phì, mà
chúng ta đều biết phòng chống béo phì ở trẻ em cũng khó khăn không kém
phòng chống SDD, thiếu cân.
1.4. Phương pháp đánh giá tình trạng suy dinh dưỡng trẻ em
Ở thời kỳ đầu, để đánh giá tình trạng DD người ta chỉ dựa vào các nhận
xét đơn giản như: gầy, béo, tiếp đó là dựa vào một số chỉ tiêu nhân trắc như:
Brock, Quetelet, Pignet. Hiện nay sử dụng các số đo nhân trắc trong đánh gía
tình trạng DD là phương pháp dễ làm và được áp dụng rộng rãi.
1.4.1. Các số đo nhân trắc
Đánh giá tình trạng DD của trẻ thông qua các số đo nhân trắc: cân nặng và
chiều cao, song từng số đo riêng lẻ và chiều cao hay cân nặng sẽ không có ý
nghĩa, chúng chỉ có ý nghĩa khi kết hợp với tuổi, giới hoặc kết hợp với các số đo


8
của trẻ với nhau và phải được so sánh với giá trị của quần thể tham khảo. Hiện
nay người ta nhận định tình trạng DD trẻ em chủ yếu dựa vào 3 chỉ số là cân
nặng theo tuổi, chiều cao theo tuổi và cân nặng theo chiều cao
- Cân nặng theo tuổi (CN/T) là chỉ số đánh giá tình trạng DD thông dụng
từ những năm 50 của thế kỷ trước. Chỉ số này được dùng để đánh giá tình trạng

DD của cá thể hay cộng đồng, nhưng chỉ số này không cho biết là thiếu dinh
dưỡng trong quá khứ hay hiện tại.
- Chiều cao theo tuổi (CC/T) phản ánh tiền sử dinh dưỡng (SDD trong quá
khứ). CC/T thấp là chỉ tiêu phản ánh tốt nhất ảnh hưởng tích lũy dài hạn do chế
độ ăn uống không đầy đủ hoặc do mắc bệnh mang lại.
- Cân nặng theo chiều cao (CN/CC) là chỉ số đánh giá tình trạng DD hiện
tại. Chỉ số này phản ánh SDD cấp. CN/CC thấp phản ánh tình trạng thiếu dinh
dưỡng ở thời kỳ hiện tại hay gần đây làm cho đứa trẻ không tăng cân được hoặc
giảm cân.
1.4.2. Cách nhận định kết quả
Trước đây WHO dựa trên số liệu Quần thể tham khảo của hoa kỳ đã đưa
ra Quần thể tham khảo, làm giá trị tham chiếu để nhận định tình trạng DD trẻ em
cho các quốc gia thành viên. Tuy nhiên WHO cũng khuyến cáo nên coi Quần thể
tham khảo là chuẩn mà chỉ là cơ sở để đưa ra nhận định,thuận tiện cho các so
sánh trong nước và quốc tế. Sử dụng Quần thể tham khảo NCHS với ngưỡng
thấp hơn 2 độ lệch chuẩn (<-2SD) và chia ra các độ như sau:


9
Bảng 1.1. Phân loại mức độ suy dinh dưỡng ở trẻ em
Chỉ tiêu
Phân loại

CN/T

CC/T

CN/CC

(nhẹ cân W/A)


(thấp còi H/A)

(Gầy còm W/H)

≥ - 2SD
< - 2SD

≥ - 2SD
< - 2SD

≥ - 2SD
< - 2SD

Bình thường
SDD
Độ I

Từ < - 2SD đến – 3SD Từ < - 2SD đến – 3SD

Độ II

Từ < - 3SD đến – 4SD

Độ III

Dưới – 4SD

Dưới – 3SD


Để so sánh số liệu quốc gia hoặc cộng đồng khác,WHO đã đưa ra bảng
phân loại ý nghĩa sức khỏe cộng đồng của thiếu dinh dưỡng như sau:
Bảng 1.2. Phân loại mức độ thiếu dinh dưỡng trẻ em ở cộng đồng
Chỉ tiêu

Múc độ thiếu dinh dưỡng (%)
Thấp

Trung bình

Cao

Rất cao

SDD thể nhẹ cân

< 10

10 - 19

20 - 29

≥ 30

SDD thể thấp còi

< 20

20 - 29


30 - 39

≥ 40

SDD thể gầy còm

<5

5-9

10 - 14

≥ 15

Cách phân loại dựa vào phần trăn so với trung vị
Để tính toán theo cách này người ta coi giá trị trung vị là 100% rồi tính
giá trị đo được trên đứa trẻ đạt bao nhiêu phần trăm so với trung vị.
• Phân loại của GOMEZ
- Nguyên tắc: Dựa trên chỉ số cân nặng theo tuổi so với trung vị của quần
thể tham khảo Harvard.


10
- Cách phân loại SDD
≥ 90%

: Bình thường

75 – 89%


: SDD nhẹ (độ 1)

60 – 74%

: SDD vừa (độ 2)

< 60%

: SDD nặng (độ 3)

Hạn chế: Không phân biệt được giữa marasmus và kwashiorkor, giữa SDD
cấp hay mãn bởi vì không để ý tới chiều cao, nếu trẻ SDD bị phù thì sử dụng chỉ
số WFA lại khó đưa ra quyết định chính xác.
• Phân loại theo Welcome (1970).
Bảng 1.3. Phân loại SDD của Welcome
% cân nặng mong đợi

Phù

theo tuổi



Không

80 – 60%

Kwashiokor

Thiếu cân


< 60%
Marasmus và kwashiokor
• Phân loại theo Welcome (1972).

Marasmus

Sử dụng cả chỉ số cân nặng theo chiều cao và chiều cao theo tuổi so với
trung vi của quần thể tham khảo Harvard.

Chiều cao theo tuổi

Cân nặng theo chiều cao

% (độ)

≥ 80%

< 80%

80 – 60%

Bình thường

Còm


11

< 60%

Còi
Thể phối hợp
Cách phân loại này giúp cho phân biệt được đứa trẻ nào là còm. Còi hoặc
phối hợp cả 2 thể vừa còm vừa còi.
Cách phân loại dựa vào độ lệch chuẩn (hoặc Z score)
Hiện nay, TCYTTG đề nghị lấy điểm ngưỡng dưới -2SD so với quần thể
tham khảo NCHS để coi là SDD. Dưới -3SD và dưới -4SD được coi là SDD
nặng và rất nặng.
Nếu dựa vào Z-score, điểm ngưỡng được chọn cũng là -2. Những trẻ có Zscore dưới -2 sẽ được coi là bị SDD.
1.5. Các yếu tố ảnh hưởng đến tình trạng suy dinh dưỡng trẻ em.
Có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng đến tình trạng DD của trẻ em. Trong nghiên
cứu này chúng tôi chỉ tập trung vào một số yếu tố chính tác động đến tình trạng
DD trẻ em dưới 5 tuổi.
1.5.1. Chăm sóc bà mẹ khi có thai và cho con bú.
Trước khi có thai, dinh dưỡng và thói quen dinh dưỡng tốt sẽ cung cấp đầy
đủ các chất dinh dưỡng cần thiết cho thời kỳ có thai,cho sự phát triển và lớn lên
của thai nhi. Nhiều nghiên cứu thấy rằng các yếu tố nguy cơ dẫn đến trẻ sơ sinh
có cân nặng thấp trước tiên là tình trạng DD kém của người mẹ trước khi có thai
và chế độ ăn không cân đối, không đủ năng lượng khi có thai hoặc thiếu các vi
chất và chất khoáng cần thiết như: Sắt, canxi… Những bà mẹ trong khi có thai
lao động nặng nhọc, không được nghỉ ngơi đầy đủ cũng là những yếu tố ảnh
hưởng tới cân nặng sơ sinh. Yếu tố bệnh tật của người mẹ và đẻ thiếu tháng cũng
làm tăng tỷ lệ trẻ sơ sinh cân nặng thấp.
1.5.2. Thực hành nuôi dưỡng trẻ.


12
Chế độ ăn của trẻ đóng vai trò quan trọng đối với tình trạng DD của trẻ,
phụ thuộc rất nhiều vào kiến thức và sự hiểu biết về DD của các bà mẹ trong đó
nuôi con bằng sữa mẹ và cho con ăn bổ sung hợp lý là 2 vấn đề quan trọng nhất.

- Nuôi con bằng sữa mẹ: Là đứa trẻ được nuôi dưỡng trực tiếp bằng bú mẹ
hoặc gián tiếp do sữa mẹ vắt ra. Sữa mẹ là thức ăn hoàn chỉnh nhất, thích hợp
nhất với trẻ vì có đủ năng lượng, đủ chất DD cần thiết (đạm, đường, mỡ,
vitamin, muối khoáng) với tỷ lệ thích hợp cho sự hấp thu và phát triển của trẻ,
tránh SDD và tăng cân quá mức. Sữa mẹ không chỉ cung cấp cho trẻ thức ăn có
giá trị DD tốt nhất không thể thay thế được mà còn tác động đến sự phát triển thể
lực và trí tuệ của trẻ, cũng như những lợi ích khác.
- Thời gian bắt đầu cho trẻ bú: Bà mẹ nên cho trẻ bú trong vòng 1 giờ đầu
sau đẻ, bú càng sớm càng tốt và không cần ăn bất cứ thức ăn gì trước khi bú mẹ
lần đầu. Bú sớm giúp trẻ tận dụng sữa non là loại sữa tốt, hoàn hảo về DD và các
chất sinh học thích ứng với cơ thể non nớt của trẻ.
- Số lần bú: Trẻ càng bú nhiều thì sữa mẹ càng được bài tiết nhều, số lần
bú phụ thuộc theo nhu cầu của trẻ, hãy để trẻ bú theo nhu cầu của trẻ bú bất cứ
lúc nào trẻ muốn, kể cả ban đêm.
- Thời gian cai sữa: cho trẻ bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu. Không nên
cai sữa trước 12 tháng, nên cho trẻ bú mẹ kéo dài từ 18 – 24 tháng.
Việc không cho trẻ bú, ngừng cho con bú sớm, không cho con bú khi bị
bệnh hoặc ăn bổ sung sớm từ tháng thứ 2 làm tăng tỷ lệ SDD ở trẻ dưới 2 tuổi.
- Cho trẻ ăn bổ sung: Là đứa trẻ vừa được bú sữa mẹ vừa được ăn thức ăn
ở dạng đặc hoặc nửa đặc. Từ 6 tháng thuổi trẻ phát triển nhanh, nhu cầu DD của
trẻ lớn hơn nên sữa mẹ không thể đáp ứng đủ do đó cần thiết cho trẻ ăn bổ sung


13
phù hợp về số lượng và chất lượng theo từng lứa tuổi của trẻ. Tập cho trẻ ăn từ
loãng đến đặc, từ ít đến nhiều. Cách chế biến thức ăn cần đảm bảo khẩu phần
DD và vệ sinh. Ăn bổ sung sớm hay muộn đều ảnh hưởng đến tình trạng SDD.
Ăn bổ sung là cho trẻ ăn những thức ăn khác ngoài sữa mẹ, là những thực
phẩm cung cấp năng lượng và các chất DD khác. Số lượng thức ăn tăng dần theo
tuổi, đảm bảo thức ăn hợp khẩu vị của trẻ.

Ăn bổ sung được coi là hợp lý khi trẻ được ăn các loại thức ăn cung cấp
đủ năng lượng (có thể ước tính qua số bữa ăn trong ngày kết hợp với khối lượng
của mỗi bữa ăn) và đủ chất DD (thể hiện bằng sự kết hợp các nhóm thực phẩm
bổ sung cho trẻ). Để đáp ứng nhu cầu năng lượng của trẻ, cần cho trẻ ăn đủ số
bữa với số lượng thích hợp.
+ Trẻ 6 tháng: ăn 1 bữa bột + bú mẹ.
+ Trẻ 6 – 8 tháng: Bú mẹ + 2 bữa bột (2/3 bát mỗi bữa) và quả nghiền.
- Trẻ 9 – 11 tháng: Bú mẹ + 3 bữa bột hoặc cháo (3/4 bát mỗi bữa + 2 bữa
phụ: hoa quả, sữa chua, nước hoa quả ).
+ Trẻ 12 – 23 tháng: Bú mẹ + 3 bữa cháo (1 bát/ bữa) + 2 bữa phụ.
+ Trẻ từ 24 tháng: 3 bữa cơm (1-1,5 bát/ bữa) + 2 bữa phụ.
- Thành phần của các bữa ăn bổ sung: Trước đây người ta phân loại thực
phẩm làm 4 nhóm chính: Nhóm lương thực chủ yếu cung cấp năng lượng, nhóm
cung cấp protein – chất đạm, nhóm cung cấp lipid/ chất béo và nhóm cung cấp
các chất khoáng và vitamin. Hiện nay theo khuyến cáo của Viện dinh dưỡng
phân loại thực phẩm theo 8 nhóm sau đây:


14
+ Nhóm 1: Lương thực( Gạo, ngô,khoai,sắn…), đây là nguồn cung cấp
glucid/ chất bột, đường cung cấp năng lượng chủ yếu cho cơ thể.
+ Nhóm 2: Nhóm hạt các loại: Đậu, đỗ, lạc, vừng…
+ Nhóm 3: Nhóm sữa và các sản phẩm từ sữa.
+ Nhóm 4: Nhóm thịt và các loại cá, hải sản.
+ Nhóm 5: Nhóm trứng các loại và các sản phẩm của trứng.
Các sản phẩm từ nhóm 2 – 5 cung cấp đạm / protein
+ Nhóm 6: Nhóm củ, quả có màu vàng, màu cam, màu đỏ như: Cà rốt, bí
ngô, gấc, cà chua…hoặc rau tươi có màu xanh thẫm
+ Nhóm 7: Nhóm rau, củ, quả khác như: Su hào, củ cải…
Các nhóm thực phẩm 6 và 7 cung cấp vitamin, khoáng chất và chất xơ.

+ Nhóm 8: Nhóm dầu, mỡ các loại, là nguồn cung cấp lipid / chất béo.
- Số lượng thức ăn và bữa ăn tăng dần theo tuổi, đảm bảo thức ăn hợp
khẩu vị của trẻ.
1.5.3. Một số yếu tố khác.
Ngoài ra còn một số yếu tố khác tác động đến tình trạng dinh dưỡng của
trẻ như tiềm năng của đất nước, cơ cấu kinh tế xã hội, đường lối chính sách của
mỗi quốc gia, thu nhập của mỗi gia đình, tuổi, trình độ văn hóa, nghề nghiệp, yếu
tố dân tộc của bà mẹ, số trẻ trong một gia đình, yếu tố môi trường, đặc biệt là
tình trạng bệnh tật của trẻ.


15
Các bệnh được xếp hàng đầu thường gặp là tiêu chảy và nhiễm khuẩn hô
hấp cấp. Trong 1 năm số lần mắc bệnh tiêu chảy trung bình của trẻ em là 2,2 lần,
bệnh viêm phổi là 1,6 lần.
Khi trẻ bị bệnh cơ thể tiêu hao nhiều năng lượng và các chất dinh dưỡng,
cảm giác thèm ăn giảm, tiêu hóa và hấp thu thức ăn kém, khả năng cung cấp dinh
dưỡng giảm, các chất dinh dưỡng không còn đủ đáp ứng nhu cầu của cơ thể, do
đó bệnh tật trở thành nguyên nhân trực tiếp dẫn đến SDD ở trẻ em.
Nhiễm khuẩn dễ dẫn đến SDD do rối loại tiêu hóa và ngược lại, SDD dễ
dẫn đến nhiễm khuẩn do sức đề kháng giảm. Do đó tỷ lệ SDD thường cao trong
các mùa mà các bệnh lưu hành ở mức cao (tiêu chảy, nhiễm khuẩn hô hấp
cấp….). Ở các nước đang phát triển, tỷ lệ các bệnh nhiễm trùng, thiếu dinh
dưỡng và tử vong ở trẻ em cao hơn ở các nước phát triển. SDD cũng thường đi
kèm các bệnh: thiếu vitamin A, thiếu các vi chất dinh dưỡng như vitamin nhóm
B, acid folic, sắt, kẽm….
1.6. Phòng chống SDD trẻ em.
Suy dinh dưỡng là vấn đề dinh dưỡng cộng đồng quan trọng nhất trên thế
giới hiện nay. Trẻ em là đối tượng chính SDD, nếu không can thiệp kịp thời thì
quãng thời gian phát triển nhanh nhất và quan trọng nhất sẽ trôi qua và hậu quả

do SDD không có cơ hội phục hồi được. Do nguyên nhân phức tạp nên chiến
lược phòng chống SDD trẻ em đã trở thành chương trình mục tiêu quốc gia được
nhà nước hỗ trợ kinh phí từ năm 1994 và hiện nay chương trình đã bao phủ khắp
các vùng, miền trong cả nước. Tuy nhiên do triển khai trên diện rộng, nội dung
và phương pháp chưa thực sự phù hợp với từng vùng, từng địa phương nên tỷ lệ
SDD trẻ em dưới 5 tuổi còn cao. Thời kỳ có nguy cơ cao về SDD là thời gian
năm trong bụng mẹ và 2 năm đầu tiên. Đỉnh cao của SDD trẻ em thường ở lứa


16
tuổi 24 – 36 tháng, nhưng đó là đỉnh tập hợp của SDD ở các thời kỳ trước đó vì
SDD là một bệnh mãn tính chứ không tiến triển nhanh như một số bệnh nhiễm
khuẩn. Vì vậy, chiến lược phòng chống SDD cần tập trung vào các thời kỳ sớm.
Tình trạng sức khỏe, dinh dưỡng của mẹ liên quan chặt chẽ tới thai và con
của họ, cho nên cần theo dõi cả tình trạng dinh dưỡng của người mẹ.
• Đối với trẻ:
- Phải cân trẻ ngay sau khi sinh, cân đều đặn, theo dõi biểu đồ tăng trưởng,
nếu có một sự bất thường phải tìm nguyên nhân và can thiệp kịp thời. Trẻ chậm
lớn là biểu hiện sớm nhất của bệnh. Ý nghĩa của việc sử dụng biểu đồ phát triển
là phát hiện sớm nhất về tăng trưởng để có biện pháp can thiệp kịp thời, có hiệu
quả nhất.
- Nuôi con bằng sữa mẹ được coi là một trong những biện pháp quan trọng
nhất để bảo vệ sức khỏe trẻ em.
- Cho ăn bổ sung hợp lý: trong 6 tháng đầu, sữa mẹ là thức ăn hoàn chỉnh
nhất; đối với trẻ trên 6 tháng số lượng sữa mẹ không đáp ứng nhu cầu của trẻ
đang lớn nhanh, do đó trẻ cần được ăn bổ sung một cách hợp lý.
- Phòng chống các bệnh nhiễm trùng cấp tính, tiêm chủng đầy đủ, điều trị
sớm các bệnh nhiễm trùng đường hô hấp, tiêu chảy, phòng chống các bệnh thiếu
dinh dưỡng khác.
• Đối với người mẹ:

- Phải theo dõi tình trạng dinh dưỡng của mẹ trước, trong khi mang thai và
khi cho con bú.


17
- Khám thai định kỳ, tiêm chủng đầy đủ, theo dõi sự tăng cân trong thời kỳ
mang thai là hết sức cần thiết.
Phòng chống SDD trẻ em cần được xã hội hóa vì đây không chỉ là chương
trình Y tế - kỹ thuật đơn thuần mà là một chương trình xã hội.
Thực phẩm, sức khỏe và chăm sóc là bộ ba các thành tố thiết yếu trong
chiến lược phòng chống suy dinh dưỡng trẻ em.

Chương 2
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU


18
2.1. Địa điểm và thời gian nghiên cứu
- Địa điểm: Nghiên cứu được tiến hành tại khoa Nhi Bệnh viện đa khoa
huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La.
- Thời gian: Từ tháng 9/2015 đến tháng 9/2016
2.2. Đối tượng nghiên cứu
- Tất cả các trẻ em dưới 5 tuổi vào điều trị tại khoa Nhi trong thời gian
trên.
- Bà mẹ của các trẻ trên.
2.3. Thiết kế nghiên cứu
2.3.1. Phương pháp nghiên cứu
Sử dụng phương pháp nghiên cứu mô tả cắt ngang. Nhằm xác định tỷ lệ
hiện mắc suy dinh dưỡng và một số yếu tố liên quan.
2.3.2. Phương pháp thu thập số liệu

Thu thập số liệu dựa trên bộ câu hỏi chuẩn bị sẵn kết hợp đo cân nặng và
chiều cao của trẻ.
Các thông tin cần thu thập
- Phía trẻ:
+ Ngày tháng năm sinh
+ Giới
+ Cân nặng lúc sinh.
+ Thời gian trẻ được bú mẹ sau sinh.


19
+ Thời gian trẻ được ăn bổ sung.
+ Thời gian trẻ được cai sữa.
+ Đo cân nặng, chiều cao nằm, hoặc chiều dài đứng.
- Phía mẹ
+ Tuổi, trình độ văn hóa, nghề nghiệp, dân tộc
+ Số con trong gia đình
2.4. Kỹ thuật thu thập số liệu
2.4.1. Xác định tuổi của trẻ dưới 5 tuổi
Trong điều tra tình trạng dinh dưỡng trẻ em, tuổi là một thông số vô cùng
quan trọng. Tuổi của trẻ được xác định càng chính xác thì số liệu càng có giá trị.
Hiện nay, có nhiều cách tính tuổi khác nhau, chúng tôi sử dụng cách tính
theo Tổ chức Y tế Thế giới năm 1983 hiện nay đang được áp dụng phổ biến ở
Việt Nam là cách tính tuổi quy về tháng. Cách tính cụ thể như sau :
Tính tuổi theo tháng (đối với trẻ dưới 5 tuổi), quy ước :
- Từ lúc mới sinh đến 29 ngày (tháng thứ nhất): 1 tháng tuổi
- Từ ngày tròn 1 tháng đến 59 ngày (tháng thứ 2): 2 tháng
- Tương tự, kể từ ngày tròn 11 tháng đến trước ngày tròn 12 tháng (tức
tháng thứ 12) được coi là 12 tháng tuổi.
Lấy ngày sinh làm mốc, trẻ đang ở tháng thứ bao nhiêu thì bấy nhiêu

tháng tuổi.
2.4.2. Xác định cân nặng và chiều cao của trẻ


20
- Cân nặng : Sử dụng cân có độ chính xác 0,01 kg, kết quả ghi theo
kilogam với 1 số lẻ.
- Chiều cao : Sử dụng thước đo chuyên dụng. Đo chiều cao của trẻ < 5 tuổi
theo 2 cách sau:
+ Cách đo thứ nhất: đo chiều cao đứng đối với trẻ từ 24 tháng trở lên.
+ Cách đo thứ hai: Đo chiêu cao năm đối với trẻ < 24 tháng tuổi.
2.4.3. Thu thập thông tin về các yếu tố liên quan đến tình trạng dinh
dưỡng của trẻ
Thông tin về các yếu tố liên quan được thu thập thông qua việc phỏng vấn
trực tiếp bà mẹ (hay người nuôi dưỡng trẻ) kết hợp với quan sát bằng bảng câu
hỏi thiết kế sẵn.
Các biến số thu thập
- Các biến định lượng:
+ Trọng lượng lúc sinh của trẻ: ≤ 2500g, > 2500g.
+ Thứ tự của trẻ trong gia đình.
+ Thời gian bắt đầu bú sau sinh: là thời gian từ khi trẻ lọt lòng đến lần
bú đầu tiên, tính bằng số giờ. ≤ 6 giờ, > 6 giờ.
+ Thời gian bắt đầu ăn sam: là thời gian trẻ bắt đầu ăn các thức ăn khác
ngoài sữa mẹ, tính bằng số tháng.
+ Thời gian cai sữa hoàn toàn: là thời gian trẻ hoàn toàn không còn bú
sữa mẹ, tính bằng số tháng.
+ Tuổi của mẹ : chia làm 2 nhóm ≤ 35 tuổi và > 35 tuổi.


21

+ Trình độ văn hóa của mẹ : chia 2 nhóm ≤ cấp I và từ cấp II trở lên.
+ Số con : là số con hiện còn sống, kể cả số con hiện có trong nhà, đi
học hay đi làm xa hoặc lấy vợ lấy chồng. Chia 2 nhóm: ≤ 2 con và từ 3 con trở
lên.
- Các biến định tính:
+ Giới của trẻ
+ Nghề nghiệp của mẹ.
2.5. Nhận định kết quả
* Đánh giá tình trạng dinh dưỡng của trẻ dưới 5 tuổi
Được đánh giá theo quần thể tham khảo WHO 2005 với 3 tiêu chí (CN/T,
CC/T, CN/CC) theo Z-Score như sau:
+ Khi CN/T Z-Score < -2.0, SDD thể nhẹ cân.
+ Khi CC/T Z-Score < -2.0, SDD thể thấp còi.
+ Khi CN/CC Z-Score < -2.0, SDD thể gầy còm.
- Cân nặng theo tuổi: Lấy điểm ngưỡng dưới – 2 độ lệch chuẩn (< -2SD)
để coi là SDD thể nhẹ cân. Thang phân loại như sau:
+ Từ dưới -2SD đến -3SD: Suy dinh dưỡng độ I (vừa)
+ Từ dưới -3SD đến -4SD: Suy dinh dưỡng độ II (nặng)
+ Dưới -4SD

: Suy dinh dưỡng độ III (rất nặng)

- Chiều cao theo tuổi: SDD mãn tính (SDD thể thấp còi).
Thang phân loại như sau:


22
+ Từ dưới -2SD đến -3SD: Thiếu dinh dưỡng thể vừa
+ Dưới -3SD


: Thiếu dinh dưỡng thể nặng

- Cân nặng theo chiều cao: Cân nặng theo chiều cao thấp phản ảnh tình
trạng thiếu dinh dưỡng ở thời kỳ hiện đại, gần đây làm cho đứa trẻ ngừng lên cân
hoặc tụt cân nên bị gầy còm. Thang phân loại như sau:
+ Từ dưới -2SD đến -3SD: Thiếu dinh dưỡng thể vừa
+ Dưới -3SD

: Thiếu dinh dưỡng thể nặng

2.6. Phương pháp sử lý số liệu
Số liệu được làm sạch trước khi nhập vào máy tính, sử dụng phần mềm
SPSS 16.0 để nhập và sử lý số liệu.

Chương 3


23
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1. Tình trạng dinh dưỡng của trẻ dưới 5 tuổi
Bảng 3.1. Tình trạng SDD của trẻ dưới 5 tuổi tại khoa Nhi
(theo 3 chỉ tiêu CN/T, CC/T, CN/CC) trong thời gian nghiên cứu
TTDD
Chỉ số đánh giá
CN/T

Suy dinh dưỡng
n
%


Bình thường
n
%

119

46,3

138

53,7

CC/T

134

52,1

123

47,9

CN/CC

94

36,6

163


63,4

Nhận xét: Tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng tại Khoa Nhi ở cả 3 thể: nhẹ cân, thấp
còi, gầy còm theo phân loại của WHO 2005; Trong đó suy dinh dưỡng thể nhẹ
cân chiếm 46,3%; suy dinh dưỡng thể thấp còi chiếm 52,1%; suy dinh dưỡng thể
gầy còm là 36,6%.
Bảng 3.2. Tình trạng SDD của trẻ dưới 5 tuổi theo giới
TTDD

CN/T

CC/T

CN/CC

n

%

n

%

n

%

Nam

79


48,5

89

54,6

63

38,7

Nữ

40

42,6

45

47,9

33

35,1

Tổng
119
46,3
134
52,1

96
Nhận xét: Trẻ nam chiếm tỷ lệ nhiều hơn nữ ở cả 3 thể SDD.

37,4

Giới

Bảng 3.3. Tình trạng SDD của trẻ dưới 5 tuổi phân theo nhóm tuổi
Thể SDD

CN/T

CC/T

Nhóm tuổi

n

%

n

%

0 - 12

41

34,5


45

33,6

CN/CC
n
%
34

36,2


24

13 - 24

42

35,3

50

37,3

45

47,9

25 – 36


17

14,3

18

13,4

9

9,6

37 – 48

14

11,8

16

11,9

5

5,3

49 – 59

5


4,2

5

3,7

1

1,1

Tổng

119

100,0

134

100,0

94

100,0

Nhận xét:
- Tỷ lệ SDD chiếm cao nhất ở nhóm tuổi 13 – 24 tháng cho cả 3 thể suy
dinh dưỡng CN/T 35,3%; CC/T 37,3% và CN/CC là 47,9%; sau đó đến nhóm
tuổi 0 - 12 tháng tuổi.
- Tỷ lệ SDD giảm dần từ nhóm tuổi 25 – 36 tháng trở đi và thấp nhất ở
nhóm tuổi 49 – 59 tháng tuổi.


Tình trạng SDD của trẻ dưới 5 tuổi phân theo mức độ.


25

Biểu đồ 3.1. Tình trạng SDD của trẻ em dưới 5 tuổi phân theo mức độ.
Nhận xét: SDD độ I chiếm tỷ lệ cao nhất ở cả 3 thể SDD CN/T 62,2%,
CC/T 58,2%, CN/CC 57,5%. Thấp nhất là SDD độ III.
3.2. Một số yếu tố liên quan đến tình trạng suy dinh dưỡng của trẻ em dưới
5 tuổi
Bảng 3.4. Liên quan giũa cân nặng lúc sinh với tỷ lệ SDD của trẻ
Cân nặng lúc

Suy dinh dưỡng

sinh



Tỷ lệ %

Không

Tỷ lệ %

≤ 2500g

17


58,6

12

41,4

> 2500g

78

44,1

99

55,9

Tổng
95
37,0
111
43,2
Nhận xét: Trẻ có cân nặng lúc sinh ≤ 2500g có tỷ lệ suy dinh dưỡng cao
hơn là 58,6% nhiều hơn trẻ cân nặng lúc sinh > 2500g (44,1%).
Bảng 3.5. Liên quan giữa tình trạng suy dinh dưỡng và một số đặc
điểm nuôi dưỡng trẻ.


×