Tải bản đầy đủ (.doc) (49 trang)

Phương pháp dạy học môn Anh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (337.36 KB, 49 trang )

Một số vấn đề Đổi mới phơng pháp dạy học
môn tiếng anh trung học cơ sở
_______________________________________

Phần I. đề cơng tập huấn
Chủ đề 1: Định hớng đổi mới PPDH môn tiếng Anh THCS
1. Quan điểm đổi mới PPDH
2. Bản chất của tích cực hoá hoạt động học tập của HS trong dạy học ngoại
ngữ
3. Những căn cứ của đổi mới PPDH
4. Giải pháp đổi mới PPDH tiếng Anh THCS
5. Vận dụng một số PPDH theo định hớng đổi mới và sử dụng TBDH
Chủ đề 2: Kĩ thuật mở bài; Giới thiệu ngữ liệu mới; Luyện tập Ngữ
pháp
1. Mở bài Gây không khí học tập
2. Giới thiệu ngữ liệu mới
3. Luyện tập ngữ pháp
Chủ đề 3: Luyện kĩ năng Nói
1. Ba bíc lun Nãi
2. VÝ dơ minh ho¹ (TiÕt d¹y Nãi, Unit 1, lớp 8)
Chủ đề 4: Luyện kĩ năng Nghe hiểu
1. Ba bớc luyện Nghe hiểu
2. Xem băng và thảo ln (TiÕt d¹y Nghe hiĨu, Unit 2, líp 9)

1


Chủ đề 5: Luyện kĩ năng viết
1. Ba bớc luyện ViÕt
2. VÝ dơ minh ho¹ (TiÕt d¹y viÕt, Unit 4, lớp 9)
Chủ đề 6: Luyện kĩ năng Đọc hiểu


1. Thực hiện 3 bớc dạy các kĩ năng (nói chung)
2. Ba bớc luyện Đọc hiểu
3. Xem băng và thảo luận (Tiết dạy Đọc hiểu, Unit 9, lớp 8)
Phụ lục 1: Vận dơng mét sè PPDH vµ sư dơng TBDH
Phơ lơc 2: Giáo án minh hoạ: Giới thiệu ngữ liệu mới (Unit 8, lớp 6)
Phụ lục 3: Giáo án minh hoạ: Luyện Ngữ pháp (Unit 4, lớp 9)
Phụ lục 4: Giáo án minh hoạ: Luyện kĩ năng Nói (Unit 1, lớp 8)
Phụ lục 5: Giáo án minh hoạ: Luyện kĩ năng viết (Unit 4, líp 9)
Phụ lục 6: Câu hỏi thảo luận về băng hình tiết dạy minh họa

2


Phần ii. Nội dung tập huấn
Chủ đề 1: Định hớng ®ỉi míi PPDH m«n tiÕng anh THCS
1. Quan ®iĨm ®ỉi mới PPDH
Mục tiêu giáo dục hiện nay đang tập trung hớng vào việc phát triển tính năng
động, sáng tạo và tích cực của học sinh nhằm tạo khả năng nhận biết và giải
quyết vấn đề cho các em. Để đạt đợc mục tiêu này việc thay đổi PPDH theo hớng coi träng ngêi häc, coi häc sinh lµ chđ thĨ hoạt động, khuyến khích các
hoạt động học tập tích cực, chủ động, sáng tạo của các em trong quá trình dạy
học là rất cần thiết.
Trong dạy học ngọai ngữ, quan điểm này càng đúng vì không ai có thể thay
thế ngời học trong việc nắm các phơng tiện ngoại ngữ và sử dụng chúng trong
hoạt động giao tiếp bằng chính năng lực giao tiếp của các em. PPDH ngoại
ngữ chọn giao tiếp là phơng hớng chủ đạo, năng lực giao tiếp (communicative
competences) là đơn vị dạy học cơ bản, coi giao tiếp vừa là mục đích vừa là
phơng tiện dạy học (dạy học trong giao tiếp, bằng giao tiếp và để giao tiếp).
PPDH này sẽ phát huy tốt nhất vai trò chủ thể, chủ động, tích cực của học sinh
trong việc rèn luyện kĩ năng ngôn ngữ vì những mục đích thực tiễn và sáng
tạo. Học sinh cần phải đợc trang bị cách thức học tiếng Anh và ý thức tù häc

tËp, rÌn lun. Ngêi häc lµ chđ thĨ, nÕu không biết cách tự học thì sẽ không
thể nắm vững tiếng nớc ngoài.
Đổi mới PPDH là quá trình chuyển từ thày thuyết trình, phân tích ngôn ngữ trò nghe và ghi chép thành PPDH mới, trong đó thày là ngời tổ chức, giúp đỡ
hoạt động học tập của học sinh, còn học sinh là ngời chủ động tham gia vào
quá trình hoạt động học tập.
Tiêu chí cơ bản của PPDH mới là hoạt động tự lập, tích cực, chủ động của học
sinh trong việc giải quyết các nhiệm vụ giao tiếp bằng ngoại ngữ. Tiêu chí chủ
3


yếu để đánh giá kết quả học tập của học sinh là năng lực giao tiếp, năng lực
ứng xử bằng ngôn ngữ trong các tình huống giao tiếp cụ thể.
2. Bản chất của tích cực hoá hoạt động học tập của học sinh trong dạy
học ngoại ngữ
Những biểu hiện tích cực đặc trng của học sinh trong hoạt động học tập bộ
môn ngoại ngữ đợc thể hiện ở những mặt chủ yếu sau:
ã Học sinh có nhu cầu tiếp thu kiến thức, kĩ năng, vận dụng kĩ năng để giao
tiếp, hứng thú làm việc với các tài liệu học tập.
ã Từ chỗ có nhu cầu tiếp thu kiến thức, rèn luyện và vận dụng kĩ năng trong
giao tiếp, học sinh sẽ tự giác học tập, chủ động huy động vốn kinh nghiệm
đà tích luỹ (vốn từ, quy tắc ngữ pháp, ) để bắt chớc, tái hiện, tìm tòi cách
ứng xử và ứng xử sáng tạo trong các tình huống giao tiếp.
ã Học sinh chủ động lựa chọn kiến thức và thao tác t duy thích hợp để có
những ứng xử ngôn ngữ cần thiết, phù hợp với hoàn cảnh giao tiếp.
ã Học sinh biết bộc lộ nhận thức và sự hiểu biết của mình ra bên ngoài bằng
lời nói, bài viết thông qua ngoại ngữ.
ã Học sinh biết cách làm việc theo cặp, theo nhóm, hợp tác với bạn khi cần
thiết trong quá trình luyện tập ngôn ngữ theo yêu cầu và nhiệm vụ của thày
giao.
ã Học sinh biết cách tự học, biết chủ động trình bày những ý định của mình

thông qua giao tiếp nói hoặc viết.
Trên đây là một số nét biểu hiện chính của PPDH mới. Đây cũng chính là
những năng lực và phẩm chất mà ngời giáo viên cần phải hình thành và phát
triển ở học sinh trong quá trình học tập ngoại ngữ.
3. Nhng cn cứ của đổi mới PPDH ngoại ngữ
Đổi mới PPDH cần phải căn cứ vào đặc điểm của môn ngoại ngữ và đặc
điểm tâm sinh lý của học sinh:
4


3.1. Căn cứ vào đặc điểm của môn ngoại ngữ nói chung:
-

Quan điểm giao tiếp là quan điểm đặc thù của môn ngoại ngữ trong nhà
trờng. Quan điểm giao tiếp quy định tính giao tiếp của hoạt động dạy
học ngoại ngữ.

-

Môn ngoại ngữ đòi hỏi nhận thức và giải quyết hợp lý mối quan hệ giữa
kiến thức ngôn ngữ và kĩ năng ngôn ngữ hai thành tố chủ yếu của nội
dung dạy học. Kĩ năng là trung tâm, là mục đích cuối cùng của quá trình
dạy học. Kiến thức là điều kiện, là phơng tiện, là nền tảng. Chỉ có kiến
thức mà không có kĩ năng thì không có khả năng giao tiếp, ngợc lại, chỉ
có kĩ năng mà không có kiến thức thì khả năng giao tiếp bị hạn chế và
không phát triển đợc.

-

Dạy học ngoại ngữ thực chất là hoạt động rèn luyện năng lực giao tiếp

dới các dạng: nghe, nói, đọc, viết. Muốn rèn luyện đợc năng lực giao tiếp
cần có môi trờng với những tình huống đa dạng của cuộc sống. Môi trờng
này chủ yếu do giáo viên tạo ra dới dạng những tình huống giao tiếp và
học sinh phải tìm cách ứng xử bằng ngoại ngữ cho phù hợp với từng tình
huống giao tiếp cụ thể.

-

Học ngoại ngữ, học sinh đồng thời tiếp cận với đất nớc, nền văn hoá xa
lạ. Mức độ tiếp cận thông tin càng cao thì việc dạy học càng thuận lợi.
Điều này đòi hỏi nhiều thiết bị dạy học (nghe - nhìn, nghe nói) và
nhiều hình thức dạy học linh hoạt.

-

Mục đích của việc dạy học ngoại ngữ không nhằm hớng học sinh vào
việc nghiên cứu hệ thống ngôn ngữ, mà nhằm giúp các em sử dụng hệ
thống ngôn ngữ đó nh một công cụ giao tiếp, nghĩa là nhằm rèn luyện cho
học sinh năng lực giao tiếp. Năng lực giao tiếp này đợc biểu hiện bằng
khả năng sử dụng sáng tạo những quy tắc ngôn ngữ để thùc hiƯn giao tiÕp
theo t×nh hng.

5


Nh vậy, mục đích cuối cùng của việc học ngoại ngữ không phải là biết hệ
thống ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp mà là biết sử dụng hệ thống đó để đạt đợc
mục đích giao tiếp.
3.2. Căn cứ vào đặc điểm tâm sinh lý của học sinh:
Khi học ngoại ngữ, học sinh THCS có nhiều điểm khác với học sinh tiểu học

ở những mặt sau:
- Suy nghĩ nhanh nhạy trong nhận thức kiến thức ngôn ngữ (ngữ âm, từ vựng,
ngữ pháp).
- Khả năng tởng tợng linh hoạt, logic hơn; nhất là dễ dàng liên tởng và so
sánh sự giống nhau và khác nhau giữa ngoại ngữ với tiếng mẹ đẻ.
- Khả năng ghi nhớ, tái hiện các mẫu lời nói và khả năng diễn đạt bằng ngoại
ngữ (tiếng Anh) lu loát và bền vững hơn, phản xạ ngôn ngữ nhanh.
- Rất hứng thú và tích cực trong hoạt động luyện tập phát triển kĩ năng ngôn
ngữ, nhất là 2 kĩ năng nghe và nói, nhng cũng rất dễ chán nản trong việc
luyện tập phát triển các kĩ năng phức tạp, ví dụ nh kĩ năng đọc hiểu vì gặp
nhiều từ mới, trừu tợng và khó đoán nghĩa; hoặc nh kĩ năng viết vì cảm
thấy khó diễn đạt suy nghĩ, ý tởng cá nhân bằng ngôn ngữ viết.
- Nhìn chung học sinh THCS tuy hào hứng, có ý thức muốn nắm bắt và sử
dụng đợc ngoại ngữ nhng khả năng độc lËp trong häc tËp cha tèt (vÝ dơ:
cßn rơt rÌ, không tự tin và sợ mắc lỗi trong khi nói). Học sinh ít có cơ hội
để luyện tập, hơn nữa lại thiếu kiên trì trong rèn luyện phát triển kĩ năng
ngôn ngữ nên kết quả học tập thờng bị hạn chế, dễ nản chí và bỏ cuộc. Vì
vậy các em cần phải thờng xuyên đợc sự khuyến khích, động viên kịp thời
của giáo viên, và đặc biệt cần có sự hỗ trợ của các phơng pháp dạy học
thích hợp để củng cố, ổn định và nâng cao hiệu quả học tập ngoại ngữ của
các em.
4. Gii phỏp i mi PPDH tiếng Anh ở trường THCS

6


PPDH tiếng Anh theo định hướng tích cực hố hoạt động học tập
Ngày nay, người ta đặc biệt quan tâm tới việc áp dụng phương pháp Giao tiếp
vào quá trình giảng dạy tiếng Anh. Giáo viên luôn luôn coi trọng việc hình
thành và ưu tiên phát triển các kĩ năng giao tiếp (nghe, nói, đọc và viết). Đồng

thời, việc cung cấp kiến thức ngôn ngữ (ngữ âm, từ vựng và ngữ pháp) là
quan trọng, góp phần hình thành và phát triển các kĩ năng giao tiếp. Chính vì
vậy, phương pháp Giao tiếp, ở chừng mực nhất định, đã phát huy được ưu
điểm của nó, thực sự giúp cho học sinh có khả năng sử dụng được tiếng Anh
để giao tiếp.
Việc áp dụng phương pháp Giao tiếp (có sự kết hợp với các phương pháp
dạy học khác) trong quá trình giảng dạy tiếng Anh ở THCS được thực hiện
như sau:
C¶ 4 kỹ năng ngôn ngữ (nghe, nói, đọc và viết) đều đợc quan tâm và đợc phối
hợp trong các bài tập và các hoạt động trên lớp.
Kỹ năng nghe luôn đợc sử dụng (phối hợp với kỹ năng đọc) để giới thiệu ngữ
liệu hoặc nội dung bài học mới. Ngoài ra, kỹ năng nghe còn đợc rèn luyện
từng bớc thông qua các bài tập nghe khác nhau nh nghe lấy ý chính, nghe hiểu
các thông tin chi tiết, nghe để đoán nghĩa qua ngữ cảnh,vv.
Kỹ năng nói đợc dạy phối hợp với ngữ âm, ngữ pháp, từ vựng, chức năng ngôn
ngữ và với các kỹ năng khác, thông qua các bài hội thoại/ mẫu hội thoại ngắn
hoặc các nội dung chủ điểm của bài.
Kỹ năng đọc, ngoài ý nghĩa đợc sử dụng làm phơng tiện giới thiệu nội dung và
ngôn ngữ mới, còn đợc phát triển thông qua các bài tập ®äc cã mơc ®Ých kh¸c
nhau nh ®äc hiĨu néi dung chi tiết, đọc lớt, đọc lấy ý chính, đọc tìm thông tin
cần thiết, vv; với các loại bài khoá có văn phong khác nhau nh văn bản viết,
văn bản nói, bài hội thoại, bài văn xuôi, bài văn vần, quảng cáo, bảng biểu,
mẫu khai, vv...
7


Kỹ năng viết cơ bản đợc dùng để củng cố vốn ngữ liệu đà đợc học. Ngoài ra,
còn có những bài tập dạy viết có mục đích nh viết th cá nhân, điền các mẫu
khai, viết báo cáo ở dạng đơn giản, viết một đoạn văn ngắn có gợi ý, dựa vào
bài đà học về một chủ điểm, hay bày tỏ quan điểm về một nhận định hoặc ý

kiến đa ra.
Ngữ liệu mới đợc giới thiệu theo chủ điểm và thông qua hoạt động nghe và
đọc; sau đó đợc luyện tập thông qua cả 4 kỹ năng. Có nghĩa là sẽ không có các
mục dạy tách biệt cho ngữ âm, ngữ pháp hay từ vựng trong từng bài học mà
các yếu tố ngôn ngữ sẽ đợc dạy lồng ghép với nhau và phối hợp với việc phát
triển các kỹ năng. Cụ thể là:
Ngữ pháp đợc xuất hiện theo chủ đề và tình huống của bài học và đợc luyện
tập trong ngữ cảnh; sau đó đợc chốt lại một cách có hệ thống sau một số bài
học và ở cuối sách giáo khoa. Các bài tập chuyên sâu về hình thái cấu trúc ngữ
pháp sẽ đợc luyện tập một cách có hệ thống trong sách bài tập kèm theo cuốn
sách giáo khoa.
Từ vựng cũng đợc xuất hiện tự nhiên theo các chủ đề nhằm đạt đợc mức độ
ngữ cảnh hoá cao, giúp học sinh dễ tiếp thu và nhớ lâu. Các bài tập sử dụng từ
vựng thờng đợc phối hợp với các bài tập ngữ pháp và các bài tập nghe, nói,
đọc, viết.
Ngữ âm đợc coi là một bộ phận mật thiết gắn liền với các hoạt động lời nói, đợc dạy và luyện tập gắn liền với việc dạy từ mới, dạy ngữ pháp, dạy nghe và
dạy nói.
Hệ thống các bài tập và hoạt động dạy học đợc thiết kế theo trình tự dạy học
đi từ giới thiệu ngữ liệu, luyện tập có hớng dẫn đến vận dụng.
Các bài tập và hoạt động dạy học chú trọng khuyến khích học sinh áp dụng
ngữ liệu đang học với các kiến thức có sẵn để diễn đạt các nội dung khác nhau
trong chính đời sống thực tế của các em. Hệ thống bài tập đặc biệt chú trọng
những nguyên tắc dạy học cơ bản trong quan điểm dạy học giao tiếp để biªn
8


soạn các loại hình bài tập nh nguyên tắc chuyển đổi thông tin (information
transfer), nguyên tắc tạo khoảng trống thông tin (information gap), hay
nguyên tắc cá thể hoá (personalization), nhằm không những giúp học sinh nắm
đợc hệ thống cấu trúc ngữ pháp mà còn biết ứng dụng để diễn đạt các nội

dung giao tiếp trong các tình huống cụ thể trong ®êi sèng thËt cđa häc sinh.
5. VËn dơng mét số PPDH theo định hớng đổi mới
Trong dy hc ngoi ngữ người ta áp dụng nhiều phương pháp dạy học như:
phương pháp Ngữ pháp–Dịch, phương pháp Nghe–Nhìn, phương pháp Nghe
- Nói, phương pháp Giao tiếp,…
Dưới đây là trình bày tóm tắt về một số phương pháp dạy học của bộ mơn
nhằm giúp cho giáo viên có tài liệu tham khảo và có thể áp dụng trong q
trình đổi mới phương pháp dạy học ở trường trung học cơ sở.
5.1 Phương pháp Ngữ pháp – Dịch
Phương pháp Ngữ pháp – Dịch (Grammar – Translation Method) hay còn
gọi là phương pháp Truyền thống được áp dụng mạnh mẽ ở Việt Nam vào
những năm 1970 cho đến tận những năm 1990.
Về bản chất, theo phương pháp này, chương trình tập trung chủ yếu vào phát
triển kĩ năng đọc hiểu, học thuộc lòng từ vựng, dịch văn bản, viết luận
(composition) và phân tích ngơn ngữ (học để nắm chắc quy tắc ngơn ngữ).
Quy trình thực hiện: Các bài khóa (texts) được biên soạn và chia ra thành
từng đoạn ngắn. Việc giảng giải quy tắc ngôn ngữ là cơ bản. Học sinh được
học về ngữ pháp rất kĩ trên cơ sở các hiện tượng ngữ pháp cơ bản được rút ra
từ các bài khóa. Để kiểm tra sự thơng hiểu về nội dung bài khóa (nội dung
văn hóa, đất nước học nói chung) và các quy tắc ngôn ngữ, HS bắt buộc phải
dịch các bài khúa sang ting mẹ đẻ. HS khụng c phộp mc lỗi ngơn ngữ,
nếu có phải sửa ngay.
Ưu điĨm:
9


- HS được rèn luyện rất kĩ về ngữ pháp và tiếp thu lượng từ vựng khá lớn.
- HS nắm được tương đối nhiều các cấu trúc câu cơ bản, thuộc lịng các đoạn
văn hay hoặc bài khóa mẫu.
- HS có thể đọc hiểu nhanh các văn bản.

Hạn chế:
- Khơng giúp HS “giao tiếp” được. Hoạt động chủ yếu trong lớp là người
thày- thày giảng giải, nói nhiều; HS thụ động ngồi nghe và ghi chép, khơng
có ý kiến phản hồi hoặc khơng tham gia giao tiếp (nói) với thày và bạn bè.
- Hoạt động dạy học chỉ diễn ra một chiều - HS hồn tồn bị động, khơng có
cơ hội thực hành giao tiếp trong lớp; khả năng sáng to v c bit k nng
nói ca HS bị hạn chÕ.
Một số lưu ý:
- Ở chừng mực nào đó, GV vẫn có thể áp dụng Phương pháp Truyền thống,
ví dụ: khi muốn kiểm tra sự hiểu chính xác về một văn bản (đoạn văn, câu
thơ…trong bài đọc hiểu) hoặc một cấu trúc câu phức tạp khác với cấu trúc
câu trong tiếng Việt, GV có thể yêu cầu HS dịch sang tiếng Việt.
- Việc kiểm tra sự thông hiểu qua hoạt động dịch khơng nên tiến hành
thường xun vì sẽ tạo thói quen cho HS phải tư duy qua tiếng mẹ đẻ (tiếng
Việt) trước khi phát ngôn. Như vậy sẽ cản trở sự lưu lốt (fluency) của HS
trong giao tiếp.
Ví dụ minh họa: Việc đánh giá kết quả học tập của HS thông qua các hoạt
động trả lời các câu hỏi về nội dung các bài khóa; dịch các bài khóa, các
đoạn văn trích (dịch sang tiếng Việt, và dịch ngược sang tiếng Anh); thực
hành các bài tập ngôn ngữ máy móc (thường là luyện tập các mẫu câu). GV
giữ vai trị chủ đạo trong q trình dạy học, có nhiệm vụ chuẩn bị bài khóa,
câu hỏi và các bài tập ngữ pháp, giảng giải qui tắc ngôn ngữ. HS được yêu

10


cầu tập đọc bài khóa, học thuộc lịng từ vựng, các đoạn văn mẫu và giải
thích một cách tường minh hiện tượng ngữ pháp.
5.2 Phương pháp Nghe – Nói
Về bản chất: Phương pháp Nghe - Nói (Audiolingual Method or Audio-Oral

Method) nhấn mạnh vào việc dạy kĩ năng nói và kĩ năng nghe trước kĩ năng
đọc và kĩ năng viết. Như vậy, khác với phương pháp Ngữ pháp – Dịch,
phương pháp này đáp ứng đúng mục tiêu cần đạt của người học là hình
thành và phát triển cả bốn kĩ năng, nhưng ưu tiên phát triển nói, nghe trước
đọc và viết.Việc cung cấp kiến thức ngôn ngữ (ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp)
được thực hiện xen lồng trong quá trình dạy học. Phương pháp Nghe-Nói
ngăn cấm việc dùng tiếng mẹ đẻ trong lớp; khuyến khích tối đa dùng tiếng
Anh trong quá trình dạy học.
Quy trình thực hiện:
Ln ln nhấn mạnh phát triển hai kĩ năng nói và nghe là chủ yếu. Việc
dạy học thông qua thực hành cấu trúc câu (structures) và qua các bài tập ứng
dụng, người học tự phát hiện và tìm hiểu những điểm giống nhau (so với
tiếng mẹ đẻ) về cấu trúc câu, cách phát ngôn và đưa ra các qui tắc ngôn ngữ.
Yêu cầu người học bắt trước mẫu do người dạy cung cấp, ví dụ: các bài/mẩu
đối thoại mẫu (dialogues) có chứa cấu trúc câu hoặc hiện tượng ngôn ngữ
cần truyền đạt. HS luyện tập mẫu đó thực chất là hình thành một thói quen
ngơn ngữ theo các hình thức như: hỏi và trả lời về bài đối thoại mẫu, thực
hành thêm một số bài tập cấu trúc (thay thế, bổ sung, chuyển đổi …).
Phương pháp này đòi hỏi GV chú ý sửa lỗi cho HS (lỗi phát âm, lỗi cấu
trúc). Các bài đối thoại mẫu cần phải chuẩn mực, các bài nghe cần được
luyện tp kết hợp với thực hành nói. Sau khi ó lĩnh hội tài liệu bằng khẩu
ngữ, HS tiếp tục luyện tập để hình thành và phát triển kĩ năng đọc và kĩ năng
viết.
11


Ưu điểm:
- Phương pháp này có hiệu quả đối với những người mới học, đặc biệt là HS
tiểu học hoặc HS ở đầu cấp THCS. HS cảm thấy phấn khởi và tự tin khi
được nghe và tập bắt chước theo giáo viên, ví dụ: HS làm theo lệnh của GV

hoặc hát các bài hát tiếng Anh đơn giản.
Hạn chế:
- §ối với HS có trình độ cao việc học theo phương pháp này sẽ nhàm chán
nếu khơng có sự điều chỉnh phương thức dạy học cần thiết.
- HS áp dụng những gì đã được lĩnh hội trong lớp học vào thực tiễn giao tiếp
ngơn ngữ là khó. Các em khơng thể vận dụng các hình thức ngơn ngữ (các
mẫu lời nói) được luyện tập trên lớp một cách tự nhiên vì tuy HS có khả
năng nghe hiểu, nhớ và bắt chước (nói theo) ngay tại chỗ trong lớp học, song
các em cũng rất chóng quên và cảm thấy bị “tắc” khi gặp tình huống tương
tự trong giao tiếp thực; tức là khơng diễn đạt được những gì định nói mặc dù
sau một thời gian dài học tập. Người ta cảm thấy nghi ngờ về tính hiệu quả
của phương pháp này so với phương pháp Ngữ pháp-Dịch. Tuy nhiên, HS có
thể nghe và nói thuần thục nếu các em được rèn luyện trong môi trường
ngoại ngữ (language environment) mà điều kiện này bị hạn chế ở trường
THCS.
Một số lưu ý:
Lớp học không nên quá đông (không quá 35 HS/lớp). Giờ học nên được tiến
hành ở các phịng học tiếng có thiết bị nghe chuẩn; hoặc GV cần chuẩn bị
băng cát-sét/ đĩa CD ghi âm các bài đối thoại mẫu có chất lượng cao để đảm
bảo cho HS có thể nghe hiểu và thực hành nói đạt hiệu quả. Đối với HS tiểu
học hoặc HS đầu cấp THCS, GV nên chuẩn bị nhiều tranh ảnh để tạo tình
huống giao tiếp; chú ý tổ chức các hoạt động ngơn ngữ khác nhau như: trị
chơi, câu đố… để gây khơng khí thoải mái trong học tập cho các em.
12


Ví dụ minh họa:
HS tiểu học hoặc HS ở đầu cấp THCS có thể được nghe các mẫu đối thoại
chứa cấu trúc câu thông thường như hỏi và trả lời về thời tiết, ví dụ: What’s
the weather like? It’s cold (hot/sunny/rainy etc.). HS cần phải được GV làm

rõ ý nghĩa (bằng giải thích, cho ví dụ hoặc thậm chí phải dịch sang tiếng
Việt nếu cấu trúc câu khơng có trong tiếng mẹ đẻ, ví dụ: đại từ “it” dùng để
chỉ thời tiết) và hiểu được cách sử dụng cấu trúc câu, cách phát âm, ngữ điệu
câu hỏi (xuống giọng). HS có thể vận dụng hỏi-trả lời về thời tiết trong các
tình huống gợi ý (ví dụ: các tranh vẽ trời nóng/lạnh/ấm…) hoặc trong tình
huống thật ở các địa danh khác nhau dựa vào bản tin dự báo thời tiết trên
TV; ví dụ: What’s the weather like in Hanoi/Hue/ Ho Chi Minh City…?
It’s......
5. 3 Phương pháp Giao tiếp
Phương pháp Giao tiếp (Communicative Approach) hay còn gọi là Đường
hướng Giao tiếp được xem như phương pháp dạy học ngoại ngữ phổ biến
nhất và hiệu quả nhất hiện nay. Hầu hết các giáo trình, SGK phổ thơng tiếng
Anh ở các nước trên thế giới và ở Việt Nam đều được biên soạn dựa theo
quan điểm giáo học pháp của Phương pháp Giao tiếp. Phương pháp này do
các nhà ngôn ngữ ứng dụng người Anh phát triển hoàn toàn khác biệt với
phương pháp dựa trên nền tảng ngữ pháp của Phương pháp Truyền thống.
Về bản chất: Phương pháp Giao tiếp nhấn mạnh vào mục tiêu của việc học
ngơn ngữ - đó là năng lực giao tiếp (communicative competence). Người ta
coi năng lực ngôn ngữ là khả năng bẩm sinh của mọi con người bình thường.
Để giao tiếp được, phương pháp này đòi hỏi phải tính đến phương diện xã
hội, văn hóa của ngơn ngữ, các điều kiện xã hội của quá trình sản sinh ngơn
ngữ, và tính đến ngơn ngữ được dùng trong cuộc sống hàng ngày. Ngồi ra,
phương pháp Giao tiếp cịn chú ý tới phương diện nghĩa của ngôn ngữ, hay
13


nói một cách khác cần lưu ý tới ý định giao tiếp (intention of
communication). Khái niệm này về sau các nhà ngôn ngữ gọi là chức năng
ngôn ngữ (language function). Như vậy, theo Phương pháp Giao tiếp ngôn
ngữ không chỉ là phương tiện diễn đạt tư duy mà còn là phương tiện giao

tiếp. Mục đích cuối cùng của người học ngoại ngữ không chỉ tiếp thu và nắm
chắc kiến thức ngôn ngữ (ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp) mà cần phải đạt được
năng lực (khả năng) giao tiếp; tức là phát triển được tất cả 4 kĩ năng ngôn
ngữ (nghe, nói, đọc, viết) và sử dụng được ngơn ngữ để giao tiếp.
Quy trình thực hiện:
Xuất phát từ bản chất của Phương pháp Giao tiếp, tài liệu giảng dạy theo
đường hướng này cần được thiết kế để đáp ứng nhu cầu giúp người học có
thể thực hiện được các chức năng ngôn ngữ khác nhau, chẳng hạn như xin
phép, đề nghị, u cầu ai đó làm việc gì; mơ tả sự vật; bày tỏ sự quan tâm,
thích thú hoặc khơng thích v.v ….
Để giao tiếp hiệu quả, người học cần phải sử dụng các hình thức ngơn ngữ
thích hợp với tình huống giao tiếp (situations), trong đó yêu cầu người tham
gia giao tiếp phải thể hiện được ý định giao tiếp (intention) thông qua việc
thực hiện các nhiệm vụ khác nhau (tasks).
Tiến trình giảng dạy diễn ra theo 5 bước:
- Giới thiệu ngữ liệu (presentation)
- Thực hành bài tập (Exercises)
-

Hoạt động giao tiếp (Communicative activities)

-

Đánh giá (Evaluation)

- Củng cố (Consolidation).
Ưu điểm:

14



Phương pháp Giao tiếp có ưu điểm hơn hẳn các phương pháp khác là nó bao
trùm mọi phương diện của q trình dạy học ngoại ngữ: đó là các yếu tố ngơn
ngữ, văn hóa, xã hội, các yếu tố ngồi ngơn ngữ… nhằm rèn luyện kĩ năng
giao tiếp hồn chỉnh. Đặc biệt Phương pháp Giao tiếp coi hình thành và phát
triển bốn kĩ năng giao tiếp như nghe, nói, đọc và viết là mục đích cuối cùng
của q trình dạy học. Các kiến thức ngôn ngữ như ngữ âm, từ vựng và ngữ
pháp là phương tiện, điều kiện hình thành và phát triển các kĩ năng giao tiếp.
Vì vậy, phương pháp Giao tiếp thực sự giúp cho HS có khả năng sử dụng
được tiếng Anh để giao tiếp.
Hạn chế:
Phương pháp Giao tiếp nhấn mạnh vào việc hình thành và phát triển 4 kĩ năng
ngơn ngữ: nghe, nói, đọc, viết trong q trình dạy học, trong đó kiến thức
ngơn ngữ (ngữ âm, từ vựng và ngữ pháp) không được quan tâm một cách
thích đáng. Kết quả là một số HS cảm thấy khó có thể “giao tiếp” vì HS làm
sao có thể nghe, nói, đọc, viết được một khi các em không nắm chắc hệ thống
qui tắc ngôn ngữ. Mặt khác, theo quan điểm của phương pháp này, quan hệ
giữa ý định giao tiếp (bao gồm các hành động lời nói hay là các chức năng
ngôn ngữ học được) và hiện thực là q phức tạp, khơng rõ ràng. Nói một
cách khác, người ta khó có thể lựa chọn các phát ngôn theo chức năng phù
hợp với nhu cầu giao tiếp thực tế đa dạng và rất phức tạp.
Một số lưu ý:
GV giữ vai trò là người hướng dẫn, tổ chức thùc hiện. HS đóng vai trị chủ
đạo trong q trình dạy học; tức là phải phát huy cao độ tính tích cực của các
em trong luyện tập thực hành. Ở trường THCS (líp 8 vµ 9), HS cần tập trung
rèn luyện sâu từng kĩ năng nghe, nói, đọc, viết. Muốn thực hiện được, cá nhân
HS phải tích cực và tự giác tham gia thực hành, không sợ mắc lỗi, và cần lưu
15



ý rằng độ lưu lốt ngơn ngữ (fluency) trong giai đoạn này là rất quan trọng.
Điều kiện tối thiểu để HS thực hành kĩ năng ngôn ngữ là mỗi lớp học khơng
q đơng (khoảng 35 HS/lớp); có đầy đủ thiết bị nghe nhìn như máy cát-sét,
băng/đĩa CD, tranh tình huống. Việc kiểm tra đánh giá kết quả học tập nên
nhấn mạnh vào 4 kĩ năng, và một phần nhỏ kiến thức ngôn ngữ. Kiểm tra kĩ
năng ngôn ngữ luôn luôn được ưu tiên trong bất kĩ hình thức nào.
Khi vận dng Phng phỏp Giao tip, GV cn lu ý:
ã Giảm thiểu tối đa thời gian nói trên lớp của GV, tăng thời gian sử dụng
ngôn ngữ cho HS.
ã Dạy học theo phơng pháp gợi mở: GV chỉ gợi mở và dẫn dắt để HS tự tìm
ra lời giải đáp hoặc con đờng đi của mình.
ã Động viên tất cả kiến thức sẵn có về văn hoá, xà hội cũng nh ngôn ngữ của
HS trong luyện tập ngôn ngữ.
ã Có thái độ tích cực đối với lỗi ngôn ngữ của HS. Chấp nhận lỗi nh một
phần tất yếu trong quá trình học ngoại ngữ, giúp HS học tập đợc từ chính
lỗi của bản thân và bạn bè.
ã Không chỉ chú ý đến sản phẩm cuối cùng của bài luyện tập (product) mà
còn chú trọng đến cả quá trình (process) luyện tập và phơng pháp học tập
của HS.
Vớ d minh ha:
Phng phỏp Giao tiếp đòi hỏi người học phải sử dụng các hình thức ngơn
ngữ thích hợp với tình huống giao tiếp (situations), trong đó yêu cầu người
tham gia giao tiếp phải thể hiện được ý định giao tiếp (intention) thông qua
việc thực hiện các nhiệm vụ khác nhau (tasks). Ví dụ, trong phần giới thiệu
ngữ liệu của Unit 4 lớp 9; Mục 2. Listen and Read, HS được giới thiệu cả
16


về chủ đề bài học (kinh nghiệm học ngoại ngữ) và kiến thức ngơn ngữ
(tường thuật câu nói từ trực tiếp sang gián tiếp: dạng câu khẳng định và câu

hỏi) trong tình huống đối thoại (Lan nói chuyện với Paola, một nữ sinh
ngoại quốc về bài thi nói tiếng Anh mà Lan vừa tham dự). Nhiệm vụ (task)
mà HS phải thực hiện là Nghe, luyện đọc bài hội thoại và tìm ra các câu hỏi
gián tiếp mà ban giám khảo hỏi Lan (phần a.). GV dùng tình huống trong bài
đối thoại để làm rõ nghĩa dạng câu hỏi theo cách nói gián tiếp của 2 loại
tường thuật câu hỏi, ví dụ:
- She asked me what my name was, and where I came from.
- She asked me if I spoke any other languages.
Bước tiếp theo, GV cho HS luyện tập qua việc yêu cầu HS đọc bảng danh
sách câu hỏi trực tiếp (thi vấn đáp tiếng Anh) của ban giám khảo để so sánh
và xác định với các câu hỏi gián tiếp trong bài đối thoại (phần b.); sau đó HS
luyện tập đối thoại trực tiếp theo cặp (đóng vai Lan và người giám khảo).
Mục đích là củng cố hình thái loại câu hỏi trực tiếp cho HS trước khi cho các
em luyện tập đổi sang câu hỏi gián tiếp.
Bước tiếp theo là hoạt động giao tiếp mang tính tự do hơn. GV có thể yêu
cầu HS dựa vào bài đối thoại giữa Lan và người giám khảo để đóng vai Lan
và Paola tập nói lại nội dung các câu hỏi trực tiếp đó ở dạng câu hỏi gián
tiếp (như bài đối thoại trong phần giới thiệu ngữ liệu).
Để tăng cường giao tiếp ở mức hồn tồn tự do (mang tính sáng tạo), GV có
thể yêu cầu HS luyện tập phỏng vấn theo cặp theo các tình huống do giáo
viên gợi ý; sau đó HS đại diện cho mỗi cặp tường thuật lại các câu hỏi ở
dạng gián tiếp.
Như vậy, ví dụ trên cho thấy việc dạy kiến thức ngôn ngữ (câu hỏi gián tiếp)
được giới thiệu thơng qua tình huống giao tiếp, vừa đảm bảo việc truyền tải
được hiện tượng ngơn ngữ theo văn cảnh có nghĩa, vừa bám sát nội dung
17


chủ đề của bài học. Điều quan trọng là HS được luyện tập và có thể vận
dụng vào các tình hung giao tip tng t.

Sử dụng thiết bị dạy học (xem phụ lục 1)

Chủ đề 2: kĩ thuật mở bài, giới thiệu ngữ liệu mới,
Luyện tập ngữ pháp
1. Mở bài - Gây không khí học tập
18


Để có đợc một giờ dạy thành công, ngay ở bớc hoạt động đầu tiên của một giờ
dạy là bớc mở bài, giáo viên cần tạo ra đợc một không khí học tập thuận lợi về
cả mặt tâm lý lẫn nội dung cho hoạt động dạy học tiếp theo đó.
Những hoạt động gây không khí học tập này thờng rất ngắn (5 -7 phút) nhng
vô cùng quan trọng. Vậy mở bài nên làm những gì và làm thế nào để có thể
thực hiện đợc các mục đích đó?
1.1. Các hoạt động mở bài
Các hoạt động mở bài nhằm một số mục đích sau:
ã ổn định lớp, cho phép học sinh có một thời gian để thích nghi với bài
học mới;
ã tạo môi trờng thuận lợi cho bài học mới;
ã gây hứng thú cho bài học mới;
ã giúp học sinh liên hệ những điều đà học với bài học mới;
ã chuẩn bị về kiến thức cần cho bài học mới;
ã tạo tình huống, tạo ngữ cảnh cho phần giới thiệu bài tiếp theo;
ã tạo nhu cầu giao tiếp, hay tạo mục đích cho một hoạt động
giao tiếp kế tiếp.
1.2. Các hình thức và thủ thuật vào bài
Tuỳ theo mục đích và đặc thù của giờ dạy, đồng thời tuỳ theo đối tợng học
sinh cụ thể của mình, giáo viên có thể lựa chọn những hoạt động hay thủ thuật
vào bài cho phù hợp.


Giáo viên có thể tham khảo một số gợi ý sau:
1.2.1. Tạo môi trờng thuận lợi cho bài học
a) Thiết lập không khí dễ chịu giữa thày và trò ngay giê phót vµo líp:
19


ã chào hỏi học sinh;
ã tự giới thiệu về mình;
ã hỏi chuyện thông thờng tự nhiên;
ã kể chuyện vui...
b) Tạo thế chủ động, tự tin cho học sinh:
ã thăm hỏi học sinh;
ã tạo cơ hội cho học sinh đợc giới thiệu/nói về mình, hỏi các
câu hỏi đáp lại
c) ổn định líp, tËp trung sù chó ý, g©y høng thó b»ng cách bắt đầu ngay bằng
một hoạt động học tập nào đó liên quan đến bài học, ví dụ:
ã A short listening task (e.g: a funny story);
• Observing a picture then ask and answer questions about the
picture;
• A riddle
• A language game (crosswords, noughts and crosses, etc)
• A challenging task on vocabulary,
1.2.2. Chuẩn bị tâm lý và kiến thức cho bài học mới
a) Khai thác kiến thức đà biết của học sinh bằng thủ thuật gợi mở (eliciting),
hay nêu vấn đền để cả lớp đóng góp ý kiến (brainstorming).
b) Liên hệ những vấn đề của bài cũ có liên quan đến bài mới, có thể bằng các
hình thức khác nhau nh:
ã hỏi các câu hỏi có liên quan;
ã ra bài tập về các nội dung đà học có liên quan;
ã sử dụng một trong những hoạt động gây hứng thú và ổn định lớp

(kể trên), dùng vốn kiến thức và nội dung bµi cị;

20


c) Tạo ngữ cảnh, tình huống hoặc các cớ/lý do giao tiếp (Communicative
needs) cho các hoạt động tiếp theo của bài. Có thể dùng các hình thức nh:
ã giáo cụ trực quan (đồ vật, tranh, bu ảnh..)
ã các mẩu chuyện có thật hoặc tự tạo
ã các bài đọc ngắn
ã các bài tập hoặc câu hỏi, vv
Lu ý:
Trong thực tế, những hoạt động và thủ thuật dùng cho phần mở bài có thể
cùng một lúc đáp ứng đợc nhiều mục đích khác nhau. Vì vậy, giáo viên
nên tìm cách sáng tạo để có đợc một cách vào bài sao cho cùng một lúc có
thể đáp ứng đợc nhiều nhiệm vụ đặt ra ở phần mở bài. Ví dụ, ngay khi bớc
vào lớp, giáo viên có thể bắt đầu bài bằng một hoạt động nêu vấn đề và giải
quyết vấn đề (problem- solving), hoặc khai thác vốn kiến thức có sẵn của
cả lớp về một nội dung có liên quan đến bài cũ và bài mới (brainstorming).
Bằng cách đó, giáo viên đà cùng một lúc gây đợc sự chú ý, gây hứng thú
cho bài học, ổn định đợc lớp, kiểm tra, ôn lại đợc bài cũ, đồng thời cũng đÃ
giúp cho học sinh chuẩn bị đợc tâm lý và kiến thức cần thiết cho bài mới.
Nh đà đề cập, mục đích của các hoạt động mở bài là để học sinh làm
quen và cảm thấy hứng thú với chủ đề sắp học trong bài, đồng thời ôn
luyện lại những kiến thức đà học có liên quan đến bài mới hoặc để giáo
viên tạo những nhu cầu giao tiếp cần thiết cho các hoạt động của bài
mới. Với ý nghĩa đó, phần mở bài đôi khi không có ranh giới cụ thể mà
luôn đợc tiến hành phối hợp với phần giới thiệu ngữ liệu.
1.3. Các hoạt động mở bài trong chơng trình sách giáo khoa mới
Trong chơng trình sách giáo khoa mới THCS, giáo viên có thể sử dụng

các thủ thuật và bài tập có sẵn trong sách giáo khoa (ví dụ nh ®èi víi

21


sách chơng trình lớp 8 và lớp 9) hoặc GV tự sáng tạo (ví dụ, với chơng
trình lớp 6 và líp 7). Cã thĨ sư dơng c¸c thđ tht nh:
Dùa vào tranh ở mục đầu của bài, hỏi, gợi ý về chủ đề mới:
- Sử dụng tranh ảnh, bản đồ, vật thực tự chuẩn bị thay cho tranh trong
sách để gây hấp dẫn.
- Hỏi các kiến thức bài cũ có liên quan đến bài mới.
- Khai thác các kiến thức có sẵn của học sinh.
- Liên hệ đến thực tế của chính học sinh, của địa phơng hay các tình
huống gần gũi với học sinh và thay thế các tình huống trong sách nếu
cần.
Khi tiến hành phần này, giáo viên cần chú ý một số điểm sau:
ã Có thể sử dụng cả tiếng Anh và tiếng Việt.
ã Cần tạo cơ hội cho học sinh hỏi lại giáo viên hoặc hỏi lẫn nhau để gây
hứng thú, phát huy tính tích cực của học sinh.
ã Luôn quan tâm đến tâm lý lứa tuổi và sở thích của học sinh để đa ra
những thđ tht phï hỵp, vÝ dơ nh kÝch thÝch trÝ tò mò, yêu cầu đoán
tranh, đoán câu trả lời v.v...
ã Cần chú ý thay đổi hình thức mở bài để gây hứng thú cho học sinh.
2. Giới thiệu ngữ liệu mới
Giới thiệu ngữ liệu mới là làm rõ nghĩa, cách phát âm, cấu trúc hình thái, và cách
dùng của một mục dạy nào đó trong một ngữ cảnh nhất định. Mục dạy có thể là
các mẫu lời nói, từ vựng hay ngữ pháp, hoặc một nội dung chủ điểm nào đó, thờng đợc giới thiệu thông qua một bài hội thoại hay một bài khoá, hoặc những tình
huống có sự hỗ trợ của giáo cụ trực quan.

22



Với phơng pháp dạy học mới, công việc giới thiệu ngữ liệu không còn thuần tuý
chỉ là việc thày giải thích nghĩa của từ mới (mà phần lớn giáo viên thờng thực
hiện bằng cách cho nghĩa tiếng Việt) và giải thích các quy tắc ngữ pháp và các
mẫu câu. ở phần này, ngời giáo viên còn cần phải đồng thời làm rõ cách sử dụng
của các mẫu câu hoặc từ mới đó trong ngữ cảnh. Chỉ khi đợc giới thiệu trong ngữ
cảnh, nghĩa và cách sử dụng của các ngữ liệu cần dạy mới đợc làm sáng tỏ. Nh
vậy, nội dung cần giới thiệu ở bớc giới thiệu ngữ liệu là:
Hình thái (Form: pronunciation; spelling; grammar)
Ngữ nghĩa (Meaning)
Cách sử dụng (Use)
Một đặc điểm nổi bật của phơng pháp mới trong việc giới thiệu ngữ liệu là phơng
pháp mới rất chú trọng tới việc phải làm sao cho học sinh tiếp thụ bài học không
chỉ qua nghe thụ động mà còn đợc vận động trí óc, chủ động tham gia vào quá
trình của họat động này qua nhiều hoạt động ngôn ngữ khác nhau.
Có nhiều cách/ thủ thuật giới thiệu ngữ liệu. Sau đây là một số thủ thuật giới
thiệu ngữ liệu mà các giáo viên có thể tham khảo để ứng dụng cho bài dạy cụ thể
của mình.
2.1. Các thủ thuật tạo dựng tình huống. (setting up situations/ contexts)
a). Dùng môi trờng, đồ vật thật trong lớp, trong trờng;
b). Sử dụng những tình huống thật trong lớp;
c). Dùng các tình huống thật trong đời sống thật của hoc sinh;
d). Dùng các câu chuyện có thật, các hiện tợng thật trong thực tế;
e). Sử dụng các bảng biểu, bản đồ, bảng tin, báo chí;
f). Sử dụng tranh, ảnh, giáo cụ trực quan;
g). Sử dụng ngôn ngữ học sinh đà biết;
h). Sử dụng các bài hội thoại ngắn;
i). Sử dụng tiếng mẹ đẻ;
k). Phối hợp một hay nhiều cách trªn.

23


2.2. Giới thiệu hình thái ngôn ngữ
Sau khi dùng ngữ cảnh để giới thiệu nghĩa và cách dùng của các mục dạy, lúc này
giáo viên có thể làm rõ hình thái cấu trúc, các quy tắc ngữ pháp nếu có để học
sinh nhớ đợc dễ hơn và hệ thống hoá đợc những ngữ liệu đà học. Giáo viên có thể
gợi ý cho häc sinh tù nhËn xÐt vµ lËp thµnh mẫu câu hoặc lập ra các công thức dễ
nhớ.
2.3. Kiểm tra møc ®é tiÕp thu cđa häc sinh. (Checking comprehension)
Sau khi giáo viên đà giới thiệu làm rõ nghĩa và cách sử dụng của ngữ liệu mới,
cần thực hiện việc kiểm tra mức độ tiếp thu bài của học sinh ®Ĩ qua ®ã biÕt ®ỵc
häc sinh ®· thùc sù hiĨu bài cha, mức độ hiểu đến đâu, để trên cơ sở đó có thể kịp
thời bổ xung bài giảng nếu cần.
Việc kiểm tra mức độ hiểu bài của học sinh ở phần giới thiệu ngữ liệu này có thể
đợc thực hiện thông qua một số bài tập thực hành nh:
Học sinh ứng dụng mẫu câu vừa học vào các tình huống tơng tự khác giáo
viên đa ra;
thực hiện một số bài tập lắp ghép;
xây dựng các bài hội thoại ngắn theo mẫu bằng cách lắp ghép những từ,
đoạn câu gợi ý;
thực hiện các bài tập hỏi /trả lời theo dạng câu hỏi đóng hoặc các câu hỏi
trắc nghiệm đúng sai (comprehensive questions, True/False questions)
dịch ra tiếng Việt (nếu phù hợp và cần thiết)
2.4. Tóm tắt các bớc giới thiệu ngữ liệu mới
Các bớc giới thiệu ngữ liệu mới có thể đợc tóm tắt theo một tiến trình nh sau:
1) Giới thiệu ngữ nghĩa và cách sử dụng của ngữ liệu: cấu trúc ngữ pháp/ từ
mới/ mẫu câu chức năng qua tình huống, ngữ cảnh, mẫu hội thoại, tranh
ảnh...


24


2) Nêu bật cấu trúc/ từ/ mẫu câu chức năng mới bằng cách đọc to cho học
sinh nghe nhắc lại hoặc bằng các thủ thuật khác nhằm hớng sự chú ý của
học sinh vào những mục dạy đó.
3) Viết các cấu trúc/ từ mới lên bảng, làm rõ hình thái cấu trúc, giải thích nếu
cần.
4) Làm rõ thêm nghĩa và cách sử dụng bằng cách tiếp tục đa thêm các tình
huống hoặc các ví dụ khác.
5) Lặp lại tơng tự bớc 2 hoặc cho học sinh tái tạo theo gợi ý.
6) Kiểm tra mức độ hiểu bài của học sinh sử dụng các thủ thuật kiểm tra hiểu
nh gợí ý ở mục 2.3.
Khi giáo viên nhận thấy học sinh đà làm tốt đợc bớc 6. thì có thể chuyển sang
phần luyện tập sáng tạo hơn với các loại bài tập mang tính giao tiếp hơn.
Tuy nhiên, cần phải lu ý rằng không phải lúc nào việc giới thiệu ngữ liệu cũng
phải tuân theo tuần tự tiến trình trên. Ví dụ, ngay sau bớc 2, nếu giáo viên cảm
thấy học sinh đà hiểu và có thể làm tốt các bài tập tái tạo thì có thể chuyển ngay
sang bớc 6. Hoặc công việc của bớc 3. cũng có thể để lui lại để thực hiện vào cuối
bài ở bớc củng cố bài, sau khi học sinh đà làm các bài tập thực hành.
2.5. Giới thiệu từ vựng - Những điểm lu ý thêm
Tiến trình giới thiệu ngữ liệu đợc trình bày ở trên có thể đợc coi là tiến trình
chung cho việc giới thiệu ngữ liệu mới. Tuy nhiên, cách giới thiệu từ vựng cũng
có những đặc thù riêng. Phần này sẽ trình bày một số điểm cần lu ý khi giới thiệu
từ mới.

2.5.1. Chọn từ để dạy
Thông thờng trong một bài học sẽ luôn luôn có từ mới. Song không phải từ mới
nào cũng cần đa vào dạy nh nhau. Để lựa chọn từ để dạy, giáo viên cần xem xét
các câu hỏi sau:

25


×