Tải bản đầy đủ (.docx) (41 trang)

Hình tượng người phụ nữ trong truyện ngắn Thạch Lam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (208.94 KB, 41 trang )

MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................2
2. Lịch sử vấn đề..............................................................................................3
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu................................................................4
4. Nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................................5
5. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................5
6. Cấu trúc đề tài ..............................................................................................5
Chương 1: Giới thiệu về nhà văn Thạch Lam...............................................5
1.1. Cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của Thạch Lam..........................................5
1.1.1 cuộc đời nhà văn thạch lam ......................................................................5
1.1.2 sự nghiệp sáng tác .....................................................................................6
1.2. Thế giới nhân vật trong truyện ngắn của Thạch Lam .................................7
1.2.1 nhân vật trong tác phẩm văn học...............................................................7
1.2.2 thế giới nhân vật trong truyện ngắn thạch lam..........................................8
Chương 2: Hình tượng người phụ nữ trong
một số truyện ngắn Thạch Lam....................................................................12
2.1. Hình ảnh người phụ nữ có cuộc đời khổ nhục và bất hạnh.....................12
2.1.1nỗi khổ nhục và bất hạnh về vật chất.......................................................13
2.1.2 nỗi khổ nhục bất hạnh về tinh thần.........................................................14
2.2. Những vẻ đẹp của người phụ nữ ...............................................................17
2.2.1 những người phụ nữ có nét đẹp bình dị trong cuộc sống đời thường......17
2.2.2những người phụ nữ giàu lòng yêu thương giàu đức hy sinh và sống có tình
nghĩa .............................................................................................................19
1


2.2.3 những người phụ nữ giàu lòng tự trọng và sự trong sạch .......................22
2.2.4 những người phụ nữ đôn hậu và chung thủy ..........................................24
2.3. Những khát vọng của người phụ nữ..........................................................24


2.3.1 khát vọng một cuộc sống đầy đủ về vật chất...........................................24
2.3.2 khát vọng niềm hạnh phúc ......................................................................26
Chương 3: Nghệ thuật xây dựng hình tượng người phụ nữ trong truyện ngắn
của Thạch Lam...............................................................................................27
3.1. Nghệ thuật miêu tả ngoại hình ..................................................................28
3.2. Nghệ thuật xây dựng ngôn ngữ nhân vật ..................................................29
3.3. Nghệ thuật miêu tả diễn biến tâm lý nhân vật ..........................................36

KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
MỞ ĐẦU
1.

Lý do chọn đề tài
1.1. Thạch Lam là một cây bút xuất sắc của nền văn học Việt Nam hiện đại.

Trong sự phát triển lịch sử văn học Việt Nam hiện đại, Thạch Lam hiện diện chừng
gần mười năm, nhưng ông vẫn được xem là một tác giả văn xuôi có tầm vóc. Tác
phẩm của ông đa dạng: truyện ngắn, tiểu thuyết, phóng sự, tiểu luận phê bình, dịch
thuật, viết báo, truyện thiếu nhi...Trong đó, truyện ngắn, tiểu thuyết và tùy bút
chiếm vị trí quan trọng. Các tác phẩm có ý nghĩa khẳng định sự nghiệp văn học của
Thạch Lam. Bên cạnh đó còn có ý nghĩa to lớn đối với sự phát triển lịch sử của văn
học Việt Nam.
1.2. Thạch Lam là nhà văn của những câu chuyện trữ tình, nhẹ nhàng nhưng
vô cùng sâu sắc. Văn ông giàu chất hiện thực và thể hiện một tấm lòng nhân ái,
2


một sự cảm thông sâu sắc đối với những cuộc đời bất hạnh, bị đè nén, áp bức, nhất
là số phận người phụ nữ. Điều đáng ghi nhận ở Thạch Lam là ông không chỉ khám

phá, thể hiện một cách chân thực cuộc đời nhục nhã, cơ cực của những người phụ
nữ suốt đời tần tảo vì gia đình, chồng con với bao khổ đau mà còn phát hiện ra ở
những số phận bất hạnh ấy những vẻ đẹp tâm hồn thật thánh thiện, cao quý. Bằng
ngòi bút của mình, Thạch Lam đã xây dựng hình ảnh người phụ nữ Việt Nam với
những phẩm chất tốt đẹp. Nhà văn đã viết lên những trang văn sâu sắc, đi vào thế
giới tâm hồn của người phụ nữ để mở ra những giá trị đẹp đẽ, từ đó làm ngời sáng
bức chân dung người phụ nữ Việt Nam.
1.3. Tác giả Thạch Lam được đưa vào giảng dạy ở trong chương trình ngữ văn
THCS và THPT. Trong tương lai, tôi sẽ là một giáo viên dạy văn nên việc thực
hiện đề tài này là một việc làm cần thiết, có ý nghĩa thực tiễn và ý nghĩa khoa học.
Những nghiên cứu của đề tài sẽ giúp tôi học tập và giảng dạy tốt hơn về những
sáng tác của Thạch Lam.
Những lý do trên đây là động lực khiến chúng tôi muốn chọn đề tài "Hình
tượng người phụ nữ trong truyện ngắn Thạch Lam" làm đối tượng để nghiên
cứu. Từ đó, giúp tôi có cái nhìn toàn diện về những đóng góp của Thạch Lam đối
với nền văn học hiện đại Việt Nam giai đoạn 1930 -1945 nói chung và nhóm Tự
lực văn đoàn nói riêng.
2. Lịch sử vấn đề
Thạch Lam là một trong những nhà văn tiêu biểu của nền văn học Việt Nam
hiện đại. Ông là một nhà văn được nghiên cứu từ rất sớm. Ngay từ khi ông cho ra
mắt tập truyện đầu tay đã được nhiều người giới thiệu, phê bình. Có rất nhiều công
trình nghiên cứu đã bàn về sáng tác của Thạch Lam, nhưng mỗi công trình nghiên
cứu chỉ dừng lại ở một vấn đề nào đó trong hệ thống quan niệm và thực tiễn sáng
tác của ông. Chẳng hạn các công trình Thạch Lam về tác gia và tác phẩm[14];
Thạch Lam - văn chương và cái đẹp [1]; Thạch Lam trong Tự lực văn đoàn [7];
3


Thạch Lam - văn chương và cái đẹp [1]; Về một quan niệm viết truyện của Thạch
Lam [9]; Phong cách văn xuôi nghệ thuật Thạch Lam [10].

Có thể thấy việc nghiên cứu Thạch Lam và sáng tác của ông đã tiến một bước
dài. Tác phẩm của Thạch Lam được tiếp cận từ "văn chương và cái đẹp", từ "thi
pháp và thể loại", từ sự soi sáng của "một quan niệm văn chương"...Từ đầy có thể
ghi nhận nhiều ý kiến đáng lưu ý.
Nguyễn Thành Thi trong Phong cách văn xuôi nghệ thuật Thạch Lam đã
nhận định về nhân vật trong sáng tác của Thạch Lam: "Nhân vật của Thạch Lam
thường là những con người nhỏ bé được miêu tả trong một không gian bao trùm
bóng tối, tù hãm và ngưng đọng. Đó là những nhân vật sống nhiều với hồi tưởng,
suy nghiệm, băn khoăn, để tự thức tỉnh" [Phong cách văn xuôi nghệ thuật Thạch
Lam [11,8].
Trong giáo trình Văn học Việt Nam hiện đại (từ đầu thế kỉ XX đến 1945), Lê
Quang Hưng nhận xét: "Tuy là một thành viên của Tự lực văn đoàn nhưng Thạch
Lam sáng tác theo một hướng riêng khá nổi rõ. Ông dành tấm lòng ưu ái xót
thương cho tầng lớp bình dân trong xã hội. Thế giới nhân vật của Thạch Lam phần
lớn là những con người ở địa vị thấp bé, có cuộc sống nghèo khổ, vất vả, thường ở
trong nhịp sống đơn điệu, nhàm tẻ" [9,142].
Các công trình trên có nghiên cứu về nhân vật trong sáng tác của Thạch Lam
nhưng mang tính chất chung chung. Nghiên cứu về thế giới nhân vật gồm hình
tượng người trí thức tiểu tư sản, hình tượng người nông dân. Cho đến nay, chưa có
công trình nào đi sâu nghiên cứu hình tượng người phụ nữ trong sáng tác của
Thạch Lam. Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi đề cập đến hình tượng người
phụ nữ trong văn chương Thạch Lam với mong muốn đóng góp một phần nhỏ của
mình đem lại cái nhìn toàn diện, sâu sắc hơn về truyện ngắn của nhà văn đã từng
4


tạo được dấu ấn riêng trong nền truyện ngắn Việt Nam 1930 - 1945 nói chung và
trong nhóm tự Tực văn đoàn nói riêng.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là hình tượng người phụ nữ qua một số
truyện ngắn của Thạch Lam.
3.2. Phạm vi tư liệu khảo sát
Trọng tâm khảo sát và nghiên cứu của đề tài là các truyện ngắn Hai đứa trẻ,
Dưới bóng Hoàng Lan, Cô hàng xén, Nhà mẹ Lê, Đứa con, Một đời người, Tối ba
mươi, Gió lạnh đầu mùa, Đói..trong Thạch Lam tác phẩm và lời bình của Thúy
Trang.
4.

Nhiệm vụ nghiên cứu

- Giới thiệu về nhà văn Thạch Lam
- Làm rõ hình tượng người phụ nữ trong truyện ngắn Thạch Lam
- Nghệ thuật xây dựng hình tượng người phụ nữ trong truyện ngắn Thạch Lam
5. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này, chúng tôi phối hợp sử dụng các phương pháp nghiên
cứu sau:
- Phương pháp liệt kê, phân loại
- Phương pháp phân tích - tổng hợp, chứng minh
6. Cấu trúc của đề tài
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, nội dung chính của đề
tài được triển khai gồm ba chương:
Chương 1. Giới thiệu về nhà văn Thạch Lam
Chương 2. Hình tượng người phụ nữ trong truyện ngắn Thạch Lam
5


Chương 3. Nghệ thuật xây dựng hình tượng người phụ nữ trong truyện ngắn Thạch
Lam

Chương 1
GIỚI THIỆU VỀ NHÀ VĂN THẠCH LAM
1.1. Cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của Thạch Lam
1.1.1. Cuộc đời nhà văn Thạch Lam
Thạch Lam (1910-1942) tên thật là Nguyễn Tường Vinh, sau đổi thành Nguyễn
Tường lân. Sinh tại Hà Nội, trong một gia đình công chức gốc quan lại đã đến hồi
xa sút. Cha ông là Nguyễn Tường Nhu (1881-1918), thông thạo chữ Hán và
chữ Pháp, làm Thông phán Tòa sứ nên thường được gọi là Thông Nhu hay Phán
Nhu. Mẹ là bà Lê Thị Sâm, con gái cả ông Lê Quang Thuật (tục gọi Quản Thuật),
người gốc Huế đã ba đời ra Bắc, làm quan võ ở Cẩm Giàng cùng thời với Huyện
Giám (ông nội Thạch Lam).
Thạch Lam là người con thứ 6 trong gia đình 7 người con (6 trai, 1 gái): Tường
Thụy, Tường Cẩm, Tường Tam, Tường Long, Thị Thế, Tường Vinh và Tường
Bách. Trừ người anh cả Nguyễn Tường Thụy làm công chức, những người còn lại
đều đã ít nhiều tham gia vào sự nghiệp văn chương, nổi bật trong số đó là Tường
Tam (Nhất Linh), Tường Long (Hoàng Đạo) và Tường Vinh (Thạch Lam).
Thuở nhỏ, Thạch Lam sống với gia đình ở quê ngoại, sau đó theo cha chuyển
sang Thái Bình tiếp tục bậc tiểu học. Lớn lên, ông cùng gia đình chuyển ra Hà Nội,
học trường Canh nông, rồi trường Trung học Albert Saraut. Là một nhà văn Việt
Nam nổi tiếng thuộc nhóm Tự Lực văn đoàn (em ruột của Nhất Linh và Hoàng
Đạo). Khi đã đỗ Tú tài phần thứ nhất, Thạch Lam thôi học để làm báo với hai anh.
Buổi đầu, ông gia nhập Tự Lực văn đoàn do anh là Nguyễn Tường Tam sáng lập,
rồi được phân công lo việc biên tập tuần báo Phong hóa và tờ Ngày nay. Đến tháng
6


2 năm 1935, thì ông được giao làm Chủ bút tờ Ngày nay. Khoảng năm 1935,
Thạch Lam lấy vợ và được người chị (Nguyễn Thị Thế) nhường lại căn nhà nhỏ tại
đầu làng Yên Phụ, ven Hồ Tây (Hà Nội) cho vợ chồng ông ở.Tuy chỉ là một mái
tranh vách đất, thế nhưng đây là nơi thường lui tới của các văn nghệ sĩ.

1.1.2. Sự nghiệp sáng tác
Hầu hết sáng tác của Thạch Lam được đăng báo trước khi in thành sách.Với
đời văn chỉ chừng bảy, tám năm, Thạch Lam đã để lại một khối lượng tác phẩm
gồm có:
 Gió đầu mùa (tập truyện ngắn, Nxb Đời nay, 1937)
 Nắng trong vườn (tập truyện ngắn, Nxb Đời nay, 1938)
 Ngày mới (truyện dài, Nxb Đời nay, 1939)
 Theo giòng (bình luận văn học, Nxb Đời nay, 1941)
 Sợi tóc (tập truyện ngắn, Nxb Đời nay, 1942)
 Hà Nội băm sáu phố phường (bút ký, Nxb Đời nay, 1943)
 Và hai quyển truyện viết cho thiếu nhi: Quyển sách, Hạt ngọc. Cả hai đều
do Nxb Đời Nay ấn hành năm 1940.
1.2. Thế giới nhân vật trong truyện ngắn của Thạch Lam
1.2.1. Nhân vật trong tác phẩm văn học
Nói đến tác phẩm văn học là nói đến nhân vật, vì nhân vật chính là phương tiện
cơ bản để nhà văn khái quát hiện thực một cách hình tượng. Cho nên dù đề cập đến
vấn đề gì đi nữa thì trong tác phẩm văn học "không thể thiếu nhân vật, bởi vì đó là
hình thức cơ bản để qua đó văn học miêu tả thế giới một cách hình tượng" [8,277].
Trong cuốn 150 thuật ngữ văn học, Lại Nguyên Ân định nghĩa nhân vật là
"hình tượng nghệ thuật về con người, một trong những dấu hiệu về con người
trong nghệ thuật ngôn từ. Bên cạnh con người, nhân vật văn học có khi còn là các

7


con vật, các loài cây, các sinh thể hoang đường được gán cho những đặc điểm
giống với con người" [2, 241].
Có thể nói, nhân vật chính là linh hồn của tác phẩm, là con đẻ tinh thần của
nhà văn. Là kết quả sáng tạo có tính chất hư cấu của nhà văn, nhân vật trong tác
phẩm là phương diện đặc sắc giúp nhà văn thể hiện quan niệm nghệ thuật của mình

về con người. Nhân vật luôn giữ vai trò trọng yếu mà từ đó tỏa ra những phương
diện khác của cấu trúc chỉnh thể tác phẩm. Với vai trò quan trọng như vậy, nhiều
nhà văn coi trọng việc xây dựng nhân vật của mình trong tác phẩm. Nói như nhà
văn Tô Hoài: "Nhân vật là nơi duy nhất tập trung hết thảy, giải quyết hết thảy một
sáng tác" [4, 127].
Thông qua việc sáng tạo nhân vật, nhà văn thể hiện nhận thức, suy nghĩ của
mình về một vấn đề nào đó trong xã hội. Qua thế giới hình tượng trong tác phẩm,
nhà văn bộc lộ cảm quan của mình trước cuộc sống, gửi gắm vào nhân vật những
tư tưởng, ước mơ, khát vọng hay những tâm sự thầm kín của mình. Thạch Lam đã
xây dựng một hệ thống nhân vật phong phú và đa dạng. Đặc biệt, ông đã dành
nhiều trang văn nói về hình ảnh người phụ nữ trước cách mạng. Ở thời điểm đó,
người phụ nữ không những phải chịu nỗi khổ chung của người dân nô lệ, mà còn là
nạn nhân của chế độ phong kiến hẹp hòi, khắc nghiệt "xuất giá tòng phu", "cha mẹ
đặt đâu con ngồi đấy". Trong sáng tác của Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng
chẳng có mấy nhân vật phụ nữ đáng quý, đáng yêu. Trái lại, Thạch Lam lại dành
cho lớp người này cả tấm lòng thương yêu, trân trọng
1.2.2. Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Thạch Lam
Thế giới nhân vật trong truyện của Thạch Lam không đông đúc. Nhân vật của
ông thiên về suy nghĩ, cảm xúc nội tâm. Có thể nói, các nhân vật trong sáng tác của
Thạch Lam đều có chung một kích thước tâm hồn đó chính là tâm hồn của tác giả.
Nhân vật của ông mang những đặc điểm phong cách của Thạch Lam: tinh tế, đa
8


cảm, thiết tha, thuần hậu, giàu tinh thần chịu đựng,... Chúng ta thấy rõ hệ thống
hình tượng nhân vật Thạch Lam qua các loại nhân vật chủ yếu như: hình tượng
người tiểu tư sản, hình tượng người nông dân nghèo và đặc sắc nhất là hình tượng
người phụ nữ.
Hình tượng người Tiểu tư sản
Cuộc sống đời thường đã trở thành đề tài cho nhà văn khai thác. Khi viết về

người tiểu tư sản, Thạch Lam không rơi vào lối viết thơ mơ mộng, lý tưởng hóa
như những nhà văn khác trong nhóm Tự lực văn đoàn. Những nhân vật tiểu tư sản
của Nhất Linh, Khái Hưng, Hoàng đạo là những “nhân vật phi thường” hoặc nhân
vật lãng mạn. Họ phần lớn xuất thân từ những gia đình quan lại hoặc gia cảnh giàu
có. Họ nếu không phải là những “khách tình si” cả cuộc đời theo đuổi mối tình
lạng mạn như Lộc (Nửa chừng xuân - Khái Hưng ) thì cũng là những người mải
mê theo một lý tưởng nào đó như Dũng (trong Đôi bạn - Nhất Linh ) cuộc sống
của họ được nhà văn thi vị hóa.
Khác hẳn với nhân vật của Khái Hưng và Nhất Linh, nhân vật tiểu tư sản của
Thạch Lam thể hiện rõ nét chân thật qua đời sống hằng ngày. Các nhân vật của ông
thường được đặt trong những hoàn cảnh khó khăn, trở ngại. Cái đói, cái nghèo
dường như lúc nào cũng đeo đẳng những số phận của nhân vật, xô đẩy vào những
tình huống đầy tuyệt vọng. Điều đó thể hiện qua các tác phẩm viết về bi kịch của
người tiểu tư sản như: Đói, Người bạn trẻ, cái chân què, Ngày mới…
Trong tác phẩm Những người bạn, nhân vật Bào sinh ra vốn gia đình thì
nghèo khó, học thì dở bị đuổi học, sau thời gian không có việc làm sống lang thang
túng thiếu, Bào mắc bệnh nặng anh quay về nhà và trở thành gánh nặng cho gia
đình. Không còn lối thoát Bào đã tìm đến cái chết, cái chết của Bào đã để lại trong
lòng người đọc sự thương cảm, xót xa. Tuy nhiên không phải cảnh ngộ nào nhân
vật cũng rơi vào cái chết nhưng tình cảnh còn thảm hại hơn cái chết đó là trường
hợp của Sinh trong truyện ngắn Đói. Do bị thất nghiệp nên rơi vào tình cảnh túng
9


quẫn không có lối thoát. Tất cả đồ đạc trong nhà đều ra đi, Mai vợ của Sinh đành
chấp nhận một thực tế đầy cay đắng là cái đói đã tràn vào nhà chị đến cuối cùng
chị cũng phải bán mình lấy tiền về để nuôi chồng. Nhưng kết thúc câu chuyện chị
phải nhận sự cay đắng bị chồng ruồng bỏ. Còn Sinh chồng chị biết được việc vợ
mình làm, người vợ hằng ngày anh vẩn tin tưởng thương yêu. Anh cảm thấy đau
khổ tủi nhục “một nổi buồn chán vô cùng”. Nhưng còn đau khổ hơn khi cái đói đến

với anh càng ngày càng dữ dội khiến anh phải nhặt lại từng miếng thịt mà chính
anh ban đầu đã hất nó đi, anh ăn song tỉnh lại càng thấy cuộc đời thật tủi nhục và
đau đớn chỉ biết “hai tay ôm mặt khóc nức nở”.
Đây là biểu hiện của bi kịch tinh thần không lối thoát. Đọc Đói ta liên tưởng
tới một truyện Miếng bánh của Nguyên Hồng, truyện này cũng giống như truyện
Đói. Nhân vật chính là Hưng sau khi không kiềm chế nổi mình đã giấu vợ ăn chiếc
bánh trong tâm trạng đau đớn nhục nhã “cả cổ họng và ruột gan xoắn lại. Tâm trí
Hưng nức nở. Miếng bánh nhai nhỏ ra càng như miếng thủy tinh tẩm mật cá”
[5,428]. Nhân vật tiểu tư sản của Thạch Lam cũng không có quá trình dằn vặt nội
tâm để rồi tự nhận thức. Trong các truyện ngắn Đói, Người bạn trẻ, Cái chân què,
Thạch Lam đặt nhân vật vào một tình thế, một cảnh ngộ nào đó để bộc lộ tâm lý,
một khoảnh khắc tâm trạng. Trước cảnh ngộ ngang trái, chớ trêu mà số phận bắt họ
phải gánh chịu, mỗi người biểu hiện một thái độ khác nhau. Bào chán nản thất
vọng rồi tự vẫn; Sinh gục ngã trước đòi hỏi bản năng; Minh (Cái chân què), sau
những ngày tháng ăn chơi chác táng để trả thù đời lại mang thêm một vết thương
lòng không thể xóa nhòa,…Nhân vật của Thạch Lam chưa có những đấu tranh dằn
vặt để tự vượt lên như kiểu nhân vật tiểu tư sản của Nam Cao. Nhưng đây là một
sự cố gắng nỗ lực của Thạch Lam so với các nhà văn cùng nhóm như Nhất Linh,
Khái Hưng. Và những hình tượng nhân vật này là sự tiếp cận, đến gần với chủ
nghĩa hiện thực của nhà văn Thạch Lam.
Hình tượng người nông dân nghèo
10


Những sáng tác của Thạch Lam trong thời kì Mặt trận Dân chủ chắc chắn có
ảnh hưởng bởi phong trào này. Vấn đề người lao động, người bình dân không chỉ
được các nhà văn hiện thực, mà cả tác giả văn học lãng mạn cũng quan tâm đến.
Chân dung người lao động, người nhà quê xuất hiện trong các tạp chí, trên nhiều
mặt báo chí và trong sáng tác văn chương lúc bấy giờ. Ông đã viết về những con
người chân quê với tình thương cảm sâu sắc. Trong truyện của Thạch Lam, người

lao động chiếm một tỷ lệ khá lớn. Họ là những người con người nghèo khổ nhưng
chân chất, với lòng cảm thương sâu sắc chứ không phải một hành động có tính chất
nhất thời. Đó là bà mẹ nghèo ở xóm chợ Đoài Thôn (Nhà mẹ Lê), là gia đình
người phu xe cùng khổ ở vùng ngoại ô Hà Nội (Một cơn giận), là cô gái nghèo
phải đi ở để trừ món nợ truyền kiếp (Đứa con), là những người nông dân suốt ngày
lam lũ nơi ruộng đồng (Những ngày mới),…
Cùng với việc miêu tả những cảnh ngộ đen tối của người lao động ở nông
thôn, Thạch Lam đã hướng cái nhìn đồng cảm về cuộc sống lam lũ của những
người dân nghèo thành thị. Ở truyện ngắn Một cơn giận, Thạch Lam kể về bi kịch
của người phu xe tên là Dư. Người phu xe này không còn trẻ, bộ dạng rách dưới
khổ sở "co ro vì rét, hai tay dấu dưới manh áo tơi tả, những vết nhăn nheo in sâu
xuống trên mặt già nua hốc hác”. Một lần anh kéo xe vào phố kiếm thêm mấy xu,
anh bị phạt một số tiền lớn. Không có tiền trả nợ cho chủ xe, anh bị đánh đập tàn
nhẫn phải bỏ nhà trốn đi. Đưa con ốm đau không có tiền thuốc thang cũng qua đời.
Một cơn giận không chỉ nói về số phận của một người phu xe mà còn có ý nghĩa
rộng lớn hơn, truyện còn đề cập đến số phận của bao nhiêu gia đình nghèo khổ
khác. Đó còn là sự cảm thông của nhà văn trước số phận cùng cực của con người.
Sự thành thật là một tiêu chí mà Thạch Lam luôn tâm niệm trong sáng tác của mình
nhất là trong các tác phẩm viết về người nông dân lao động nghèo. Thạch Lam cho
rằng đã là nhà văn sáng tác về người dân quê thì phải biết "tự cày bừa lấy trang
sách, nói về người dân quê vạch một luống thẳng thắn và mạnh bạo trên đất màu
11


mà không chịu cho những ý tưởng bên ngoài ảnh hưởng…phải biết quan sát bề
trong và đi sâu vào những bí mật của những tâm hồn ấy” [12]. Tuy vậy, do chưa
tìm ra căn nguyên sâu xa nỗi khổ của người dân nghèo, chưa đi sâu vào những mâu
thuẫn giai cấp trong xã hội nên Thạch Lam chỉ mới dừng lại ở chỗ băn khoăn, cảm
thương với số phận của họ. Ông đã có phần chủ quan và ảo tưởng cho rằng: “chỉ
một chút âu yếm, một chút tình thương, cũng đủ an ủi những người cùng khốn ấy”

[12]. Lòng trắc ẩn của ông tuy chân thành, nhưng mới chỉ là thứ nhân đạo trừu
tượng.
Hình tượng người phụ nữ
Thạch Lam là một trong những cây bút xuất sắc của nền văn học Việt Nam
hiện đại. Trong tác phẩm của mình, Thạch Lam thường viết về người nông dân
nghèo và thể hiện một niềm thương cảm chân thành. Với tấm lòng nhân ái, một sự
cảm thông sâu sắc đối với những cuộc đời bất hạnh, bị đè nén, áp bức, nhất là số
phận người phụ nữ. Niềm cảm thương đó trở nên đặc biệt sâu sắc khi ông nói đến
thân phận của những người mẹ, người vợ Việt Nam đảm đang, tần tảo, giàu đức hi
sinh. Những người phụ nữ trong truyện ngắn Thạch Lam phần nhiều là những
người con gái, người vợ, người mẹ bất hạnh. Họ bị thờ ơ, hắt hủi, hành hạ như
những nô lệ trong gia đình. Nghèo khổ về vật chất đã đành, song nhiều nhân vật
của Thạch Lam còn bị đầy đọa về tinh thần. Điều này phải chăng càng gợi cho
người đọc niềm xót xa thương cảm. Các tác phẩm của ông đã giúp người đọc hiểu
rõ thêm nỗi khổ nhục của những cô gái khi bị vây bọc trong thành trì của lễ giáo
phong kiến nghiệt ngã. Nếu chỉ miêu tả nỗi nghèo khổ, sự oan trái của thân phận
người phụ nữ có lẽ Thạch Lam không bằng Ngô Tất Tố nhưng điều đáng nói ở
nhân vật của ông cũng như các cây bút thấm đẫm tinh thần nhân đạo, tuy thiếu
thốn, cơ cực nhưng luôn lắp lánh vẻ đẹp thanh cao.
Chương 2
12


HÌNH TƯỢNG NGƯỜI PHỤ NỮ TRONG
MỘT SỐ TRUYỆN NGẮN CỦA THẠCH LAM
2.1. Hình ảnh người phụ nữ có cuộc đời khổ nhục và bất hạnh
Thạch Lam là thành viên của Tự lực văn đoàn nhưng sáng tác của ông theo
một hướng riêng khá rõ. Ngay từ nhỏ sống cùng với gia đình tại Hải Dương, ông
đã sớm gần gũi với những người bình dân nên ông thấu hiểu rõ cảnh ngộ cùng nỗi
lòng của họ. Phần lớn tác phẩm của ông viết về tầng lớp thị dân trong xã hội.

Trong đó đặc biệt là nỗi khổ nhục, bất hạnh về vật chất lẫn tinh thần của người phụ
nữ.
2.1.1. Nỗi khổ nhục và bất hạnh về vật chất
Thạch Lam viết về dân nghèo nhưng dân nghèo của ông là dân lành ngoại ô,
phố chợ. Cư dân ở đó không đông đúc lắm, nhưng cũng đủ sức tạo riêng trong văn
ông một cõi. Thạch Lam không chủ ý tả thực, phô trương cái nghèo, ông chủ ý tập
trung diễn tả cái lành của người nghèo. Có thể nói, tất cả các nhân vật thuộc tầng
lớp dân nghèo ngoại ô phố chợ của ông đều là những người lành. Ông không chỉ tỏ
ra thiện cảm mà còn tỏ rõ thái độ trân trọng đối với họ.
Các tác phẩm của Thạch Lam đề cập đến những người phụ nữ có số phận bất
hạnh do cuộc sống thất cơ lỡ vận. Thạch Lam miêu tả khá chân thật và rõ nét nỗi
thiếu thốn, cực khổ trong đời sống vật chất của tầng lớp bình dân (Nhà mẹ Lê, Gió
lạnh đầu mùa, Đói, người bạn trẻ…). Khi đọc tác phẩm Nhà mẹ Lê, chúng ta
không thể không xúc động trước tình cảnh một bà mẹ sống và nuôi con bằng nghề
làm thuê và đó cũng là nghề mưu sinh chính duy nhất của bà. Nhà mẹ Lê có mẹ
với mười một người con sống ở Đoàn Thôn rất vất vả, nghèo túng “Chừng người
ấy chen chúc trong một khoảng rộng độ bằng hai chiếc chiếu, có mỗi một chiếc
giường nan đã gãy nát. Mùa rét thì rải ổ rơm đầy nhà, mẹ con cùng nhau nằm ngủ
trên đó, trông như một cái ổ chó, chó mẹ và chó con lúc nhúc” [13,41]. Giữa
không gian sống chật hẹp như thế ta tưởng như cuộc sống không có gì khổ hơn nữa
13


thì “Đối với người nghèo như bác, một chỗ ở như thế cũng là tươm tất rồi”. Ta
nghe thấy sự xót xa trong những dòng văn nhưng đó chỉ là một phần của kiếp sống
cơ cực này. Ngoài chỗ ở ra, những bữa ăn với mấy bát gạo mà mẹ Lê kiếm được
nhờ làm lụng vất vả từ sáng sớm đến tối, nhờ đi làm thuê hay đi vay mượn thì “ Đó
là những ngày sung sướng” đối với gia đình mẹ [13,42]. Nhưng cuộc sống ngày
càng khó khăn, rơi vào tình thế cùng quẫn, bà phải nhẫn nhục, liều mình đến nhà
ông bá vay gạo. Hai lần đi, hai lần mang giá về không. Thậm chí lại còn bị chúng

xua chó cắn chết. Tác phẩm kết thúc dưới sự ra đi của mẹ Lê và sự bơ vơ ngơ ngác
của đàn con trong căn nhà lạnh lẽo. Chỉ trong ít trang truyện ngắn ngủi nhưng nhà
văn đã phản ánh một cách chân thực cuộc sống và số phận bất hạnh của người lao
động trong xã hội cũ. Vì miếng cơm manh áo hàng ngày mà biết bao gia đình phải
ly tán, phiêu bạt, thậm chí phải chết một cách thật oan ức. Quả thật, khó mà quên
được một mẹ Lê, bà mẹ nghèo với mười một đứa con, bữa rau bữa cháo đắp đổi
qua ngày. Sống chen chúc trong một căn lều lụp xụp tồi tàn, nhưng thương thuần
phác và tấm lòng của một người mẹ khổ ấy đã nâng đỡ bao bọc cho những đứa
con. Cũng chính vì vậy, khi mẹ Lê bị chó dữ nhà giàu cắn chết trong ngày đói, thì
túp lều chật hẹp tồi tàn của mẹ trở nên hư vô trống trải vô cùng.
Cùng kiểu nhân vật mẹ Lê, hàng loạt nhân vật khác cũng thể hiện nỗi cơ cực
khốn khó của mình, như nhân vật mẹ cô bé Hiên trong Gió lạnh đầu mùa và chị
Tý trong Hai đứa trẻ phải vất vả sớm hôm mò cua bắt tép nuôi chồng con; là chị
Sen (Đứa con) cũng vì thương cha mẹ mắc nợ ông bà Cả mà phải cam chịu đi ở,
chịu sự hành hạ tàn nhẫn của chủ; là Mai (Đói) vì thương chồng, muốn đưa gia
đình thoát khỏi cơn nghèo đói, cùng quẫn mà phải bán mình trong nỗi đau ê chề,
tủi nhục.
Cũng khó mà quên được một cô Tâm (Cô hàng xén), suốt một đời tần tảo như
bao nhiêu người chị, người mẹ, người vợ Việt Nam thời trước. Hình ảnh cô hàng
xén với gánh hàng "năm nắng mười mưa", với đôi chân nhẫn nại và nhất là với tấm
14


lòng thơm thảo, hiền thục quên mình ấy đã được nhà văn miêu tả bằng cái nhìn
hiện thực thấu tỏ vào cốt cách con người Việt Nam và bằng cả tấm lòng trân trọng
đồng cảm sâu xa, tinh tế của ông.
2.1.2. Nỗi khổ nhục, bất hạnh về tinh thần
Những người phụ nữ trong truyện ngắn Thạch Lam phần nhiều là những
người con gái, người vợ, người mẹ bất hạnh. Họ bị thờ ơ, hắt hủi, hành hạ như
những nô lệ trong gia đình. Nghèo khổ về vật chất đã đành, song nhiều nhân vật

trong tác phẩm của Thạch Lam còn bị đầy đọa về tinh thần.
Nhân vật Dung trong Hai lần chết có một đời thơ trẻ bị lãng quên, thiệt thòi,
gặp phải sự thờ ơ, lãnh đạm từ phía cha mẹ ngay từ lúc chào đời. Lớn lên, cha mẹ
gả cô cho gia đình giàu có. Cuộc sống tưởng từ đây hạnh phúc, nào ngờ Dung gặp
phải người chồng nhu nhược “vừa lẩn thẩn, vừa ngu đần”, bà mẹ chồng thì ác
nghiệt và luôn tìm cách đay nghiến con dâu, còn hai cô em chồng “ghê gớm lắm,
thi nhau làm cho nàng bị mắng thêm” khiến Dung khổ sở vô cùng. Trong khi đó,
người mẹ mang nặng đẻ đau ra cô thì rũ bỏ trách nhiệm với con bằng thái độ thật
vô cảm, tàn nhẫn “chỉ biết không phải là con tôi nữa thôi”. Cuộc sống như địa
ngục ấy khiến Dung “ước ao chết như một cách thoát nợ” mà không được. Khổ
đau chồng chất khổ đau, bất hạnh càng thêm bất hạnh. Dung “không bấu víu vào
đâu được nữa và cũng “không ai cứu vớt nàng nữa”. Dung đâm đầu xuống sông
mà không chết ngay được, cô đành mòn mỏi chấp nhận khi quay lại kiếp làm dâu.
Một đời làm dâu với Dung là một đời "chết" trong cõi sống.
Cô thợ Liên (Một đời người) cảm thấy làm việc ở xưởng vui hơn ở nhà. Đây
hoàn toàn là điều trái ngược với bình thường, bởi đối với những gia đình bình
thường sau giờ tan ca được về với gia đình sum họp là niềm hạnh phúc. Nhưng ở
Liên, gia đình đối với chị là một cái gì tăm tối luôn ập vào ánh mắt chị, nơi mà sự
cay nghiệt luôn diễn ra đối với mình. Chị lấy chồng năm mười bảy tuổi. Chồng
Liên là kẻ vũ phu ghê gớm. Anh ta sẵn sàng hành hạ vợ bất cứ lúc nào và vì bất cứ
15


lí do gì. Cả chồng và mẹ chồng đều tàn bạo, vô tình nên Liên chỉ còn biết trông vào
đứa con lên sáu làm chỗ dựa về tinh thần nhưng đau đớn, bất hạnh thay khi nó
cũng “xấc láo như bố”. Tất cả những đau đớn về thể xác và tinh thần của Liên chỉ
được “quên đi trong chốc lát” mỗi khi hết giờ làm việc để được cùng các chị em
rảo bước trên vỉa hè và trò chuyện. Nhưng liền ngay sau đó, “nàng không còn vui
vẻ gì nữa vì sắp về đến nhà” bởi ngôi nhà ấy với cô chỉ là “một cái địa ngục”
không hơn không kém. Hy sinh luôn cả tình yêu của mình với Tâm vẫn cam chịu.

Nhưng nhân vật phải băn khoăn không hiểu do đâu mà “chồng nàng và mẹ chồng
lại ác nghiệt với nàng đến thế”. Câu hỏi ở cuối tác phẩm lại càng khẳng định, nhấn
mạnh thêm nỗi bất hạnh của một đời người mà người đàn bà bất hạnh này phải
gánh chịu. Đọc những trang truyện này, người đọc như cảm nhận được một tâm sự
sâu kín, một lời trách móc âm thầm mà thắm thiết của nhà văn qua những số phận
bất hạnh. Đó là sự phản đối chế độ gia đình phong kiến cổ hủ - một chế độ vô nhân
đạo với những người phụ nữ ở ngay trong gia đình và do chính những người thân
của họ.
Ở truyện Trở về, nhà văn tập trung miêu tả nỗi khổ đau của bà mẹ già nơi
thôn quê nghèo khó vì đứa con bất hiếu. Người mẹ đã tần tảo sớm hôm nuôi Tâm
ăn học nên người nhưng khi ra thành phố, cuộc sống bon chen danh lợi đã khiến
anh ta quên hẳn người mẹ ở quê nhà. Trong sáu năm biền biệt, Tâm không một lời
hỏi thăm và cũng không để ý đến những bức thư của mẹ gửi từ quê ra với bao tình
cảm ân cần, đằm thắm. Đốn mạt hơn nữa, vì sợ bị phát hiện là mình có người mẹ
nghèo khổ ở quê nên khi lấy vợ Tâm đã không báo tin cho mẹ biết. Bất đắc dĩ phải
về thăm mẹ, anh ta đáp lại tình cảm của mẹ bằng một thái độ kiêu căng, khó chịu.
Và lúc “ra khỏi nhà Tâm nhẹ hẳn người” rồi lái xe chạy làm bùn bắn lên hai người
phụ nữ bên đường mà anh ta thừa biết đó là mẹ và cô hàng xóm tốt bụng. Lúc này,
“không còn một cái gì ràng buộc Tâm với cuộc sống thôn quê nữa” nên anh ta
chẳng mảy may động lòng thương hay hối hận. Ở đây, nhà văn không chỉ khiến
16


người đọc phải lên án sự vô ơn của đứa con mà còn đau xót cho số phận bất hạnh
của người mẹ.
Còn biết bao hình ảnh đáng thương khác nữa trong từng trang viết của Thạch
Lam. Đó là những cô Liên, cô Huệ bị cuộc đời đưa đẩy đến một cuộc sống sa ngã,
ô trọc; bơ vơ và lạc lõng biết bao giữa đêm ba mươi Tết, đầy mưa lạnh và đầy bóng
tối (Tối ba mươi)...mà những con sóng dữ, những làn gió độc của cuộc đời đưa
đẩy họ tới những kết cuộc bế tắc, lầm than, bi đát vô cùng. Đúng như cảm giác

chung nhất của nhà văn về họ, đó là hình ảnh sinh động muôn màu của "những
người nghèo khổ đang lầm than trong cái đói rét một đời...mùa đông giá lạnh và
lầy lội phủ lên lưng họ cái màn lặng lẽ của sương mù" (Gió đầu mùa)
Nhìn chung, các nhân vật nữ của Thạch Lam thường gặp phải số phận bi kịch.
Tuy nhiên, vượt lên bao nỗi khổ đau, bất hạnh, những người phụ nữ trong sáng tác
của nhà văn vẫn luôn cố gắng gìn giữ những phẩm chất cao quý của tâm hồn. Họ
phần lớn là những người có cuộc sống gia đình không hạnh phúc, thậm chí là bất
hạnh nhưng cái đáng quý là họ vẫn yêu chồng, thương con, tần tảo khuya sớm vì
gia đình. Có thể khái quát nhân vật của Thạch Lam nghèo mà không hèn. Là nhà
văn nhìn đời, nhìn người, nhìn thiên nhiên về phía cái đẹp, cái thiện, Thạch Lam
phát hiện và diễn tả cái đẹp đáng trân trọng ở tâm hồn những con người nhỏ bé
thầm lặng.
2.2. Những vẻ đẹp của người phụ nữ
Thạch Lam viết văn bằng cả tấm lòng của mình. Ông không chỉ khám phá, thể
hiện một cách chân thực cuộc đời nhục nhã cơ cực của những người phụ nữ mà
còn phát hiện ở họ có những vẻ đẹp tâm hồn thật thánh thiện, cao đẹp.
2.2.1. Những người phụ nữ có nét đẹp bình dị trong cuộc sống đời thường
Cuộc sống của con người trong xã hội loài người vốn là một hiện thực phức
tạp phong phú, muôn vẻ muôn màu: hạnh phúc và bất hạnh, rủi ro và may mắn,
thất vọng và hy vọng, vui và buồn. Chính vì vậy, nhìn vào số phận của những
17


người dân nghèo ngoại ô phố chợ, người ta thấy trên cái nền chung của cuộc đời
mòn mỏi bất hạnh, tăm tối, thi thoảng có ánh lên chút ánh sáng của niềm vui, của
lòng yêu đời và niềm ham sống.
Đời mẹ Lê, cô Tâm, cô Liên, cô Dung, cô Huệ, bác Dư, bác Đối, chị Sen, chị
Tý...đều là những cuộc đời buồn. Nhưng ai bảo rằng cuộc sống và tâm tình của họ
toàn là những chuyện rủi ro, buồn khổ, lo âu, mòn mỏi, tăm tối?
Đời mẹ Lê và những người ngụ cư phố chợ không thiếu những phút êm ả,

thanh bình mà nhà văn thật lòng muốn nâng niu chia sẻ. Đó là những phút thanh
bình của những đêm trăng vẳng tiếng cười khúc khích của các cô gái xuân thì; hay
tiếng võng, giọng hát trống quân của bác Đối gái phảng phất hương táo Tàu. Đó là
niềm vui của mẹ con bác Lê "những lúc vui vẻ được lĩnh gạo về cho con, những
bữa cơm nóng mùa rét", là niềm vui mừng nhớ lại "cạnh bông lúa sắc sát vào da
thịt" như một sự cảm giác về sự yên tâm no đủ. Những cảm giác, cảm tưởng như
thế sẽ theo mãi trong tâm trí mẹ Lê cũng như cảm giác về cái đói cái nghèo theo
đuổi và ám ảnh mãi người đàn bà đông con, nhân hậu, đáng thương ấy.
Lặng lẽ, tần tảo, nhẫn nại như cô Tâm, mà cũng có những giây phút tràn ngập
niềm hạnh phúc, niềm kiêu hãnh, niềm vui. Vui lúc trở về nhà có các em trông đợi,
có mẹ ân cần. Vui lúc soạn hàng, hàng trăm thứ hàng như có linh hồn chuyền qua
bàn tay chăm chút của cô. Vui lúc ra chợ gặp bạn, gặp được cậu giáo Bài, được
xem là hoa khôi chợ huyện...
Cô bé Liên hay chị Tý...cũng có niềm vui riêng như được nâng đỡ và an ủi.
Ánh sáng của đom đóm và của ngàn sao, những âm thanh và bóng tối mùa hạ "êm
như nhung và thoảng qua gió mát", tiếng còi tàu gióng giả, tiếng bánh sắt siết vào
ghi, ánh sáng của đồng, kền và của đoàn tàu từ Hà thành hoa lệ...một chút thế giới
khác đi qua ga xép cũng đủ làm cho lòng người rộn rạo, nao nức, sung sướng.
Liên và Huệ trong Tối ba mươi là những người làm cái nghề dưới đáy cùng
của xã hội. Những ngày Lễ – Tết, hai cô vẫn nhớ tới quê hương làng xóm với một
18


mái nhà yên ấm, nhớ tới ông bà tổ tiên cùng tuổi thơ trong sáng của mình. Cao hơn
nữa là một niềm tiếc hận, khổ đau cho thân phận và cuộc sống của mình. Hai cô vẫn
đau đáu ngày trở về trong sự hoàn lương: “… những giọt nước mắt chảy tràn mi,
nàng không giữ được; Liên cảm thấy một nỗi tủi cực mênh mang tràn khắp người,
một nỗi thương tiếc vô hạn; tất cả thân thể nàng lướt hiện qua trước mắt với những
ước mong tuổi trẻ, những thất vọng chán chường” (Tối ba mươi).
Những thiếu nữ dậy thì tuổi mười lăm, mười tám đáng yêu hay bắt đầu yêu

như Hậu (Nắng trong vườn), Liên (Tiếng sáo), Hảo, Trinh (Ngày mới), Tâm (cô
hàng xén), Nga (Dưới bóng hoàng lan)...thật là những vẻ đẹp của xuân sắc.
Nhưng những người phụ nữ tần tảo làm con, làm vợ, làm mẹ như Tâm, Liên (Cô
hàng xén), Liên (Một đời người), mẹ Lê (Nhà mẹ Lê), bà Nhì, bà Phán (Ngày
mới), thậm chí cả đến bà đầm (Người đầm), bà cả (Đứa con) - những kẻ tưởng
như chỉ tập trung toàn cái ác, cái xấu, cũng đều tiềm ẩn những nét đẹp cao quý bất
ngờ, hay những rung cảm đáng trân trọng. Cái đẹp hiện diện ở khắp mọi nơi, ở
nhiều tầng lớp, hạng người, ở mọi thời. Đó là cái đẹp của thực tại đời thường, cái
đẹp bình dị.
Những người phụ nữ trong các truyện ngắn Thạch Lam là những người chịu
nhiều khổ đau, bất hạnh nhưng họ vẫn hướng tới cái đẹp, vẫn giữ cho mình những
nét đẹp trong tâm hồn.
2.2.2.Những người phụ nữ giàu lòng yêu thương, giàu đức hi sinh và sống
có tình nghĩa
Trong các sáng tác của Thạch Lam, nhiều nhân vật mang tên các loài hoa và
gợi lên sự cao quý, nhẹ nhàng: Mai, Liên, Huệ, Sen, Nga, Tâm, Dung…Ở họ luôn
trỗi dậy lòng thương yêu, đức hi sinh. Họ sống và nghĩ vì người khác. Đó là vẻ đẹp
nổi bật những người phụ nữ trong truyện ngắn Thạch Lam.
Mẹ Lê vất vả khổ sở vì lo cho đàn con. Mai vì thương chồng đói mà chạy
vạy. Tâm cứ lặng lẽ sống cuộc đời cô hàng xén vì nghĩ đến bổn phận, nghĩa vụ với
19


mọi người… Nhìn chung, các nhân vật nữ của Thạch Lam thường gặp phải số phận
bi kịch. Tuy nhiên, vượt lên bao nỗi khổ đau, bất hạnh, những người phụ nữ ấy vẫn
luôn cố gắng gìn giữ những phẩm chất cao quý trong tâm hồn. Phần lớn họ có cuộc
sống gia đình không hạnh phúc, thậm chí là bất hạnh nhưng cái đáng quý là họ vẫn
yêu chồng, thương con, tần tảo khuya sớm vì gia đình.
Tâm (Cô hàng xén) lúc còn ở nhà với mẹ và hai đứa em hay khi đã về nhà
chồng thì ngày nào cũng bận bịu, vất vả với gánh hàng trĩu nặng trên vai nhưng

không bao giờ có một lời kêu ca về nỗi khổ sở, nhọc nhằn bởi nàng “thấy vững
vàng ở giá trị và lòng cao quý của mình”. Hình ảnh “cái đòn gánh cong xuống vì
hàng nặng, kĩu kịt trên mảnh vai nhỏ bé theo nhịp bước đi” đã trở nên quá quen
thuộc với mọi người. Tâm hết lòng lo cho gia đình. Cô gánh hàng đi từ lúc sương
mù còn giăng kín cả bầu trời và trở về nhà lúc mọi nhà đã lên đèn, nhưng cô không
một lời kêu ca. Lo cho cuộc sống gia đình, cô đã hi sinh cả ước mơ của mình. Tâm
không nỡ đi lấy chồng chỉ vì thương cha mẹ, thương các em. Đến khi về nhà chồng
làm vợ hiền dâu thảo vẫn nặng lòng chăm chút cho em từ chục bạc đến quyển sách,
chỉ sợ em thua thiệt, mếch lòng. Một sự hi sinh lặng thầm nhưng rất đỗi thiêng
liêng của nhân vật. Đó là vẻ đẹp tâm hồn của Liên thể hiện qua sự dâng hiến, chu
toàn của bản thân đối với gia đình.
Đó còn là tình yêu vô hạn của những người phụ nữ hết lòng vì gia đình. Một
người mẹ nghèo nàn, kiếm từng hạt thóc còn sót lại trên cánh đồng. Tưởng chừng
sự đói nghèo khổ sở như thế thì còn lấy đâu ra cái đẹp nhưng dưới cái nhìn của
Thạch Lam, cái đẹp chẳng phải là cái gì cao vút mà là vẻ đẹp rất bình dị nhưng
thanh cao, đáng quý. Sự vất vả của người mẹ đã được đền đáp bằng sự đầm ấm của
gia đình. “Thật là sung sướng, nếu chúng mang về được một lượm, trong những
ngày may mắn. Vội vàng, bác Lê đẩy con ra vơ lấy bó lúa, đem để xuống dưới
chân vò nát, vét vội thóc, giã lấy gạo. Rồi là một bữa cơm nóng lúc buổi tối giá
rét, mẹ con ngồi xúm quanh nồi cơm bốc hơi, trong khi bên ngoài gió lạnh rít qua
20


mái tranh” (Nhà mẹ Lê). Mẹ Lê thương con thầm lặng mà sâu sắc, mà thương
nhất là thằng con thứ chín vì nó ốm yếu xanh xao nhất nhà và cũng vì nó "giống
thầy cháu như đúc". Trong tình thương con lặng lẽ chân chất của mẹ, có cả một
chút hoài thương đối với người chồng đã mất.
Trong cái rét mướt của buổi sáng đầu đông năm ấy, xua tan đi cái lạnh giá
trong tác phẩm không phải là hơi ấm từ chiếc áo bông mà là hơi ấm của tình người.
Những người phụ nữ bằng tình yêu thương đã sưởi ấm cả mùa đông buốt giá. Ðó là

tình mẫu tử thiêng liêng và tình thương đối với những con người nghèo khổ. Trong
“Gió lạnh đầu mùa”, nhân vật người mẹ (mẹ cô bé Hiên) hiện lên với tình yêu
thương bao la, không chỉ đối với những đứa con mà còn đối với những người xung
quanh đã trở thành điểm nhấn của tác phẩm. Chính tâm hồn đôn hậu của người mẹ
đã tạo nên vẻ đẹp, sức sống cho tác phẩm.
Mai (Đói) vì thương chồng, muốn đưa gia đình thoát khỏi cơn nghèo đói,
cùng quẫn mà phải bán mình trong nỗi đau ê chề, tủi nhục. Mai biết việc mình làm
là tội lỗi nên đã cố ý tránh để chồng khỏi bị nhục vì miếng ăn “nhỏ bé” hàng ngày
chứ nàng không phải là kẻ lừa dối, xấu xa như chồng nghĩ. Nhưng chồng cô không
hiểu mà mắng mỏ, đuổi vợ đi. Vẫn là sự hi sinh thầm lặng, Mai không cãi mà cũng
chẳng thanh minh, biện bạch. Nỗi đau khổ, bất hạnh như được nhân lên gấp nhiều
lần.
Cùng kiểu nhân vật trên là chị Tý (Hai đứa trẻ) vất vả sớm hôm mò cua bắt
tép nuôi chồng con; là chị Sen (Đứa con) cũng vì thương cha mẹ mắc nợ ông bà
Cả mà phải cam chịu đi ở, chịu sự hành hạ tàn nhẫn của chủ. Còn bao nhiêu hình
ảnh chi tiết cảm động, tình nghĩa khác mà Thạch lam muốn chắt chiu tả, kể với
chúng ta. Đó là cái tình lân lý, láng giềng của những người dân nghèo xóm ngụ cư
(Nhà mẹ Lê) hay nơi phường khóm ngoại ô tăm tối (Một cơn giận) nhất là những
khi có người ốm đau, tang chế ngặt nghèo. Là cái tình nương tựa vào nhau nơi đất
khách quê người hay giữa cảnh lạc lõng bơ vơ (Tối ba mươi)...
21


Hình ảnh những người phụ nữ đều là những con người văn hóa thuộc về cội
nguồn và hiện thân cho những kết tinh của truyền thống, có một mối liên lạc sâu xa
bền vững và những tình cảm cao quý với người thân, với cội nguồn. Thạch Lam rõ
ràng là người ưa tìm cái đẹp "tiềm tàng" ở những nơi khuất lấp của đời sống và
nhất là cái đẹp của sự sống ở trong nội tâm thầm kín của nhân vật.
2.2.3. Những người người phụ nữ giàu lòng tự trọng và sự trong sạch.
Cái tinh hoa cốt cách của người phụ nữ Việt Nam qua sáng tác của Thạch

Lam còn là ở sự cứng cỏi, nghĩa khía, tự trọng và rất trong sạch. Các nhân vật như:
Mẹ Lê, cô Tâm, cô Dung, cô Liên, cô Trinh, cô Mai, cô Lan, cô Dần...đều là những
gương mặt tâm hồn có cái cốt cách cứng cỏi như thế. Còn lòng tự trọng và nhất là
sự trong sạch của nhân vật trong sáng tác của Thạch Lam thì rất đáng được trân
trọng. Các nhân vật như mẹ cái Hiền (Gió lạnh đầu mùa), mẹ Lê với khát khao
được làm việc để nuôi con (Nhà mẹ Lê)...và nhất là những người đã sa chân vào
đời trụy lạc như cô Liên, cô Huệ (Tối ba mươi)...đều là những bằng chứng sống
động cho sự trong sạch, có giáo dục, có văn hóa của người Việt Nam qua những
trang viết của Thạch Lam.
Dù trong hoàn cảnh và công việc khó khăn, vất vả nhưng những người phụ nữ
vẫn luôn luôn tận tụy với nghĩa vụ làm mẹ, làm vợ, làm con, làm chị của mình. Mẹ
Lê tận tụy với bổn phận làm mẹ của mười một đứa con. Cô Tâm tận tụy với nghĩa
vụ làm con, làm dâu, làm chị, làm vợ...với gánh hàng xén giản dị của mình. Cô
Dần tận tụy với cái hàng nước và khách hàng của cô "từ chín mười giờ tối, suốt
đêm cho tới sáng". Họ không để cho bất kỳ hoàn cảnh nào đè bẹp nổi. Họ nghèo
khó mà trong sạch, lặng lẽ mà cứng cỏi, lam lũ, lầm than mà không tham lam.
Nghèo đến như mẹ cái Hiên (Gió lạnh đầu mùa) không có nổi một tấm áo
lạnh cho con trẻ mặc che thân mùa rét, mà vẫn không tham của nhà người. Lặng lẽ
đến như cô Tâm (Cô hàng xén) suốt một cuộc đời nhẫn nại hi sinh "ngày nọ dệt
vào ngày kia như tấm vải thô sơ" mà vẫn là người con hiếu thảo, người chị, người
22


vợ đảm đang, hiền thục, giàu tình thương và lòng tận tụy. Nhem nhuốc đến như cô
Liên, cô Huệ (Tối ba mươi) phải làm gái "bán hoa" mà "cũng có cốt cách trong
sạch của con người được giáo dục cẩn thận từ nhỏ". Những cảnh ngộ và tính tình
ấy luôn đáng trân trọng.
2.2.4. Những người phụ nữ đôn hậu và chung thủy
Ðọc truyện ngắn Thạch Lam, người đọc đặc biệt ấn tượng với những nhân vật
nữ, bởi trong bất cứ hoàn cảnh nào, người phụ nữ vẫn mang trong mình những giá

trị tâm hồn cao đẹp, đó là vẻ đẹp của tình yêu thương, thủy chung, đôn hậu.
Nếu như hình ảnh người phụ nữ trong “Gió lạnh đầu mùa” hiện lên với vẻ
đẹp của tình mẫu tử và sự đôn hậu của tâm hồn thì trong truyện ngắn “ Dưới bóng
hoàng lan”, Thạch Lam lại khai thác vẻ đẹp của người phụ nữ ở một khía cạnh
khác: đó là vẻ đẹp của sự thủy chung và tình yêu trong sáng. Nga là cô gái không
chỉ đẹp về ngoại hình: “đôi mắt thắm”, “hai má hồng”, “nụ cười tươi” mà cô còn
sở hữu vẻ đẹp tâm hồn. Cô có một tình yêu sâu sắc đối với Thanh, đó là tình yêu e
ấp thuở ấu thơ, tình yêu cứ lớn dần theo năm tháng, theo sự trưởng thành của
người con gái: “Mỗi mùa cô lại giắt hoàng lan lên mái tóc để tưởng nhớ mùi
hương”. Đó là lúc Nga tìm về với những ký ức tuổi thơ, những ngày cùng Thanh
nhặt hoa dưới bóng cây. Đó cũng là lúc Nga nhớ về người con trai đang ở nơi xa.
Thạch Lam đã dựng lên một bức chân dung thật đẹp, không phải bằng cọ vẽ mà
bằng ngòi bút văn chương. Trong bức tranh đó có chân dung của cô thiếu nữ cùng
với vẻ đẹp của hoa ngọc lan, nhưng đó không chỉ là vẻ đẹp ngoại hình mà còn có
sự tỏa sáng nơi tâm hồn của người con gái. Trong những cảm giác dội dào, nhân
vật của Thạch Lam có cảm giác ru mình trong những hoài niệm, sống lại trong quá
khứ, tha thiết nhớ cội nguồn. Ông thường tạo tình huống trở về - gặp lại để cho
nhân vật hoài niệm, tự cảm thấy tâm hồn được thanh lọc. Tân (Những Ngày Mới)
trở về nơi thôn dã sau bao nhiêu năm bon chen, bộn bề sống ở thành thị. Từ đây
tâm hồn Tân trẻ lại những ngày mới đầy ý vị mở ra trong mắt chàng. Dẫu không
23


trở về nơi mình học trọ xưa, nơi có người con gái từng yêu thương, giận hờn nhưng
dòng hồi tưởng của bình ( Tình Xưa) khiến ta xúc động và thương cảm trước tấm
lòng của Lan. Truyện ngắn như một dòng hồi tưởng trong sáng, hồn nhiên chỉ có
một lần trong đời. Đó là một vẻ đẹp rất sáng,rất đắt mà Thạch Lam đã tìm kiếm và
khai thác.
2.3. Khát vọng của người phụ nữ
Thạch Lam không chỉ giúp người đọc nhìn ra sự thực của cuộc đời mà còn

thấy được những ước mơ, khát vọng chính đáng của các nhân vật.
2.3.1. Khát vọng một cuộc sống đầy đủ về vật chất
Trong các sáng tác của thạch lam giai đoạn trước năm 1945 khi viết về mảng
đề tài người nông dân hay người phụ nữ có rất nhiều nhân vật có hoàn cảnh sống
rất khác nhau. Có những nhân vật có nghèo khổ thiếu thốn và trong họ luôn có
một khát vọng về vật chất. Điều này ta thấy rất rõ qua truyện Nhà Mẹ Lê. Mẹ lê
nhân vât chính trong câu chuyện có một hoàn cảnh sống rất khó khăn. Vật chất để
nuôi sống gia đình luôn là mối quan tâm đối với chị. Mở đầu tác phẩm ta bắt gặp
hoàn cảnh khó khăn của gia đình chị” mùa rét phải trải ổ rơm đầy nhà, mẹ con
cùng nằm ngủ trên đó, trông như một cái ổ chó, chó mẹ và chó con lúc nhúc. Đối
với nhà nghèo như bác, một chỗ ở như thế cũng tươm tất lắm rồi”. Đọc tác phẩm ta
nhìn thấy trong gia đình nhỏ bé này một khát vọng về vật chất vô cùng bình dị. Đó
là một khát vọng về chỗ ở, nhưng trong tác phẩm này đây không phải là khát vọng
duy nhất cuả gia đình chị. Ngoài chỗ ở ra, hằng ngày chị phải làm việc “ từ buổi
sáng tinh sương, mùa nực cũng như mùa rét, bác ta đã phải trở dậy để đi làm
mướn cho những người có ruộng trong làng” và chỉ mong sao có được “mấy bát
gạo và mấy đồng xu về nuôi lũ con đói đứng đợi ở nhà. Đó là những ngày sung
sướng”. Hoàn cảnh sống khó nhăn khiến gia đình không chỉ có mẹ Lê phải làm
lụng vất vả. Mà ngay cả mấy đứa con chị củng phải đi kiếm cái ăn cho gia đình.
Chúng phải ra cánh đồng kiếm con cua con ốc, hay sau mùa gặt đi mót những bông
24


lúa còn sót lại trong khe ruộng. Điều gì hạnh phúc biết bao khi “chúng mang về
một lượm, trong những ngày may mắn vội vàng bác lê đẩy con vơ lấy bó lúa, đem
đẻ xuống dưới chân vò nát, vét vội thóc, giã lấy gạo” [13,42] Những bộn bề khó
khăn về cuộc sống không dừng lại ở đó. Cuộc sống càng ngày càng khó khăn cái
đói đến với gia đình chị mỗi lúc một gần hơn, đến nỗi vì muốn có bát gạo để nuôi
đàn con vượt qua cơn đói. Chị đã đến nhà ông Bá vay mượn dù chị đã bị dọa nếu
chị còn tới nữa sẽ xua chó ra cắn. Nhưng vì thương đàn con mà chị đã đến đó và

sau đó đã nhận được cái chết thương tâm. Trong các sáng tác của Thạch Lam khi
nói về sự khó khăn về vật chất không dừng lại ở tác phẩm này, mà còn được Thạch
Lam còn thể hiện điều này trong các tác phẩm khác. Điển hình như truyện Hai
đứa trẻ. Qua không gian một phố huyện nghèo xác xơ trước cách mạng tháng 8
năm 1945, Thạch Lam đã khắc họa nên những nét đẹp trong tính cách và tâm hồn
của nhân vật Liên - một cô bé hồn nhiên, đáng yêu, giàu tình người và những khát
khao thầm kín. Hai chị em Liên muốn được nhìn chuyến tàu đêm đi qua phố huyện
vì đó là hình ảnh của tuổi thơ hạnh phúc trong quá khứ đã mất. Hai chị em Liên
tưởng như đang được sống lại trong giây lát tuổi thơ hạnh phúc đã mất. Đó là hình
ảnh của một thế giới khác hẳn cuộc sống tăm tối nơi phố huyện. Đó là hình ảnh của
tương lai cuộc sống có ánh sáng, hạnh phúc mà hai đứa trẻ hằng mong ước, chờ
đợi. Bởi thế mà khi đoàn tàu đi rồi “Liên vẫn lặng theo mơ tưởng”. Được nhìn thấy
chuyến tàu đêm vì đó là nhịp sống sôi động cuối cùng của một ngày. Không chỉ
vậy, hai chị em còn thức đợi tàu để có thể bán thêm một ít hàng cho hành khách
theo như lời của mẹ. Chuyến tàu đêm là biểu tượng cho sự sống có ánh sáng, có
hạnh phúc, nó hoàn toàn đối lập với cuộc sống mỏi mòn, quẩn quanh, bế tắc của
người dân phố huyện. Qua tâm trạng thức đợi tàu hai chị em Liên, Thạch Lam đã
thể hiện thái độ trân trọng, thương cảm đối với những kiếp người nhỏ bé sống
trong nghèo nàn, tăm tối. Qua tâm trạng đó, nhà văn như muốn lay tỉnh những con
người đang sống trong buồn chán, quẩn quanh, bế tắc: “Hãy nỗ lực vươn lên một
25


×