Tải bản đầy đủ (.pdf) (67 trang)

Bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc theo pháp luật việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (565.94 KB, 67 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHỆ TP. HCM
KHOA LUẬT

KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP

BẢO HỘ QUYỀN TÁC GIẢ
ĐỐI VỚI TÁC PHẨM ÂM NHẠC
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM

Ngành: LUẬT KINH TẾ

Tp. Hồ Chí Minh - 2018


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHỆ TP. HCM
KHOA LUẬT

KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP

BẢO HỘ QUYỀN TÁC GIẢ
ĐỐI VỚI TÁC PHẨM ÂM NHẠC
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM

Ngành: LUẬT KINH TẾ

Giảng viên hướng dẫn: ĐOÀN TRỌNG CHỈNH
Sinh viên thực hiện: NGUYỄN THỤY NGÂN HUYỀN
MSSV: 1511271060


Lớp: 15DLK09

Tp. Hồ Chí Minh - 2018


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thiện chương trình Đại học và thực hiện tốt khóa luận tốt nghiệp, em đã
nhận được sự giúp đỡ, hướng dẫn nhiệt tình của các quý Thầy, Cô của Trường Đại
học Công Nghệ TP.Hồ Chí Minh.
Em xin chân thành cảm ơn toàn thể quý Thầy, Cô trường Đại học Công Nghệ
TP.Hồ Chí Minh đã tận tình giảng dạy, truyền đạt kiến thức cho em trong suốt thời
gian em học tập tại trường.
Đặc biệt em xin gởi đến thầy Đoàn Trọng Chỉnh, người đã tận tình hướng dẫn, giúp
đỡ em hoàn thành khóa luận tốt nghiệp này lời cảm ơn sâu sắc nhất.
Đồng thời em cũng xin cảm ơn nhà trường đã tạo điều kiện tốt nhất để em học tập
và hoàn thành khóa luận.
Em đã hoàn thành khóa luận tốt nghiệp theo đúng tiến độ của nhà trường đề ra với
sự cố gắng và nhiệt tình của bản thân nhưng vì trình độ hiểu biết của bản thân còn
nhiều hạn chế nên không thể tránh khỏi những sai sót và khiếm khuyết, mong nhận
được sự đóng góp ý kiến từ quý Thầy, Cô.
Em xin chân thành cảm ơn!
Sinh viên
(ký tên, ghi đầy đủ họ tên)

Nguyễn Thụy Ngân Huyền


LỜI CAM ĐOAN
Tôi tên Nguyễn Thụy Ngân Huyền, MSSV: 1511271060
Tôi xin cam đoan các số liệu, thông tin sử dụng trong bài Khoá luận tốt

nghiệp này được thu thập từ nguồn tài liệu khoa học chuyên ngành (có trích dẫn
đầy đủ và theo đúng qui định);
Nội dung trong khoá luận KHÔNG SAO CHÉP từ các nguồn tài liệu khác.
Nếu sai sót tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm theo qui định của nhà trường
và pháp luật.
Sinh viên
(ký tên, ghi đầy đủ họ tên)

Nguyễn Thụy Ngân Huyền


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ......................................................................................................4
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài ...................................................................................................1
Với những lý do trên, em đã chon đề tài “bảo hộ quyền tác giả đối với tác
phẩm âm nhạc theo pháp luật Việt Nam để làm khóa luận tốt nghiệp................2
2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài ............................................................................2
3. Phạm vi, đối tượng nghiên cứu của đề tài ...........................................................2
4. Phương pháp nghiên cứu ......................................................................................3
5. Kết cấu của khoá luận...........................................................................................3
Chương 1: TỔNG QUAN VỀ BẢO HỘ QUYỀN TÁC GIẢ ĐỐI VỚI TÁC
PHẨM ÂM NHẠC THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM ..........................................4
1.1 Khái niệm .............................................................................................................4
1.1.1 Quyền tác giả .....................................................................................................4
1.1.2 Tác phẩm âm nhạc .............................................................................................5
1.1.3 Bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc ...............................................6
1.2 Khái quát về quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc ....................................7
1.2.1 Lịch sử hình thành quyền tác giả .......................................................................7
1.2.2 Một số công ước quốc tế cơ bản về bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm âm

nhạc ..........................................................................................................................9
1.3. Những lợi ích và thách thức khi Việt Nam gia nhập các Điều ước quốc tế
liên quan đến việc bảo hộ tác phẩm âm nhạc .......................................................12
1.3.1 Lợi ích ..............................................................................................................12
1.3.2 Thách thức ........................................................................................................13
Chương 2: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ BẢO HỘ QUYỀN TÁC GIẢ
ĐỐI VỚI TÁC PHẨM ÂM NHẠC .......................................................................15
2.1 Khái quát nội dung quy định của pháp luật về bảo hộ quyền tác giả ..........15
2.1.1 Chủ thể của quyền tác giả trong tác phẩm âm nhạc ........................................15
2.1.2 Điều kiện bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc .............................18
2.1.3 Nội dung bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc ..............................19
2.2 Đăng ký bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc .............................24
2.2.1 Quy trình đăng ký bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc ...............24
2.2.2 Thời hạn bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc ..............................27
2.2.3 Các hành vi xâm phạm quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc và trường hợp
ngoại lệ không bị coi là xâm phạm quyền .................................................................29


2.3 Chuyển giao quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc ..................................33
2.3.1 Chuyển nhượng quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc ...............................33
2.3.2 Chuyển quyền sử dụng quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc ....................35
Chương 3: THỰC TRẠNG ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ BẢO HỘ QUYỀN
TÁC GIẢ ĐỐI VỚI TÁC PHẨM ÂM NHẠC VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN
QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ BẢO HỘ QUYỀN TÁC GIẢ ĐỐI VỚI
TÁC PHẨM ÂM NHẠC .........................................................................................39
3.1 Thực trạng áp dụng pháp luật về bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm âm
nhạc ...........................................................................................................................39
3.2 Thực tiễn bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc tại Việt Nam ....47
3.2.1 Chủ thể quyền tác giả tự bảo vệ quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc....47
3.2.2 Chủ thể quyền tác giả yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền bảo vệ quyền

tác giả đối với tác phẩm âm nhạc .............................................................................49
3.3 Kiến nghị hoàn thiện quy định của pháp luật về bảo hộ tác giả đối với tác
phẩm âm nhạc .........................................................................................................53
KẾT LUẬN ..............................................................................................................57
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...............................................................59


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Âm nhạc là nét đặc trưng của con người, văn hóa, phong tục, địa lý,... Việt
Nam. Trải dài qua suốt tiến trình lịch sử của dân tộc, nền âm nhạc cách mạng nửa
thế kỷ qua đã có những đóng góp hết sức to lớn trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ
và thống nhất đất nước. Từ xa xưa, âm nhạc thường được thể hiện qua những câu
hò điệu hát phát sinh với ý nghĩa giáo dục tinh thần tập thể tương trợ, gắn bó với
nhau, khích lệ nhau vượt qua những khó khăn. Để gây tình đoàn kết, tiếng đàn tiếng
hát còn vang dội trong những ngày hội gia đình, những ngày lễ tết chung của dân
tộc. Có thể nói, chưa bao giờ những hoạt động liên quan đến ấm nhạc lại phong phú
đa dạng như hiện nay. Tuy nhiên, đi kèm với sự phát triển lớn mạnh của nền âm
nhạc lại có không ít các hành vi kéo tụt sự phát triển của làng nhạc như “đạo nhạc”,
một hình thức sửa chữa, cắt xén tác phẩm âm nhạc hay tình trạng sử dụng các bài
hát để biểu diễn mà không xin phép, trả tiền thù lao cho tác giả.
Hiện nay, với sự phát triển của công nghệ thông tin thì việc truy cập Internet
ngày càng trở nên dễ dàng và phổ biến với nhiều người. Có thể nói Internet là một
phần quan trọng trong cuộc sống nhân loại mà con người không thể phủ nhận vai
trò tích cực của nó. Thông qua những tiện ích mà Internet mang lại, con người có
thể phục vụ nhu cầu của mình một cách dễ dàng, nhanh chóng và mang lại hiệu quả
cao. Tuy nhiên, cũng chính những tiện ích đó đã tạo nên một môi trường cho những
hành vi phạm tội, mà ở đây là vấn nạn xâm phạm quyền tác giả trên Internet nói
chung và xâm phạm quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc trên internet nói riêng.
Chỉ cần vài thao tác click chuột là có thể tiếp xúc và lưu trữ hàng ngàn tác phẩm âm

nhạc một cách bất hợp pháp, thêm vào đó là khả năng lan truyền và chia sẻ nhanh
chóng dữ liệu đối với mạng toàn cầu, đây là hành vi khó có thể kiểm soát và ngăn
chặn kịp thời. Chính điều đó đã dẫn đến việc sao chép các tác phẩm âm nhạc bất
hợp pháp để trục lợi riêng. Điều này đã xâm phạm nghiêm trọng đến quyền tác giả
đối với tác phẩm âm nhạc của chủ thể quyền và gây ra những thiệt hại nhất định với
họ.
Hành vi xâm phạm quyền tác giả hiện đang diễn ra rất phổ biến, đã xảy ra
nhiều vụ khởi kiện, thế nhưng có nhiều người là chủ sở hữu quyền tác giả vẫn
không biết có thể làm gì để xử lý hành vi này. Mặc dù Luật Sở hữu trí tuệ ở nước ta
1


đã có từ lâu, tuy nhiên, trên thực tế việc đưa luật vào cuộc sống còn gặp nhiều khó
khăn vì nhiều nguyên nhân. Trong đó có thể kể đến thủ tục phức tạp, chủ thể quyền
không hiểu hết Luật...ngoài ra còn có thể kể đến điều kiện kinh tế, văn hóa ở nước
ta còn hạn chế, nên việc các cá nhân, tổ chức cố tình hoặc vô ý vi phạm luật còn
phổ biến. Vì vậy, vấn đề đặt ra là làm thế nào để bảo vệ tốt quyền lợi của các chủ
thể bị xâm phạm này.
Với những lý do trên, em đã chon đề tài “bảo hộ quyền tác giả đối với tác
phẩm âm nhạc theo pháp luật Việt Nam để làm khóa luận tốt nghiệp
2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
Mục đích nghiên cứu của đề tài là hướng tới việc làm rõ cơ sở lý luận của
quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc theo quy định của pháp luật Việt Nam,
phân tích các quy định pháp luật hiện hành điều chỉnh quyền tác giả đối với tác
phẩm âm nhạc cũng như phản ánh thực tiễn áp dụng các quy định này. Song song
đó, khóa luận còn nêu lên mối quan hệ về mặt pháp lý cũng như những quan hệ
trong thực tiễn đối với quốc tế, thực trạng vi phạm quyền tác giả như hiện nay, từ
đó đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả bảo hộ quyền tác giả đối với tác
phẩm âm nhạc tại Việt Nam.
3. Phạm vi, đối tượng nghiên cứu của đề tài

Việc nghiên cứu vấn đề Bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc theo
pháp luật Việt Nam là nghiên cứu các nội dung về quyền tác giả đối với tác phẩm
âm nhạc theo quy định pháp luật quốc gia cũng như trong hệ thống pháp luật quốc
tế thông qua các Công ước, Hiệp định.
Với nội dung nghiên cứu như trên, người viết xác định đối tượng nghiên cứu
chủ yếu của báo cáo bao gồm:
- Những vấn đề cơ bản về quyền tác giả, bảo hộ quyền tác giả đối với tác
phẩm âm nhạc như khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa, lịch sử hình thành, điều kiện bảo
hộ, chủ thể của quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc.
- Phân tích các quy định của pháp luật về quyền tác giả đối với tác phẩm âm
nhạc theo pháp luật Việt Nam và so sánh với pháp luật quốc tế.
- Tình hình thực thi các quy định pháp luật và những bất cập về quyền tác giả
đối với tác phẩm âm nhạc ở Việt Nam hiện nay.
2


- Thực tiễn xâm phạm quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc và các biện
pháp bảo vệ quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc không bị xâm hại.
- Đề xuất giải pháp hoàn thiện các quy định về quyền tác giả đối với tác phẩm
âm nhạc.
Đề tài được thực hiện trong phạm vi đất nước Việt Nam, các đánh giá, số liệu
thống kê sưu tầm trong khóa luận được thực hiện từ năm 2005, năm có hiệu lực của
Luật Sở hữu trí tuệ hiện hành. Nội dung phân tích được thực hiện theo tình hình
kinh tế - xã hội hiện nay.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài, người viết dùng nhiều phương pháp hỗ trợ với nhau
trong quá trình nghiên cứu như phương pháp tổng hợp, phương pháp phân tích,
phương pháp so sánh cùng với quan điểm, chính sách của nhà nước về Sở hữu trí
tuệ nói chung, quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc nói riêng.
Người viết sử dụng phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp thông qua

việc tra cứu tài liệu để phân tích luật từ đó tổng hợp nên những vấn đề lý luận cũng
như thực trạng vi phạm quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc ngày nay. Phương
pháp phân tích thông qua việc nêu ra những vấn đề có tính lý luận, thực tiễn, tiến
hành phân tích với hoàn cảnh khách quan để có những kết luận hoàn thiện.
Trong quá trình nghiên cứu, các phương pháp kết hợp lẫn nhau một cách linh
hoạt để tạo thành những phương pháp có hiệu quả.
5. Kết cấu của khoá luận
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, danh mục tài liệu tham khảo ra, bố cục
khóa luận tốt nghiệp gồm 3 chương:
Chương 1: Tổng quan về bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm âm
nhạc theo pháp luật Việt Nam.
Chương 2: Quy định của pháp luật về bảo hộ quyền tác giả đối với tác
phẩm âm nhạc.
Chương 3: Thực trạng áp dụng pháp luật và kiến nghị hoàn thiện quy
định của pháp luật về bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc.

3


Chương 1: TỔNG QUAN VỀ BẢO HỘ QUYỀN TÁC GIẢ ĐỐI VỚI
TÁC PHẨM ÂM NHẠC THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM
1.1 Khái niệm
1.1.1 Quyền tác giả
Trong các đối tượng của quyền Sở hữu trí tuệ thì quyền tác giả là một đối
tượng rất quan trọng, được ghi nhận từ sớm bởi pháp luật quốc tế lẫn pháp luật quốc
gia về Sở hữu trí tuệ. Về khái niệm pháp lý, quyền tác giả là quyền của tổ chức, cá
nhân đối với tác phẩm do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu. Có nghĩa là quyền tác giả
cho phép tác giả hoặc chủ sở hữu tác phẩm được độc quyền sử dụng tác phẩm âm
nhạc và chống lại việc sao chép trái pháp luật. Nếu xét theo nghĩa rộng thì quyền tác
giả được hiểu là một chế định pháp luật bao gồm các quy phạm pháp luật do cơ

quan nhà nước có thẩm quyền ban hành để điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh
trong quá trình sáng tạo, sử dụng, định đoạt các tác phẩm trong lĩnh vực văn học,
nghệ thuật, khoa học. Còn xét theo nghĩa hẹp thì quyền tác giả là những quyền dân
sự của chủ thể trong việc sáng tạo, sử dụng, định đoạt các tác phẩm văn học, nghệ
thuật, khoa học. Như vậy, các yếu tố cấu thành quan hệ pháp luật dân sự của quyền
tác giả bao gồm chủ thể là tác giả và chủ sở hữu, khách thể là kết quả của hoạt động
sáng tạo như tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học, còn nội dung của quyền tác
giả là các quyền tài sản, quyền nhân thân của tác giả hoặc chủ sở hữu. Xét về mặt lý
luận pháp lý và thực tiễn, quyền tác giả có những đặc điểm sau đây:
Thứ nhất, quyền tác giả được xác lập một cách tự động. Quyền tác giả phát
sinh kể từ khi tác phẩm được sáng tạo và được thể hiện dưới một hình thức vật chất
nhất định, không phân biệt nội dung, chất lượng, hình thức, phương tiện, ngôn ngữ,
đã công bố hay chưa công bố, đã đăng ký hay chưa đăng ký.1 Quyền tác giả được
xác lập một cách tự động từ khi tác phẩm được hình thành, tuy nhiên, tác giả và chủ
sở hữu vẫn có thể đăng ký bảo hộ quyền tác giả. Việc đăng ký quyền tác giả tại Cục
bản quyền tác giả là không bắt buộc nhưng được khuyến khích vì sẽ giúp tác giả
hoặc chủ sở hữu có được một chứng cứ quan trọng khi tranh chấp xảy ra.
Thứ hai, quyền tác giả chỉ bảo hộ hình thức sáng tạo nên tác phẩm được bảo
hộ phải được định hình dưới một hình thức vật chất nhất định. Vì chỉ bảo hộ hình
thức nên tác phẩm được bảo hộ không phân biệt nội dung hay chất lượng. Mặc dù
1

Khoản 1 Điều 6 Luật Sở hữu trí tuệ 2005, sửa đổi bổ sung 2009

4


vậy, nội dung của những tác phẩm được bảo hộ phải không vi phạm điều cấm của
pháp luật và trái đạo đức xã hội.
Thứ ba, tác phẩm được bảo hộ phải có tính nguyên gốc. Tính nguyên gốc ở

đây được hiểu là dấu ấn của tác giả trong tác phẩm, tính nguyên gốc được thể hiện
qua việc tác giả trực tiếp sáng tạo ra tác phẩm bằng lao động trí tuệ của mình mà
không sao chép từ tác phẩm của người khác.2
Quy định của pháp luật Sở hữu trí tuệ nói chung và chế định quyền tác giả
nói riêng đã tạo nên một cơ chế hiệu quả trong việc bảo hộ quyền của người sáng
tác và tác phẩm. Quyền tác giả cũng là động lực khuyến khích nhiều nhà văn, nghệ
sĩ, nhà khoa học sáng tạo ra nhiều tác phẩm có giá trị, từ đó tạo nên một nền tri thức
kinh tế lành mạnh, góp phần phát triển xã hội.
1.1.2 Tác phẩm âm nhạc
Tác phẩm âm nhạc được xem có nguồn gốc là một đoạn nhạc, cấu trúc âm
nhạc của một đoạn nhạc hay quá trình sáng tạo ra một đoạn nhạc mới. Một tác phẩm
âm nhạc hoàn chỉnh thường bao gồm ba yếu tố: giai điệu, hòa âm và tiết tấu.
Từ điển Luật học đưa ra khái niệm, tác phẩm là sản phẩm sáng tạo trong các
lĩnh vực văn học, nghệ thuật, khoa học được thể hiện dưới hình thức và bằng
phương tiện nào đó, không phân biệt nội dung, giá trị và không phụ thuộc vào bất
kỳ thủ tục nào.
Khoản 7 Điều 4 Luật sở hữu trí tuệ Việt Nam 2005, sửa đổi, bổ sung năm
2009 cũng có định nghĩa về thuật ngữ tác phẩm. Theo đó, tác phẩm là sản phẩm
sáng tạo trong lĩnh vực văn học, nghệ thuật và khoa học thể hiện bằng bất kỳ
phương tiện hay hình thức nào.
Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới WIPO đã định nghĩa về tác phẩm âm nhạc
như sau: “Bất kỳ tác phẩm nào bao gồm âm thanh hoặc chỉ chứa các ký tự âm nhạc
ngay cả khi không bao gồm lời hay bất kỳ hành động nào nhằm mục đích được hát,
nói hay biểu diễn với âm nhạc thì được coi là tác phẩm âm nhạc.” Tác phẩm âm

2

Khoản 3 Điều 14 Luật Sở hữu trí tuệ 2005, sửa đổi, bổ sung 2009

5



nhạc được mô tả như là một tác phẩm âm thanh được sáng tạo một cách trừu tượng
để có thể biểu diễn qua âm thanh ngay cả khi không có lời.3
Tại Điều 12 Nghị định 100/2006/NĐ-CP ngày 21/09/2006 của Chính phủ
quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ Luật Dân sự, Luật Sở
hữu trí tuệ về quyền tác giả, quyền liên quan có định nghĩa tác phẩm âm nhạc là
“tác phẩm được thể hiện dưới dạng nốt trong bản nhạc hoặc các ký tự âm nhạc
khác có hoặc không có lời, không phụ thuộc vào việc trình diễn hay không trình
diễn”.
1.1.3 Bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc
Bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc là tổng hợp các chế định
pháp lý nhằm bảo hộ bằng pháp luật quyền, lợi ích hợp pháp của tác giả, chủ sở hữu
tác phẩm âm nhạc đối với toàn bộ hoặc một phần tác phẩm âm nhạc. Nhà nước
không bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc có nội dung chống lại Nhà
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, phá hoại khối đoàn kết toàn dân, tuyên
truyền bạo lực, chiến tranh xâm lược, gây thù hận giữa các dân tộc và nhân dân các
nước; truyền bá tư tưởng văn hóa phản động, lối sống dâm ô, trụy lạc; các hành vi
tội ác, tệ nạn xã hội, mê tín dị đoan, phá hoại thuần phong mỹ tục; tiết lộ bí mật Nhà
nước, xuyên tạc lịch sử, phủ nhận các thành tựu cách mạng; xúc phạm vĩ nhân, anh
hùng dân tộc; vu khống hoặc xúc phạm uy tín của tổ chức, danh dự và nhân phẩm
của cá nhân.
Tính lãnh thổ là đặc trưng quan trọng của quyền Sở hữu trí tuệ nói chung và
quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc nói riêng, vì thế quyền tác giả chỉ bảo hộ
tác phẩm âm nhạc trên cơ sở pháp luật của nước nào thì bảo hộ của nước đó, các
quốc gia khác không thể áp dụng pháp luật của nước mình để bảo hộ quyền tác giả
đối với tác phẩm âm nhạc ở một quốc gia khác. Do đó, để đảm bảo các tác phẩm âm
nhạc được bảo hộ ở phạm vi trên toàn thế giới thì các nước phải ký kết một số điều
ước quốc tế đa phương quy định về quyền tác giả, điển hình trong đó là Công ước
Berne 1886 Bảo hộ tác phẩm văn học, nghệ thuật và khoa học, Hiệp định TRIPS về

khía cạnh thương mại của quyền Sở hữu trí tuệ và các hiệp định đa phương như
Hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa kỳ trong đó có lĩnh vực bảo hộ quyền tác giả

Trần Thị Thùy Dương (2016), Pháp luật quốc tế và kinh nghiệm một số nước về bảo hộ quyền tác giả đối
với tác phẩm âm nhạc, Luận văn thạc sĩ luật hoc, khoa luật, Đại học quốc gia Hà Nội
3

6


là một hiệp định quan trọng sau khi hai nước bình thường hóa quan hệ… đã tạo ra
sự thống nhất về quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc trên toàn thế giới.
Việc bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc càng ngày càng trở nên
cấp thiết, đặc biệt ngày nay mạng truyền thông số hóa như mạng Internet và máy
tính cá nhân hoặc những phát minh khác, bên cạnh nhiều lợi ích cũng tiềm tàng rất
nhiều rủi ro cho những ai sử dụng và khai thác quyền tác giả bản nhạc. Khi tốc độ
lan truyền của mạng số hóa tính trên từng giây thì việc sao chép trái phép các tác
phẩm âm nhạc chưa bao giờ lại dễ dàng đến thế. Vì vậy, việc bảo hộ quyền tác giả
đối với tác phẩm âm nhạc mang ý nghĩa vô cùng quan trọng. Bảo hộ quyền tác giả
đối với tác phẩm âm nhạc là nhằm bảo vệ quyền và lợi ích của tác giả đối với tác
phẩm âm nhạc do mình tạo ra, đồng thời mang ý nghĩa bảo vệ giá trị của các tác
phẩm âm nhạc, loại trừ các hành vi khai thác, sử dụng bất hợp pháp các tác phẩm
của người khác mà không có sự cho phép của tác giả hoặc người đại diện hợp pháp
của tác giả, góp phần thúc đẩy sự phát triển của nghệ thuật nói riêng và sự phát triển
của nền văn hóa nói chung, tạo điều kiện thuận lợi cho việc phổ biến các tác phẩm
âm nhạc, đảm bảo cơ chế bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc ngày càng
hoàn thiện, hiệu quả hơn.
1.2 Khái quát về quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc
1.2.1 Lịch sử hình thành quyền tác giả
Quyền tác giả trên thế giới phát sinh cùng với sự phát triển của công nghệ in

ấn. Trước khi công nghệ in ra đời, các quyển sách thường được chép tay, vì thế khả
năng người khác sao chép tác phẩm gốc không nhiều. Khi công nghệ in ra đời, một
quyển sách có thể được nhân thành nhiều bản. Tác giả không thể kiểm soát, quản lý
được lượng mua sách của mình và lượng mua sách được in lậu. Chính vì vậy các tác
giả và các nhà in đã kiến nghị nhà nước bảo hộ quyền được in ấn và quản lý việc
xuất bản, in ấn. Nước đầu tiên ban hành luật về quyền tác giả là Anh, nơi khởi đầu
cuộc cách mạng công nghiệp, theo luật nữ hoàng Anne năm 1709. Trong đạo luật
này thừa nhận quyền tác giả, cho tác giả hoặc người thừa kế của họ độc quyền in lại
sách trong vòng mười bốn năm kể từ khi in sách lần đầu tiên. Sau đó đến lượt Mỹ
ban hành quyền tác giả vào năm 1790, tiếp đó là Pháp vào năm 1791. Đến năm
1886 Công ước quốc tế về bảo hộ các tác phẩm văn học, nghệ thuật đã được ký kết
tại Berne – Thụy Sĩ với sự tham gia của mười nước thành viên. Như vậy, quyền tác

7


giả phát sinh tại những nước theo hệ thống luật Anh – Mỹ trước, rồi mới đến các
nước theo hệ thống lục địa.
Ở Việt Nam, Luật Sở hữu trí tuệ ra đời muộn hơn những nước khác. Trước
năm 1945, thời kỳ phong kiến với sự trị vì của các đời vua nên hầu như chưa thể
xuất hiện bất kỳ ý tưởng bảo hộ quyền của bất cứ cá nhân nào. Sau cách mạng tháng
8 năm 1945, do điều kiện bắt buộc để phát triển kinh tế - xã hội, lại thêm hoàn cảnh
chiến tranh kéo dài nên chúng ta chỉ có một số ghi nhận mang tính nguyên tắc và
hết sức khái quát. Luật về quyền tác giả tại Việt Nam được xây dựng từ những năm
1970 và kết quả đầu tiên là Nghị định 84/CP về quyền tác giả, ra đời năm 1989, tuy
nhiên, do được ban hành trước năm 1992 nên vẫn còn những bất cập giữa cơ chế
bảo hộ trong thời kỳ bao cấp và cơ chế bảo hộ trong thời kỳ thị trường. Sau đó
chúng ta đã soạn thảo và ban hành Pháp lệnh bảo hộ quyền tác giả năm 1994. Ngày
23 tháng 11 năm 1995 Quốc hội đã thông qua Bộ luật dân sự, trong đó tại Chương
1, Phần 6 quy định về quyền tác giả được hoàn thiện dựa trên Pháp lệnh bảo hộ

quyền tác giả. Bộ luật dân sự 2005 quy định về quyền tác giả đã được thu hẹp hơn
nhiều cho thấy quyền tác giả là một quyền dân sự. Ngày 29 tháng 11 năm 2005 Luật
Sở hữu trí tuệ được chính thức ban hành và được coi là một ngành luật riêng biệt,
đánh dấu thời kỳ mới về bảo hộ quyền Sở hữu trí tuệ nói chung và quyền tác giả nói
riêng. Ngày 19 tháng 6 năm 2009 Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam khóa XII, kỳ họp thứ 5 đã thông qua Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của
Luật Sở hữu trí tuệ, trong đó quy định nghĩa vụ trả nhuận bút thù lao theo thỏa
thuận hoặc theo quy định của chính phủ; nâng thời hạn bảo hộ quyền tác giả thành
75 năm đối với các tác phẩm điện ảnh, nhiếp ảnh, mỹ thuận ứng dụng, tác phẩm
khuyết danh kể từ khi tác phẩm được công bố lần đầu hoặc 100 năm kể từ khi được
định hình hoặc nếu hết thời hạn 25 năm kể từ khi tác phẩm được định hình mà vẫn
chưa được công bố.4 Thời hạn bảo hộ tác phẩm sân khấu được tính theo nguyên tắc
đời người, bổ sung quyền nhập khẩu bản gốc và bản sao ghi âm, ghi hình, làm rõ
quyền tác giả đối với tác phẩm khuyết danh.
Trong lĩnh vực tác phẩm âm nhạc cũng có nhiều tổ chức, liên đoàn ra đời để
bảo vệ quyền tác giả của các chủ thể có liên quan. Tháng 6 năm 1926 Liên đoàn
quốc tế các nhà soạn nhạc và soạn lời (gọi tắt là CISAC) được thành lập bao gồm
đại biểu từ 18 hiệp hội quyền tác giả trên toàn thế giới. Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế
giới (gọi tắt là WIPO) được chính thức thành lập ngày 14 tháng 07 năm 1967 khi
4

Điều 27 Luật Sở hữu trí tuệ 2005, sửa đổi bổ sung 2009

8


Công ước Stockhom được thông qua. Năm 1974, WIPO trở thành tổ chức chuyên
môn của Liên hợp quốc. WIPO bảo hộ các lĩnh vực Sở hữu trí tuệ, trong đó có
quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc. Ở Việt Nam, chúng ta có Trung tâm Bảo
vệ Quyền tác giả âm nhạc Việt Nam (gọi tắt là VCPMC). Trung tâm Bảo vệ Quyền

tác giả âm nhạc Việt Nam chịu sự quản lý của Hội Nhạc sĩ Việt Nam được thành
lập ngày 13 tháng 01 năm 2004 với mục đích khai thác, bảo vệ các quyền tác giả
đối với các tác phẩm âm nhạc được luật pháp công nhận bảo hộ, giúp các cơ quan
quản lý Nhà nước trong việc hoạch định và thực hiện chính sách về quyền tác giả,
góp phần phát triển văn hoá âm nhạc thông qua hoạt động xã hội nghề nghiệp.5
1.2.2 Một số công ước quốc tế cơ bản về bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm âm
nhạc
Ngày nay, việc các quốc gia nhận thức đúng đắn tầm quan trọng của vấn đề
bảo hộ một cách toàn diện những sáng tạo trí tuệ của con người đã được thể hiện
thông qua hành động cụ thể việc các quốc gia đã tham gia hoặc ký kết hàng loạt văn
bản pháp quy quốc tế mang tính phổ cập toàn cầu như Công ước Beme năm 1886,
Hiệp định TRIPs năm 1995 về các khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền
SHTT...
Nguyên tắc của việc bảo hộ theo Công ước Beme gồm:
Công ước Berne 1886 không có điều khoản riêng quy định về những nguyên
tắc cơ bản trong việc thực hiện bảo hộ các quyền tác giả đối với các tác phẩm văn
học nghệ thuật của họ. Công ước Berne 1886 gồm có phần mở đầu, 47 điều khoản
chính và Phần phụ lục gồm 6 khoản. Nội dung chủ yếu cơ bản nhất của công ước
Berne 1886 là các quy định được ghi tại các điều khoản từ Điều 1 đến Điều 21 và
phần phụ lục giành cho các nước đang phát triển. Qua toàn bộ nội dung của Công
ước nhất là các quy định được ghi nhận tại Điều 5 có thể rút ra các nguyên tắc cơ
bản sau đây:
Nguyên tắc thứ nhất là đối xử quốc gia. Đây là một trong những nguyên tắc
cơ bản trong quan hệ quốc tế nói chung thường được sử dụng trong các thông lệ
quốc tế, các quy định về quyền sở hữu trí tuệ, về khuyến khích đầu tư và quan hệ
dịch vụ, thương mại quốc tế. Theo quy định của Công ước Berne 1886 thì những tác

5

Điều 3 Điều lệ Trung tâm bảo vệ quyền tác giả âm nhạc Việt Nam


9


phẩm văn học, nghệ thuật được bảo hộ theo công ước Berne 1886 thì tác giả của
chúng được hưởng theo quy định của luật pháp quốc gia sở tại.
Nguyên tắc thứ hai là bảo hộ tự động. Các quốc gia đã tham gia công ước thì
việc hưởng và thực hiện các quyền tác giả đối với tác phẩm văn học nghệ thuật
không phải làm bất kì thủ tục nào, vấn đề bảo hộ được thực hiện kể cả trong trường
hợp tác phẩm không được bảo hộ ở quốc gia gốc. Công ước Berne 1886 đã khái
niệm về quốc gia gốc như sau: “Đó là quốc gia tham gia công ước và tác phẩm được
xuất bản lần đầu tiên ở đó. Nếu tác phẩm được xuất bản đồng thời ở một số nước
đều đã tham gia công ước thì lấy quốc gia có thời hạn bảo hộ ngắn nhất là quốc gia
gốc. Với tác phẩm chưa công bố hoặc đã công bố lần đầu tiên tại một quốc gia chưa
tham gian công ước thì chỉ được bảo hộ theo công ước Berne 1886 nếu tác giả là
công dân của nước đã tham gia công ước và quốc gia mà tác giả mang quốc tịch sẽ
được lấy làm quốc gia gốc của tác phẩm.”
Nguyên tắc thứ ba bảo hộ độc lập được thể hiện như sau. Luật pháp quốc gia
đã tham gia công ước sẽ quy định về mức độ và các thủ tục, phương thức bổ cứu
nhằm thực hiện sự bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm được yêu cầu bảo hộ. Sự
đãi ngộ đặc biệt hoặc sự hạn chế bảo hộ của một quốc gia là một thành viên của
công ước đối với những tác phẩm của những tác giả là công dân của quốc gia không
phải là thành viên sẽ không bắt buộc áp dụng tại các quốc gia thành viên khác.
Hiệp định TRIPs đã đưa ra một cơ chế đảm bảo thực thi các quyền SHTT nói
chung là chi tiết và dường như có hiệu quả hơn. Hiệp định TRIPs đã đặt ra nghĩa vụ
đối với các quốc gia thành viên trong việc quy định các thủ tục bình đẳng và công
bằng đối với các chủ sờ hữu QTG để họ có thể thực thi các quyền của mình và có
được những quvết định của Toà án, việc bồi thường thiệt hại hay những phương
cách khác cũng như các biện pháp tạm thời nhằm ngăn chặn sự vi phạm, bảo quản
chứng cứ hoặc cho phép các cơ quan hải quan được phạt giữ lại những hàng vi

phạm theo yêu cầu của chủ sở hữu quyền tác giả. Ngoài ra, các hình phạt hình sự ít
nhất phải được áp dụng đối với việc vi phạm bản quyền với quy mô thương mại lớn.
Các nguyên tắc của Hiệp định TRIPs đó là nguyên tắc đối xử quốc gia,
nguyên tắc đối xử tối huệ quốc, nguyên tắc minh bạch. Các vấn đề liên quan đến
khả năng đạt được, phạm vi, sử dụng và thực thi quyền sở hữu trí tuệ liên quan đến
thương mại trong Hiệp định TRIPS là đối tượng của hai nguyên tắc đầu tiên.

10


Nguyên tắc thứ ba nhằm duy trì tính công khai, ổn định, dự báo của pháp luật sở
hữu trí tuệ.
Nguyên tắc đối xử quốc gia được quy định lần đầu tiên trong Công ước Paris
(Điều 2). Tuy nhiên, hoạt động của nguyên tắc này theo Công ước Paris làm phát
sinh những khác biệt về mức độ bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp giữa các nước
thành viên của Liên minh và hệ quả là tạo ra những rào cản cho xuất khẩu hàng hoá,
dịch vụ mang đối tượng sở hữu trí tuệ được bảo hộ. Do đó, các nước thành viên ở
vòng đàm phán Uruguay đã nhất trí thiết lập một công thức mới cho nguyên tắc đối
xử quốc gia tại Điều 3 Hiệp định TRIPS.
Nguyên tắc đối xử tối huệ quốc được quy định tại Điều 4 Hiệp định TRIPS.
Nguyên tắc này không được đề cập trong những công ước về sở hữu trí tuệ được
thiết lập trước Hiệp định TRIPS nhưng được quy định trong các thoả thuận khác
của WTO như GATT (Điều I) và GATS (Điều 2). Trong khi nguyên tắc đối xử
quốc gia cấm một nước thành viên phân biệt đối xử giữa công dân của mình và
công dân của các nước thành viên khác, nguyên tắc đối xử tối huệ quốc cấm một
nước thành viên phân biệt đối xử giữa công dân của hai nước thành viên khác. Đối
với bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, Điều 4 Hiệp định TRIPS đòi hòi các nước thành
viên của WTO dành sự bảo hộ “lập tức và vô điều kiện” “ưu tiên, chiếu cố, đặc
quyền hoặc miễn trừ” cho “công dân của bất kỳ nước nào khác” (bao gồm cả công
dân của nước không phải là thành viên của WTO) như sự bảo hộ dành cho công dân

của mình.
Nguyên tắc minh bạch được biết đến lần đầu tiên trong Điều X GATT năm
1947. Trong Hiệp định TRIPS, nguyên tắc này được quy định tại Điều 63. Điều 63
yêu cầu các nước thành viên của WTO công bố các nguyên tắc liên quan đến quyền
sở hữu trí tuệ. Theo Điều 63(1), các nguyên tắc liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ
bao gồm các luật, quy định, quyết định xét xử cuối cùng, quyết định hành chính,
thoả ước giữa chính phủ của nước thành viên hoặc cơ quan chính phủ với chính phủ
hoặc cơ quan chính phủ của nước thành viên khác. Nghĩa vụ công bố này được thực
hiện thông qua ba phương thức, đó là công bố chính thức (Điều 63(1)), thông báo
cho Hội đồng TRIPS (Điều 63(2)), yêu cầu nước thành viên khác cung cấp thông tin
và cho phép tiếp cận thông tin (Điều 63(3)). Mục đích của nguyên tắc minh bạch là
“giúp cho chính phủ và các chủ thể khác được thông báo về khả năng thay đổi của
pháp luật sở hữu trí tuệ của nước thành viên nhằm góp phần đảm bảo môi trường
pháp lý ổn định và có thể dự báo được.”
11


Nghiên cứu những Công ước quan trọng về quyền tác giả, một mặt cho
chúng ta thấy một hệ thống bảo hộ quốc tế đồng bộ và hiệu quả, mặt khác cũng thể
hiện một tiến trình phát triển của pháp luật quốc tế về lĩnh vực này, từ buổi ban đầu
của thời đại công nghiệp cho đến nay, trước ngưỡng của thời đại thông tin.
Điều này cũng cho thấy rằng, trên nền tảng cơ bản đã được xây dựng trong
nhiều năm qua, pháp luật quốc tế về bảo hộ quyền tác giả sẽ còn phát triển và vẫn
tiếp tục pháp triển nhanh hơn.
1.3. Những lợi ích và thách thức khi Việt Nam gia nhập các Điều ước quốc tế
liên quan đến việc bảo hộ tác phẩm âm nhạc
1.3.1 Lợi ích
Động lực mạnh mẽ giúp Việt Nam gia nhập các Điều ước quốc tế về quyền
tác giả là những lợi ích mà các Điều ước quốc tế mang lại, chủ yếu bao gồm các lợi
ích sau đây:

Thứ nhất, tham gia vào các Điều ước quốc tế là một điều kiện cần thiết để
hội nhập vào nền kinh tế chung của khu vực và trên Thế giới. Hiện nay, số lượng
các quốc gia tham gia vào các Điều ước quốc tế ngày càng tăng. Do đó, chúng ta
không những có được sự ủng hộ mà còn có được sự giúp đỡ về nhiều mặt của bạn
bè quốc tế.
Thứ hai, đây sẽ là cơ hội để Việt Nam xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp
luật của mình về quyền tác giả, phù hợp với pháp luật quốc tế nhằm tạo ra những
chuẩn mực pháp lý chung nhất trong vấn đề bảo hộ tác phẩm âm nhạc, từ đó khiến
khoảng cách về mặt pháp lý giữa các nước trong vấn đề bảo hộ quyền tác giả không
quá khác xa nhau, do vậy khả năng bảo hộ trở nên dễ dàng thuận lợi hơn.
Thứ ba, việc tham gia ký kết các Điều ước quốc tế về quyền tác giả sẽ giúp
các tác phẩm âm nhạc của nước ta được bảo hộ một cách tự động tại các nước thành
viên khác. Từ đó các tác giả của những tác phẩm bảo hộ sẽ được hưởng các lượi ích
kinh tế tại các thị trường rộng lớn hơn nhiều so với thị trường trog nước.
Thứ tư, việc gia nhập vào các Điều ước quốc tế, đặc biệt là Công ước Berne
1886 sẽ làm cho vị thế cạnh tranh của các tác giả tại thị trường nội địa tăng lên. Bởi

12


lẽ, các tác phẩm của các tác giả nước ngoài chỉ có thể được đưa vào thị trường các
quốc gia thành viên khi được họ cho phép.
Thứ năm, việc tham gia này sẽ tạo ra một môi trường sáng tạo lành mạnh.
Bởi những vi phạm quyền tác giả đã khiến giới sáng tạo bị thiệt thòi, không nuôi
dưỡng được động lực cho sự sáng tạo, vì thế việc đảm bảo quyền tác giả sẽ là cơ hội
cho các tác giả tạo ra nhiều sản phẩm âm nhạc với giá thành thấp, người tiêu dùng
cũng sẽ có lợi khi được hưởng thụ những tác phẩm, sản phẩm văn hóa có chất lượng
với giá thành không quá cao.6
1.3.2 Thách thức
Gia nhập các Điều ước quốc tế bên cạnh những lợi ích, những cơ hội mà nó

mang lại thì cũng đặt ra nhiều khó khăn, thách thức cho Việt Nam, cụ thể:
Thứ nhất, quá trình hội nhập quốc tế toàn diện về kinh tế, thương mại cùng
với sự phát triển vô cùng nhanh chóng của thời đại kỹ thuật số và mạng Internet đã
mang lại cho chúng ta nhiều cơ hội nhưng cũng phát sinh nhiều thách thức lớn
mang tính toàn cầu. trước hết, đso là các hành vi xâm phạm quyền tác giả vượt ra
khỏi phạm vi quốc gia.
Thứ hai, mặc dù Việt Nam đã ký kết các Điều ước quốc tế và cũng hình
thành Luật Sở hữu trí tuệ cũng như các văn bản hướng dẫn thi hành, song việc thực
thi các Điều ước quốc tế , chấp hành các quy định của pháp luật gặp rất nhiều khó
khăn, bởi lẽ, xuất phát từ những nguyên nhân lịch sử mà trong một thời gian dài các
tác phẩm âm nhạc do các tác giả Việt Nam sáng tạo không được xem xét đúng mức
như những tài sản thuộc Sở hữu trí tuệ. Sáng tác của tác giả càng đưuọc phổ biến
rộng rãi, càng được nhiều người sử dụng thì đó chính là phần thưởng cao quý dành
cho họ. Điều đó đã ảnh hưởng đến thói quen cũng như ý thức của người sáng tác lẫn
người sử dụng, làm cho việc thực thi các Điều ước quốc tế càng khó khăn hơn.
Thứ ba, nước ta là một nước đang phát triển, dang trong quá trình hội nhập
kinh tế, do đó việc thực thi các Điều ước quốc tế cũng gặp rất nhiều khó khăn. Đặc
biệt sự ra đời của Hiệp định TRIPs đã gây ra rất nhiều tranh cãi về tác động của việc
bảo hộ Sở hữu trí tuệ đối với các mục tiêu phát triển. Theo quan điểm của các nước
Nguyễn Diệu Ly (2012), Bảo hộ tác phẩm âm nhạc trong điều kiện thực thi các điều ước quốc tế đa phương
tại Việt Nam, Khóa luân tốt nghiệp cử nhân luật – Chuyên ngành Luật quốc tế, Khoa Luật quốc tế – Đại học
Luật TP. Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh
6

13


phát triển thì việc bảo hộ tác phẩm âm nhạc là một phần thưởng cho hoạt động sáng
tạo, do vậy hệ thống bảo hộ quyền Sở hữu trí tuệ được đánh giá tương đối tích cực ở
các nước này. Tuy nhiên, từ phía các nước đang phát triển như Việt Nam thì lại gây

ra nhiều lo ngại cũng như những thách thức phải đối mặt.

14


Chương 2: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ BẢO HỘ QUYỀN TÁC
GIẢ ĐỐI VỚI TÁC PHẨM ÂM NHẠC
2.1 Khái quát nội dung quy định của pháp luật về bảo hộ quyền tác giả
2.1.1 Chủ thể của quyền tác giả trong tác phẩm âm nhạc
Các chủ thể tham gia vào quan hệ pháp luật dân sự về quyền tác giả trong tác
phẩm âm nhạc bao gồm tác giả và chủ sở hữu.7
Tác giả là người trực tiếp sáng tạo ra toàn bộ hoặc một phần tác phẩm âm
nhạc.8 "Sáng tạo" trong quan hệ pháp luật dân sự về quyền tác giả được coi là việc
"sử dụng sức lao động và khả năng suy xét" để tạo ra tác phẩm. Như vậy, sáng tạo
là việc tạo ra tác phẩm từ lao động trí óc. "Trực tiếp" có nghĩa là chính tác giả đóng
vai trò quyết định trong việc thể hiện ý tưởng và tạo nên tác phẩm. Tác giả của tác
phẩm âm nhạc phải là cá nhân, không thể là một tổ chức. Những người được công
nhận tác giả bao gồm:
- Cá nhân Việt Nam có tác phẩm âm nhạc được bảo hộ quyền tác giả.
- Cá nhân nước ngoài có tác phẩm âm nhạc được sáng tạo và thể hiện dưới
hình thức vật chất nhất định tại Việt Nam.
- Cá nhân nước ngoài có tác phẩm âm nhạc được công bố lần đầu tiên tại Việt
Nam.
- Cá nhân nước ngoài có tác phẩm âm nhạc được bảo hộ tại Việt Nam theo
Điều ước quốc tế về quyền tác giả mà Việt Nam là thành viên.
Trường hợp có từ hai người trở lên cùng trực tiếp tham gia sáng tạo tác phẩm
âm nhạc thì họ là đồng tác giả của tác phẩm âm nhạc đó. Đồng tác giả có hai loại là
đồng sở hữu chung hợp nhất hoặc đồng sở hữu chung theo phần. Loại thứ nhất là
những người cùng sáng tạo một tác phẩm thống nhất mà phần sáng tác của mỗi
người không thể tách ra để sử dụng riêng. Trong trường hợp này vị trí của các đồng

tác giả gần giống như vị trí của những chủ sở hữu chung hợp nhất. Loại thứ hai là
những người cùng sáng tác ra một tác phẩm thống nhất mà phần sáng tác của mỗi
người có thể tách ra để sử dụng riêng. Vị trí của các đồng tác giả lúc này sẽ giống
như vị trí của những sở hữu chung theo phần, trường hợp này được điều chỉnh theo
Khoản 1 Điều 13 Luật Sở hữu trí tuệ 2005, sửa đổi, bổ sung 2009
Khoản 1 Điều 8 Nghị định 100/2006/NĐ-CP Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ
luật dân sự, Luật Sở hữu trí tuệ về quyền tác giả và quyền liên quan
7
8

15


Điều 38 Luật Sở hữu trí tuệ. Thí dụ như bài hát: "Quê hương" có hai đồng tác giả là
tác giả bài thơ của Đỗ Trung Quân và tác giả bài nhạc của Giáp Văn Thạch. Trong
trường hợp muốn chuyển giao quyền tác giả cho người khác thì phải có sự đồng ý
của các đồng tác giả. Vì pháp luật Việt Nam về Sở hữu trí tuệ không định nghĩa về
cụm từ đồng tác giả nên nó khó có thể điều chỉnh được quyền nhân thân đối với tác
phẩm. Để giải quyết vấn đề này chúng ta nên tham khảo quy định về đồng tác giả
của tác phẩm trong Luật quyền tác giả của USA: “Tác phẩm đồng tác giả là tác
phẩm được sáng tạo bởi hai hoặc nhiều tác giả với chủ ý là sự đóng góp của họ
được kết hợp thành các phần không thể tác rời và phụ thuộc lẫn nhau trong một
tổng thể hoàn chỉnh” trong đó nhất thiết các đồng tác giả phải chủ ý cùng sáng tạo
nên một tác phẩm chung.9
Nói tác giả phải trực tiếp sáng tạo không có nghĩa là tác giả không có quyền
kế thừa sự sáng tạo của người khác. Luật Việt Nam cũng công nhận người dịch,
phóng tác, cải biên, chuyển thể, sưu tầm, tuyển chọn từ những tác phẩm khác cũng
được coi là tác giả. Ví dụ nhạc sỹ Lê Giang đi sưu tầm những bài dân ca Nam Bộ để
viết thành tuyển tập, thì nhạc sỹ là tác giả của tuyển tập của công trình nghiên cứu
của mình, chứ không phải những người đã ca lại những bài dân ca cho nhạc sỹ Lê

Giang. Tuy vậy, Lê Giang chỉ là tác giả của tuyển tập mà chị in, chứ không phải là
tác giả của các bài dân ca, vì chị không trực tiếp sáng tạo ra chúng. Như vậy, một
người chỉ được bảo hộ quyền tác giả trong phạm vi mà người đó trực tiếp sáng tạo
Chủ sở hữu quyền tác giả là tổ chức, cá nhân nắm được một, một số hoặc toàn
bộ các quyền tài sản,10 là người được độc quyền sử dụng, định đoạt tác phẩm. Định
nghĩa về chủ sở hữu quyền tác giả ở đây có sự xung đột với quy định tại Điều 18
Luật Sở hữu trí tuệ. Theo quy định của pháp luật Việt Nam thì chủ thể của quyền
tác giả bao gồm tác giả - tức người trực tiếp sáng tạo ra tác phẩm và chủ sở hữu
quyền tác giả, pháp luật Việt Nam còn quy định quyền tác giả bao gồm quyền nhân
thân và quyền tài sản. Như vậy, chủ thể của quyền tác giả sẽ được hưởng cả quyền
nhân thân và tài sản, vì vậy chủ thể của quyền tác giả ở đây là chủ sở hữu quyền tác
giả cũng được hưởng cả hai quyền là quyền nhân thân và quyền tài sản, nhưng theo
theo định nghĩa tại Điều 36 Luật Sở hữu trí tuệ 2005, sửa đổi bổ sung 2009 thì lại
quy định chủ sở hữu quyền tác giả chỉ được hưởng quyền tài sản mà không có quy
Hiệp hội quyền sao chép Việt Nam, Những bất cập về quyền tác giả, quyền liên quan trong quy định của
pháp luật Sở hữu trí tuệ hiện hành. Nguồn: />10
Điều 36 Luật Sở hữu trí tuệ 2005, sửa đổi bổ sung 2009
9

16


định được hưởng quyền nhân thân.11 Những đối tượng được coi là chủ sở hữu
quyền tác giả bao gồm:
- Chủ sở hữu quyền tác giả là tác giả.
- Chủ sở hữu quyền tác giả là đồng tác giả.
- Chủ sở hữu quyền tác giả là các tổ chức, cá nhân giao nhiệm vụ cho tác giả
hoặc giao kết hợp đồng với tác giả.
- Chủ sở hữu quyền tác giả là người thừa kế.
- Chủ sở hữu quyền tác giả là người được chuyển giao quyền.

- Chủ sở hữu quyền tác giả là nhà nước.
Theo Khoản 1 Điều 8 Nghị định 100/2006/NĐ-CP Quy định chi tiết và hướng dẫn
thi hành một số điều của Bộ luật dân sự, Luật Sở hữu trí tuệ về quyền tác giả và
quyền liên quan thì chủ sở hữu quyền tác giả bao gồm:
- Tổ chức, cá nhân Việt Nam.
- Tổ chức cá nhân nước ngoài có tác phẩm âm nhạc được sáng tạo và thể hiện
dưới hình thức vật chất nhất định tại Việt Nam.
- Tổ chức cá nhân nước ngoài có tác phẩm âm nhạc được công bố lần đầu tiên
tại Việt Nam.
- Tổ chức cá nhân nước ngoài có tác phẩm âm nhạc được bảo hộ tại Việt Nam
theo Điều ước quốc tế về quyền tác giả mà Việt Nam là thành viên.
Theo quy định tại Công ước Berne thì sự bảo hộ các tác phẩm âm nhạc là
dành cho tác giả và những người sở hữu quyền tác giả,12 quy định này không khác
biệt so với pháp luật Sở hữu trí tuệ của Việt Nam. Việc phân biệt tác giả và chủ sở
hữu quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc là rất quan trọng vì nó ảnh hưởng tới
nội dung bảo hộ của quyền tác giả. Quyền của người là tác giả đồng thời là chủ sở
hữu quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc sẽ có những ưu điểm hoặc hạn chế
riêng so với người chỉ là tác giả hoặc chỉ là chủ sở hữu quyền tác giả với cùng tác
phẩm âm nhạc đó.

Những bất cập về quyền tác giả, quyền liên quan trong quy định của pháp luật Sở hữu trí tuệ hiện hành,
Hiệp hội sao chép Việt Nam
12
Khoản 6 Điều 2 Công ước Berne 1886
11

17


2.1.2 Điều kiện bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc

Luật Sở hữu trí tuệ đã quy định các điều kiện cụ thể để một tác phẩm âm
nhạc được bảo hộ, chính vì vậy không phải bất kỳ tác phẩm âm nhạc nào đều được
nhà nước bảo hộ dưới các chế định pháp luật Sở hữu trí tuệ. Một tác phẩm âm nhạc
được bảo hộ quyền tác giả phải đảm bảo tính nguyên gốc, có hình thức thể hiện và
được chấp nhận về mặt nội dung.
Ý nghĩa chính xác về tính nguyên gốc là khác nhau trong pháp luật về quyền
tác giả của mỗi nước, nhưng nhìn chung tính nguyên gốc được hiểu là tác phẩm âm
nhạc được sáng tạo ra một cách độc lập và không sao chép từ bất kỳ một tác phẩm
nào khác. Điều đó không có nghĩa là ý tưởng của tác phẩm phải mới, hình thức thể
hiện ý tưởng phải do chính tác giả sáng tạo ra. Việc bảo hộ quyền tác giả chỉ được
áp dụng đối với những đóng góp mang tính nguyên gốc cho tác phẩm âm nhạc và
không được áp dụng đối với bất kỳ yếu tố nào vay mượn từ tác phẩm khác. Tính
nguyên gốc ở đây không được vay mượn nhưng được phép kế thừa. Nói cách khác,
một tác phẩm muốn được bảo hộ phải do chính lao động trí óc của tác giả tạo ra,
hình thức thể hiện ý tưởng tác phẩm phải mới.
Quyền tác giả chỉ tập trung bảo hộ hình thức tác phẩm âm nhạc, không bảo
hộ nội dung tác phẩm âm nhạc. Vì thế quyền tác giả phát sinh khi tác phẩm âm nhạc
được thể hiện dưới một hình thức nhất định, không phân biệt nội dung, chất lượng,
hình thức, phương tiện, ngôn ngữ, đã công bố hay chưa công bố, đã đăng ký hay
chưa đăng ký.13
Mặc dù tác giả chỉ bảo hộ hình thức sáng tạo, không bảo hộ nội dung, tuy
nhiên, quyền tác giả hình thành theo các nguyên tắc chung của Bộ luật dân sự. Do
đó, nhà nước sẽ không bảo hộ những tác phẩm âm nhạc có nội dung trái đạo đức xã
hội, trái pháp luật, đi ngược lại lợi ích cộng đồng và nguyên tắc xây dựng nhà nước.
Trong các quy định của nhà nước về Sở hữu trí tuệ cũng ghi nhận việc không bảo
hộ các đối tượng Sở hữu trí tuệ trái với đạo đức xã hội, có hại cho quốc phòng, an
ninh, xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, cộng đồng, vi phạm các
quy định khác của pháp luật có liên quan.14 Ngược với quy định của pháp luật Việt
Nam, các Công ước quốc tế về quyền tác giả đều có quy định thống nhất rằng sự
sáng tạo trí tuệ trong việc tạo ra các tác phẩm âm nhạc mang tính nguyên gốc và

13
14

Khoản 1 Điều 6 Luật Sở hữu trí tuệ 2005, sửa đổi, bổ sung 2009
Khoản 2 Điều 7 Luật Sở hữu trí tuệ 2005, sửa đổi, bổ sung 2009

18


được vật chất hóa, được công nhận là tác phẩm và được bảo hộ theo pháp luật về
quyền tác giả. Theo đó, không đặt ra bất kì điều kiện về nội dung và giá trị nghệ
thuật đối với một tác phẩm âm nhạc để tác phẩm âm nhạc đó được bảo hộ. 15
Ngoài các điều kiện về tính nguyên gốc của tác phẩm và phải định hình dưới
một hình thức vật chất nhất định thì theo Công ước Berne 1886, các tác phẩm âm
nhạc sẽ được bảo hộ nếu thỏa mãn một trong các điều kiện sau:
Thứ nhất, là tác phẩm của tác giả là công dân của một trong những nước
thành viên của Liên hiệp dù cho các tác phẩm của họ đã được công bố hay chưa.
Thứ hai, là tác phẩm của tác giả không phải là công dân của một trong những
nước thành viên của Liên hiệp nhưng lại được công bố lần đầu tiên ở một trong
những nước thành viên của Liên hiệp, hay đồng thời công bố ở một nước trong và
một nước ngoài Liên hiệp trong thời hạn ba mươi ngày.
Thứ ba, là tác phẩm của tác giả không phải là công dân của một nước thành
viên của Liên hiệp nhưng có nơi cư trú thường xuyên ở một trong những nước trên
thì theo mục đích của công ước cũng được xem là tác giả công dân của nước thành
viên đó.
So với các quy định của Pháp luật Việt Nam về Sở hữu trí tuệ thì phạm vi
được bảo hộ tác phẩm âm nhạc của Công ước Berne rộng hơn, trải dài và có sự liên
kết các nước thành viên với nhau, chủ thể được bảo hộ quyền tác giả đối với tác
phẩm âm nhạc không bị hạn chế là công dân các quốc gia thành viên mà còn có thể
là công dân thuộc các quốc gia không phải là thành viên của công ước.

2.1.3 Nội dung bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc
Đầu tiên, về quyền nhân thân. Quyền nhân thân là những quyền gắn liền trực
tiếp với các giá trị nhân thân của tác giả, có liên quan trực tiếp đến uy tín và danh
dự của tác giả. Quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc có hai loại hình quyền nhân
thân là quyền nhân thân không gắn với tài sản và quyền nhân thân gắn với tài sản.

Trần Thị Thùy Dương (2016), Pháp luật quốc tế và kinh nghiệm một số nước về bảo hộ quyền tác giả đối
với tác phẩm âm nhạc, Luận văn thạc sĩ luật hoc, khoa luật, Đại học quốc gia Hà Nội
15

19


×