Tải bản đầy đủ (.pdf) (93 trang)

Pháp luật về bổ trợ tư pháp trong tố tụng trọng tài thương mại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.24 MB, 93 trang )

f ĐẠI HỌC CÔNG NGHỆ TP. HCM
TRƯỜNG
KHOA LUẬT

KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP

PHÁP LUẬT VỀ BỔ TRỢ TƢ PHÁP
TRONG TỐ TỤNG TRỌNG TÀI THƢƠNG MẠI

Ngành:

LUẬT KINH TẾ

Giảng viên hướng dẫn

: NGUYỄN MINH NHỰT

15DLK09

Tp. Hồ Chí Minh - 2018


LỜI CẢM ƠN
Trải qua 3 năm đại học, với em đã gặp không ít những khó khăn, thử thách. Và
việc thực hiện Khóa luận tốt nghiệp lần này là một trong những thử thách cuối cùng mà
em phải vượt qua. Để hoàn thành bài Khóa luận như ngày hôm nay đòi hỏi phải có sự
hỗ trợ, giúp đỡ từ nhiều phía. Chính vì lẽ đó, em xin gửi lời tri ân chân thành nhất đến
những người luôn bên cạnh trực tiếp cũng như gián tiếp quan tâm, giúp đỡ em trong
quá trình thực hiện.
Đầu tiên, em xin gửi lời cảm ơn đến Trường Đại Học Công Nghệ TP. Hồ Chí
Minh, nơi đã tạo điều kiện về vật chất, trang thiết bị cho em trong quá trình học tập tại


trường. Bên cạnh đó em cũng xin cảm ơn các Phòng, Ban nhà trường đã hướng dẫn, hỗ
trợ em trong việc đăng ký thực hiện Khóa luận.
Ngoài ra, em cũng xin gửi lời cảm ơn đến quý thầy, cô Khoa Luật đã luôn thấu
hiểu, quan tâm đến nguyện vọng của chúng em. Tạo cơ hội cho những sinh viên học
vượt như em có điều kiện thực hiện Khóa luận sớm hơn dự kiến.
Cuối cùng, người em muốn gửi lời cảm ơn chân thành nhất là thầy Nguyễn Minh
Nhựt, ngoài việc là một giảng viên hướng dẫn thực hiện Khóa luận, thầy còn giúp đỡ,
định hướng sự nghiệp của em trong tương lai. Thầy luôn tận tình giải đáp những khó
khăn, vướng mắc của em trong quá trình học tập cũng như trong công việc. Một lần
nữa em xin chân thành cảm ơn thầy.
Do kiến thức chuyên môn của em còn hạn chế, bài Khóa luận sẽ không tránh khỏi
những sai sót. Em rất mong nhận được những ý kiến đóng góp từ quý thầy, cô. Em xin
chân thành cảm ơn!
Sinh viên
(ký tên, ghi đầy đủ họ tên)


LỜI CAM ĐOAN
Tôi tên NGUYỄN NHẬT ANH, MSSV: 1511270901
Tôi xin cam đoan các số liệu, thông tin sử dụng trong bài Khoá luận tốt nghiệp
này được thu thập từ nguồn tài liệu khoa học chuyên ngành (có trích dẫn đầy đủ và
theo đúng qui định);
Nội dung trong khoá luận KHÔNG SAO CHÉP từ các nguồn tài liệu khác.
Nếu sai sót tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm theo qui định của nhà trường và
pháp luật.
Sinh viên
(ký tên, ghi đầy đủ họ tên)


DANH MỤC THUẬT NGỮ VIẾT TẮT


LTTTM 2010

Luật Trọng tài thương mại năm 2010

PLTTTM 2003

Pháp lệnh Trọng tài thương mại năm 2003

BLTTDS 2015

Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015

LTHADS

CƯNY
Nghị quyết
01/2014/NQ-HĐTP

Luật Thi hành án dân sự năm 2008, sửa đổi, bổ sung
năm 2014
Công ước New York năm 1958
Nghị quyết số 01/2014/NQ-HĐTP ngày 20/3/2014


MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU ............................................................................................................. 1
1. Lí do chọn đề tài ...................................................................................................... 1
2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài .............................................................................. 2

3. Phạm vi, đối tƣợng nghiên cứu của đề tài ............................................................ 2
4. Phƣơng pháp nghiên cứu ....................................................................................... 3
5. Kết cấu của khoá luận ............................................................................................ 3
NỘI DUNG CHÍNH ĐỀ TÀI KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP .................................... 4
CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ TRỌNG TÀI THƢƠNG MẠI VÀ PHÁP LUẬT
VỀ BỔ TRỢ TƢ PHÁP ................................................................................................. 4
1.1 Khái quát về Trọng tài thƣơng mại .................................................................... 4
1.1.1 Khái niệm và đặc điểm về Trọng tài thương mại ............................................. 4
1.1.2 Lịch sử hình thành và phát triển của pháp luật trọng tài ở Việt Nam ............. 8
1.1.3 Thủ tục tố tụng Trọng tài thương mại ............................................................ 11
1.2 Pháp luật về bổ trợ tƣ pháp ............................................................................... 13
1.2.1 Khái quát về bổ trợ tư pháp ........................................................................... 13
1.2.2 Tầm quan trọng của việc bổ trợ tư pháp đối với hoạt động trọng tài ........... 13
1.2.3 Cơ quan thực hiện bổ trợ tư pháp trong tố tụng trọng tài ............................. 14
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 ............................................................................................. 17
CHƢƠNG 2: QUY ĐỊNH VỀ HOẠT ĐỘNG BỔ TRỢ TƢ PHÁP TRONG LUẬT
TRỌNG TÀI THƢƠNG MẠI NĂM 2010 ................................................................. 18
2.1 Quy định về bổ trợ tƣ pháp bắt buộc ................................................................ 18
2.1.1 Tòa án chỉ định, thay đổi Trọng tài viên của Hội đồng trọng tài vụ việc ...... 18
2.1.2 Tòa án xem xét hiệu lực của thỏa thuận trọng tài và thẩm quyền của Hội
đồng trọng tài .......................................................................................................... 22
2.1.3 Tòa án hủy phán quyết trọng tài hoặc đăng ký phán quyết trọng tài vụ việc 24
2.1.4 Tòa án công nhận và cho thi hành phán quyết của trọng tài nước ngoài tại
Việt Nam .................................................................................................................. 27


2.2 Quy định về bổ trợ tƣ pháp theo yêu cầu ......................................................... 33
2.2.1 Tòa án hỗ trợ thu thập chứng cứ .................................................................... 33
2.2.2 Tòa án hỗ trợ triệu tập người làm chứng ....................................................... 35
2.2.3 Tòa án ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời ......................... 36

2.2.4 Cơ quan thi hành án hỗ trợ thi hành phán quyết trọng tài ............................ 39
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 ............................................................................................. 41
CHƢƠNG 3: THỰC TIỄN ÁP DỤNG VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬT VỀ BỔ TRỢ TƢ PHÁP TRONG TỐ TỤNG TRỌNG TÀI THƢƠNG MẠI
........................................................................................................................................ 42
3.1 Thực tiễn việc áp dụng hoạt động bổ trợ tƣ pháp đối với giải quyết tranh
chấp kinh doanh thƣơng mại bằng tố tụng trọng tài ............................................ 42
3.2 Kiến nghị hoàn thiện pháp luật bổ trợ tƣ pháp ............................................... 55
KẾT LUẬN CHƢƠNG 3 ............................................................................................. 58
KẾT LUẬN ................................................................................................................... 59
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................... 60
PHỤ LỤC ...................................................................................................................... 61


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Hiện nay, Việt Nam đang trong quá trình hội nhập với nền kinh tế thế giới, sự kiện
gia nhập WTO đánh dấu việc nền kinh tế bắt đầu chuyển sang mô hình phát triển theo
cơ chế thị trường, hệ quả là phát sinh hàng loạt các mối quan hệ kinh doanh thương
mại trong và ngoài nước. Khi có nhiều mối quan hệ thương mại phát sinh đồng nghĩa
nhiều tranh chấp thương mại đi kèm cũng phát sinh. Mỗi một tranh chấp kinh doanh
thương mại đều mang những đặc trưng, tính chất khác nhau, vì vậy cần có những cơ
chế giải quyết tranh chấp phù hợp cho từng loại hình tranh chấp. Hiện tại, pháp luật
Việt Nam đã thừa nhận các phương thức giải quyết tranh chấp sau đây: thương lượng,
hòa giải và tranh tụng. Việc tranh tụng được thực hiện qua một trong hai hình thức là
Tòa án và Trọng tài.
Trọng tài là phương thức được sử dụng phổ biến ở nhiều nước trên thế giới, đặc
biệt ở các nước có nền kinh tế thị trường như Anh, Pháp, Đức, Thụy Sĩ... Phương thức
trọng tài được các thương nhân nước ngoài ưa chuộng bởi nguyên tắc tôn trọng quyền
tự do thỏa thuận, quyền tự định đoạt và quyền tự chủ của đương sự. Ngoài ra, giải

quyết tranh chấp bằng Trọng tài khá nhanh gọn và đơn giản, với nguyên tắc giải quyết
tranh chấp không công khai nên việc giữ được uy tín, bí mật kinh doanh và mối quan
hệ hợp tác giữa các bên được đảm bảo. Một điều hết sức lưu ý, nếu không có vi phạm
pháp luật trong tố tụng thì phán quyết trọng tài có giá trị chung thẩm, không bị kháng
cáo, kháng nghị, thời gian tố tụng không bị kéo dài, không ảnh hưởng nhiều đến lợi ích
kinh doanh của đôi bên.
Tuy là phương thức được ưu tiên hàng đầu trên thế giới, nhưng ở Việt Nam, hoạt
động trọng tài lại khá khiêm tốn, số lượng các tranh chấp được các thương nhân đưa
lên Trọng tài chưa thật sự cân xứng với phía Tòa án. Thực tiễn đã có những báo cáo,
phân tích đưa ra nhiều nguyên nhân dẫn đến việc các doanh nghiệp không mặn mà với
loại hình giải quyết tranh chấp này. Nhưng theo ý kiến cá nhân, tác giả cho rằng, để
khuyến khích giới thương nhân lựa chọn Trọng tài giải quyết tranh chấp, cần có sự hỗ
trợ tích cực từ phía cơ quan quyền lực nhà nước, mà điển hình là Tòa án.

1


Chính vì lẽ đó, trên tinh thần vừa kế thừa những nghiên cứu, đánh giá của những
tác giả đi trước, vừa tập trung đi sâu phân tích vai trò của cơ quan nhà nước trong việc
bổ trợ tư pháp đối với hoạt động trọng tài, khóa luận với chủ đề “Pháp luật về bổ trợ
tư pháp trong tố tụng trọng tài thương mại” sẽ đưa ra những lý luận về pháp luật
trọng tài ở Việt Nam cũng như thực tiễn việc bổ trợ tư pháp đối với hoạt động Trọng
tài, song song đó là đề xuất những kiến nghị, giải pháp nhằm hoàn thiện hơn về cơ chế
này trong tương lai.
2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
Qua quá trình tìm hiểu, cho đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu liên quan
đến lĩnh vực Trọng tài thương mại, như luận văn thạc sĩ của tác giả Tống Vân Huyền
với chủ đề “Sự hỗ trợ của Tòa án đối với giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài thương
mại ở Việt Nam” hay bài viết đăng trên diễn đàn doanh nghiệp của tác giả Phạm Tuấn
Anh – Chánh tòa kinh tế Tòa án nhân dân Hà Nội với chủ đề “Vai trò của Tòa án trong

tố tụng trọng tài thương mại”. Tuy nhiên việc nghiên cứu sự bổ trợ tư pháp đối với hoạt
động trọng tài còn tương đối ít và khá chung chung, chưa làm bật lên được vai trò
không thể thiếu của Tòa án – cơ quan bổ trợ tư pháp chủ yếu và Cơ quan thi hành án.
Vì thế, đề tài này hy vọng sẽ mang lại kết quả thiết thực cho vấn đề hỗ trợ của Tòa án
và Cơ quan thi hành án đối với hoạt động trọng tài trong thời gian sắp tới.
3. Phạm vi, đối tƣợng nghiên cứu của đề tài
Đối tượng nghiên cứu của khóa luận là những vấn đề lý luận và thực tiễn của việc
bổ trợ tư pháp đối với hoạt động giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài tại Việt Nam.
Khóa luận tập trung nghiên cứu về thẩm quyền, vai trò và trách nhiệm của cơ quan nhà
nước đối với hoạt động trọng tài.
Phạm vi nghiên cứu: khóa luận tập trung nghiên cứu các văn bản quy phạm pháp
luật về Trọng tài như Pháp lệnh Trọng tài thương mại năm 2003 (PLTTTM 2003), Luật
Trọng tài thương mại năm 2010 (LTTTM 2010) và những văn bản có liên quan như Bộ
luật Tố tụng dân sự năm 2015 (BLTTDS 2015), Luật Thi hành án dân sự năm 2008,
sửa đổi, bổ sung năm 2014 (LTHADS). Ngoài ra, khóa luận còn nghiên cứu thêm ở các
sách chuyên khảo, tạp chí chuyên ngành luật và những bài viết được đăng trên các
phương tiện thông tin đại chúng.
2


4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận Mác - Lê Nin về chủ
nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử. Song song đó là sự kết hợp các
phương pháp nghiên cứu khác như: phân tích những quy định pháp luật trong lĩnh vực
Trọng tài; tổng hợp những dẫn chứng, ví dụ, minh họa để làm rõ hơn các vấn đề trong
hoạt động tố tụng trọng tài, so sánh các hình thức giải quyết tranh chấp, từ đó đưa ra
những ưu điểm, hạn chế của từng phương thức giải quyết tranh chấp; khảo sát thực tiễn
thông qua những bản án, quyết định của Tòa án, Trọng tài có liên quan đến đề tài khóa
luận...
5. Kết cấu của khoá luận

Ngoài Lời mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo khóa luận được kết cấu
thành ba chương:
Chƣơng 1: Tổng quan về Trọng tài thương mại và pháp luật về bổ trợ tư pháp.
Chƣơng 2: Quy định về hoạt động bổ trợ tư pháp trong Luật Trọng tài thương mại
năm 2010.
Chƣơng 3: Thực tiễn áp dụng và kiến nghị hoàn thiện pháp luật về bổ trợ tư pháp
trong tố tụng trọng tài thương mại.

3


NỘI DUNG CHÍNH ĐỀ TÀI KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP
CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ TRỌNG TÀI THƢƠNG MẠI VÀ PHÁP
LUẬT VỀ BỔ TRỢ TƢ PHÁP
1.1 Khái quát về Trọng tài thƣơng mại
1.1.1 Khái niệm và đặc điểm về Trọng tài thương mại
a) Khái niệm
Trọng tài thương mại là một thuật ngữ không còn quá xa lạ đối với đời sống kinh
tế - xã hội ở các nước trên thế giới. Tuy nhiên, thuật ngữ này chỉ mới được biết đến và
sử dụng phổ biến ở nước ta trong những năm gần đây. Khái niệm này đã thay thế cho
khái niệm Trọng tài kinh tế ra đời từ năm 1994 trong Nghị định số 116/CP ngày
5/9/1994 của Chính phủ quy định về tổ chức và hoạt động của Trọng tài kinh tế.
Hệ thống pháp luật Việt Nam cũng như các quốc gia trên thế giới đã tồn tại nhiều
khái niệm khác nhau về Trọng tài. Theo từ điển chuyên ngành luật Black’s Law, xuất
bản lần thứ sáu (1991): “Trọng tài là một phương thức giải quyết tranh chấp trong đó
các bên đồng ý rằng một bên thứ ba trung lập (Trọng tài viên hay Hội đồng trọng tài)
sẽ ban hành một quyết định có căn cứ pháp lý sau khi các bên đã có cơ hội trình bày vụ
tranh chấp của mình”. Hay theo Hiệp hội trọng tài Hoa Kỳ: “Trọng tài là cách thức giải
quyết tranh chấp bằng cách đệ trình vụ tranh chấp cho một số người khách quan xem
xét, giải quyết và họ sẽ đưa ra quyết định cuối cùng, có giá trị buộc các bên phải thi

hành”. Như vậy, có khá nhiều khái niệm về Trọng tài thương mại, nhưng nhìn chung
các khái niệm đều tập trung xem xét định nghĩa ở hai góc độ:
-

-

Trọng tài là một phương thức giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực kinh doanh
thương mại, là quy trình tố tụng được dẫn dắt bởi một Hội đồng trọng tài hoặc một
Trọng tài viên. Họ với vai trò là bên thứ ba độc lập, đứng ra giải quyết tranh chấp
bằng việc đưa ra phán quyết cuối cùng, có giá trị bắt buộc các bên phải thi hành.
Trọng tài là một cơ quan tiến hành giải quyết tranh chấp trong kinh doanh thương
mại, được các Trọng tài viên đủ tiêu chuẩn thành lập theo pháp luật quốc gia nơi
cơ quan đặt trụ sở, để giải quyết tranh chấp phát sinh trong lĩnh vực kinh doanh
4


thương mại. Có ba loại hình tổ chức của Trọng tài thương mại là Trung tâm trọng
tài (VIAC, SIAC), Hiệp hội trọng tài (Hiệp hội trọng tài Hoa Kỳ, Hiệp hội trọng tài
Nhật Bản) và Viện trọng tài (Viện trọng tài Luân Đôn, Viện trọng tài Stockholm –
Thụy Sĩ).1
b) Đặc điểm
Trọng tài thương mại, vừa là phương thức giải quyết tranh chấp trong kinh doanh
thương mại, vừa mang bản chất của một cơ quan tài phán, có những đặc trưng như sau:
-

-

Trọng tài thương mại là một tổ chức xã hội – nghề nghiệp, “có tư cách pháp nhân,
có con dấu và tài khoản riêng”.2 Mang bản chất là một cơ quan tài phán tư, hoạt
động trên tinh thần tự nguyện của những người sáng lập, không dựa trên ý chí của

Nhà nước nên không mang bản chất quyền lực nhà nước. Bên cạnh đó, Trọng tài
viên không là viên chức nhà nước, không hưởng lương từ ngân sách nhà nước và
không nhân danh Nhà nước khi đưa ra phán quyết.
Thẩm quyền của Trọng tài không đương nhiên có. Thẩm quyền của Trọng tài chỉ
phát sinh khi các bên trong tranh chấp có thỏa thuận trọng tài, thỏa thuận này có
thể được xác lập trước hoặc sau khi xảy ra tranh chấp. Vì vậy, có thể nói, thẩm

-

-

quyền của Trọng tài phụ thuộc hoàn toàn vào quyết định của các bên tham gia
tranh chấp. Nếu các bên không thỏa thuận, hoặc có thỏa thuận mà thỏa thuận trọng
tài vô hiệu hoặc không thể thực hiện được thì thẩm quyền giải quyết của Trọng tài
cũng tuyệt nhiên là không.
Phương thức Trọng tài luôn đảm bảo cho đương sự quyền tự định đoạt rất cao.
Đương sự có quyền lựa chọn hình thức trọng tài để giải quyết (Trọng tài quy chế
hay Trọng tài vụ việc), lựa chọn Trọng tài viên, Bộ quy tắc trọng tài, ngôn ngữ sử
dụng trong quá trình tố tụng và hơn thế nữa là luật áp dụng điều chỉnh vụ tranh
chấp.
“Giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài được tiến hành không công khai”.3 Nguyên
tắc này đi ngược lại so với nguyên tắc xét xử của Tòa án.4 Đây cũng chính là điểm

1

Phân loại trên chỉ đối với hình thức Trọng tài thường trực.
Điều 27 LTTTM 2010.
3
Khoản 4 Điều 4 LTTTM 2010.
4

Khoản 2 Điều 15 BLTTDS 2015 “Tòa án xét xử công khai. Trường hợp đặc biệt cần giữ bí mật nhà nước, giữ
gìn thuần phong mỹ tục của dân tộc, bảo vệ người chưa thành niên hoặc giữ bí mật nghề nghiệp, bí mật kinh
2

5


cộng giúp cho các doanh nghiệp ưu tiên lựa chọn phương thức giải quyết tranh
chấp bằng Trọng tài thay vì Tòa án. Bởi đặc thù của lĩnh vực kinh doanh thương
mại là sự cạnh tranh. Để cạnh tranh được với đối thủ, đòi hỏi các doanh nghiệp
phải luôn đưa ra những cái mới, cái sáng tạo và đặc biệt là đảm bảo bí mật kinh
doanh không bị tiết lộ. Chính vì vậy, việc giải quyết tranh chấp không công khai đã
phần nào giúp các doanh nghiệp hạn chế việc bí mật kinh doanh, thông tin nội bộ
của công ty bị tràn ra bên ngoài, gây ảnh hưởng xấu đến hoạt động kinh doanh sau
này. Hơn thế nữa, việc không công khai thông tin doanh nghiệp sẽ đảm bảo được
uy tín và vị thế của doanh nghiệp trên thị trường trong nước và quốc tế.
-

Phán quyết của Trọng tài là chung thẩm, không bị kháng cáo, kháng nghị và có
hiệu lực thi hành đối với các bên tranh chấp. Nguyên tắc này xuất phát từ bản chất
của tố tụng trọng tài, nhân danh ý chí và quyền định đoạt của các bên đương sự.
Các bên đương sự đã tự do lựa chọn và tín nhiệm người phán xử cho mình thì
đương nhiên phải phục tùng quyết định của người đó.

-

Phương thức Trọng tài nhận được sự hỗ trợ từ Tòa án. Với bản chất là cơ quan
quyền lực Nhà nước, những hoạt động hỗ trợ của Tòa án như thu thập chứng cứ,
triệu tập người làm chứng hoặc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời sẽ được thực
hiện một cách nhanh chóng, giúp cho quá trình giải quyết tranh chấp của Trọng tài

trở nên thuận lợi hơn. Từ đó hoạt động trọng tài trở nên hiệu quả hơn, phía Tòa án
sẽ giảm bớt được gánh nặng trong việc phải thụ lý quá nhiều đơn kiện. Đây có thể
nói là sự hỗ trợ về mặt nhà nước, để bảo vệ và phát triển một tổ chức tài phán tư
(Trọng tài) song song với một tổ chức tài phán công (Tòa án). Đảm bảo tự do ý chí
cho đương sự trong việc lựa chọn các phương thức giải quyết tranh chấp.
c) Hình thức Trọng tài thương mại
Trọng tài thương mại tồn tại hai hình thức là Trọng tại vụ việc (Trọng tài ad hoc)

và Trọng tài thường trực (Trọng tài quy chế).
(i) Trọng tài vụ việc

doanh, bí mật cá nhân, bí mật gia đình của đương sự theo yêu cầu chính đáng của họ thì Tòa án có thể xét xử
kín.”
6


“Trọng tại vụ việc là hình thức giải quyết tranh chấp theo quy định của Luật này và
trình tự, thủ tục do các bên thoả thuận”.5 Hoạt động trọng tài sẽ chấm dứt khi tranh
chấp được giải quyết. Bản chất của Trọng tài vụ việc được thể hiện qua những đặc
trưng cơ bản như sau:
-

Trọng tài vụ việc được thành lập khi có phát sinh tranh chấp và tự chấm dứt hoạt
động khi tranh chấp được giải quyết. Nói cách khác, Trọng tài vụ việc chỉ mang
tính chất lâm thời, không cố định, chỉ tồn tại và hoạt động trong quá trình giải
quyết tranh chấp.

-

Trọng tài vụ việc không có cơ sở thường trực, không có bộ máy điều hành, không


-

có danh sách Trọng tài viên. Trọng tài được chỉ định không bị giới hạn trong bất kỳ
một danh sách Trọng tài viên nào của bất cứ Trung tâm trọng tài nào.
Trọng tài vụ việc không có quy tắc tố tụng dành riêng cho mình mà thay vào đó là
các bên tự thỏa thuận chọn một quy tắc tố tụng phổ biến và thường là những quy
tắc tố tụng tại Trung tâm trọng tài có uy tín trong nước hoặc quốc tế.

Ưu điểm của loại hình này là chi phí thấp, thời gian giải quyết nhanh do không
phải thành lập hội đồng. Tuy nhiên, Trọng tài vụ việc chỉ thích hợp với những tranh
chấp nhỏ, ít phức tạp. Do thiếu tính ổn định và quy chế hoạt động chưa chặt chẽ nên
hiệu quả của việc giải quyết tranh chấp không cao.
(ii) Trọng tài thường trực
Trọng tài thường trực là hình thức trọng tài có cơ cấu tổ chức chặt chẽ, hoạt động
theo điều lệ riêng, thường xuyên tồn tại để giải quyết tranh chấp thuộc thẩm quyền của
mình khi được các bên yêu cầu.
Trên thế giới, Trọng tài thường trực được tổ chức ở ba dạng là: Trung tâm trọng tài
(VIAC, SIAC), Hiệp hội trọng tài (Hiệp hội trọng tài Hoa Kỳ, Hiệp hội trọng tài Nhật
Bản) và Viện trọng tài (Viện trọng tài Luân Đôn, Viện trọng tài Stockholm – Thụy Sĩ).
Tại Việt Nam, nhà nước Việt Nam chỉ thừa nhận hình thức Trung tâm trọng tài.
Tương tự Trọng tài vụ việc, Trọng tài thường trực có những đặc điểm riêng biệt
như sau:
5

Khoản 7 Điều 3 LTTTM 2010.
7


-


Trung tâm trọng tài là tổ chức phi chính phủ, có tư cách pháp nhân, có con dấu, có
trụ sở hoạt động và được cơ quan nhà nước cấp phép thành lập. Trung tâm trọng tài
không phải là do nhà nước thành lập nên không nằm trong danh sách những cơ
quan nhà nước. Đó là sự khác biệt cơ bản giữa Trọng tài và Tòa án hay Trọng tài

-

kinh tế nhà nước trước đây.
Các Trung tâm trọng tài đều hoạt động độc lập với nhau, giữa các trung tâm không

-

có mối quan hệ lệ thuộc về cơ cấu tổ chức hoặc về tài chính. Trong khi đó, Tòa án
lại có sự liên hệ chặt chẽ và ràng buộc lẫn nhau từ các cấp.
Mỗi Trung tâm trọng tài đều tự xây dựng riêng cho mình một bản điều lệ và quy
tắc tố tụng riêng trên cơ sở những quy định pháp luật về trọng tài do nhà nước ban
hành. Tuy nhiên, những quy tắc tố tụng này mang tính vận dụng và sáng tạo, các
trung tâm đều muốn đơn giản hóa thủ tục pháp luật và tăng khả năng tự định đoạt
của đương sự nhằm tạo sự mới lạ, hấp dẫn cho việc giải quyết tranh chấp tại Trung
tâm trọng tài, đây cũng được xem là điểm khác biệt cơ bản giữa Trọng tài và Tòa
án.

Từ những đặc điểm trên ta có thể thấy Trọng tài thường trực với một cơ cấu tổ
chức, quản lý cố định và bộ quy tắc tố tụng riêng, hơn thế nữa là một đội ngũ Trọng tài
viên uy tín, trình độ chuyên môn cao nên việc giải quyết tranh chấp hiệu quả hơn
Trọng tài vụ việc là điều hiển nhiên. Tuy nhiên, Trọng tài thường trực cũng có một số
hạn chế nhất định như: chi phí trọng tài cao; chỉ được chọn Trọng tài viên có trong
danh sách; bộ quy tắc tố tụng đôi khi không phù hợp với một số tranh chấp cụ thể.
Như vậy, với mỗi hình thức trọng tài đều có những ưu điểm và hạn chế riêng, đòi

hỏi đương sự phải hiểu rõ tính chất của tranh chấp mà mình đang tham gia và đặc điểm
của các loại hình trọng tài để chọn lựa cho mình một hình thức phù hợp, đảm bảo phán
quyết có khả năng thực thi cao.
1.1.2 Lịch sử hình thành và phát triển của pháp luật trọng tài ở Việt Nam
Việt Nam là một đất nước trải qua nhiều biến cố, thăng trầm của lịch sử. Hệ thống
pháp luật nói chung và pháp luật về Trọng tài nói riêng cũng ít nhiều bị ảnh hưởng bởi
những biến động này. Tiến trình hình thành và phát triển của Trọng tài thương mại trải
qua hai giai đoạn chủ yếu: giai đoạn từ những năm 60 của thế kỷ XX đến trước khi ban
8


hành Pháp lệnh Trọng tài thương mại năm 2003 (PLTTTM 2003) và giai đoạn kể từ
khi ban hành PLTTTM 2003 đến khi ban hành Luật Trọng tài thương mại năm 2010
(LTTTM 2010).
a) Giai đoạn từ những năm 60 của thế kỷ XX đến trước khi ban hành PLTTTM
2003
Trong giai đoạn này, có hai hình thức trọng tài tồn tại song song ở Việt Nam, đó là
Trọng tài kinh tế nhà nước và Trọng tài kinh tế phi nhà nước.
(i) Trọng tài kinh tế nhà nước
Vào những năm 1960 của thế kỷ XX, khi công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa ở
miền Bắc cơ bản hoàn thiện. Đảng và nhà nước bắt đầu đẩy mạnh phát triển kinh tế xã hội, theo đó cơ chế tập trung, chuyên môn hóa, hợp tác hóa được đề cao, nhà nước
trở thành đơn vị chủ quản đứng ra điều tiết mọi hoạt động kinh tế. Trong giai đoạn này,
Trọng tài kinh tế xuất hiện cùng với sự ra đời của chế độ hợp đồng kinh tế. Khi Thủ
tướng Chính phủ ban hành Nghị định số 04/TTg ngày 04/01/1960 về ban hành Điều lệ
tạm thời về chế độ hợp đồng kinh tế, không lâu sau đó, Thủ tướng Chính phủ tiếp tục
ban hành Nghị định số 20/TTg ngày 14/01/1960 quy định về Tổ chức Hội đồng trọng
tài (Trọng tài kinh tế nhà nước). Theo nghị định này, Hội đồng trọng tài sẽ được phân
theo các cấp trung ương, khu, thành phố, tỉnh và bộ, với bản chất là một cơ quan nhà
nước có chức năng chủ yếu là xử lý các vi phạm về hợp đồng kinh tế.
Đến năm 1981, Hội đồng Bộ trưởng ký ban hành Nghị định số 24/HĐBT ngày

10/08/1981, Nghị định lần đầu tiên thống nhất tên gọi Hội đồng Trọng tài kinh tế là
Trọng tài kinh tế và thành lập ngạch Trọng tài viên. Ngày 17/04/1984, Hội đồng Bộ
trưởng tiếp tục ban hành Nghị định số 62/HĐBT quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn và tổ chức bộ máy của Trọng tài kinh tế bộ, tỉnh, huyện.
Năm 1986 đánh dấu một sự kiện lớn của nước ta, Đại hội Đảng Cộng sản Việt
Nam lần thứ VI họp và thống nhất “đổi mới về kinh tế - chính trị - xã hội”. Việt Nam
bắt đầu chuyển sang phát triển nền kinh tế thị trường, xóa bỏ cơ chế tập trung, bao cấp
và đổi mới quan hệ ngoại giao, hợp tác quốc tế, tiến hành mở cửa kêu gọi đầu tư. Với
chính sách trên, Việt Nam đón nhận sự tham gia nhiều thành phần kinh tế khác nhau,
9


nhiều loại hình kinh tế mới lạ du nhập vào trong nước. Điều này dẫn đến các tranh
chấp trở nên đa dạng và phức tạp hơn. Nhận thấy cơ chế Trọng tài kinh tế nhà nước
không còn phù hợp với tình hình hiện tại, xã hội đòi hỏi phải đổi mới phương thức giải
quyết tranh chấp. Chính vì lẽ đó, Luật sửa đổi một số điều của Luật Tổ chức Tòa án
năm 1993 ngày 28/12/1993 ra đời. Theo đó, Tòa kinh tế Tòa án nhân dân cấp tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương có nhiệm vụ, quyền hạn giải quyết những vụ án kinh
tế. Bên cạnh đó, Trọng tài kinh tế nhà nước cũng chính thức bị giải thể.
(ii) Trọng tài kinh tế phi nhà nước
Vào những năm 60 của thế kỷ XX, cùng với sự hình thành của tổ chức Trọng tài
kinh tế nhà nước, thì hai tổ chức trọng tài phi chính phủ lần lược ra đời đó là Hội đồng
trọng tài ngoại thương (thành lập theo Nghị định số 59/CP ngày 30/4/1963) với nhiệm
vụ giải quyết tranh chấp giữa tổ chức kinh tế Việt Nam và tổ chức kinh tế nước ngoài;
Hội đồng trọng tài hàng hải (thành lập theo Nghị định số 153/CP ngày 05/10/1964) với
chức năng giải quyết tranh chấp phát sinh trong quan hệ hàng hải có yếu tố nước ngoài.
Tuy đây là hai tổ chức xã hội nghề nghiệp, nhưng do được hình thành và hoạt động
theo cơ chế của nền kinh tế kế hoạch tập trung nên chỉ phù hợp với tình hình nước ta ở
thời điểm hiện tại. Đến năm 1993, hai tổ chức này sáp nhập thành Trung tâm trọng tài
quốc tế Việt Nam (VIAC) bên cạnh Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam theo

Quyết định số 204/TTg ngày 28/03/1993 của Thủ tướng Chính phủ. Sau sự xuất hiện
của Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam, Chính phủ tiếp tục ký ban hành Nghị định
số 116/CP ngày 05/09/1994 quy định tổ chức và hoạt động của trọng tài kinh tế theo
hình thức Trung tâm Trọng tài kinh tế.
Trải qua gần 10 năm hoạt động (từ năm 1993 đến 2002). VIAC và các trung tâm
trọng tài khác ở Việt Nam đã thể hiện được vai trò không thể thiếu của mình trong việc
giải quyết tranh chấp thương mại. Tuy nhiên, do không có sự đồng bộ về văn bản pháp
luật điều chỉnh của những Trung tâm trọng tài, hiệu lực pháp lý còn yếu chỉ dừng ở
mức nghị định. Ngoài ra, các quy định, điều lệ còn có nhiều bất cập, một số nội dung
còn lạc hậu so với thực tiễn, không còn vừa vặn với tình hình Việt Nam và thế giới
hiện tại. Chính vì vậy, hơn bao giờ hết, cần có một đạo luật về trọng tài ra đời để khắc
phục những thiếu sót trên.

10


b) Giai đoạn kể từ khi ban hành PLTTTM 2003 đến khi ban hành LTTTM 2010
Ngày 25/02/2003, Ủy ban thường vụ Quốc hội ký ban hành Pháp lệnh Trọng tài
thương mại, đánh dấu bước chuyển tiếp trong quá trình phát triển của pháp luật trọng
tài ở Việt Nam, và cũng là lần đầu tiên cụm từ “Trọng tài thương mại” xuất hiện trong
hệ thống pháp luật nước ta. Đây có thể nói là một văn bản pháp luật tương đối toàn
diện và hoàn chỉnh về mặt nội dung. Pháp lệnh đã xác định phạm vi cụ thể của thẩm
quyền trọng tài, đưa ra cơ chế xác định hiệu lực pháp lý của thỏa thuận trọng tài. Ngoài
ra, Pháp lệnh Trọng tài thương mại năm 2003 (PLTTTM 2003) còn quy định cụ thể về
tổ chức, hoạt động của Trung tâm trọng tài, quy định chặt chẽ quy trình tố tụng trọng
tài, hơn thế nữa là việc bổ sung sự hỗ trợ của Tòa án đối với hoạt động trọng tài.
Tiến bộ là vậy, nhưng nền kinh tế lại vượt lên trên hẳn sự phát triển của pháp luật,
PLTTTM 2003 qua 6 năm thực hiện cũng bắt đầu bộc lộ những hạn chế nhất định và
không còn phù hợp với tình hình kinh tế - xã hội lúc bấy giờ. Đó là những bất cập
trong việc chưa xác định rõ phạm vi giải quyết tranh chấp, thiếu sót trong chế định thỏa

thuận trọng tài, sự hỗ trợ của tòa án thì còn khá mờ nhạt và phạm vi căn cứ để hủy
phán quyết trọng tài quá rộng. Vì vậy, đây là thời điểm rất cần thiết cho một đạo luật
mới ra đời nhằm mục đích cải cách và hoàn thiện những quy định đã lạc hậu của pháp
lệnh. Ngày 17/6/2010, Quốc hội chính thức ban hành Luật Trọng tài thương mại năm
2010 thay thế PLTTTM 2003, với hy vọng bổ sung các thiếu sót, sửa đổi những hạn
chế và cập nhật thêm nhiều điểm mới từ pháp luật của các quốc gia trên thế giới để
hoàn chỉnh đạo luật này khi đến với công chúng.
1.1.3 Thủ tục tố tụng Trọng tài thương mại
Trình tự, thủ tục giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài trải qua các bước như sau:
Nguyên đơn phải nộp đơn khởi kiện tại Trung tâm trọng tài mà các bên đã thỏa
thuận từ trước. Đơn khởi kiện sẽ không được thụ lý nếu nộp không đúng Trung tâm
trọng tài mà các bên đã thỏa thuận. Trọng tài viên sau khi tiếp nhận đơn khởi kiện và
tài liệu kèm theo của nguyên đơn, trong thời hạn luật định phải gửi bản sao đơn khởi
kiện và tài liệu đó cho bị đơn. Trường hợp tranh chấp giải quyết bằng Trọng tài vụ việc
thì nguyên đơn phải gửi đơn khởi kiện cho bị đơn. Nếu không có thỏa thuận khác,
nguyên đơn sẽ là bên có nghĩa vụ nộp tạm ứng án phí trọng tài.
11


Trong thời hạn luật định, kể từ khi nhận được đơn khởi kiện và tài liệu kèm theo,
bị đơn phải nộp bản tự bảo vệ cho Trung tâm trọng tài. Trường hợp giải quyết tranh
chấp bằng Trọng tài vụ việc thì bị đơn phải gửi cho nguyên đơn và Trọng tài viên bản
tự bảo vệ, tên và địa chỉ của người mà mình chọn làm Trọng tài viên. Ngoài ra, nếu bị
đơn có yêu cầu phản tố tại những vấn đề liên quan đến vụ tranh chấp thì bị đơn phải
gửi đơn kiện lại cho Trung tâm trọng tài. Trường hợp giải quyết bằng Trọng tài vụ việc
thì đơn kiện lại phải gửi cho Hội đồng trọng tài và nguyên đơn. Đơn kiện lại phải được
nộp cùng thời điểm nộp bản tự bảo vệ.
Sau khi có sự thống nhất giữa các bên về việc lựa chọn, chỉ định Trọng tài viên,
Hội đồng trọng tài được thành lập. Hội đồng trọng tài mới thành lập sẽ bắt đầu tiến
hành nghiên cứu hồ sơ để chuẩn bị cho phiên họp giải quyết tranh chấp sắp diễn ra.

Hoạt động điều tra trước khi xét xử được xem là bước quan trọng trong quá trình giải
quyết tranh chấp. Trong giai đoạn này, sẽ diễn ra các hoạt động thu thập chứng cứ, gặp
gỡ, trao đổi với các bên đương sự.
Sau khi đã thực hiện xong công tác điều tra, phiên họp giải quyết tranh chấp được
tiến hành. Trong phiên họp giải quyết tranh chấp, sự vắng mặt của từng đương sự dẫn
đến những hệ quả khác nhau. Về phần nguyên đơn, nếu đã được triệu tập hợp lệ mà
vẫn vắng mặt không có lí do chính đáng hoặc tự ý rời khỏi phiên họp giải quyết tranh
chấp mà không được Hội đồng trọng tài chấp thuận thì coi như đã rút đơn khởi kiện.
Hội đồng chỉ tiếp tục giải quyết tranh chấp nếu bị đơn có đơn yêu cầu hoặc đơn kiện
lại. Về phía bị đơn, nếu bị đơn đã được triệu tập hợp lệ mà vắng mặt không vì lí do
chính đáng hoặc tự ý rời khỏi phiên họp giải quyết tranh chấp mà không được Hội
đồng trọng tài chấp thuận thì Hội đồng trọng tài vẫn tiếp tục giải quyết tranh chấp dựa
trên những chứng cứ, tài liệu hiện có.
Trước khi tiến hành xét xử, theo yêu cầu các bên, Hội đồng trọng tài tiến hành hòa
giải, các bên tự thỏa thuận với nhau. Nếu hòa giải thành, Hội đồng trọng tài lập biên
bản hòa giải thành có chữ ký các bên, biên bản này có giá trị thi hành như một phán
quyết trọng tài. Ngược lại, nếu hòa giải không thành thì Hội đồng trọng tài tiếp tục quy
trình giải quyết tranh chấp. Kết thúc quá trình giải quyết tranh chấp, Hội đồng trọng tài
sẽ đưa ra phán quyết. Phán quyết được quyết định dựa trên nguyên tắc biểu quyết theo
đa số, phán quyết có giá trị chung thẩm và có hiệu lực kể từ ngày ban hành.
12


1.2 Pháp luật về bổ trợ tƣ pháp
1.2.1 Khái quát về bổ trợ tư pháp
Theo từ điển tiếng Việt, “bổ trợ” giúp thêm, phụ thêm vào cho đủ, cho tốt hơn, còn
“tư pháp” là việc xét xử các hành vi vi phạm pháp luật. Từ đó, ta có thể hiểu bổ trợ tư
pháp có nghĩa là sự giúp đỡ về việc xét xử các hành vi vi phạm pháp luật. Như vậy, bổ
trợ tư pháp trong hoạt động trọng tài là việc một cơ quan đứng ra giúp đỡ trọng tài
trong việc xét xử các hành vi vi phạm pháp luật, hay nói các khác là giải quyết tranh

chấp. Hoạt động bổ trợ tư pháp đối với tố tụng trọng tài được cụ thể hóa thành những
hoạt động hỗ trợ được pháp luật Việt Nam thừa nhận bao gồm: (i) Tòa án hỗ trợ chỉ
định, thay đổi Trọng tài viên của Hội đồng trọng tài vụ việc; (ii) Tòa án xem xét hiệu
lực của thỏa thuận trọng tài và thẩm quyền của Hội đồng trọng tài; (iii) Tòa án hỗ trợ
thu thập chứng cứ; (iv) Tòa án hỗ trợ triệu tập người làm chứng; (v) Tòa án ra quyết
định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời; (vi) Tòa án hủy phán quyết trọng tài hoặc
đăng ký phán quyết trọng tài vụ việc; (vii) Tòa án ra quyết định công nhận và cho thi
hành phán quyết của trọng tài nước ngoài tại Việt Nam; (viii) Cơ quan thi hành án hỗ
trợ thi hành phán quyết trọng tài.
1.2.2 Tầm quan trọng của việc bổ trợ tư pháp đối với hoạt động trọng tài
Trong lịch sử hình thành pháp luật trọng tài Việt Nam, ở giai đoạn trước khi Pháp
lệnh Trọng tài thương mại năm 2003 (PLTTTM 2003) được ban hành, bản chất của cơ
quan trọng tài lúc bấy giờ là một tổ chức phi chính phủ. Vì tính phi chính phủ nên hoạt
động tố tụng trọng tài gần như độc lập với hoạt động tố tụng của Tòa án. Cả hai cơ
quan tài phán này không có bất kỳ một mối liên hệ gì với nhau trong quá trình giải
quyết tranh chấp. Và đây cũng chính là lí do khiến cho hoạt động trọng tài kém phát
triển vào thời gian này.
Với ưu điểm nằm ở việc các bên đương sự được tự do thỏa thuận và tự nguyện
chấp hành, mọi vấn đề đều được giải quyết dựa trên sự đồng thuận, hợp tác và thiện chí
của đôi bên, điều này giúp cho hoạt động trọng tài trở nên linh hoạt và tự do hơn,
không bị gò bó bởi những quy định khuôn mẫu. Tuy nhiên, tính chất tôn trọng sự thỏa
thuận và tự nguyện của Trọng tài cũng là một con dao hai lưỡi. Vì một khi không có
bất kỳ sự áp đặt, bắt buộc nào trong cơ chế thi hành những quy định của pháp luật
13


trọng tài thì người thực hiện có thể thi hành hoặc không thi hành, tất cả đều phải lệ
thuộc hoàn toàn vào thiện chí của họ lúc đó. Đặc biệt là đối với việc thi hành phán
quyết trọng tài, như ta đã nhận định phán quyết trọng tài không mang quyền lực nhà
nước, không bắt buộc các bên phải thi hành như bản án, quyết định của Tòa án, cho

nên phán quyết trọng tài tại thời điểm đó dường như không có khả năng thi hành hoặc
thi hành một cách lỏng lẽo, rời rạc, không đáp ứng được nguyện vọng các bên tham gia
tranh chấp. Khi tham gia giải quyết tranh chấp thì mục đích cuối cùng của đương sự là
muốn bên thua kiện phải thi hành phán quyết đó. Như vậy, nếu phán quyết không được
thi hành hoặc thi hành một cách không triệt để thì không ai muốn lựa chọn trọng tài để
giải quyết tranh chấp nữa.
Nhận ra được tầm quan trọng của sự hỗ trợ từ phía các cơ quan nhà nước đối với
hoạt động trọng tài. Pháp lệnh Trọng tài thương mại năm 2003, Pháp lệnh Thi hành án
dân sự 2003, Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 đã bổ sung quy định về bổ trợ tư pháp,
thừa nhận vai trò, trách nhiệm của cơ quan tư pháp trong quá trình giải quyết tranh
chấp bằng Trọng tài. Đây có thể nói là một sự tiếp sức rất cần thiết đối với hoạt động
trọng tài ở thời điểm hiện tại, một bước ngoặc lớn giúp cho cơ chế Trọng tài bước sang
trang mới, cải thiện vị trí của mình đối với việc giải quyết tranh chấp trong tương lai.
Và đến LTTTM 2010 ra đời, quy định về bổ trợ tư pháp tiếp tục được kế thừa và hoàn
thiện hơn. Điều này thể hiện quan điểm của nhà nước trong việc khuyến khích đẩy
mạnh sự phát triển của lĩnh vực trọng tài, tối đa hóa hiệu quả của hoạt động này trong
tương lai.
1.2.3 Cơ quan thực hiện bổ trợ tư pháp trong tố tụng trọng tài
a) Tòa án
Có thể nói Tòa án là cơ quan nắm vai trò chủ đạo đối với việc bổ trợ tư pháp trong
hoạt động trọng tài. Tòa án xuất hiện gần như xuyên suốt trong quá trình giải quyết
tranh chấp của Trọng tài. Từ khi bắt đầu hoạt động trọng tài, Tòa án đã tham gia vào
việc xem xét hiệu lực của thỏa thuận trọng tài, thẩm quyền của Hội đồng trọng tài, chỉ
định, thay đổi Trọng tài viên, áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời. Đến giai đoạn điều
tra, xét xử thì Tòa án hỗ trợ Trọng tài ở việc triệu tập người làm chứng hay thu thập
chứng cứ. Và cuối cùng, khi phán quyết trọng tài được ban hành, Tòa án tiếp tục hỗ trợ
14


Trọng tài ở việc đăng ký phán quyết (đối với Trọng tài vụ việc), hủy phán quyết hoặc

công nhận và cho thi hành phán quyết của trọng tài nước ngoài tại Việt Nam.
Theo Luật Trọng tài thương mại năm 2010 (LTTTM 2010) quy định, Tòa án có
thẩm quyền hỗ trợ là Tòa án nhân dân tỉnh và Tòa án nhân dân thành phố trực thuộc
trung ương.6 Và Tòa án được phân định thẩm quyền cụ thể như sau:
Vấn đề

Tòa án có thẩm quyền

Chỉ định Trọng tài viên của Hội

Tòa án nơi cư trú của bị đơn (cá nhân) hoặc

đồng trọng tài vụ việc

nơi có trụ sở của bị đơn (tổ chức). Trường
hợp có nhiều bị đơn thì Tòa án có thẩm
quyền là Tòa án nơi cư trú hoặc nơi có trụ sở
của một trong các bị đơn đó; Trường hợp bị
đơn có nơi cư trú hoặc trụ sở ở nước ngoài
thì Tòa án có thẩm quyền là Tòa án nơi cư
trú hoặc nơi có trụ sở của nguyên đơn.

6

Thay đổi Trọng tài viên của Hội
đồng trọng tài vụ việc

Tòa án nơi Hội đồng trọng tài giải quyết
tranh chấp.


Xem xét hiệu lực của thỏa thuận
trọng tài và thẩm quyền của Hội
đồng trọng tài

Tòa án nơi Hội đồng trọng tài ra quyết định.

Thu thập chứng cứ

Tòa án nơi có chứng cứ cần được thu thập.

Áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm
thời

Tòa án nơi biện pháp khẩn cấp tạm thời cần
được áp dụng.

Triệu tập người làm chứng

Tòa án nơi cư trú của người làm chứng;

Hủy phán quyết trọng tài hoặc đăng
ký phán quyết trọng tài vụ việc

Tòa án nơi Hội đồng trọng tài đã tuyên phán
quyết trọng tài.

Công nhận và cho thi hành phán
quyết của trọng tài nước ngoài tại
Việt Nam


Tòa án nơi người phải thi hành phán quyết
cư trú, làm việc (cá nhân) hoặc có trụ sở (tổ
chức) hoặc nơi có tài sản liên quan đến việc
thi hành phán quyết của trọng tài nước ngoài.

Tham khảo khoản 3 Điều 7 LTTTM 2010.
15


b) Cơ quan thi hành án
Tuy không thực hiện nhiều hoạt động hỗ trợ như Tòa án, song công việc hỗ trợ của
Cơ quan thi hành án lại mang tính quyết định hơn cả, đó chính là đảm bảo việc thi hành
phán quyết của bên thua kiện bằng quyền lực của mình – quyền lực nhà nước.
LTTTM 2010 quy định phán quyết sẽ được các bên tự nguyện thi hành, nếu bên
phải thi hành không thi hành phán quyết thì bên còn lại có quyền yêu cầu sự hỗ trợ từ
phía Cơ quan thi hành án.7 Ngoài ra, đối với phán quyết trọng tài vụ việc muốn được
hỗ trợ thi hành từ phía Cơ quan thi hành án thì phán quyết đó phải được đăng ký tại
Tòa án nơi Hội đồng trọng tài đã tuyên.8
Như vậy, có thể nói với sự hỗ trợ của Cơ quan thi hành án, phán quyết trọng tài sẽ
được đảm bảo thi hành trên thực tế. Điều này là hết sức quan trọng, ảnh hưởng đến sự
tồn tại và phát triển của hoạt động trọng tài về sau. Các doanh nghiệp sẽ an tâm hơn khi
chọn phương thức này để giải quyết tranh chấp vì không còn quan ngại về việc phán
quyết sẽ không được thực thi.

7
8

Tham khảo khoản 1 Điều 66 LTTTM 2010.
Tham khảo khoản 1 Điều 62 LTTTM 2010.
16



KẾT LUẬN CHƢƠNG 1
Như vậy, để giải quyết tranh chấp trong kinh doanh thương mại thì ngoài những
phương thức quen thuộc như thương lượng, hòa giải, tố tụng tại Tòa án, pháp luật Việt
Nam đã sớm bổ sung thêm một phương thức mới được sử dụng rộng rãi trên thế giới
và cũng mang lại hiệu quả không kém những phương thức cũ, đó là phương thức Trọng
tài thương mại.
Ta có thể nhìn nhận Trọng tài ở hai góc độ khác nhau. Một là một phương thức
dùng để giải quyết tranh chấp trong kinh doanh thương mại, hai là một tổ chức phi
chính phủ, một cơ quan tài phán tư. Dù nhìn ở góc độ nào thì chung quy khi nhắc đến
Trọng tài, ta có thể nhận định ngay đó là một hình thức mà các bên lựa chọn để giải
quyết tranh chấp.
Sự hình thành và phát triển của pháp luật trọng tài Việt Nam đi cùng những giai
đoạn thăng trầm của lịch sử đất nước. Pháp luật trọng tài đã có những thay đổi, chuyển
biến rõ rệt để vừa vặn với tình hình chung của thời cuộc. Đánh dấu sự phát triển của
pháp luật trọng tài là việc nhà nước ban hành Pháp lệnh Trọng tài thương mại năm
2003, đây có thể nói là một bước chuyển mình, giúp cho hoạt động trọng tài trở nên sôi
nổi hơn bao giờ hết.
Đến năm 2010, Luật Trọng tài thương mại ra đời, một lần nữa pháp luật trọng tài
Việt Nam được hoàn thiện hơn, cụ thể là những quy định về thẩm quyền của Hội đồng
trọng tài, thỏa thuận trọng tài, trình tự thủ tục giải quyết tranh chấp, đặc biệt hơn cả là
sự hoàn thiện những quy định về việc hỗ trợ của cơ quan nhà nước đối với hoạt động
trọng tài. Đây có thể nói là điểm nhấn của Luật Trọng tài thương mại năm 2010, là cơ
sở để phát triển lòng tin của giới doanh nhân đối với phương thức giải quyết tranh chấp
còn khá mới mẻ này.
Vì vậy, để tìm hiểu thêm về hoạt động hỗ trợ này, hãy tiếp tục tìm hiểu thêm ở
Chương 2: “Quy định về hoạt động bổ trợ tư pháp trong Luật Trọng tài thương mại
năm 2010”.


17


CHƢƠNG 2: QUY ĐỊNH VỀ HOẠT ĐỘNG BỔ TRỢ TƢ PHÁP TRONG
LUẬT TRỌNG TÀI THƢƠNG MẠI NĂM 2010
2.1 Quy định về bổ trợ tƣ pháp bắt buộc
2.1.1 Tòa án chỉ định, thay đổi Trọng tài viên của Hội đồng trọng tài vụ việc
a) Chỉ định Trọng tài viên
Trong hoạt động giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài, việc thành lập Hội đồng
trọng tài là điều tiên quyết. Thành phần Hội đồng trọng tài có một hoặc nhiều Trọng tài
viên tùy theo sự thỏa thuận của đương sự, nếu không thỏa thuận thì thành phần Hội
đồng trọng tài bao gồm ba Trọng tài viên.
Theo quy định về cách thức thành lập Hội đồng trọng tài tại Trung tâm trọng tài,
trong trường hợp bị đơn không chọn được Trọng tài viên, hoặc các Trọng tài viên
không chọn được người làm Chủ tịch Hội đồng trọng tài, hoặc các bên không chọn
được Trọng tài viên duy nhất, Chủ tịch Trung tâm trọng tài sẽ là người có nghĩa vụ
thực hiện việc chỉ định Trọng tài viên. Tuy nhiên, đối với hình thức Trọng tài vụ việc,
làm thế nào giải quyết vấn đề nêu trên khi không có bộ máy quản lý như Trung tâm
trọng tài. Để tránh tình trạng bế tắc trong tố tụng (do các bên không chọn được Trọng
tài viên), Luật Trọng tài thương mại năm 2010 (LTTTM 2010) quy định Tòa án là cơ
quan hỗ trợ chỉ định Trọng tài viên để thành lập Hội đồng trọng tài vụ việc, cụ thể như
sau:
-

Nếu quá thời hạn luật định, bị đơn không thông báo tên Trọng tài viên mình chọn,
nguyên đơn có quyền yêu cầu Tòa án có thẩm quyền chỉ định Trọng tài viên cho bị
đơn; Trường hợp có nhiều bị đơn thì một hoặc các bên có quyền yêu cầu Tòa án có
thẩm quyền chỉ định Trọng tài viên cho các bị đơn.9

-


Nếu các Trọng tài viên được chọn không bầu được Trọng tài viên làm Chủ tịch Hội
đồng trọng tài, các bên có quyền yêu cầu Tòa án chỉ định Trọng tài viên làm Chủ
tịch Hội đồng trọng tài.10
Nếu quá thời hạn luật định mà các bên không chọn được Trọng tài viên duy nhất
(trong trường hợp các bên thỏa thuận tranh chấp được giải quyết với một Trọng tài

-

9

Tham khảo khoản 1, 2 Điều 41 LTTTM 2010; Điểm a, b khoản 1 Điều 8 Nghị quyết 01/2014/NQ-HĐTP.
Tham khảo khoản 3 Điều 41 LTTTM 2010; Điểm c khoản 1 Điều 8 Nghị quyết 01/2014/NQ-HĐTP.

10

18


viên duy nhất) và không yêu cầu một Trung tâm trọng tài chỉ định Trọng tài viên
thì một trong các bên có quyền yêu cầu Tòa án có thẩm quyền chỉ định Trọng tài
viên duy nhất.11
Về xác định cấp thẩm quyền của Tòa án đối với việc chỉ định Trọng tài viên,
LTTTM 2010 và Nghị quyết 01/2014/NQ-HĐTP có quy định cụ thể như sau:
-

Trong thời hạn 07 ngày làm việc kể từ ngày nhận được đơn yêu cầu của các bên,
Chánh án Tòa án nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền phải phân công một Thẩm phán
thực hiện việc chỉ định Trọng tài viên. Tòa án có thẩm quyền phải thông báo ngay
cho đương sự và các Trọng tài viên của Hội đồng trọng tài vụ việc về việc thụ lý

vụ việc và Thẩm phán được phân công giải quyết.12

-

Trong thời hạn 07 ngày làm việc, kể từ ngày được phân công, Thẩm phán tiến hành
xét đơn chỉ định Trọng tài viên mà không cần mở phiên họp hay triệu tập các bên
tranh chấp. Khi xem xét đơn yêu cầu, Thẩm phán phải căn cứ vào tiêu chuẩn Trọng
tài viên (quy định tại Điều 20 LTTTM 2010), quyền và nghĩa vụ của Trọng tài viên
(quy định tại Điều 21 LTTTM 2010); danh sách Trọng tài viên của Trung tâm
trọng tài hoạt động tại Việt Nam (quy định tại điểm c khoản 1 Điều 15 LTTTM
2010 và Điều 19 Nghị định 63/2011/NĐ-CP); và một số tài liệu kèm theo.13
Về xác định Tòa án có thẩm quyền theo lãnh thổ, LTTTM 2010 có quy định như

sau:
-

Trường hợp các bên có thỏa thuận lựa chọn một Tòa án cụ thể, Tòa án có thẩm
quyền là Toà án được các bên lựa chọn.14
Trường hợp các bên không có thỏa thuận, Tòa án có thẩm quyền là Tòa án nơi cư
trú của bị đơn nếu bị đơn là cá nhân hoặc nơi có trụ sở của bị đơn nếu bị đơn là tổ
chức; Nếu có nhiều bị đơn thì Tòa án có thẩm quyền là Tòa án nơi cư trú hoặc nơi
có trụ sở của một trong các bị đơn đó; Trong trường hợp bị đơn có nơi cư trú hoặc

11

Tham khảo khoản 4 Điều 41 LTTTM 2010; Điểm d khoản 1 Điều 8 Nghị quyết 01/2014/NQ-HĐTP.
Tham khảo khoản 5 Điều 41 LTTTM 2010; Khoản 2 Điều 8 Nghị quyết 01/2014/NQ-HĐTP.
13
Khoản 3, 4 Điều 8 Nghị quyết 01/2014/NQ-HĐTP.
14

Tham khảo khoản 1 Điều 7 LTTTM 2010.
12

19


×