Tải bản đầy đủ (.pdf) (154 trang)

Phát triển năng lực tạo lập văn bản nghị luận cho học sinh lớp 10

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.83 MB, 154 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

TRẦN THỊ THÙY

PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC TẠO LẬP VĂN BẢN
NGHỊ LUẬN CHO HỌC SINH LỚP 10

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC

THÁI NGUYÊN, NĂM 2019
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN




ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

TRẦN THỊ THÙY

PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC TẠO LẬP VĂN BẢN
NGHỊ LUẬN CHO HỌC SINH LỚP 10

NGÀNH: LL VÀ PP DẠY HỌC VĂN - TIẾNG VIỆT
Mã số: 8.14.01.11

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Nguyễn Thị Thu Thủy


THÁI NGUYÊN, NĂM 2019
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN




LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan các kết quả nghiên cứu được trình bày trong luận văn là
trung thực và chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Mọi
thông tin trích dẫn trong luận văn đều đã được chỉ rõ nguồn gốc.
Thái Nguyên, tháng 4 năm 2019
Tác giả

Trần Thị Thùy

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN




LỜI CẢM ƠN
Để luận văn hoàn thành và được phép bảo vệ em đã nhận được sự quan
tâm giúp đỡ của nhiều cá nhân và đơn vị.
Em xin được bày tỏ lòng biết ơn chân thành, sâu sắc đến:
- Cô giáo PGS. TS Nguyễn Thị Thu Thủy - người đã dành nhiều thời
gian quý báu để hướng dẫn, góp ý, chia sẻ… giúp em có định hướng đúng
trong suốt thời gian thực hiện luận văn.
- Các nhà khoa học trong Hội đồng đánh giá luận văn đã có nhiều góp ý
về mặt khoa học để em hoàn thiện luận văn được tốt hơn.
- Các thầy, cô giáo giảng dạy lớp cao học Lý luận và phương pháp dạy học

bộ môn Văn - Tiếng Việt đã giúp em có nền tảng kiến thức để thực hiện luận văn.
Sau cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn đến những người thân, gia đình, đồng
nghiệp, bạn bè đã luôn động viên, khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi, giúp
tôi hoàn thành luận văn.
Thái Nguyên, tháng 4 năm 2019
Tác giả

Trần Thị Thùy

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN




MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ................................................................................................. i
LỜI CẢM ƠN ...................................................................................................... ii
MỤC LỤC ..........................................................................................................iii
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT ................................................................. iv
DANH MỤC CÁC BẢNG .................................................................................. v
MỞ ĐẦU ............................................................................................................. 1
1. Lí do chọn đề tài .............................................................................................. 1
2. Lịch sử vấn đề .................................................................................................. 4
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................. 7
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................... 7
5. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................. 8
6. Giả thuyết khoa học ......................................................................................... 9
7. Đóng góp của luận văn .................................................................................... 9
8. Cấu trúc luận văn ............................................................................................. 9
Chương 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN ............................................ 10

1.1. Cơ sở lí luận ................................................................................................ 10
1.1.1. Văn nghị luận........................................................................................... 10
1.1.2. Năng lực tạo lập văn bản nghị luận ......................................................... 20
1.1.3. Đặc điểm tâm lí của học sinh lớp 10 ....................................................... 23
1.2. Cơ sở thực tiễn ............................................................................................ 25
1.2.1. Nội dung dạy học văn nghị luận trong chương trình Ngữ văn 10 ........... 25
1.2.2. Thực trạng dạy học văn nghị luận trong chương trình Ngữ văn 10 ở
trường THPT...................................................................................................... 25
1.3. Tiểu kết chương 1 ....................................................................................... 34
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN




Chương 2. THIẾT KẾ CÁC HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC PHÁT TRIỂN
NĂNG LỰC TẠO LẬP VĂN BẢN NGHỊ LUẬN CHO HỌC SINH
LỚP 10 .............................................................................................................. 35
2.1. Một số yêu cầu dạy học phát triển năng lực tạo lập văn bản nghị luận
trong chương trình Ngữ văn 10 ......................................................................... 35
2.1.1. Yêu cầu về nội dung dạy học .................................................................. 35
2.1.2. Yêu cầu đối với hoạt động dạy của giáo viên ......................................... 36
2.1.3. Yêu cầu đối với hoạt động học của học sinh ........................................... 38
2.1.4. Yêu cầu về phương pháp dạy học và kiểm tra đánh giá .......................... 38
2.2. Thiết kế các hoạt động dạy học phát triển năng lực tạo lập văn bản
nghị luận cho học sinh lớp 10 ............................................................................ 40
2.2.1. Thiết kế hoạt động học tập trước lớp học ................................................ 40
2.2.2. Thiết kế hoạt động học tập trong lớp học ................................................ 43
2.2.3. Thiết kế hoạt động học tập sau lớp học ................................................... 77
2.3. Đề xuất kế hoạch dạy học các bài về văn nghị luận trong chương trình
Ngữ văn 10......................................................................................................... 80

2.3.1. Kế hoạch dạy học bài: Lập dàn ý bài văn nghị luận (Phụ lục) ................ 80
2.3.2. Kế hoạch dạy học bài: Lập luận trong văn nghị luận (Phụ lục) .............. 80
2.3.3. Kế hoạch dạy học bài: Các thao tác nghị luận (Phụ lục)......................... 80
2.3.4. Kế hoạch dạy học bài: Luyện tập viết đoạn văn nghị luận (Phụ lục) ...... 80
2.4. Tiểu kết chương 2 ....................................................................................... 80
Chương 3. THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM....................................................... 81
3.1. Mục đích thực nghiệm ................................................................................ 81
3.2. Phương pháp thực nghiệm .......................................................................... 81
3.3. Đối tượng và địa bàn thực nghiệm ............................................................. 81
3.3.1. Đối tượng thực nghiệm ............................................................................ 81
3.3.2. Địa bàn thực nghiệm................................................................................ 82
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN




3.4. Nội dung và cách thức tiến hành thực nghiệm ........................................... 82
3.4.1. Nội dung thực nghiệm ............................................................................. 82
3.4.2. Cách thức tiến hành thực nghiệm ............................................................ 83
3.4.2. Cách thức tiến hành thực nghiệm ............................................................ 83
3.5. Đánh giá kết quả thực nghiệm .................................................................... 84
3.5.1. Tổng hợp kết quả dạy học thực nghiệm .................................................. 84
3.5.2. Đánh giá kết quả thực nghiệm ................................................................. 87
3.6. Tiểu kết chương 3 ....................................................................................... 93
KẾT LUẬN CHUNG....................................................................................... 94
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................... 96
PHỤ LỤC

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN





DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
ĐH - CĐ

:

Đại học - Cao đẳng

DH

:

Dạy học

GV

:

Giáo viên



:

Hoạt động

HS


:

Học sinh

KHXH

:

Khoa học xã hội

PTNL

:

Phát triển năng lực

SBT

:

Sách bài tập

SGK

:

Sách giáo khoa

SGV


:

Sách giáo viên

THCS

:

Trung học cơ sở

THPT

:

Trung học phổ thông

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN




DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 3.1: Thăm dò năng lực lập dàn ý và viết đoạn văn nghị luận của hai
lớp thực nghiệm và đối chứng ......................................................... 85
Bảng 3.2: Kết quả rèn luyện năng lực lập dàn ý và viết đoạn văn nghị
luận của hai lớp thực nghiệm và đối chứng .................................... 86

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN





MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Ngày nay, ở Việt Nam cũng như trên thế giới, giáo dục được coi là
quốc sách hàng đầu, là động lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội. Xã hội ta là
Xã hội chủ nghĩa, mục tiêu chung của nền giáo dục nước ta là: “Nâng cao dân
trí, đào tạo nguồn nhân lực và bồi dưỡng nhân tài” để phục vụ đất nước trong
thời đại mới. Song mục tiêu cơ bản nhất của giáo dục lại thể hiện ở chỗ: giáo dục
phải đào tạo ra những con người phát triển toàn diện, không những có kiến thức
mà còn phải giàu năng lực trí tuệ. Trong hoàn cảnh đó, việc dạy học theo định
hướng phát triển năng lực cho học sinh ở nhà trường phổ thông đối với những
người làm công tác giáo dục có vị trí hết sức quan trọng. Vì vậy, việc đưa vấn đề
này vào nhà trường phổ thông như thế nào và bằng cách nào để có thể bồi
dưỡng, phát triển năng lực cho học sinh thì thật không hề đơn giản. Nền giáo dục
Việt Nam hiện nay nói chung tuy đã có nhiều đổi mới về phương pháp giảng dạy
cũng như nội dung chương trình nhưng vẫn còn tồn tại nhiều phương pháp dạy
học cũ, thiếu tính tích cực từ phía người học ... Vì thế mà HS chưa phát huy
được tối đa năng lực vốn có của bản thân và chưa đáp ứng được yêu cầu đối với
sự nghiệp Giáo dục - Đào tạo trong công cuộc đổi mới đất nước.
Trong định hướng phát triển chương trình giáo dục, môn Ngữ Văn được
coi là môn học công cụ, theo đó năng lực giao tiếp tiếng Việt và năng lực
thưởng thức văn học, cảm thụ thẩm mĩ, năng lực tạo lập văn bản là các năng
lực mang tính đặc thù của môn học. Ngoài ra môn Ngữ Văn còn góp phần hình
thành, rèn luyyện và bồi dưỡng cho học sinh các năng lực giao tiếp, năng lực tư
duy sáng tạo, năng lực giải quyết vấn đề, năng lực hợp tác, năng lực tự quản
bản thân... Việc dạy học phát triển năng lực tạo lập văn bản nghị luận cho học
sinh lớp 10 với những đổi mới trong phương pháp dạy học là nhiệm vụ cần
được chúng ta chú ý, quan tâm và hướng tới. Nó vừa mang tính thời sự, vừa
mang tính thực tiễn cao.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN




1.2. Văn nghị luận giữ một vị trí quan trọng trong chương trình Ngữ
Văn THPT. Nó là một trong những nội dung chính của phần Làm văn trong
bộ môn Ngữ Văn và sẽ theo sát các em học sinh trong các kì thi học kì, thi
học sinh năng khiếu, thi tốt nghiệp và thi tuyển sinh Đại học - Cao đẳng….
Văn nghị luận góp phần tổng hợp cho học sinh kiến thức của cả hai phần
Tiếng Việt và Văn bản văn học. Như vậy cũng có nghĩa là, văn nghị luận có
tác dụng rất lớn trong việc phát triển năng lực cho HS: Năng lực đánh giá, lập
luận, phản bác, tạo lập văn bản… đây đều là những năng lực rất cần thiết
trong cuộc sống của mỗi con người. Văn nghị luận còn có tác dụng nâng cao
năng lực sử dụng ngôn ngữ như: lập luận, diễn đạt, phân tích, chứng minh,
tổng hợp… góp phần rèn luyện và nâng cao năng lực giao tiếp cho HS trong
cuộc sống hàng ngày. Không chỉ thế, văn nghị luận còn góp phần trang bị cho
HS lập trường tư tưởng, thế giới quan, nhân sinh quan đúng đắn, giúp học
sinh biết nhìn nhận, đánh giá cuộc sống, biết phân biệt tốt - xấu, đúng - sai,
hay - dở, có ý thức bài trừ cái xấu, cái ác ra khỏi cuộc sống của mình để có
những suy nghĩ và hành động đúng, hoàn thiện bản thân.
Trong khi đó, nội dung dạy học và phương pháp dạy học hiện nay ở nhà
trường phổ thông chưa khai thác triệt để những tác dụng của văn nghị luận đối
với người học mà mới chỉ dạy học sinh về lí thuyết các kiểu bài, chưa đi sâu
vào rèn luyện phát triển một năng lực thực tế và rèn luyện kĩ năng sống cho
HS. Bài học trên lớp còn thiếu tính sáng tạo, chưa khơi gợi được sự hứng thú, ý
muốn biểu đạt, chưa kích thích được nhu cầu giao tiếp, chia sẻ, bộc lộ quan
điểm bản thân và đề xuất kiến giải vấn đề bản thân và xã hội.
1.3. Trong chương trình SGK Ngữ văn 10, tập hai, phần văn nghị luận
có bốn bài được sắp xếp theo một hệ thống: Lập dàn ý bài văn nghị luận;

Lập luận trong văn nghị luận; Các thao tác nghị luận; Luyện tập viết đoạn
văn nghị luận. Cấu trúc này nhằm mục đích giúp học sinh đi từ việc hình
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN




thành các khái niệm lý thuyết đến việc vận dụng lý thuyết vào thực hành làm
văn nghị luận và đi sâu vào hình thành, phát triển năng lực tạo lập văn bản
nghị luận cho học sinh.
Trong thực tế dạy và học ở nhà trường phổ thông, người giáo viên còn
chưa chú ý nhiều tới việc dạy các bài về văn nghị luận theo một hệ thống, chưa
có sự móc nối, liên kết giữa các bài, các hoạt động dạy học theo cấu trúc như
trên để tập trung phát triển năng lực tạo lập văn bản nghị luận cho học sinh mà
vẫn thường dạy riêng lẻ từng bài học rời rạc dẫn đến các kĩ năng làm văn của
học sinh như: kỹ năng lập dàn ý, kỹ năng lập luận, kỹ năng lựa chọn và sử dụng
thao tác nghị luận, kỹ năng viết đoạn văn nghị luận … của HS còn yếu, chất
lượng bài viết của các em chưa cao.
1.4. Theo các nhà Tâm lí học thì học sinh THPT là lứa tuổi mà trình độ
phát triển trí tuệ, thể chất, tình cảm, nhân cách… đang phát triển ở mức độ cao.
Ở lứa tuổi này năng lực tư duy, năng lực tưởng tượng và các khả năng khác đều
gần đạt tới mức độ hoàn thiện. Việc dạy học văn nghị luận trong SGK Ngữ văn
10, tập hai theo định hướng phát triển năng lực sẽ giúp cho HS phát triển được
những ưu điểm của mình: phát triển tư duy độc lập, tư duy logic, khả năng sáng
tạo, khả năng khái quát hóa, năng lực tự học, năng lực hợp tác, làm việc theo
nhóm … Nhưng trong thực tế, có rất ít giáo viên quan tâm đến việc rèn luyện,
phát triển năng lực cho HS mà chỉ đơn thuần là dạy kiến thức lí thuyết một
cách áp đặt. Điều đó khiến các em HS trở nên thụ động tiếp thu những tri thức
của bài học và nhanh mệt mỏi, không có hứng thú với môn học.
Xuất phát từ những lí do trên, tôi đã chọn đề tài “Phát triển năng lực tạo

lập văn bản nghị luận cho học sinh lớp 10” với mong muốn có thể tìm ra
những phương pháp, giải pháp mới nhằm khắc phục những hạn chế của Dạy
học văn nghị luận theo phương pháp truyền thống và nhằm rèn luyện, phát triển
các năng lực cần thiết cho học sinh THPT đặc biệt là năng lực tạo lập văn bản
nghị luận, giúp các em hoàn thiện bản thân mình.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN




2. Lịch sử vấn đề
2.1. Tình hình nghiên cứu văn nghị luận và dạy học văn nghị luận trong
chương trình Ngữ văn 10
Như đã nói ở trên, văn nghị luận giữ một vị trí quan trọng trong chương
trình Ngữ Văn THPT. Nó là một trong những nội dung chính, trọng tâm của
phần Làm văn trong bộ môn Ngữ Văn và sẽ theo sát các em học sinh trong các kì
thi học kì, thi học sinh năng khiếu, thi tốt nghiệp và thi tuyển sinh ĐH - CĐ ….
Chính vì thế mà ngay từ khi đưa nội dung này vào chương trình giảng dạy nó
đã tở thành đối tượng nghiên cứu của rất nhiều tác giả, nhiều nhà khoa học.
Có thể kể đến giáo trình Tập làm văn và ngữ pháp (1981) của Nguyễn
Gia Phong và Hữu Tuyển. Tài liệu đã nghiên cứu nghị luận về: đặc điểm, tầm
quan trọng của nghị luận, phân biệt nghị luận chính trị xã hội và nghị luận văn
học, các phương pháp nghị luận cơ bản, các kĩ năng phân tích đề, kết cấu.
“Nghị luận là một trong ba loại văn cơ bản (miêu tả, kể chuyện hoặc tường
thuật, nghị luận) dùng lí lẽ, dẫn chứng bằng phương pháp bàn luận làm cho
người đọc, người nghe hiểu, tin và có thái độ hành động đúng”. Kĩ năng phân
tích đề được tác giả trình bày rất kĩ, nhưng kĩ năng lập ý, lập dàn bài không
được nhắc đến trong tài liệu này.
Trong cuốn “Kĩ năng làm văn nghị luận phổ thông”, tác giả Nguyễn
Quốc Siêu đã nghiên cứu khái quát về văn nghị luận (khái niệm, phân loại, tác

dụng, đặc trưng…..), cách tinh luyện và xác định luận điểm, cách lựa chọn và
vận dụng luận cứ, đưa ra các loại luận chứng, cách sắp xếp cấu trúc logic…. Tuy
nhiên tài liệu này mới chỉ nghiên cứu lí thuyết mà chưa đi sâu vào nghiên cứu
việc dạy cho HS cách lập dàn ý, cách xây dựng lập luận, cách sử dụng các thao
tác nghị luận cụ thể với từng dạng bài nghị luận cho phù hợp và đạt hiệu quả cao.
Trong cuốn “Làm văn từ lí thuyết đến thực hành”, tác giả Đỗ Ngọc
Thống đã nghiên cứu một số vấn đề lí thuyết chung về làm văn trong nhà
trường phổ thông và đưa ra một số bài viết liên quan đến chương trình Văn và
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN




tiếng Việt trong nhà trường phổ thông nhưng chưa đi sâu vào việc phân tích,
hướng dẫn học sinh về cách lập dàn ý, cách xây dựng lập luận, sử dụng các
thao tác nghị luận trong một bài văn nghị luận cụ thể.
Tạ Phong Châu, Đỗ Quang Lưu, Nguyễn Quốc Túy trong “Tài liệu tham
khảo hướng dẫn giảng dạy tập làm văn bậc phổ thông trung học”, (1982) đã đề
cập đến các phương diện của kỹ năng làm dàn ý ở chương 3: lợi ích của việc
làm dàn ý, phân loại dàn ý, cách làm dàn ý, rèn luyện kĩ năng làm dàn ý … Tuy
nhiên, các tác giả chỉ nêu những kĩ năng làm dàn ý cho bài văn nghị luận văn
học không đề cập đến kỹ năng lập dàn ý cho bài văn nghị luận xã hội.
Các tác giả Đình Cao - Lê A trong cuốn “Làm văn” đã nghiên cứu một
cách khái quát về văn bản và phong cách của văn bản nghị luận, nghiên cứu về
rèn luyện phương pháp và kĩ năng làm văn nghị luận và nghị luận văn học. Ở tài
liệu này, các tác giả nghiên cứu sâu hơn về các kĩ năng cần rèn luyện khi dạy học
làm văn cho HS như: kĩ năng phân tích đề, định hướng làm bài; kĩ năng huy
động kiến thức, tập hợp tài liệu; kĩ năng viết đoạn văn; kĩ năng viết câu … đặc
biệt các tác giả đã đề cập đến kĩ năng xây dựng luận điểm và lập dàn ý - kết cấu
trong bài văn nghị luận. Có thể nói với cách trình bày khoa học, hệ thống, rõ

ràng của các tác giả, cuốn “Làm văn” thực sự là một tài liệu quý giá, bổ ích cho
giáo viên và học sinh phổ thông tham khảo, nghiên cứu và học tập.
2.2. Tình hình nghiên cứu dạy học phát triển năng lực tạo lập văn bản nghị
luận cho học sinh lớp 10
Trong giáo trình “Tâm lí học đại cương” Nguyễn Quang Uẩn, Trần Trọng
Thủy (2003), các tác giả đã đề cập tới vấn đề nghiên cứu năng lực của học sinh
các cấp học trong đó có cấp THPT. Các tác giả chỉ ra cơ sở hình thành năng lực,
sự phát triển năng lực theo độ tuổi, phân loại năng lực và những điều kiện để
phát triển năng lực cho HS. Tuy nhiên giáo trình này mới chỉ nghiên cứu chung
chung, chưa đi sâu vào việc nghiên cứu phát triển năng lực cho học sinh trong
quá trình dạy học từng bộ môn, từng phân môn ở nhà trường phổ thông.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN




Trong giáo trình “Phương pháp dạy học văn” (Tập 1), của Phan Trọng
Luận, Trương Dĩnh, các tác giả đã đưa ra hệ thống cấu trúc năng lực cần hình
thành cho học sinh. Theo giáo trình này năng lực HS được chia thành hai nhóm
là: năng lực tiếp nhận văn học (năng lực tri giác ngôn ngữ nghệ thuật của tác
phẩm văn học, năng lực tái hiện hình tượng, năng lực liên tưởng trong tiếp
nhận văn bản…) và năng lực sáng tạo văn học (năng lực phát triển về cảm xúc
nhân văn thẩm mĩ, năng lực tưởng tượng sáng tạo, năng lực khái quát hóa bằng
hình tượng…). Tuy nhiên những năng lực này chủ yếu được hình thành thông
qua các bài dạy về các tác phẩm văn học, các tác giả chưa đề cập đến việc dạy
học phát triển năng lực tạo lập văn bản trong phân môn Tập làm văn, cụ thể là
dạy học phát triển năng lực tạo lập văn bản nghị luận.
Trong cuốn “Phương pháp dạy học Ngữ Văn trung học phổ thông những
vấn đề cập nhật” của Nguyễn Thanh Hùng, Lê Thị Diệu Hoa, NXB ĐHSP, các
tác giả có đề cập tới vấn đề phát triển năng lực cho học sinh bằng cách đưa ra

hệ thống câu hỏi trắc nghiệm nhằm phát triển năng lực cho học HS. Các tác giả
đưa ra nhiều biện pháp và đề xuất ra một số dạng bài tập trắc nghiệm ở cả ba
phân môn: Văn học, Tiếng Việt và Tập làm văn. Tuy nhiên ở tài liệu này các
tác giả vẫn chưa đi sâu nghiên cứu việc định hướng phát triển năng lực học sinh
trong những bài học cụ thể. Hơn nữa ở phần Tập làm văn, đề bài thường được
ra dưới hình thức tự luận để HS thể hiện khả năng viết bài của mình, nên đề
xuất phát triển năng lực học sinh trong phân môn Làm văn bằng hệ thống câu
hỏi trắc nghiệm có phần chưa hợp lí.
Trong cuốn “Tài liệu thí điểm phát triển chương trình giáo dục nhà
trường phổ thông” (2013), của Bộ GD-ĐT đã đánh giá khái quát về chương
trình, SGK giáo dục phổ thông hiện hành, từ đó đã đưa ra những dự kiến phát
triển chương trình giáo dục ở nhà trường theo hướng phát triển năng lực HS ở
ba bộ môn cụ thể là: Ngữ Văn, Toán học và Sinh học. Song tài liệu này cũng
mới chỉ đưa ra những quan điểm đổi mới chung chung, chưa đi sâu vào nghiên
cứu việc dạy học phát triển năng lực ở từng dạng bài, từng bài học cụ thể, đặc
biệt là ở nhóm các bài về văn nghị luận.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN




Như vậy, đã có rất nhiều tác giả quan tâm, nghiên cứu về dạy học văn
nghị luận trong nhà trường phổ thông. Tuy nhiên tất cả các công trình nghiên
cứu trên của các tác giả vẫn chưa đi sâu vào việc nghiên cứu Dạy học phát triển
năng lực học sinh ở từng dạng bài, từng bài học cụ thể. Với đề tài “Phát triển
năng lực tạo lập văn bản nghị luận cho học sinh lớp 10” chúng tôi sẽ cố gắng
đưa ra những biện pháp dạy học mới để góp phần nâng cao chất lượng dạy học,
phát huy tối đa năng lực của học sinh và để góp phần vào việc nghiên cứu
phương pháp dạy học một nhóm bài học cụ thể trong chương trình Ngữ Văn
THPT theo định hướng phát triển năng lực tạo lập văn bản cho học sinh.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu về “Phát triển năng lực tạo lập văn bản nghị luận cho
học sinh lớp 10” nhằm góp phần thể ngiệm định hướng dạy học theo hướng
mới, nhằm phát huy năng lực tạo lập văn bản nghị luận của HS, nâng cao chất
lượng dạy học và đáp ứng nhu cầu đổi mới nền giáo dục của đất nước.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu cơ sở lí luận và cơ sở thực tiễn của nhóm bài văn nghị luận
trong chương trình Ngữ văn 10.
- Thiết kế các hoạt động dạy học văn nghị luận trong chương trình Ngữ
Văn 10.
- Đề xuất kế hoạch dạy học thể nghiệm.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu Phát triển năng lực tạo lập văn bản nghị luận
cho học sinh lớp 10.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là toàn bộ cách dạy học văn nghị luận
trong chương trình Ngữ Văn 10.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN




5. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện đề tài chúng tôi đã sử dụng các phương pháp:
phương pháp nghiên cứu lí thuyết, phương pháp lấy ý kiến chuyên gia, phương
pháp quan sát sư phạm, phương pháp điều tra - khảo sát, phương pháp thống kê
- so sánh, phương pháp thực nghiệm.
5.1. Phương pháp nghiên cứu lí thuyết

Chúng tôi sử dụng phương pháp này vào việc nghiên cứu toàn bộ các tài
liệu liên quan đến đề tài. Nghiên cứu những thành tựu lí thuyết đã có làm cơ sở
lí luận cho đề tài.
5.2. Phương pháp lấy ý kiến chuyên gia
Tham khảo ý kiến của giảng viên hướng dẫn, sự góp ý của các giáo viên
THPT để chỉnh sửa, bổ sung và hoàn thiện đề tài.
5.3. Phương pháp quan sát sư phạm
Phương pháp này được vận dụng để quan sát trực tiếp các phương pháp
dạy học được sử dụng trong nhà trường THPT hiện hành.
5.4. Phương pháp điều tra - khảo sát
Phương pháp này được sử dụng để điều tra thực trạng dạy học văn nghị
luận (thăm dò ý kiến của GV và HS; Khảo sát SGK, SGV, bài viết của HS…)
5.5. Phương pháp thống kê - so sánh
Phương pháp này được sử dụng để so sánh cách dạy học các bài về văn
nghị luận truyền thống với cách dạy học các bài về văn nghị luận trong
chương trình Ngữ Văn 10 theo hướng phát triển năng lực tạo lập văn bản nghị
luận cho HS.
5.6. Phương pháp thực nghiệm
Thử nghiệm để kiểm chứng làm sáng tỏ cơ sở lí luận và tính khả thi của
phương án đề xuất.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN




6. Giả thuyết khoa học
Nếu việc nghiên cứu đề tài “Phát triển năng lực tạo lập văn bản nghị luận
cho học sinh lớp 10” của chúng tôi thành công, đề xuất ra được một định hướng
dạy học cụ thể về mục tiêu, nội dung, phương pháp, kiểm tra đánh giá và tổ
chức các hoạt động dạy học hiệu quả đáp ứng được yêu cầu phát triển năng lực

tạo lập văn bản nghị luận cho HS THPT thì năng lực lập dàn ý, xây dựng lập
luận, sử dụng các thao tác nghị luận, cách viết các đoạn văn, bài văn nghị luận
của HS sẽ được nâng cao, góp phần thiết thực trong việc nâng cao chất lượng
dạy học văn ở nhà trường THPT.
7. Đóng góp của luận văn
- Xác định và lựa chọn một số nội dung lí luận và thực tiễn có ý nghĩa
làm cơ sở khoa học cho việc đề xuất cách dạy học văn nghị luận chương trình
Ngữ văn 10.
- Đề xuất những yêu cầu và thiết kế các hoạt động dạy học văn nghị luận
trong chương trình Ngữ văn 10.
Từ những kết quả nghiên cứu trên, đề xuất của luận văn sẽ góp phần thể
nghiệm định hướng dạy học mới và góp phần nâng cao chất lượng dạy học,
phát huy năng lực của HS, đáp ứng nhu cầu của xã hội.
8. Cấu trúc luận văn
Luận văn của chúng tôi gồm ba phần: phần Mở đầu, phần Nội dung,
phần Kết luận
Phần Nội dung gồm ba chương:
Chương 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn
Chương 2: Thiết kế các hoạt động dạy học phát triển năng lực tạo lập văn
bản nghị luận cho học sinh lớp 10
Chương 3: Thực nghiệm sư phạm
Cuối cùng là danh mục Tài liệu tham khảo và Phụ lục

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN




NỘI-DUNG
Chương 1

CƠ SỞ LÍ -LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. Cơ sở lí-luận
1.1.1. Văn nghị luận
* Khái niệm
Theo từ điển thuật ngữ văn học thì: “Bàn và đánh giá cho rõ về một vấn
đề nào đó là nghị luận luận lí”.
Cuốn “Kĩ năng làm văn nghị luận” của Nguyễn Quốc Siêu có đưa ra định
nghĩa về văn nghị luận như sau: “Văn nghị luận là loại văn chương nghị luận
thuyết lí, bởi vậy còn gọi là văn thuyết lí, văn luận lí, văn luận thuyết, văn biện
luận v.v… Nó lấy nghị luận làm cách thức biểu đạt chủ yếu, thông qua các
phương thức lôgic như khái niệm, phán đoán, suy luận để trực tiếp bày tỏ nhận
thức của con người đối với toàn bộ thế giới”. [18]
Một cách khác ta có thể trình bày hàm nghĩa của văn nghị luận như sau:
“Văn nghị luận là loại văn chương nghị sự, luận chứng, phân tích lí lẽ. Nó là
tên gọi chung một thể loại văn vận dụng các hình thức tư duy lôgic như khái
niệm, phán đoán, suy lí và thông qua việc nêu sự thực, trình bày lí lẽ, phân biệt
đúng sai để tiến hành phân tích luận chứng khoa học đối với khách quan và quy
luật bản chất của sự vật, từ đó nhằm biểu đạt tư tưởng, chủ trương, ý kiến, quan
điểm của tác giả”. [18, tr.6]
Văn nghị luận trong cuộc sống thường ngày ta thường tiếp xúc và vận
dụng, nhà mĩ học Chu Quang Tiềm có nói: “Nêu sự thật, trình bày lí lẽ đã trở
thành hoạt động xã hội ngày càng phổ biến, ngày càng quan trọng trong đời sống
chúng ta. Họp thảo luận phải thuyết lí, làm báo cáo phải thuyết lí, viết xã luận phải
thuyết lí, soạn sách giáo khoa cũng phải thuyết lí… Tóm lại phàm là ở những chỗ
phải động não, phàm là ở những nơi phải biện hộ cho mình, thuyết phục người
khác, không thể không thuyết lí”. Muốn hoàn thành nhiệm vụ thuyết lí đó, ngoài
cách phát biểu bằng miệng, chủ yếu phải viết thành văn bản nghị luận.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN





PGS.TS Đỗ Ngọc Thống trong cuốn “Làm văn” cho rằng: “ Văn nghị
luận là một thể văn phản ánh rõ nhất đời sống tinh thần, tư tưởng, ý chí và khát
vọng của cả một dân tộc. Nói một cách khái quát văn nghị luận là một thể loại
nhằm phát biểu tư tưởng, tình cảm, thái độ, quan điểm của người viết một cách
trực tiếp về văn học hoặc chính trị, đạo đức, lối sống… nhưng lại được trình
bày bằng một thứ ngôn ngữ trong sáng, hùng hồn, với những lập luận chặt chẽ,
mạch lạc, giàu sức thuyết phục…” [21, tr.12]
Trong SGK Ngữ Văn lớp 7, tập hai có viết về văn nghị luận như sau:
“Văn nghị luận là văn được viết ra nhằm xác lập cho người đọc, người
nghe một quan điểm, tư tưởng nào đó”.[24, tr. 38]
Như vậy, đã có rất nhiều cách định nghĩa khác nhau về văn nghị luận,
song các định nghĩa trên đều có chung một điểm thống nhất là cho rằng: Văn
nghị luận là thể văn người viết dùng những lí lẽ, dẫn chứng chính xác, lập luận
chặt chẽ, lôgic để kêu gọi sự đồng tình, ủng hộ, thuyết phục người đọc, người
nghe tin vào vấn đề mình trình bày đồng thời thể hiện quan điểm, tư tưởng, lập
trường, thái độ của người viết đối với vấn đề được trình bày.
* Vị trí, vai trò của văn nghị luận
PGS.TS Đỗ Ngọc Thống trong cuốn “Làm văn từ lí thuyết đến thực
hành” cho rằng: “Cùng với việc hình thành và phát triển óc quan sát, trí tưởng
tượng (tư duy hình tượng) của nhóm bài văn sáng tác, văn nghị luận đóng vai
trò quan trọng trong việc hình thành và phát triển tư duy lôgic cho học sinh. Để
làm sáng tỏ và thuyết phục được người đọc về một vấn đề nào đó của cuộc
sống và văn học, lôi kéo họ đồng tình với mình, người viết bài nghị luận phải
thực hiện hàng loạt các thao tác tư duy như: phân tích, tổng hợp, diễn dịch, quy
nạp, trìu tượng hóa, so sánh, đối chiếu … cũng như hàng loạt các thao tác nghị
luận như: giải thích, chứng minh, bình luận … Không những thế hàng loạt kĩ
năng còn được vận dụng để giải quyết vấn đề trong bài văn nghị luận như: phân
tích đề, lập ý, dàn ý, huy động kiến thức, lập luận, trình bày, viết đoạn văn, viết

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN




câu, dùng từ … Bài văn nghị luận lại là kết quả tổng hợp của nhiều kiến thức
liên ngành như: văn học, ngôn ngữ học, triết học, âm nhạc, hội họa, kiến trúc,
sân khấu, điện ảnh …[21]
Ngoài ra, vốn sống, vốn kinh nghiệm xã hội, sự từng trải, và tư tưởng,
lập trường chính trị cũng góp phần quan trọng vào kết quả bài viết nghị luận.
Không phải ngẫu nhiên mà Phan Kế Bích (1875-1921), trong cuốn “Việt Hán
văn khảo” (1918) luận về phép làm văn cho rằng: “Nghị luận phải cần có kiến
thức cao xa, có tưởng rộng rãi thì văn mới hay, chứ nói những ý tứ nông nổi
hẹp hòi thì là văn chương tầm thường”.
Võ Thúc Khanh nêu 24 điều cốt yếu của phép làm văn thì điều số 8 có
ghi: “Văn chương nghị luận do ở kiến thức mà ra. Kiến thức cao thì nghị luận
cũng cao, kiến thức thấp thì nghị luận cũng thấp”.
Với đặc trưng là tính lôgic, chặt chẽ nhưng văn nghị luận vẫn rất cần
màu sắc chủ quan (tình cảm). Nhưng bài văn nghị luận hay, không chỉ thuyết
phục người nghe bằng lí, bằng ý mà còn lôi cuốn người đọc bằng tình cảm chân
thực, xúc động. [20, tr. 18]
Cuốn “Làm văn” của các tác giả Đình Cao - Lê A có viết: “Trong nhà
trường, việc rèn luyện viết văn nghị luận là yêu cầu rất trọng yếu trong quá
trình học tập bộ môn văn học. Văn nghị luận giúp học sinh tập vận dụng tổng
hợp các tri thức văn học, tri thức xã hội và đời sống vào việc làm văn, rèn
luyện kĩ năng diễn đạt bằng ngôn ngữ và đặc biệt giúp đắc lực vào việc tư duy
khoa học, tư duy lí luận ở họ. Những đề bài nghị luận đặt ra những vấn đề tư
tưởng và học thuật đòi hỏi học sinh phải huy động những hiểu biết lí luận và
thực tiễn để giải quyết, nhằm xây dựng cho họ một phương pháp tư tưởng khoa
học để có nhận thức đúng và thái độ đúng trước những vấn đề bàn luận, cũng

tức là giúp học sinh có sự chuẩn bị cần thiết để tiến tới những hành động đúng
đắn, tích cực và sáng tạo trong đời sống hiện tại và tương lai. Tóm lại tập làm
văn nghị luận góp phần đắc lực vào việc phát triển trí tuệ và nhân cách của
người học sinh XHCN.”[8, tr. 84-85]
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN




Như vậy ta có thể thấy rằng văn nghị luận có vai trò rất quan trọng trong
dạy học. Một mặt nó kích thích sự hình thành và phát triển các thao tác tư duy:
phân tích, tổng hợp, diễn dịch, quy nạp, trừu tượng hóa, so sánh, đối chiếu…
các thao tác nghị luận: giải thích, chứng minh, bình luận… Mặt khác nó lại yêu
cầu HS phải huy động vốn kiến thức của mình từ nhiều lĩnh vực khác nhau để
hoàn thiện bài viết sao cho bài viết thật hay, thuyết phục và chân thực đồng thời
nó góp phần to lớn trong việc phát triển trí tuệ và nhân cách cho học sinh.
* Phân loại
Văn nghị luận bao-gồm rất nhiều kiểu loại, điều này được quyết định bởi
sự muôn màu muôn vẻ của hình thức vận động vật chất và sự đa dạng của thế
giới. Cũng chính vì vậy, chúng ta có thể phân loại văn nghị luận từ những giác
độ khác nhau:
- Phân loại theo nội dung phản ánh: chính luận, tư tưởng bình luận, văn
nghệ bình luận, học thuật luận văn, quân sự bình luận, kinh tế bình luận, thời sự
bình luận, thể dục bình luận v.v…
- Phân loại theo-hình thức biểu hiện: tạp văn, tiểu luận, đoản bình,
chuyên luận, tâm đắc, cảm nghĩ (sau khi đọc tác phẩm), tổng kết, điều tra, báo
cáo, lời khai mạc, lời bế mạc, bài diễn văn, bài (viết chuẩn bị) nói, báo cáo, lờichúc mừng, lời cảm ơn v.v…
- Phân loại theo giác độ phát biểu: xã luận, bài viết của bình luận viên,
bài viết của quan sát viên, bài viết của ban biên tập, tuyên bố, tuyên ngôn, bài
đứng tên v.v…

- Phân loại theo tính chất luận đề: lập luận (luận chứng chứng minh) và
bác luận (nghị luận phản bác hay luận chứng phản bác).
Ngoài ra, dựa vào đề tài nghị luận, văn nghị luận được chia thành hai
dạng: nghị luận văn học và nghị luận xã hội. Đối tượng của nghị luận xã-hội
là những vấn đề trong đời sống xã hội nên nghị luận xã hội được chia thành
nghị luận về một tư tưởng đạo-lí và nghị luận về một hiện tượng đời-sống.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN




Còn đối tượng của nghị luận văn học chủ yếu là kiến thức văn học, các vấn đề
về văn học, đời sống của con người được phản ánh vào trong văn học, các tác
phẩm văn chương.
* Đặc trưng của văn nghị luận
Đặc trưng chủ yếu của văn nghị luận được biểu hiện ở ba mặt sau:
Thứ nhất, tính triết lí sâu sắc:
Bất kể bài văn nghị luận nào cũng đều trình bày lí lẽ, không có lí thì
không thành văn, thành văn là phải có lí. Nêu ra lí lẽ, giải thích rõ lí lẽ, tuyên
truyền lí lẽ chính là tôn chỉ của nó. Cái lí trong văn nghị luận còn phải trình bày
cho sâu sắc, thiết thực để có thể thực sự vạch ra bản chất của sự vật. Cho nên
tính triết lí là nội hàm quan trọng của văn nghị luận. Dù là một tác phẩm đồ sộ
hay một bài viết ngắn đều phải hàm chứa những lí lẽ sâu sắc. Lí lẽ có thể lớn
lao hay vụn vặt, nhưng đều có tính triết lí. Đặc trưng này biểu hiện trong văn
chương là: cái lí quán xuyến toàn bộ và cái lí hệ thống toàn bộ.
Thứ hai, tính biện luận mạnh mẽ:
Cái lí phải đúng đắn, khoa học, thế nhưng nó không thể hiện tự rõ ràng,
tự hiển hiện. Muốn hiểu được cái lí, làm rõ cái lí, phát huy cái lí thì cần phải
biện luận, phải trình bày, phải chứng minh. Bởi vậy, tính biện luận đã trở thành
một đặc tính quan trọng của văn nghị luận. Luận là lập luận (nghị luận lập luận,

luận chứng chứng minh), biện là bác luận (nghị luận phản bác, luận chứng phản
bác). Quy tụ lại, biện luận nghĩa là sự phân tích, tổng hợp, giảng giải, đi sâu
vào những lí lẽ chưa được nhận thức rõ đối với tài liệu cần nắm vững, và phát
huy mạnh mẽ cái lí đó. Biện luận là một quá trình nhận thức, là một hình thái
vận động tư duy. Người ta có thông qua tư duy chặt chẽ thì độ sâu, độ rộng và
sức mạnh của lí lẽ mới được thể hiện.
Thứ ba, tính thuyết phục lớn lao:
Làm rõ cái lí, mục đích là để làm cho người đọc tự nhiên được gợi mở,
được giáo dục và thông suốt. Bởi vậy, tính thuyết phục đã trở thành đặc trưng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN




thứ ba của văn bản nghị luận. Đặc trưng này chỉ rõ: Bất cứ bài văn nghị luận
nào cũng giành thắng lợi bằng cái lí, chinh phục con người bằng cái lí, tình và
lí song song thu hút và gợi mở, khiến người ta tiếp nhận và thuyết phục của cái
lí, có được ánh sáng chân lí. Chính vì vậy, ta nói: Văn nghị luận lấy cái đích là
thuyết phục người đọc, người nghe.
* Phương thức biểu đạt
Mỗi thể loại văn học có nội dung, chức năng, đặc điểm và mục đích khác
nhau nên chúng cũng phải có những phương thức biểu đạt khác nhau để phù
hợp với thể loại của mình. Khác với văn miêu tả, văn tự sự và văn thuyết minh,
loại bài văn nghị luận nhằm tác động mạnh mẽ vào nhận thức, tư tưởng, tình
cảm, thái độ… của người đọc, người nghe nên về phương thức biểu đạt của văn
nghị luận sẽ có một số đặc điểm sau:
Cách thức lập luận phải chặt chẽ, rõ ràng, trình bày lí lẽ và dẫn chứng
một cách sáng sủa, giàu sức thuyết phục khi diễn tả những suy nghĩ và nêu ý
kiến riêng của mình về một vấn đề nào đó trong đời sống hoặc trong văn học.
Vẻ đẹp của văn nghị luận thể hiện ở chất trí tuệ, mà chất trí tuệ của

văn nghị luânh lại được thể hiện ở hệ thống luận điểm. Khi đưa ra luận điểm,
luận điểm đó phải chính xác, có căn cứ, có cơ sở lí thuyết hoặc thực tiễn bởi
luận điểm chính là linh hồn của bài văn. Nó thể hiện rõ tư tưởng, quan điểm,
lập trường, thái độ của người viết đối với vấn đề cần trình bày, thuyết phục
và làm sáng tỏ.
Về ngôn ngữ của văn bản nghị luận: văn nghị luận ít dùng kiểu câu miêu
tả, trần thuật, nghi vấn mà chủ yếu dùng kiểu câu khẳng định và phủ định đối
với nội dung hầu hết là phán đoán hoặc những nhận xét, đánh giá sâu sắc.
* Bố cục
Một bài văn nghị luận thường có bố cục ba phần: Mở bài, thân bài, kết
bài. Để thực hiện viết bài văn nghị luận phải trải qua các bước: Tìm hiểu đề phân tích đề, lập dàn ý (3 phần), viết đoạn văn, sửa chữa.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN




* Các thao tác lập luận
Để thực hiện tạo lập một văn bản nghị luận người viết có thể sử dụng
một thao tác lập luận hoặc vận dụng kết hợp các thao tác lập luận với nhau. Có
sáu thao tác lập luận chính được sử dụng trong văn nghị luận là: thao tác lập
luận chứng minh, thao tác lập luận giải thích, thao tác lập luận phân tích, thao
tác lập luận so sánh, thao tác lập luận bình luận, và thao tác lập luận bác bỏ.
* Dạy học văn nghị luận ở trường phổ thông qua các thời kì lịch sử
Văn nghị luận Việt Nam đã hình thành từ xa xưa cùng với sự phát triển
của tư tưởng và văn hóa giáo dục của dân tộc Việt Nam. Nó là phương tiện đắc
lực góp phần quan trọng vào sự phát triển của quá trình ấy.
Cùng với việc sáng tác thơ, phú, văn tế để bộc lộ tâm tư, tình cảm, chí
khí của cá nhân hoặc ca ngợi cảnh đẹp đất nước, niềm tự hào dân tộc, cha ông
ta đã sử dụng một thể văn có tính chất nghị luận để bàn về cương thường đạo lí,
nhân tình thế thái, mưu sự giúp dân dựng nước hay diệt trừ nạn ngoại xâm, giữ

gìn bờ cõi yên vui cho Tổ quốc. Văn sách, kinh nghĩa là những thể văn phổ
biến có tính chất bắt buộc đối với các sĩ tử và hơn thế, nó còn quyết định con
đường khoa bảng và hoạn lộ của họ trong các kì thi cử.
Trước những sự kiện trọng đại của đất nước thì các thể chiếu, biểu, hịch,
cáo là những bản văn và có ý nghĩa tác động rất lớn. Trong gia tài văn hóa nước
nhà, bên cạnh những sáng tác có giá trị trường tồn như bài thơ thần “Nam quốc
sơn hà” tương truyền của Lý Thường Kiệt, bài “Thuật hoài” của Phạm Ngũ
Lão, bài “Phú sông Bạch Đằng” của Trương Hán Siêu hay kiệt tác “Truyện
Kiều” của đại thi hào Nguyễn Du,chúng ta phải kể đến những áng văn nghị
luận bất hủ như “Hịch tướng sĩ” của Trần Quốc Tuấn, “Bình Ngô đại cáo” của
Nguyễn Trãi, những văn bản ra đời cách đây hàng sáu, bẩy thế kỉ mà ngày nay
đọc lại vẫn thấy âm hưởng của chúng vang dội sang sảng, hùng tráng, lời lẽ
dõng dạc, mạnh mẽ như những lời nhắn nhủ của cha ông, như những bằng
chứng lịch sử khẳng định khí phách oai hùng và niềm tin tất thắng của dân tộc.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN




×