Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

Sự tham gia của Việt Nam vào AFTA và AEC, lợi ích và các tác động của AFTA và AEC tới nền kinh tế Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (132.39 KB, 18 trang )

1

Sự tham gia của Việt Nam vào AFTA và
AEC, lợi ích và các tác động của AFTA và
AEC tới nền kinh tế Việt Nam
A. KHÁI NIỆM, NGUỒN GỐC, BẢN CHẤT CỦA AFTA VÀ AEC. SỰ GIA
NHẬP CỦA VIỆT NAM.
I. Khu vực mậu dịch tự do ASEAN( AFTA)
1. Tổng quan về AFTA.
AFTA là tên viết tắt tiếng Anh của Khu vực thương mại tự do ASEAN (ASEAN Free
Trade Area).
Quyết định thành lập Khu vực thương mại tự do này được đưa ra tại Hội nghị Thượng
đỉnh ASEAN lần thứ 4, tổ chức vào tháng 1/1992 tại Singapore. Theo kế hoạch ban
đầu, AFTA được hoàn thành vào năm 2008 với mục đích cơ bản là "tăng cường khả
năng cạnh tranh của ASEAN như một cơ sở quốc tế nhằm cung cấp hàng hóa ra thị
trường thế giới". Tuy nhiên, trước sự phát triển và cạnh tranh mạnh mẽ của các liên kết
kinh tế toàn cầu khác, cũng như do sự tiến bộ của chính các quốc gia ASEAN, năm
1994, khối này quyết định đẩy nhanh thời hạn lên năm 2003.
Sau đó, từ năm 1995 đến 1998, ASEAN kết nạp thêm 4 nước thành viên mới là Việt
Nam, Lào, Campuchia và Myanmar
Cơ chế chính để thực hiện AFTA là Hiệp định thuế quan ưu đãi có hiệu lực chung
(Common Effective Preferential Tariff - CEPT). Về thực chất, CEPT là một thỏa thuận
giữa các nước thành viên ASEAN về việc giảm thuế quan trong nội bộ khối xuống còn
0 - 5% thông qua những kế hoạch giảm thuế khác nhau. Trong vòng 5 năm sau khi đạt


2

mức thuế ưu đãi cuối cùng, các nước thành viên sẽ tiến hành xóa bỏ các hạn ngạch
nhập khẩu và những hàng rào phi quan thuế khác.
Thời hạn thực hiện CEPT của các nước có khác nhau.


Cụ thể là:
Với Brunei, Indonesia, Philippines, Singapore, Thái Lan: từ 1993 đến 2003.Với Việt
Nam: từ 1996 đến 2006
Với Lào, Myanmar và Campuchia: từ 1998 đến 2008.
Để thực hiện dần dần việc cắt giảm thuế quan, mỗi nước sẽ phải phân loại tất cả hàng
hóa của mình vào một trong các danh mục sau:
Danh mục giảm thuế (IL)
Danh mục loại trừ tạm thời (TEL)
Danh mục loại trừ hoàn toàn (GEL)
Danh mục nhạy cảm (SL)
Danh mục nhạy cảm cao
Danh mục giảm thuế (IL) bao gồm những mặt hàng sẽ được cắt giảm thuế quan để đến
khi hoàn thành CEPT sẽ có thuế suất 0-5%.
Ngay sau khi ký CEPT, mỗi nước ASEAN phải đưa ra IL của mình để bắt đầu giảm
thuế quan từ năm 1993. Trên thực tế, không phải mặt hàng nào trong IL cũng thực sự
phải giảm thuế quan, vì có những mặt hàng trước khi đưa vào IL đã có thuế suất dưới
5%, thậm chí bằng 0%


3

Danh mục loại trừ tạm thời (TEL) bao gồm những mặt hàng chưa đưa vào giảm thuế
quan ngay, do các nước thành viên ASEAN phải dành thêm thời gian để điều chỉnh sản
xuất trong nước thích nghi với môi trường cạnh tranh quốc tế gia tăng.
Sau ba năm kể từ khi tham gia CEPT, các nước ASEAN phải bắt đầu chuyển dần các
mặt hàng từ TEL sang IL, tức là bắt đầu giảm thuế quan đối với những mặt hàng này.
Quá trình chuyển từ TEL sang IL được phép kéo dài trong 5 năm, mỗi năm phải
chuyển được 20% số mặt hàng. Điều đó có nghĩa là đến hết năm thứ tám thì IL đã mở
rộng bao trùm toàn bộ TEL, và TEL không còn tồn tại.
Khi đưa mỗi mặt hàng vào IL, các nước đồng thời phải chỉ ra lịch trình giảm thuế quan

của mặt hàng đó cho đến khi hoàn thành CEPT.
2. Quá trình tham gia của Việt Nam
Ngày 28/7/1995, Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 7 của ASEAN và cam
kết tham gia AFTA. Thời hạn hoàn thành AFTA của Việt Nam năm 2006. Việt Nam bắt
đầu thực hiện lộ trình giảm thuế quan tham gia AFTA từ ngày 1/1/1996, khi đưa 875
mặt hàng đầu tiên vào thực hiện CEPT. Tất cả những mặt hàng này đều đã nằm ở
khung thuế suất 0-5%.
Đầu năm 1998, Việt Nam công bố lịch trình giảm thuế để thực hiện AFTA vào năm
2006. Trên thực tế thì đến cuối năm 2002, 5.500 mặt hàng (chiếm khoảng 86% tổng số
mặt hàng trong biểu thuế nhập khẩu) đã được vào chương trình cắt giảm. Toàn bộ các
mặt hàng này đã ở thuế suất dưới 20% và có lộ trình cắt giảm trong thời kỳ 2002-2006.
Trong số đó, 65% đã ở mức thuế 0-5%.
Theo số liệu của tờ Dow Jones, vào những ngày đầu năm 2003, mức thuế suất trung
bình của Việt Nam chỉ hơn 2% một chút, và Việt Nam đang là nước có mức thuế suất
trung bình thấp thứ 3 ASEAN, sau Singapore và Brunei.


4

Theo đúng lộ trình thì việc cắt giảm thuế tham gia AFTA đã được áp dụng chính thức
tại Việt Nam từ ngày 1/1/2003. Tuy nhiên, ngày 10/1/2003, Bộ Tài chính đã thông báo
việc cắt giảm đó sẽ được thực hiện lùi lại 7 tháng, vào ngày 1/7.
Đến ngày 1/7, 1.416 mặt hàng thuộc TEL được chuyển sang IL. Đa số đó là những mặt
hàng hiện đang được bảo hộ với mức thuế suất rất cao (30-100%), hoặc đang được
quản lý bằng hạn ngạch như xi măng, giấy, cơ khí, vật liệu xây dựng..

II. Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC):
1. Tổng quan về AEC

Tại Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ 14 tổ chức vào tháng 2 năm 2009 tại Thái Lan,

các Nhà Lãnh đạo đã đưa ra Tuyên bố Cha-am Hua Hin về Lộ trình xây dựng Cộng
đồng ASEAN (2009-2015) với 3 trụ cột chính là: Cộng đồng Kinh tế ASEAN, Cộng
đồng Chính trị - An ninh ASEAN và Cộng đồng Văn hóa – Xã hội ASEAN.
Hội nghị cũng thông qua Kế hoạch tổng thể xây dựng Cộng đồng Kinh tế ASEAN với
các biện pháp và lịch trình cụ thể thực hiện AEC, bao gồm các nội dung:
(i) Xây dựng một thị trường chung và cơ sở sản xuất thống nhất thông qua các biện
pháp dỡ bỏ các rào cản đối với sự lưu chuyển tự do của hàng hóa, dịch vụ, đầu tư, lao
động kỹ năng cũng như tạo thuận lợi cho sự lưu chuyển tự do hơn của dòng vốn, các
biện pháp về các lĩnh vực ưu tiên hội nhập.
(ii) Đưa ASEAN thành một khu vực kinh tế có khả năng cạnh tranh cao trên cơ sở thực
thi chính sách cạnh tranh, bảo vệ người tiêu dùng, quyền sở hữu trí tuệ, phát triển cơ sở
hạ tầng, thương mại điện tử.
(iii) Phát triển kinh tế đồng đều thông qua thực hiện các biện pháp về phát triển doanh
nghiệp nhỏ và vừa, Sáng kiến Hội nhập ASEAN nhằm giúp các nước CLMV
(Campuchia, Lào, My-an-ma và Việt Nam) nâng cao năng lực.


5

(iv) Hội nhập hiệu quả vào nền kinh tế toàn cầu trên cơ sở tham gia vào các Hiệp định
thương mại tự do (FTA), tích cực tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu.
2. Sự chuẩn bị của Việt Nam cho AEC

Trong những năm qua, Việt Nam đã tham gia xây dựng AEC với tinh thần chủ động,
tích cực và có trách nhiệm. Thúc đẩy việc thành lập AEC luôn là một trong những ưu
tiên cao nhất của Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. Cùng với ASEAN,
Việt Nam quyết tâm và dành nỗ lực cao nhất để triển khai các cam kết, chương trình,
sáng kiến hướng tới mục tiêu thành lập Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC) vào cuối
năm 2015, đặc biệt là các biện pháp ưu tiên nhằm thực hiện Kế hoạch tổng thể xây
dựng AEC.

Theo Báo cáo gần đây nhất của Ban Thư ký ASEAN về tỷ lệ thực hiện các biện pháp
trong Lộ trình xây dựng Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC), ASEAN đã thực hiện
được 91,5% các biện pháp ưu tiên có tác động lớn đối với thương mại và đầu tư. Việt
Nam là một trong các nước đứng đầu về tỷ lệ thực hiện (tỷ lệ thực hiện các biện pháp
ưu tiên đạt 94,5%). Để tiếp tục thúc đẩy việc thực hiện các biện pháp xây dựng AEC,
các nước ASEAN nhất trí về một số định hướng, bên cạnh các biện pháp khác, như
sau: đánh giá các biện pháp chưa hoàn thành nhằm xác định lý do chưa hoàn thành là
vấn đề kỹ thuật hay vấn đề chính sách; tiếp tục thúc đẩy việc thực hiện các biện pháp
còn lại trong Lộ trình tổng thể xây dựng AEC.
Thực hiện chỉ đạo của các Nhà Lãnh đạo ASEAN về việc xây dựng Tầm nhìn Cộng
đồng ASEAN sau năm 2015, Việt Nam đã cùng các nước ASEAN khác hoàn tất dự
thảo Lộ trình tổng thể xây dựng AEC sau năm 2015 tới 2025, dự kiến sẽ được các nhà
Lãnh đạo ASEAN thông qua tại Hội nghị cấp cao vào tháng 11 sắp tới tại Ma-lai-xia.
Nội dung chủ yếu của tài liệu này là các biện pháp chiến lược xây dựng một nền kinh
tế ASEAN hội nhập, cạnh tranh, năng động, lấy con người làm trung tâm, phát triển
các ngành có lợi thế và hướng ra toàn cầu. Đây cũng sẽ là khuôn khổ để tất cả các cơ


6

quan chuyên ngành trong trụ cột AEC xây dựng kế hoạch hành động chuyên ngành tới
năm 2025.
B. LỢI ÍCH CỦA VIỆT NAM KHI GIA NHẬP AFTA VÀ AEC.
I. LỢI ÍCH CỦA VIỆT NAM KHI GIA NHẬP AFTA
1. Mục đích thành lập của AFTA:
Mục đích của AFTA là nâng cao năng lực cạnh tranh của ASEAN với tư cách là
một cơ sở sản xuất trên thế giới, đồng thời tăng cường tính hấp dẫn đối với đầu
tư trực tiếp nước ngoài.
2. Lợi ích của Việt Nam khi gia nhập AFTA:
Những năm gần đây đầu tư của các nước ASEAN đang có xu hướng tăng nhanh.

Sự tham gia của Việt Nam vào AFTA sẽ tạo ra thuận lợi cho sự phát triển kinh tế
phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước.


Tăng cường quan hệ thương mại với các nước: Việc tham gia vào chương
trình này là điều kiện thuận lợi để Việt Nam tăng nhanh tốc độ tăng trưởng kinh
tế và thương mại, thúc đẩy nhanh chóng quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước.
Tham gia AFTA cũng là bước đi cơ bản để Việt Nam tham gia vào các

tổ chức

kinh tế có quy mô rộng lớn hơn như diễn đàn hợp tác kinh tế Thái Bình Dương
APEC, tổ chức thương mại thế giới WTO. AFTA, APEC, WTO . Nâng cao vị
thế của Việt Nam trong quan hệ quốc tế nhất là trong đàm phán đa phương.


Mở rộng thị trường ưu đãi: ASEAN là thị trường rộng lớn với khoảng trên 530
triệu dân sẽ là thị trường tiềm năng cho việc tiêu thụ hàng hoá tại Việt Nam.
Hiện nay, khoảng 30% kim ngạch nhập khẩu là từ các nước thành viên ASEAN.
Việt Nam gia nhập AFTA tạo điều kiện cho Việt Nam có thể nhập nguyên liệu


7

của các nước ASEAN khác để sản xuất mà sản phẩm đó vẫn được hưởng
GSP(hệ thống ưu đãi thuế quan phổ cập)


Thu hút vốn đầu tư nước ngoài: Tham gia vào AFTA, Việt Nam có điều kiện

thu hút được nhiều vốn đầu tư từ những nước thừa vốn và đa dạng có sự dịch
chuyển mạnh sang các ngành có hàm lượng kỹ thuật cao, sử dụng ít nhân công
như: Singapore, Malaysia, Thái Lan. Việt Nam cũng có điều kiện để tiếp thu
công nghệ và đào tạo kỹ thuật cao ở các ngành cần nhiều lao động mà các nước
đó đang cần chuyển giao, tranh thủ nguồn vốn và những tiến bộ khoa học kỹ
thuật của các nước trong khu vực để khai thác và sử dụng có hiệu quả tài
nguyên đất nước, xây dựng cơ sở hạ tầng, phục vụ công cuộc công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước

- Chuyển dịch cơ cấu kinh tế: Tham gia AFTA sẽ tạo sức ép và động lực để các doanh
nghiệp Việt Nam đổi mới cơ cấu tổ chức, cách thức sản xuất, phương pháp quản lý để
nâng cao chất lượng, hạ giá thành sản phẩm tăng sức cạch tranh nền kinh tế từ đó có cơ
hội để phát triển công nghiệp, nông nghiệp, thương mại và dịch vụ tạo nên cơ cấu kinh
tế thích hợp. Trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang ASEAN hiện nay, tỷ
trọng hàng công nghiệp chế biến mới chỉ đạt 18%, nông sản thực phẩm 48%, nhiên liệu
34%. Trong đó trọng tâm ưu đãi của chương trình CEPT lại là các mặt hàng công
nghiệp chế biến. Việc thực hiện chương trình CEPT sẽ là cơ hội để Việt Nam chuyển
dịch cơ cấu xuất khẩu theo hướng nâng cao tỷ trọng hàng công nghiệp chế biến, giảm
dần tỷ trọng các mặt hàng thô, sơ chế. Đây cũng là cơ hội để Việt Nam tổ chức lại sản
xuất theo mô hình chuyển dịch cơ cấu kinh tế hướng tới xuất khẩu.
II. LỢI ÍCH CỦA VIỆT NAM KHI GIA NHẬP AEC
1. Trước tiên mục đích thành lập của ACE là:

Cộng đồng Kinh tế ASEAN được thành lập là để thực hiện mục tiêu cuối cùng của hội
nhập kinh tế trong "Tầm nhìn ASEAN 2020", nhằm hình thành một khu vực kinh tế


8

ASEAN ổn định, thịnh vượng và có khả năng cạnh tranh cao, trong đó hàng hóa, dịch

vụ, đầu tư sẽ được chu chuyển tự do và vốn được lưu chuyển tự do hơn, kinh tế phát
triển đồng đều, đói nghèo và chênh lệch kinh tế-xã hội được giảm bớt vào năm 2020.
Kế hoạch trung hạn 6 năm lần thứ hai của ASEAN (2004-2010) - Chương trình Hành
động Vientian đã xác định rõ hơn mục đích của AEC là: tăng cường năng lực cạnh
tranh thông qua hội nhập nhanh hơn, nhằm thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế
của ASEAN.
2. Lợi ích của Việt Nam khi gia nhập AEC:

Trong những năm qua, Việt Nam đã tham gia xây dựng AEC với tinh thần chủ động,
tích cực và có trách nhiệm. Thúc đẩy việc thành lâp AEC luôn là một trong những ưu
tiên cao nhất của Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. Cùng với ASEAN,
Việt Nam quyết tâm và dành nỗ lực cao nhất để triển khai các cam kết, chương trình,
sáng kiến hướng tới mục tiêu thành lập Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC) vào cuối
năm 2015. Một số lợi ích của Việt Nam khi tham gia AEC:


Tự do mậu dịch hàng hóa: loại bỏ chi phí giao dịch nhân tạo liên kết với các
hoạt động kinh tế xuyên biên giới và tiến hành phương pháp tốt nhất. Loại bỏ
hoàn toàn hàng rào phi thuế quan, loại bỏ các rào cản không cần thiết đối với
thương mại, tại biên giới và các nơi khác, sẽ khuyến khích sự tăng trưởng về hệ
thống sản xuất khu vực trong AEC.



Lợi ích của hội nhập quốc tế về dịch vụ



Lợi ích của cạnh tranh và khả năng cạnh tranh: Những lợi ích của việc tăng
cường cạnh tranh và khả năng cạnh tranh trong ASEAN sẽ tăng lên từ việc thực

hiện các chính sách cạnh tranh lành mạnh, bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ (IPR), cải
thiện cơ sở hạ tầng, và “mở” chủ nghĩa khu vực.



Lợi ích của phát triển tài chính và thị trường vốn: Giảm sự phụ thuộc truyền
thống của khoản vay ngân hàng và cung cấp nguồn tài chính khác nhau thông
qua trái phiếu và cổ phiếu phát hành, đồng thời cũng tìm kiếm nguồn vốn từ bên


9

ngoài khu vực. Và người tiết kiệm sẽ chào đón một sự lựa chọn tốt hơn cho các
cơ hội đầu tư.


Việt Nam sẽ có cơ hội dễ dàng tiếp cận thị trường trong và ngoài khu vực, qua
đó mở rộng thị trường, đa dạng hóa mặt hàng xuất khẩu; ổn định nguồn nhập
khẩu và hạ giá đầu vào nhập khẩu, từ đó, góp phần cải cách quản lý, dịch
chuyển cơ cấu kinh tế và thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội.



Việt Nam sẽ có cơ hội tăng cường thu hút FDI cũng như mở rộng cơ hội đầu tư
sang các nước ASEAN và cơ hội kinh doanh từ bên ngoài; tiếp cận các nguồn
hỗ trợ về khoa học-công nghệ, học tập kinh nghiệm quản lý tiên tiến, góp phần
nâng cao trình độ và năng lực của đội ngũ cán bộ và đào tạo nguồn nhân lực
chất lượng cao




Tạo chuyển biến trong việc xây dựng và hoàn thiện chính sách, luật lệ và thủ tục
trong nước, phù hợp hơn với yêu cầu hội nhập quốc tế.



Tạo cơ hội để Việt Nam tiếp tục thay đổi cơ cấu xuất khẩu theo hướng tăng giá
trị gia tăng (từ xuất khẩu nguyên liệu thô sang mặt hàng có chất lượng cao);
nâng cao năng lực và hiệu quả của nguồn nhân lực Việt Nam…

C. TÁC ĐỘNG CỦA AFTA VÀ AEC TỚI NỀN KINH TẾ VIỆT NAM
1. Tác động của AFTA tới nền kinh tế Việt Nam:
Tác động tới thương mại:
Kể từ khi là thành viên chính thức của ASEAN, thương mại Việt Nam và
ASEAN phát triển nhanh hơn so với thương mại giữa Việt Nam và các nước khác
trên thế giới.
-

Về nhập khẩu:

Trong những năm gần đây, hàng hóa từ ASEAN vào Việt Nam chiếm khoảng 25%
kim ngạch nhập khẩu. Các mặt hàng chủ yếu là những nguyên vật liệu dùng cho sản


10

xuất và hàng công nghiệp như nhôm, xi măng, hóa chất, hàng điện tử, phân hóa
học, thuốc chữa bệnh,giấy…Việt Nam cũng nhập khẩu một số lượng lớn hàng hóa
công nghiệp phẩm của các nước ASEAN và thông qua các nước ASEAN như hàng
may mặc, bánh kẹo, thực phẩm đóng hộp…

Phần lớn các mặt hàng nhập khẩu của Việt Nam từ ASEAN đều thuộc CEPT, đặc
biệt là những mặt hàng thuộc danh mục cắt giảm thuế ngay chiếm hơn 55% trong
tổng các loại hàng hóa nhập khẩu. Do đó, việc tham gia AFTA sẽ tạo điều kiện
thuận lợi hơn cho các nước ASEAN trong việc nâng cao sức cạnh tranh về giá cả so
với hàng hóa của Việt Nam, chiếm ưu thế hơn về mặt giá cả và về mặt thủ tục hải
quan so với hàng hóa của các nước và vùng lãnh thổ khác ngoài ASEAN ( Trung
Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc,..) cùng cạnh tranh trên thị trường Việt Nam. Do đó nếu
các doanh nghiệp Việt Nam đứng vững được trong cạnh tranh thì xu hướng nhập
siêu từ ASEAN sẽ tiếp tục gia tăng. Tuy nhiên việc tham gia AFTA sẽ làm cho các
doanh nghiệp trong nước sớm bị đặt trong môi trường cạnh tranh quốc tế, hạn chế
tình trạng phát triển không lành mạnh do được bảo hộ quá lâu. Đồng thời sản xuất
trong nước trước sức cạnh tranh mạnh mẽ từ bên ngoài, sẽ buộc phải điều chỉnh cơ
cấu để phát huy những lợi thế so sánh, tăng sức cạnh tranh của hàng hóa. Nếu
không, hiện nay sản xuất trong nước đã điêu đứng trước hàng ngoại nhập, lại càng
khó khăn hơn khi không còn được bảo hộ do tham gia AFTA.
-

Về xuất khẩu:

Nếu chỉ xét trên phương diện lý thuyết, việc tham gia AFTA chắc chắn sẽ khuyến
khích Việt Nam xuất khẩu hàng hóa sang ASEAN vì:
Thứ nhất, hàng hóa Việt Nam được hưởng ưu đĩa thuế quan khi xuất khẩu sang các
nước ASEAN do các hàng rào thuế quan và phi thuế quan bị bãi bỏ. Điều này làm
tăng khả năng cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam trên thị trường khu vực.


11

Thứ hai, các nước ASEAN với số dân khoảng 664,6 triệu người (2019) là một thị
trường rộng lớn không đòi hỏi cao về chất lượng sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các

doanh nghiệp Việt Nam mở cửa thị trường hàng hóa, dịch vụ xuất khẩu, hội nhập
vào khu vực thương mại và thế giới.
Xuất phát từ hai lý do trên, ngay sau khi trở thành thành viên chính thức của Hiệp
hội các nước Đông Nam Á, Việt Nam đã không ngừng đẩy mạnh quan hệ buôn bán
với các nước thành viên ASEAN, biến các nước này trở thành bạn hàng hết sức
quan trọng của mình. Xuất khẩu của Việt Nam sang các nước ASEAN ngày càng
tăng và chiếm tỷ trọng ngày càng lớn trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt
Nam.


Về cơ cấu xuất khẩu:
Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam vào các nước ASEAN chiếm 11,7% tổng kim

ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam sang
ASEAN là: Điện thoại các loại và linh kiện; Máy vi tính sản phẩm điện tử và linh
kiện; Sắt thép; Máy móc thiết bị dụng cụ và phụ tùng; Phương tiện vận tải và phụ
tùng; Hàng dệt may; Dầu thô; Xăng dầu…
Các mặt hàng chiếm tỷ trọng cao trong xuất khẩu của Việt Nam sang ASEAN đều
là những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam nhưng đều không nằm trong
danh mục cắt giảm thuế và do vậy không được hưởng ưu đãi của AFTA. Do đó khi
AFTA được thành lập thì triển vọng xuất khẩu các mặt hàng này của Việt Nam sẽ
lớn hơn. Các mặt hàng mà các nước ASEAN đưa vào chương trình cắt giảm thuế
quan chủ yếu là các mặt hàng mà Việt Nam không có khả năng cạnh tranh. Việt
Nam chỉ có thể tạn dụng những ưu đãi của AFTA để mỏ rộng thị trường xuất khẩu
sau khi tập trung đầu tư nâng cao chất lượng, giảm giá thành và đổi mới cơ cấu sản
xuất hàng hóa xuất khẩu của mình. Việc này không hề đơn giản bởi lẽ cơ cấu mặt


12


hàng của các nước ASEAN khá giống so với nhau và so với cơ cấu mặt hàng hiện
Việt Nam đang sản xuất và định hướng trong chiến lược phát triển của mình.


Về thị trường xuất khẩu:

Từ năm 1991 đến nay, các nước ASEAN đã thay thế các nước COMECON ( Hội
đồng tương trợ kinh tế ) trở thành thị trường ngoại thương lớn nhất của Việt Nam.
Trong các nước thành viên ASEAN thì Singapore là bạn hàng quan trọng nhất của
Việt Nam. Tỷ trọng buôn bán giữa Việt Nam và Singapore chiếm tới 55,78% trong
tổng kim ngạch buôn bán (2018). Singapore vừa là nước tiêu thụ nhiều nhất hàng
hóa xuất khẩu của Việt Nam, đồng thời cũng là nước xuất khẩu nhiều nhất sang Việt
Nam.
2. Tác động tới thu hút đầu tư nước ngoài:
Bất kì một chương trình tự do hóa thương mại nào, dù ở cấp quốc gia hay khu vực,
khi được ra đời và thực hiện đều tạo nên một sức hấp dẫn nhất định đối với nhà đầu
tư nước ngoài. Sức hấp dẫn này không phải chỉ do cam kết xóa bỏ các rào cản
thương mại trong chương trình tự do hóa thương mại đó tạo nên mà chính là do
những cải cách kinh tế - xã hội sâu rộng luôn đi kèm với nó sẽ được diễn ra ở các
nước thực hiện tự do hóa thương mại.
Tính tới thời điểm này, Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng khích lệ trong
lĩnh vực thu hút đầu tư nước ngoài. Các nước cung cấp FDI chủ yếu tại Việt Nam
có Nhật, Mỹ, Pháp. Kể từ sau khi Việt Nam gia nhập ASEAN, luồng vốn đầu tư các
nước Đông Nam Á vào nước ta tăng mạnh. Các nước đầu tư nhiều ở Việt Nam là
Singapore, Malaysia và Thái Lan.
Theo đánh giá của các nhà nghiên cứu, cơ cấu vốn FDI vào Việt Nam ngày càng
thay đổi phù hợp hơn với yêu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế của đất nước. Trước
đây số vốn đầu tư vào ngành du lịch tăng nhanh hơn so với ngành công nghiệp, thì



13

nay, các nhà đầu tư nước ngoài đã quan tâm đến lĩnh vực công nghiệp hơn, nâng tỷ
trọng vốn đầu tư nước ngoài được thực hiện trong ngành này lên tới 32,3% so với
18,7% trong ngành du lịch. Có một số ngành công nghiệp hiện đang hoạt động với
100% vốn nước ngoài như dầu thô, lắp rắp ô tô, xe máy. Đối với một số sản phẩm
khác, tỷ trọng của vốn đầu tư có chiều hướng gia tăng như thép, tivi, xà phòng…
Nguồn FDI vào ngành nông nghiệp cũng ngày một gia tăng. Ngày nay FDI đã được
phân bổ hợp lý hơn, không chỉ đầu tư ở Hà Nội, TP Hồ Chí Minh mà FDI vào phía
Bắc cũng như ở miền trung đang chuyển biến rõ rệt. Như vậy có thể thấy rằng
nguồn vốn đầu tư từ ASEAN đang góp phần tích cực vào việc phát triển kinh tế của
nước ta hiện nay.
Để tận dụng những ưu đãi của Việt Nam đối với đầu tư của ASEAN, xu hướng đầu
tư của nước ngoài khu vực thông qua các nước ASEAN khác vào Việt Nam sẽ gia
tăng. Các công ty xuyên quốc gia thường đứng tên chi nhánh hoặc các công ty con
tại các nước ASEAN để đầu tư vào Việt Nam. Theo quy định của CEPT, một sản
phẩm có 40% hàm lượng giá trị xuất xứ từ các nước ASEAN và nằm trong danh
mục cắt giảm thuế thì sẽ được hưởng ưu đãi thuế quan. Yêu cầu này thấp hơn so với
các khối liên kết kinh tế khác nên nó là một yếu tố kích thích đầu tư của nước ngoài
khu vực vào ASEAN và Việt Nam. Đầu tư vào Việt Nam để sản xuất các sản phẩm
xuất khẩu sang các nước ASEAN sẽ đem lại lợi ích về nhiều mặt cho nhà đầu tư.
Nguyên vật liệu nhập với giá rẻ, chi phí nhân công thấp..sẽ làm hạ chi phí sản xuất.
Sản phẩm sản xuất ở Việt Nam xuất khẩu sang các nước ASEAN, một thị trường
không đòi hỏi cao về chất lượng, lại được ưu đãi về thuế, không hạn chế về số
lượng sẽ có sức cạnh tranh mạnh mẽ.
Tuy nhiên, các nước ASEAN đều phụ thuộc có nhu cầu lớn về vốn đầu tư nước
ngoài nên có sự cạnh tranh gay gắt trong thu hút đầu tư nước ngoài, Việt Nam cần
phải có chính sách để duy trì và phát huy các lợi thế so sánh, nếu không chúng ta sẽ



14

mất dần các lợi thế đó vào tay các nước ASEAN khác. Hiện nay, Việt Nam không
chỉ phải cạnh tranh với các nước có môi trường đầu tư thuận lợi, có cơ sở hạ tầng
hiện đại như Singapore, Indonesia, Thái Lan…mà còn phải cạnh tranh với các nước
cũng có lợi thế tương đồng như Lào, Campuchia, Myanmar…Để có thể thu hút đầu
tư nước ngoài nhiều hơn nữa, Việt Nam cần hoàn thiện cơ sở hạ tầng, giảm các loại
cước phí xuống ngang bằng khu vực. Đặc biệt cần tăng cường các hoạt động giới
thiệu và xúc tiến đầu tư ở nước ngoài.
3. Tác động tới nguồn thu ngân sách:

Đối với Việt Nam, nguồn thu ngân sách từ thuế xuất nhập khẩu chiếm tỷ trọng
tương đối lớn khoảng 20% do đó có thể nhận thấy rằng ảnh hưởng của AFTA đối
với nguồn ngân sách của Chính phủ có ý nghĩa rất quan trọng. Có nhiều lo ngại
rằng, Hiệp định CEPT sẽ tác động trực tiếp đến nguồn thu ngân sách và đồng thời
thông qua sự tác động đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp
sẽ tác động gián tiếp đến nguồn thu ngân sách.
Tác động trực tiếp: CEPT sẽ tác động trực tiếp làm giảm nguồn thu ngân sách từ
thuế nhập khẩu. Tuy nhiên, mức ảnh hưởng đó sẽ là không lớn vì:
Thứ nhất, việc giảm thuế suât có hai tác động trái ngược nhau đến nguồn thu
thuế nhập khẩu. Một mặt, với cùng một lượng hàng nhập thì dĩ nhiên thuế suất
giảm sẽ làm giảm tổng thu nhập từ thuế. Mặt khác, thuế suất giảm làm giá hàng hóa
giảm, nhu cầu hàng hóa tăng lên dẫn đến tăng lượng hàng nhập khẩu. Do đó, dù
giảm thuế suất nhưng kim ngạch tăng thì chưa hẳn nguồn thu về thuế sẽ giảm.
Thứ hai, trong danh mục cắt giảm thuế của Việt Nam có tới 57% mặt hàng hiên
có thuế từ 0-5%, trong đó tới hơn một nửa là thuế suất 0%. Điều đó có nghĩa là trên
thực tế hầu như chúng ta đã hoàn tất việc cắt giảm rồi. Số mặt hàng có miễn thuế
đến 20% chỉ chiếm vào khoảng 17-21%. Trong tương lai, khi phải đưa những mặt



15

hàng có thuế suất cao vào chương trình giảm thuế, ngân sách sẽ bị ảnh hưởng
nhưng không lớn vì theo chương trình cải cách thuế của nước ta thuế giá trị gia
tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt sẽ trở thành nguồn thu chủ yếu của ngân sách Nhà nước.
Thuế nhập khẩu sẽ trở thành một công cụ để ứng xử trong các quan hệ ngoại
thương và bảo hộ sản xuất trong nước.
Tác động gián tiếp: việc thực hiện CEPT sẽ tác động trực tiếp đến hoạt động của
các doanh nghiệp Việt Nam, qua đó tác động gián tiếp đến nguồn thu ngân sách. Đó
là việc tăng hay giảm số thu từ các sắc thuế khác như thuế giá trị gia tăng, thuế
TNDN do các doanh nghiệp trong nước có hiệu quả hay thua lỗ trong điều kiện của
AFTA. Tác động gián tiếp của CEPT đối với nguồn thu ngân sách là tác động hai
chiều, rất khó định lượng và phụ thuộc vào hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh
của các doanh nghiệp Việt Nam.
II . Tác động của AEC tới nền kinh tế Việt Nam:
1. Đối với thương mại:

Trên thực tế, thương mại nội khối chỉ chiếm khoảng 24% tổng kim ngạch của khối
nói chung, kém xa mức 60% của Liên minh châu Âu (EU). Thêm vào đó, các lĩnh
vực nhạy cảm như sắt thép, ô tô vẫn còn chưa được đề cập, giải quyết. Đối với Việt
Nam, xuất nhập khẩu với ASEAN chỉ chiếm 10% xuất khẩu và 20% nhập khẩu của
Việt Nam. Theo tính toán của Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) thì Việt Nam là
nước được hưởng lợi nhiều nhất nếu AEC hình thành. Vì nhờ AEC Việt Nam có thể
tăng thêm xuất khẩu khoảng 16% và nhập khẩu tăng thêm khoảng 12% trong giao
thương nội khối. Tuy nhiên, với tỷ trọng nhỏ như đề cập ở trên, thì tác động từ AEC
đối với thương mại quốc tế của Việt Nam cũng không đáng kể. Thêm vào đó, nhiều
nước trong khối cũng là thành viên của WTO, nên việc mở rộng thương mại nhờ
AEC cũng không tạo ra nhiều khác biệt hay đột phá lớn trong việc khuyến khích
thương mại nội khối so với bối cảnh có WTO. Trong khi đó, thương mại nội khối



16

không đóng vai trò lớn trong phát triển kinh tế của các nước thành viên khối sau khi
AEC hình thành. Hơn nữa, trên thực tế sự gia tăng này chỉ có thể đạt được nếu các
cải cách thực sự về thủ tục giao thương được thực hiện và mọi rào cản khác phải
được loại bỏ. Tuy nhiên, tình hình này vẫn chưa có nhiều tiến triển như trong ví dụ
về sự thống nhất hải quan khu vực vẫn chưa thành hiện thực như đề cập ở trên.
Ngoài ra, Việt Nam ở trình độ kinh tế thấp hơn một số nước là đối tác thương mại
quan trọng trong khối như Singapore, Malaysia, Indonesia… và lại đang áp dụng
chế độ tỷ giá neo vào USD một cách cứng nhắc, kéo dài, làm cho đồng VND cao
giá. Rất có thể, AEC hình thành trong bối cảnh này sẽ biến Việt Nam thành nơi tiêu
thụ hàng hóa công nghiệp của nước khác, trong khi lợi ích thu về từ xuất khẩu sẽ bị
thiệt hại do thiếu sức cạnh tranh.
2. Đối với đầu tư:

Lĩnh vực đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) cũng cho thấy, đầu tư nội khối chiếm tỷ
trọng rất thấp trong dòng đầu tư vốn FDI có nguồn gốc từ ASEAN. Tổng dòng vốn
FDI của ASEAN (trong nội khối và ngoại khối) chỉ chiếm 17,9%. Phần còn lại 82%
dòng FDI là ra bên ngoài khối. Nếu so với Khu vực đồng tiền chung châu Âu
(Eurozone) thì dòng vốn FDI nội khối trong giai đoạn 1993-2007 ở mức trung bình
là 58% tổng dòng FDI có nguồn gốc từ các nước thành viên.
Đối với Việt Nam, thì dòng vốn FDI từ ASEAN vào Việt Nam chiếm tỷ trọng lớn
trong tổng FDI vào Việt Nam. Tính đến cuối năm 2018, dòng FDI từ
ASEAN vào Việt Nam chiếm 21,4% tổng FDI vào Việt Nam với mức tổng lên tới
52,34 tỷ USD. Đầu tư của Singapore chủ yếu là vào lĩnh vực khách sạn, du lịch,
khu vui chơi sinh thái, khu công nghiệp Việt Nam - Singapore, trong khi FDI từ
Malaysia thì chủ yếu tập trung các liên doanh với các công ty sở hữu nước ngoài
hoạt động trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng, bất động sản, giáo dục và dầu khí. Thái Lan



17

đầu tư vào lĩnh vực bán lẻ và một phần đi vào sản xuất đồ nhựa. Điều này cho thấy,
dòng vốn đầu tư FDI từ ASEAN vào Việt Nam không nhằm vào các lĩnh vực công
nghiệp chế tạo mà chủ yếu là lĩnh vực bất động sản, dịch vụ. Ngược lại, dòng vốn
FDI của Việt Nam năm 2014 vào khối chỉ ở mức 1,5 tỷ USD so với mức hơn 7,6 tỷ
USD ra ngoài khối. Nói cách khác, sự đột phá tạo ra sự mở rộng dòng vốn FDI
trong nội bộ ASEAN nhờ thành lập AEC sẽ là không lớn. Đối với Việt Nam nói
riêng, Việt Nam hưởng lợi từ đầu tư FDI vào khối là không đáng kể, trong khi dòng
FDI từ trong nội khối vào Việt Nam có thể tăng đáng kể.
3. Đối với di cư lao động:

Trong khối ASEAN thì Singapore, Malaysia và Thái Lan là những nước nhận nhiều
lao động nước ngoài nhất (nhận thuần) trong khi các nước như Việt Nam,
Philippines, Campuchia và Lào là những nước xuất khẩu thuần lao động. Các nước
Singapore, Malaysia và Thái Lan được cho là đang bước vào giai đoạn phát triển
cao hơn, nhu cầu về lao động kỹ năng cao đang tăng trong khi nguồn cung lại chưa
được đáp ứng. Đây là một yếu tố tốt đối với lao động ở các nước phát triển kém
hơn, có thu nhập kém hơn. Tuy nhiên, việc thiếu đào tạo kỹ năng và thủ tục visa
chưa thống nhất vẫn sẽ là trở ngại cho sự gia tăng di cư lao động trên thực tế.
Chẳng hạn, ở Việt Nam, nhiều ngân hàng hay công ty nước ngoài thiếu lao động kỹ
năng. Trong khi họ không thể tìm được trên thị trường lao động Việt Nam và gặp
rất nhiều khó khăn trong việc nhập khẩu loại lao động này từ bên ngoài vì các thủ
tục nhập cư dạng này hiện vẫn rất phức tạp. Hiện tượng này vẫn được xem là khá
phổ biến ở các nước khác. Vấn đề này phức tạp vì nó liên quan đến các khía cạnh
chính trị, tôn giáo, văn hóa... ASEAN lại là một khu vực có rất nhiều sự khác biệt
về chính trị, văn hóa, tôn giáo. Chính vì vậy, đây là một trong những trở ngại lớn
cho sự liên kết nội khối của khối này.



18



×